Professional Documents
Culture Documents
Khi mạng viễn thông đang chuyển dần sang ứng dụng chuyển giao
theo phương thức
gói, các bộ định tuyến đóng vai trò rất quan trọng. Khái niệm về định
tuyến và sự phân loại
chúng được trình bày chi tiết trong Phần 5.4 của chương này
5.1 TẠI SAO PHẢI CHUYỂN MẠCH?
Để thiết lập một tuyến nối theo yêu cầu từ một thuê bao này tới một
thuê bao khác thì
mạng phải có thiết bị chuyển mạch để lựa chọn một tuyến nối phù hợp.
Trong mạng điện
thoại, các hệ thống chuyển mạch này được gọi là các tổng đài. Thuê
bao sẽ nhận được cuộc
nối theo yêu cầu nhờ vào các thông tin báo hiệu truyền qua đường dây
thuê bao. Thông tin
báo hiệu này rất cần thiết cho việc truyền các thông tin điều khiển của
một cuộc gọi hay
truyền trên các mạch kết nối các tổng đài với nhau.
Tổ chức liên minh viễn thông quốc tế ITU- T định nghĩa chuyển mạch
như sau:
“Chuyển mạch là sự thiết lập của một kết nối cụ thể từ một lối vào đến
một lối ra mong
muốn trong một tập hợp các lối vào và ra cho đến khi nào đạt được yêu
cầu truyền tải thông
tin”
Ngày nay từ “thông tin” không chỉ biểu thị lời nói chúng ta nghe được
trong tai nghe
máy điện thoại mà nó cũng biểu thị sự kết hợp tất cả các thông tin từ
một vài dịch vụ viễn
thông.
Ngày nay chúng ta xem xét quan niệm khác nhau của chuyển mạch.
Hiện tại thiết bị
chuyển mạch phải có khả năng điều khiển các dịch vụ nhiều hơn trước
đây bao gồm âm
thanh chất lượng cao, Video theo các tiêu chuẩn khác nhau, thông tin
LAN nối LAN, truyền
tải các tệp dữ liệu lớn và các dịch vụ tương tác mới trên mạng truyền
hình cáp. Đã có thêm
nhiều các thông tin chuyển mạch liên quan đến người sử dụng dịch vụ.
Ví dụ thông tin báo
hiệu cũng phải được chuyển mạch.
Kết quả là, tính phong phú về kỹ thuật chuyển mạch trong mạng nội
hạt đã tăng trong
nhưng năm gầy đây. Đầu tiên chúng ta chỉ có chuyển mạch kênh rất
thích hợp cho các dịch
vụ không đồng bộ như dịch vụ thoại. Cũng từ đó, ngày càng có nhiều
số thuê bao có yêu cầu
cao hơn về dung lượng truyền dẫn và băng tần rộng, và một số kỹ
thuật khác xuất hiện. Kết
quả là các yêu cầu được đáp ứng bằng truyền số liệu, chuyển mạch
kênh đã bổ sung kỹ thuật
chuyển mạch gói vào thập kỷ 70 trong thế kỷ 20. Ngày nay chúng ta
cũng dùng kỹ thuật
chuyển tiếp khung (frame relay) và hai kiểu chuyển mạch tế bào theo
truyền tải không đồng
bộ ATM và bus kép hàng đợi phân tán (distributed queue dual bus-
DQDB). Nguồn gốc của
chuyển tiếp khung và các kỹ thuật chuyển mạch tế bào được chỉ rõ ở
phần chuyển mạch gói.
Hơn nữa, các phần tử chuyển mạch có thể điều khiển đã được đưa vào
trong mạng
truyền dẫn, nhờ đó giúp cho việc truyền dẫn thực hiện với độ tin cậy
cao hơn và độ trễ nhỏ
hơn. Bộ đấu nối chéo số giờ đây thay thế các khung phân tán và các bộ
ghép kênh số là các
phần tử truyền dẫn truyền thống.
5.2 CHUYỂN MẠCH KÊNH
Trong thực tế hiện nay, có rất nhiều kỹ thuật chuyển mạch đang được
áp dụng. Trong
đó, phổ biến nhất là kỹ thuật chuyển mạch kênh và kỹ thuật chuyển
mạch gói. Nói chung
việc thiết kế và ứng dụng hai hệ thống chuyển mạch này có nhiều
điểm giống nhau.
Chuyển mạch kênh được định nghĩa là kỹ thuật chuyển mạch đảm bảo
việc thiết lập
các đường truyền dẫn dành riêng cho việc truyền tin của một quá trình
trao đổi thông tin giữa
hai hay nhiều thuê bao khác nhau. Chuyển mạch kênh được ứng dụng
cho việc liên lạc một
cách tức thời, quá trình chuyển mạch được đưa ra một cách không có
cảm giác về sự chậm
trễ (thời gian thực) và độ trễ biến thiên giữa nơi thu và nơi phân phối
tin hay ở bất kỳ phần
nào của hệ thống truyền tin.
Chuyển mạch kênh tín hiệu số là quá trình kết nối, trao đổi thông tin
các khe thời
gian giữa một số đoạn của tuyến truyền dẫn TDM số. Có hai cơ chế
thực hiện quá trình
chuyển mạch kênh tín hiệu số - Cơ chế chuyển mạch không gian số và
cơ chế chuyển mạch
thời gian số. Phần sau đây sẽ mô tả nguyên tắc cấu tạo và hoạt động
của các tầng chuyển
mạch theo cơ chế không gian cũng như thời gian, trên cơ sở đó, xây
dựng trường chuyển
mạch kết hợp bảo đảm kích thước lớn bất kỳ theo yêu cầu.
5.2.1 Tầng chuyển mạch không gian số
Tầng chuyển mạch không gian số S (Space Switch Stage) cấu tạo từ
một ma trận
chuyển mạch kích thước N đầu vào và M đầu ra vật lý. Lưu ý rằng đây
là hệ thống TDM-số,
do đó mỗi đường vật lý chứa n kênh thời gian mà chúng mang các tín
hiệu PCM. Như vậy để
kết nối một khe thời gian bất kỳ nào trong một đường PCM bất kỳ phía
đầu vào của ma trận
chuyển mạch tới khe thời gian tương ứng (nghĩa là có cùng mã số TS)
của một đường PCM
bất kỳ phía đầu ra của ma trận thì một điểm chuyển mạch thích hợp
của ma trận chuyển
mạch cần phải hoạt động trong suốt thời gian của TS đó và lặp lại với
chu kì T=125 micro
giây trong suốt quá trình tạo kênh. Trong các thời gian khác,vẫn điểm
chuyển mạch đó có
thể sử dụng cho các quá trình nối khác. Tương tự như vậy đối với tất cả
các điểm chuyển
mạch khác của ma trận có thể được sử dụng để thiết lập kênh nối cho
các cuộc gọi khác
nhau.
Chuyển mạch không gian tín hiệu TDM-số thường thiết lập đồng thời
một số lượng
lớn các cuộc nối qua ma trận với tốc độ tức thì trong một khung tín
hiệu 125microsec, trong
đó mỗi cuộc nối tồn tại trong thời gian của một khe thời gian TS. Một
cuộc gọi điện thoại có
thể kéo dài trong khoảng thời gian nhiều khung tín hiệu PCM (thông
thường khoảng 1,2 - 2
triệu khung và tương ứng với thời gian khoảng từ 3 đến 5 phút). Do vậy
một kiểu điều khiển
theo chu kì đơn giản cho một mẫu nối là cần thiết. Điều này dễ dàng
đạt được nhờ một bộ
nhớ RAM điều khiển cục bộ liên quan tới ma trận chuyển mạch không
gian.
Hình 5.2 minh hoạ nguyên tắc cấu tạo và hoạt động của một tầng
chuyển mạch
không gian S. Chuyển mạch tầng S cấu tạo từ 2 thành phần cơ bản -
Ma trận chuyển mạch và
khối điều khiển chuyển mạch cục bộ.
Ma trận chuyển mạch vuông kích thước NxN, trong đó hàng dùng cho
các đường
PCM phía đầu vào và cột dùng cho các đường PCM phía đầu ra. Tại giao
điểm của hàng và
cột đấu nối điểm chuyển mạch và thông thường đó là cổng logic AND
hay cổng logic ba
trạng thái. Chú ý rằng AND hay cổng logic ba trạng thái là mạch logic
không nhớ, do vậy
chuyển mạch cho cùng một khe thời gian giữa đầu vào và đầu ra của
phần tử chuyển mạch.
Các điểm chuyển mạch trong mỗi cột được điều khiển bởi một bộ nhớ
điều khiển C-Mem
(Control Memory).
Khối điều khiển cục bộ bao gồm bộ đếm khe thời gian TS-Counter, bộ
chọn địa chỉ
Selector và bộ nhớ điều khiển C-Mem để thực hiện chức năng điều
khiển cục bộ ma trận
chuyển mạch. Bộ nhớ C-Mem lưu trữ các số liệu liên quan tới các điểm
chuyển mạch tương
ứng với các khe thời gian TS trong khung tín hiệu đã cho.
Hình 5.8: Cấu trúc gói tin trong chuyển mạch gói
Các gói tin sẽ được chuyển qua mạng chuyển mạch gói từ Node
chuyển mạch này tới
Node chuyển mạch khác trên cơ sở “Lưu đệm và phát chuyển tiếp“,
nghĩa là mỗi Node
chuyển mạch sau khi thu một gói sẽ tạm thời lưu giữ một bản sao của
gói vào bộ nhớ đệm
cho tới khi cơ hội phát chuyển tiếp gói tới Node tiếp theo hay thiết bị
đầu cuối của Người
dùng được đảm bảo chắc chắn. Bởi vì mọi quá trình thông tin được cắt
nhỏ thành các gói
giống nhau nên các bản tin dù dài hay ngắn đều có thể chuyển qua
mạng với sự ảnh hưởng
lẫn nhau ít nhất và nhờ sự chuyển tải các gói qua mạng gần như nhau
được thực hiện trong
thời gian thực nên chuyển mạch có thể đáp ứng được yêu cầu hoạt
động một cách nhanh
chóng kể cả khi có sự thay đổi mẫu lưu lượng hoặc có sự hỏng hóc một
phần hay nhiều tính
năng khác của mạng.
Hình 5.9 minh hoạ nguyên tắc hoạt động của mạng chuyển mạch gói.
Các bản tin
của khách hàng từ máy chủ gọi A sẽ không được gửi đi một cách tức thì
và trọn vẹn qua
mạng tới máy bị gọi như trong mạng chuyển mạch bản tin, mà sẽ được
cắt và tạo thành các
gói chuẩn ở Node chuyển mạch gói nguồn PSWs. Mỗi gói sẽ được phát
vào mạng một cách
riêng rẽ độc lập và chúng sẽ dịch chuyển về Node chuyển mạch gói
đích PSWĐ theo một
đường dẫn khả dụng tốt nhất tại bất kỳ thời điểm nào, đồng thời mỗi
gói sẽ được kiểm tra
giám sát lỗi trên dọc hành trình.