Professional Documents
Culture Documents
Thuyetminh NCKH
Thuyetminh NCKH
MỞ ĐẦU
Ở nước ta ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần, thúc đẩy công cuộc đổi
mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có thể nói, CNTT đi vào vào thực tế sản xuất thông qua 3 con đường
chính:
+ Xây dựng các phần mềm ứng dụng (kế toán, thiết kế, điều khiển…)
+ Chế tạo các thiết bị phần cứng như các vi mạch, các chip điện tử,…
+ Chế tạo các thiết bị, máy móc sử dụng cả phần cứng và phần mềm.
Hiện nay có nhiều suy nghĩ giản đơn thường đồng nhất CNTT với các
sản phẩm phần mềm, sở dĩ như vậy là vì nền tảng công nghệ phần cứng
trong nước ta còn yếu. Tuy nhiên trong tương lai, điều này không còn đúng
nữa khi một loạt các doanh nghiệp lớn nước ngoài đã và đang đầu tư vào VN
như Intel, Compal… Điều này sẽ làm tăng ý nghĩa phương thức ứng dụng
CNTT thứ ba, đó là tạo ra các sản phẩm công nghiệp chứa đựng cả phần
cứng và phần mềm. Chính những sản phẩm này sẽ trực tiếp góp phần quan
trong cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo ra hiệu quả sản xuất
và năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
Ngành GTVT có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
đó là vai trò đi trước một bước, làm nền tảng cho sự phát triển các ngành
khác. Trong điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay, ứng dụng CNTT
thành công trong GTVT là một điều kiện không thể thiếu được để ngành
GTVT làm tròn trách nhiệm của mình.
Là sinh viên của ngành CNTT trong trường đại học GTVT, ngoài việc
đảm bảo chương trình học tập em luôn mong muốn tìm hiểu các khả năng
ứng dụng trực tiếp của ngành học vào thực tế. Các hiểu biết này sẽ giúp em
hiểu hơn các kiến thức đã học, thấy được giá trị các kiến thức mà thày cô
trang bị cho, để tăng thêm niềm đam mê ngành nghề của mình. Chính vì vậy
em chọn đề tài NCKH “Thiết kế mô hình hệ thống điều khiển tự động đèn
tín hiệu giao thông”.
Mục tiêu của để tài là tìm hiểu chức năng điều khiển của máy tính, cụ thể :
Nghiên cứu tìm hiểu cơ chế, cách thức điều khiển các thiết bị
ngoại vi bằng máy tính.
Nghiên cứu tìm hiểu cơ sở khoa học của bài toán thiết kế hệ
thống đèn tín hiệu giao thông.
2
Nghiên cứu thiết kế chế tạo mô hình hệ thống điều khiển đèn tín
hiệu giao thông.
CHƯƠNG I
Ban đầu, đèn xanh đèn đỏ chỉ dành cho tàu hỏa. Lúc đầu, nó thắp sáng
bằng khí gas. Sau 43 năm, chúng mới chạy điện nhưng vẫn cần người điều
khiển cho tới khi hoàn toàn tự động năm 1950. Ban đầu, tín hiệu giao thông
này chưa có đèn vàng và thay thế nó là chiếc còi hú vang khi cần.
3
Lịch sử đèn tín hiệu có từ tháng 10/1868, khi người ta đặt hệ thống
đèn ngay bên ngoài tòa nhà Quốc hội Anh ở Luân Đôn. Chúng được lắp để
báo hiệu cho những đoàn tàu hỏa đi ngang qua đây. Trên cây cột kiểu hình
khuỷu tay gắn hai chiếc đèn khí gas, một màu xanh và một màu đỏ để dùng
cho ban đêm. Đèn đỏ có nghĩa là "dừng lại", còn đèn xanh là "chú ý".
Đèn dùng khí gas để thắp sáng trong những năm cuối thế kỷ XIX. Khí
gas được đưa vào từng đèn theo hệ thống van và khi cần thắp sáng đèn nào,
một cảnh sát sẽ vặn to đèn đó và vặn nhỏ đèn kia. Sử dụng đèn tín hiệu này
cực kỳ nguy hiểm và ngày 2/1/1869, tức chỉ vài tháng sau khi vận hành, hệ
thống đèn này phát nổ khiến một cảnh sát bị thương khi đang điều chỉnh. Dù
vậy, nó vẫn được sử dụng cho tới khi một người Mỹ (Lester Wire) phát
minh ra đèn tín hiệu dùng điện năng vào năm 1912.
Sau khi ngành công nghiệp ôtô phát triển vượt bậc, một cảnh sát có
tên Lester Wire, làm việc tại thành phố Salt Lake thuộc bang Utah của Mỹ,
đã nảy ra ý tưởng đưa đèn tín hiệu đường sắt vào đường bộ năm 1912. Khi
đó, đèn tín hiệu trên đường sắt đã được tự động hóa nhưng do tàu chỉ chạy
trên đường thẳng nên lúc đưa sang đường bộ, vốn nhiều đường ngang ngõ
tắt, chúng hoàn toàn không thích hợp và lại trở về hình thức điều chỉnh thủ
công.
Tháng 8/1914, Công ty tín hiệu giao thông ra đời ở Mỹ và chịu trách
nhiệm lắp đặt đèn giao thông tại các ngã tư bang Ohio. Điều đặc biệt là khi
đó, đèn tín hiệu chưa hề có đèn vàng nên mỗi khi chuẩn bị chuyển trạng thái,
cảnh sát giao thông bấm một chiếc còi hú vang để báo cho lái xe biết.
4
Đến năm 1920, hệ thống đèn tín hiệu này mới có đủ 3 màu: xanh,
vàng, đỏ và do sĩ quan cảnh sát Williams Potts, sống tại thành phố Detroit,
sáng chế.
Năm 1923, Gerrette Morgan đã được nhận bằng phát minh thiết bị
điều khiển tín hiệu giao thông. Nguyên nhân dẫn tới phát minh của Morgan
là do tình trạng tai nạn xảy ra nhiều trên đường phố Mỹ trong những năm
đó. Ông thấy cần phải có một tiêu chuẩn thống nhất để hệ thống tín hiệu sẵn
có hoạt động thật hiệu quả. Sau khi nghiên cứu, Morgan thiết kế cột tín hiệu
hình chữ T, trong đó có các tín hiệu như "dừng lại", "đi" và "dừng lại ở tất cả
các hướng". Khi đèn báo "dừng lại ở tất cả các hướng", người đi bộ mới
được phép đi qua đường.
Sau năm 1923, hệ thống đèn tín hiệu vẫn phải có người vận hành.
Tính riêng tại thành phố New York, hơn 100 cảnh sát phải làm việc 16 giờ
một ngày và tổng tiền lương ở mức 250.000 USD mỗi năm. Do những khó
khăn nói trên, các kỹ sư được lệnh thiết lập và phát triển hệ thống đèn tín
hiệu điều khiển tự động.
Năm 1950, đèn tín hiệu xanh - đỏ tự động được sử dụng rộng rãi ở
Canada và phát triển nhanh chóng trên thế giới. Ngày nay, hệ thống đèn tín
hiệu hiện đại hơn rất nhiều, tích hợp nhiều tính năng như tự động chụp hình
xe vượt đèn đỏ. Bên cạnh đó, nhiều nước có phát minh hết sức thú vị như
đèn 4 chế độ ở Anh, New Zealand, Phần Lan... Đèn sẽ chuyển từ "đỏ" sang
"đỏ và vàng" rồi mới đến "xanh" và về lại "vàng". Trạng thái đỏ và vàng
nhằm báo cho tài xế biết đèn xanh sẽ sáng trong một thời gian ngắn nữa.
Tại các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, có đèn tín hiệu giao thông
ba màu đơn giản, ý nghĩa từng màu được quy định như sau: Tín hiệu xanh là
được đi; Tín hiệu đỏ là cấm đi; Tín hiệu vàng là báo hiệu sự thay đổi tín
hiệu. Khi đèn vàng bật sáng, người điều khiển phương tiện phải cho xe dừng
lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp. Tín
hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng cần chú ý.
3. Các phương pháp điều khiển đèn tín hiệu giao thông
Thông thường có 2 góc độ phân loại hệ thống điều khiển đèn tín hiệu:
theo nguyên lý hoạt động và theo loại bộ điều khiển.
3.1. Theo nguyên lý điều khiển:
Dựa theo cách thức đưa ra các giá trị tham số thời gian các đèn trong chu
kỳ ta có các phương pháp sau.
a) Điều khiển định thời (chu kỳ cưỡng bức).
Đây là phương pháp kinh điển và thông dụng ở nước ta hiện
nay. Theo phương pháp này, chu kỳ đèn được tính toán từ trước (off-
5
line) dựa trên các số liệu thống kê về lưu lượng, tốc độ các dòng xe
vào nút. Sau đó các thời gian cố định này được đưa vào điều khiển các
đèn, không phụ thuộc vào lưu lượng hiện tại của dòng xe.
Ưu điểm: đơn giản.
Nhược điểm: không hiệu quả khi dòng xe có biến động lớn theo thời
gian.
H.1.1. Tủ điều khiển đèn tín hiệu giao thông sử dụng máy tính
Trong khuôn khổ đề tài, em sẽ xem xét phương pháp điều khiển
đèn tín hiệu bằng máy tính và tính toán chu kỳ đèn cưỡng bức.
7
CHƯƠNG II
Tín hiệu giao thông có thể hoạt động ở các chế độ khác nhau như miêu
tả dưới đây:
8
Khi độ dài chu kì quá ngắn so với yêu cầu, các chu kì đều quá tải
và thời gian trễ tăng rất nhanh. Ngược lại khi độ dài chu kì lớn quá, có
nhiều thời gian xanh không sử dụng, các xe phải chờ không cần thiết
và cũng làm tăng thời gian trễ. Webster đã đưa ra công thức tính độ
dài chu kì tối ưu để tối thiểu hóa thời gian trễ với dạng đơn giản sau:
1 .5 L + 5
Co = (1)
1 − ∑(v / s )c
Trong đó: C0 – chu kì tối ưu đển tối thiểu hóa trễ (s)
L – thời gian mất mát trong chu kì (s)
Σ (v/s)c – tổng các tỉ lệ lưu lượng trên lưu lượng bão hòa
2.3. Phương pháp tính toán chu kì tối ưu đèn tín hiệu giao thông:
Mục tiêu của phương pháp là tìm ra thời gian xanh, vàng, đỏ của
đèn nhằm tối thiểu hóa thời gian trễ theo công thức Webster.
Giả sử sử dụng phương án điều khiển 2 pha như hình vẽ:
Pha 1 Pha 2
(H.2.1)
Kí hiệu ở pha thứ i:
− Thời gian vàng: tvi (s)
− Thời gian xanh: txi (s)
− Thời gian đỏ: tdi (s)
− Vận tốc trung bình của xe: vi (km/h)
10
tr + tk + te + te '
tz = 3.6 + tv (2)
v
Trong đó:
tk te tr te’
11
(H.2.2)
Theo công thức (1) ta thấy L chính là tổng các thời gian làm sạch
(đỏ tất cả) trên mỗi pha: L = tz1 + tz2 .
Vì lưu lượng xe qua nút tỉ lệ với thời gian xanh (số lượng xe đi qua
nút càng lớn thì thời gian xanh càng lớn) nên:
tx1 tx 2
= (4)
m1 m 2
Lại có
tx1 + tx2 = C0 – (tz1 + tz2) (5)
t x1 tx2
=
m1 m2 (6)
tx1 + tx2 = C o− (tz1 + tz2)
Qua khảo sát thực tế ngã tư Đê La Thành – Nguyễn Chí Thanh ta giả
thiết ngã tư được lắp đèn có phương án sau:
− Mỗi đầu vào có 2 làn xe.
− Một làn cho xe rẽ trái.
− Một làn cho xe đi thẳng, rẽ phải.
Xét cho 2 pha:
− Pha 1:
Xe hướng Nam Bắc (thẳng + rẽ phải): (446+134) xe/h
Xe hướng Nam Bắc (rẽ trái): 168 xe/h
− Pha 2:
Xe hướng Đông Tây (thẳng + rẽ phải): (286+194) xe/h
Xe hướng Đông Tây (rẽ trái): 220 xe/h
Các tham số khác:
− Thời gian đèn vàng tv = 3s
− Vận tốc xe trung bình (nam – bắc): 30 km/h
− Vận tốc xe trung bình (đông – tây): 25 km/h
− Chiều dài trung bình xe: 4.5m
Ta tính toán chu kì thời gian tối ưu và các tham số điều khiển khác
theo phương pháp Webster
Số liệu:
− Chiều dài xe tk = 4.5m
− Thời gian đèn vàng tv = 3s
− Chiều rộng mặt đường hướng 1 (nam - bắc) tr1 = 20.4m
− Chiều rộng mặt đường hướng 2 (đông – tây) tr2 = 10m
− Chiều rộng lề đường hướng 1 (nam – bắc) te1 = 7m
− Chiều rộng lề đường hướng 2 (đông – tây) te2 = 5m
− Lưu lượng xe lớn nhất pha 1 (hướng NB thẳng, rẽ phải) = 580
xe/h
− Lưu lượng xe lớn nhất pha 2 (hướng ĐT thẳng, rẽ phải) = 480
xe/h
− Vận tốc xe hướng 1 v1 = 30 km/h
− Vận tốc xe hướng 2 v2 = 25 km/h
Tính toán theo các công thức (2) – (7) ta được:
− Thời gian xanh pha 1: 22s
− Thời gian xanh pha 2: 27s
− Thời gian đỏ pha 1: 39s
13
CHƯƠNG III
CHƯƠNG IV
• Đầu vào: các thông số của nút giao thông: vận tốc, lưu lượng
xe, chiều dài mặt đường, chiều rộng lề đường, chiều dài xe.
• Đầu ra: thời gian sáng của các đèn
17
V Đ X V Đ
Dựa vào sơ đồ ta thấy đèn xanh sáng tại các thời điểm t = 0, t =
C0, t = 2C0… Như vậy cứ sau một khoảng thời gian x = C0 thì
đèn xanh Dựa vào sơ đồ ta thấy đèn xanh sáng tại các thời điểm
t = 0, t = C0, t = 2C0… Như vậy cứ sau một khoảng thời gian x
= C0 thì đèn xanh sáng, hay x là chu kì sáng của đèn xanh.
Tương tự chu kì sáng của đèn đỏ là d = C 0 + tx, chu kì sáng của
đèn vàng là v = C0 + tx + td. Vậy sơ đồ khối của thuật toán như
sau:
18
counttime = 0
x=0
d=t
v = tx + td
counttime++
counttime >= _
x
counttime = x + C0
counttime = x + C0
counttime >= _
d
+
Bật đèn đỏ
Tắt đèn xanh
counttime = d + C0
19
counttime >=
v
+
Bật đèn vàng
Tắt đèn đỏ
counttime = v + C0
(H.4.1)
Các bước thực hiện:
1. Tính toán chu kì đèn, thời gian xanh, đỏ, vàng theo phương
pháp Webster.
2. Sử dụng các hàm điểu khiển để bật tắt đèn:
void OnTimer(UINT nIDEvent): dựa vào thời gian sáng của các
đèn để điều khiển đèn bật tắt theo chu kỳ.
void set_pin (lp_pin pins): đưa tín hiệu ở chân cổng máy in lên
mức cao (bật đèn).
void clear_pin (lp_pin pins): đưa tín hiệu ở chân cổng máy in
xuống mức thấp (tắt đèn).
20
2 hàm trên đều sử dụng hàm Inp32 và Out32 trong thư viện liên
kết động inpout32.dll để nhập xuất dữ liệu qua cổng máy in.
Sơ đồ mạch điện:
S4 S5 S7 S6 D7 D6 D5 D4 D3 D2 D1 D0 C0
G7 G6 G5 G4 G3 G2 G1 G0 C3 C2 S3 C1
(H.4.2)
KẾT LUẬN
Sau một thời gian không nhiều theo quy định em đã cố gắng thực hiện
đề tài NCKH đã đăng ký. Thông qua thực hiện đề tài em thấy mình đã được
nâng cao thêm nhiều kiến thức về phương pháp lập trình, cách thức điều
khiển thiết bị ngoại vi bằng máy tính cùng một số kiến thức về điều khiển
giao thông. Mặc dù đây chỉ là những kiến thức khoa học cơ bản nhưng đối
với em – sinh viên năm thứ nhất thì đó là những hiểu biết mới hết sức thú vị.
Ngoài ra, việc thực hiện đề tài cũng mang lại cho em nhận thức về
phương pháp nghiên cứu khoa học, từ việc phân tích bài toán thực tế đến tìm
hiểu, chọn lựa các tài liệu cần thiết, xây dựng thuật toán tính toán, kiểm tra,
hiệu chỉnh mô hình v.v… Em nghĩ rằng đây là những thu hoạch hết sức bổ
ích cho em trong học tập, nghiên cứu lâu dài về sau.
21
#include "stdafx.h"
#include "PaPiC.h"
#include "CPaPiC.h"
#ifdef _DEBUG
#undef THIS_FILE
static char THIS_FILE[]=__FILE__;
#define new DEBUG_NEW
#endif
int new_reg;
Out32(port_data, new_reg );
new_reg |= pins;
Out32(port_control, new_reg);
}
int new_reg;
Out32(port_data, new_reg );
Out32(port_control, new_reg);
counttime++;
clear_pin(LP_PIN02|LP_PIN03|LP_PIN05|LP_PIN06);
24
//den vang
if (counttime >= nsy)
{
set_pin(LP_PIN03);
clear_pin(LP_PIN04);
//den vang
if (counttime >= wey)
{
set_pin(LP_PIN06);
clear_pin(LP_PIN05);
CDialog::OnTimer(nIDEvent);
}
void CPaPiCDlg::OnButton10()
{
UpdateData(true);
tz1=3.6*(m_tr2+m_tk1+m_ten+m_tes)/m_v1+m_Y_SN;
tz2=3.6*(m_tr1+m_tk2+m_tew+m_tee)/m_v2+m_Y_WE;
tz=tz1+tz2;
cycle=(1.5*tz+5)/(1-(m_m1+m_m2)/1800);
float l1,l2,x1,x2;
l1=G_SN/cycle;
l2=G_WE/cycle;
x1=m_m1/(l1*3600);
x2=m_m2/(l2*3600);
R_SN=cycle-m_Y_SN-G_SN;
R_WE=cycle-m_Y_WE-G_WE;
nsr = G_SN+m_Y_SN;
nsy = G_SN;
nsg = 0;
wer = 0;
wey = R_WE + G_WE;
weg = R_WE;
SetTimer(1, 1000, NULL);
counttime = 0;