You are on page 1of 4

(Tác giả tự dịch bài Chu Bá Nhân (2) thuở

Về hay ở Bùi viên cựu trạch ca) trước sang sông.


Chỉ tỉnh rượu ba ngày
Văng vẳng tai nghe (1) Vườn Bùi: Thôn Vị không phải ít.
tiếng chích chòe Hạ, xã Yên Đổ, nay là Kêu gào thế cười chi
Lặng đi kẻo động khách xã Trung Lương, huyện cho mệt,
lòng quê. Bình Lục (Nam Hà) quê Chớ buồn chi nghe tiếng
Nước non có tớ càng vui hương Nguyễn Khuyến. hát làng say
vẻ, (2) Khâu hác: gò và Xin người gắng cạn
Hoa nguyệt nào ai đã khe; Lâm tuyền: rừng và chén này.
đắm mê? suối.
Quyên đã gọi hè quang (3) Bành Trạch: tên một (Tác giả tự dịch bài
quác quác, huyện cũ thuộc tỉnh "Bùi viên đối ẩm"
Gáy từng gáy sáng tẻ tè Giang Tây (Trung trích cú ca)
te. Quốc).
Lại còn giục giã về hay (4) Ôn công: tức Tư Mã (1) Tuý Ông: "Ông say"
ở? Quang, khi cáo quan về tên hiệu của Âu Dương
Đôi gót phong trần vẫn ở ẩn chỉ uống rượu tiêu Tu đời Tống.
khỏe khoe. sầu. (2) Chu Bá Nhân: Chu
(5) Lỗ Hầu: tức Lỗ Bình Nghị.
Công.
Trở về vườn
Nghe hát
cũ Uống rượu
đêm
Vườn Bùi (1) chốn cũ, ở vườn
Bốn mươi năm lụ khụ khuya
lại về đây. Bùi
Trông ngoài sân đua nở Một khúc đêm khuya
mấy chồi cây, Tuý Ông (1) ý chẳng say tiếng đã chầy,
Thú khâu hác lâm tuyền về rượu, Nửa chen mặt nước, nửa
(2) âu cũng thế. Say vì đâu, nước thẳm từng mây.
Bành Trạch (3) cầm với non cao. Nghĩ mình vườn cũ vừa
xoang ngâm trước ghế, Non lặng ngắt, nước lui bước,
Ôn công (4) rượu nhạt tuôn ào, Ngán kẻ phương trời
chuốc chiều xuân. Tôi với bác xưa nay chẳng đứt dây.
Ngọn gió đông ngảnh lại cùng thích thế.
lệ đầm khăn Đời trước thánh hiền Bẻ liễu thành Đài thôi
Tính thương hải tang đều vắng vẻ, cũng xếp, (1)
điền qua mấy lớp? Có người say rượu tiếng Trồng lan ngõ tối ngát
Ngươi chớ giận Lỗ Hầu còn nay. nào hay?
(5) chẳng gặp. Cho nên say, say khướt Từ xưa mặt ngọc ai là
Như lơ phơ tóc trắng lại cả ngày, chẳng,
làm chi Say mà chẳng biết rằng Chén rượu bên đèn
Muốn về sao chẳng về say ngã đùng. luống tỉnh say.
đi?
(1) Bẻ liễu thành đài: chửa say. Hỏi ai muốn ước cho
tác giả dẫn điển Hán Kẻ ở trên đời lo lắng cả, con cháu,
Hoành đời Đường, lấy Nghĩ ra ông sợ cái ông Nghĩ lại đời xưa mấy
một danh kĩ là Liễu thị ở này. kiếp tu.
phố Chương Đài,
Trường An, sau đi làm II
quan xa, để liễu thị ở lại Lên lão
đó ba năm, không đón Cũng cờ, cũng biển,
đi được, nên làm bài Ông chẳng hay ông tuổi cũng cân đai.
"Chương Đài liễu" để đã già, Cũng gọi ông nghè có
thăm. Năm lăm ông cũng lão kém ai.
đây mà. Mảnh giấy làm nên thân
Anh em làng xóm xin giáp bảng, (2)
Tự trào mời cả, Nét son điểm rõ mặt văn
Xôi bánh, trâu heo cũng khôi. (3)
Cũng chẳng giàu mà gọi là. Tấm thân xiêm áo sao
cũng chẳng sang, Chú Đáo bên làng lên mà nhẹ?
Chẳng gầy, chẳng béo với tớ, Cái giá khoa danh thế
chỉ làng nhàng, Ông Từ xóm chợ lại mới hời! (4)
Cờ đương dở cuộc cùng ta. Ghế tréo, lọng xanh ngồi
không còn nước, Bây giờ đến bậc ăn dưng bảnh choẹ,
Bạc chửa thâu canh đã nhỉ, (1) Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ
chạy làng. Có rượu thời ông chống chơi!
Mở miệng nói ra gàn bát gậy ra.
sách, 1. Hoa man: người thợ
Mềm môi chén mãi tít (1) Ăn dưng: ăn không. làm nghề hàng mã.
cung thang. 2. Giáp bảng: bảng đề
Nghĩ mình lại gớm cho tên từ học vị tiến sĩ trở
mình nhỉ, Vịnh tiến sĩ lên.
Thế cũng bia xanh, cũng 3. Văn khôi: đầu làng
bảng vàng. giấy văn. ở đây chỉ người có
đỗ đạt cao.
I 4. Hời: giá rẻ.
Tự thuật
Rõ chú hoa man (1)
Tháng ngày thấm thoát khéo vẽ trò, Mừng con
tựa chim bay, Bỡn ông mà lại dứ thằng
Ông ngẫm mình ông, cu. dựng
nghĩ cũng hay. Mày râu mặt đó chừng
Tóc bạc bao giờ không bao tuổi, được nhà
biết nhỉ? Giấy má nhà bay đáng
Răng long ngày trước mấy xu? Nghĩ ta, ta cũng sướng
hãy còn đây. Bán tiếng mua danh thây ru mà,
Câu thơ được chửa, thưa lũ trẻ, Mừng thấy con ta dựng
rằng được. Bảng vàng bia đá vẫn được nhà
Chén rượu say rồi, nói nghìn thu. Năm mới lệ thường
thêm tuổi một, 1. Núi Non Nước, một Nhân hứng cũng vừa
Cỗ phe ngôi đã chốc bàn thắng cảnh nằm ven bờ toan cất chén,
ba. (1) sông Đáy ở thị xã Ninh Sấm đông rầm rập gió
Bình. nồm đưa.
Rượu ngon đến bữa 2. Bàn Cổ: Ông Bàn Cổ
nghiêng bầu dốc, sinh từ lúc mới có trời (Tác giả tự dịch bài
Chữ "dại" đầu năm xổ đất. "Họ nhật ngẫu hứng")
túi ra. (2) 3. Tiền triều: triều vua
Một khóm thủy tiên năm thời trước. 1. Đào tức là Đào Tiềm
bảy cụm, 4. Hòn câu thái phó: đời Tấn.
Xanh xanh như sắp thập tảng đá mà thái phó 2. Liễu Tôn Nguyên bị
thò hoa. Trương Hán Siêu đã vua bắt tội, phải về quê,
ngồi câu cá. tự cho mình là ngu dại.
1. Bữa tiệc do phe giáp,
một tổ chức nhỏ trong
làng, làm lễ mừng thọ Than mùa Thu vịnh
các bậc bô lão. ở đây ý
nói nhà thơ cũng đã vào hè Trời thu xanh ngắt mấy
bậc bô lão 60 tuổi trở tầng cao,
lên rồi. Tháng tư đầu mùa hạ, Cần trúc lơ phơ gió hắt
2. ý nói ngâm vịnh Tiết trời thực oi ả, hiu.
nhiều. Tiếng dế kêu thiết tha, Nước biếc trông như
Đàn muỗi bay tơi tả. tầng khói phủ,
Nỗi ấy ngỏ cùng ai, Song thưa để mặc bóng
Chơi núi Cảnh này buồn cả dạ. trăng vào.
Biếng nhắp năm canh Mấy chùm trước giậu
Non chầy, hoa năm ngoái,
Gà đã sớm giục giã. Một tiếng trên không
Nước (1) ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa
Chom chỏm trên sông Vịnh mùa toan cất bút,
đá một hòn, Nghĩ ra lại thẹn với ông
Nước trôi sóng vỗ biết hè Đào. (1)
bao mòn?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Biếng trông trời hạ nước 1. Ông Đào: Đào Tiềm.
Cổ, (2) non xa,
Bia miệng còn đeo tiếng ý khí ngày thường nghĩ
trẻ con. đã trơ. Thu ẩm
Rừng cúc tiền triều (3) Cá vượt khóm rau lên
trơ mốc thếch, mặt nước, Năm gian nhà cỏ thấp le
Hồn câu Thái phó (4) Bướm len lá trúc lượn te,
tảng rêu tròn. rèm thưa. Ngõ tối đêm sâu đóm
Trải bao trăng gió xuân Thơ Đào (1) cửa miệng lập loè.
già giặn, đưa câu rượu Lưng giậu phất phơ màu
Trời dẫu già, nhưng núi Xóm Liễu (2) quanh khe khói nhạt,
vẫn non. chịu tiếng khờ. Làn ao lóng lánh bóng
trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà
xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng
đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay,
hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say
nhè.

You might also like