You are on page 1of 4

Tản mạn về cán cân thanh toán Việt Nam năm 2009

TS. Trương Quang Thông (*) Đại học Kinh tế TPHCM


Thứ Năm, 31/12/2009, 14:03 (GMT+7)
Tản mạn về cán cân thanh toán Việt Nam năm 2009

TS. Trương Quang Thông (*) Đại học Kinh tế TPHCM

(TBKTSG) - Trong khi suy nghĩ về những số liệu kinh tế vĩ mô V


năm 2009 sắp kết thúc, chúng ta vẫn phải tự hỏi: có hay khôn
mống bất ổn có thể gây bất lợi cho mục tiêu tăng trưởng ổn đ
vững mà Việt Nam mong muốn?

Các phân tích về cán cân vãng lai Việt Nam

Chúng tôi bắt đầu từ các số liệu của cán cân thanh toán Việt N
(minh họa: Khều) khoảng thời gian 2005-2009. Nguồn dữ liệu chúng tôi lấy từ Q
quốc tế (IMF), do những dữ liệu khả dụng, công khai từ các cơ
Nam còn manh mún và không đầy đủ. Một số chỉ tiêu có thể có những sai lệch so với cá
bố của các cơ quan hữu quan của Việt Nam, thế nhưng, đôi khi những sự sai lệch đó vẫ
thành một chủ đề thảo luận nào đó.

Từ bảng số liệu của IMF, chúng ta nhận thấy, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam
nhanh qua các năm. Trong khi IMF dự báo mức thâm hụt cán cân thương mại năm 2009
Mỹ trong bối cảnh suy thoái kinh tế, thì thông tin trong tháng 11-2009 cho biết, Bộ Kế h
tư đã ước tính con số đó cho cả năm 2009 là 11 tỉ đô la Mỹ.

Nếu như trong các năm 2005-2006, kiều hối (chiếm hơn 90% khoản mục “Chuyển giao”
nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, làm giảm nhẹ đáng kể thâm hụt của
lai, thì nay, tình hình trên đã trở nên xấu hơn nhiều trong năm 2009.

Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TPHCM cho biết, trong 10 tháng đầu năm,
nhận được tại các ngân hàng trên địa bàn vào khoảng 2,6 tỉ đô la Mỹ, chỉ bằng 60% so
năm ngoái. Chúng ta biết rằng, TPHCM là nơi nhận gần 60% tiền kiều hối cả nước. Con
nước nhận được trong năm 2009 được giới chuyên môn ước tính sẽ xấp xỉ 6 tỉ đô la.

Kết hợp với nguồn số liệu của IMF, nếu như các luồng tiền ròng về dịch vụ và thu nhập
không đổi so với năm 2008 (thâm hụt xấp xỉ 4,2 tỉ đô la) thì với thâm hụt thương mại ư
la, sau khi trừ đi 6 tỉ đô la kiều hối, thì thâm hụt cán cân vãng lai có thể ước tính ở mức
Mỹ cho năm 2009.

Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nợ nước ngoài của Việt Nam

Theo lý thuyết, cán cân vãng lai là một trạng thái lý tưởng để diễn tả quan hệ nợ nần c
gia với phần còn lại của thế giới. Nếu cán cân vãng lai thặng dư, thì chúng ta nợ nước n
nước ngoài nợ chúng ta, và ngược lại. Thâm hụt cán cân vãng lai có thể được bù đắp bằ
của cán cân vốn, trong đó, chúng ta mong muốn rằng, với mục tiêu ổn định và cân bằn
mô, những nguồn bù đắp đó phải là những nguồn dài hạn và ổn định.

Trong bối cảnh Việt Nam, đó chính là các nguồn FDI và những khoản vay dài hạn nước
Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI giải ngân trong 11 tháng đầu năm là 9 tỉ đô la Mỹ, bằng
cùng kỳ năm 2008. Mức 10 tỉ đô la là kỳ vọng cho tổng giải ngân FDI năm 2009 tại Việt
khi chúng tôi không có số liệu nào về vốn đầu tư gián tiếp, và với giả định rằng mức 10
ngân FDI là có thể đạt được trong năm 2009, thì luồng tiền FDI gần như đã bù đắp được
trong năm của cán cân vãng lai.

Mức bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai còn cao hơn do Việt Nam ngày càng mang nợ nh
thị bên dưới diễn tả mức chênh lệch ròng giữa rút vốn và tổng trả nợ các khoản nợ chín
Chính phủ bảo lãnh trong các năm 2004-2008, qua đó, chúng ta có thể thấy mức chênh
xu hướng ngày càng dãn rộng ra. Hàng năm, nước ta vay nợ nhiều hơn là trả nợ. Chênh
năm 2008 đã vượt qua con số 2 tỉ đô la Mỹ.

Giả định rằng con số đó không đổi trong năm 2009, cộng với các khoản nợ “đột xuất” p
năm 2009 là 2 tỉ đô la Mỹ (vay của ADB, Ngân hàng Thế giới và Nhật Bản), thì luồng tiề
nợ nước ngoài có thể lên đến 4 tỉ đô la Mỹ. Cuối cùng, bỏ qua việc nhầm lẫn và bỏ sót,
có dữ liệu gì về nguồn vốn đầu tư gián tiếp cũng như các luồng vốn ngắn hạn khác, thì
la đó có thể tạm xem như là thặng dư của cán cân tổng thể (?!)

Thế nhưng, tại sao trong kỳ họp Quốc hội vừa qua (tháng 10, 11-2009), Chính phủ đã d
thâm hụt cán cân tổng thể năm 2009 có thể lên đến con số 1,9 tỉ đô la Mỹ?

Về mặt kỹ thuật, theo chúng tôi, có thể có những vấn đề sau đây:

- Như trên đã nói, các giả định và tính toán phía trên của chúng tôi vẫn chưa đề cập đế
chuyển tài chính ngắn hạn có thể gây ra những thâm hụt nặng nề hơn cho cán cân tổng
ta chưa có dữ liệu gì về các luồng vốn đầu tư gián tiếp và cả những luồng vốn ngắn hạn
2009.
Theo IMF, cán cân thanh toán Việt Nam đã ghi nhận một mức thặng dư kỷ lục của đầu t
đến 6,2 tỉ đô la Mỹ trong năm 2007. Ghi nhận và quản lý các luồng vốn gián tiếp vẫn cò
đề chưa được giải quyết rốt ráo hiện nay ở Việt Nam. Cũng theo IMF, trong năm 2008 V
chứng kiến một mức thâm hụt 400 triệu đô la Mỹ đối với đầu tư gián tiếp. Có hay không
vốn đầu tư gián tiếp tiếp tục đảo chiều trong năm 2009 và chúng diễn ra với mức độ nà
một câu hỏi lớn vẫn còn chờ lời giải đáp.

- Vẫn còn những tranh luận về mức độ chính xác của số liệu về các khoản giải ngân FD
đặc biệt là bản chất của các nguồn giải ngân. Xin đơn cử một ví dụ sau đây. Một doanh
vốn nước ngoài tại Việt Nam có mức vốn đầu tư 100 triệu đô la Mỹ, trong đó, công ty m
số vốn điều lệ 20 triệu đô la. Phần còn lại phải đi vay trung dài hạn ngân hàng thông qu
của chính công ty mẹ.

Giả sử doanh nghiệp FDI đó vay số tiền 80 triệu đô la từ một ngân hàng 100% vốn nước
Nam và việc giải ngân được thực hiện bằng chuyển khoản, từ tài khoản của ngân hàng
York, về tài khoản vốn chuyên dùng (Capital Account) của doanh nghiệp mở tại ngân hà
tại Việt Nam. Bản chất của giao dịch vay vốn trên không hề làm gia tăng quỹ ngoại hối
tế Việt Nam, vì thực chất, đó là giao dịch giữa người cư trú - người cư trú. Đúng là tiền t
chuyển về cho giải ngân FDI, nhưng không phải là một luồng tiền được ghi nhận vào cá
toán.

- Cũng như vậy đối với các khoản vay mượn. Chúng ta biết rằng đối với một số điều kiệ
đặc biệt là vay tín dụng xuất khẩu (Export Credit), một tỷ lệ giải ngân không nhỏ sẽ đư
ngân trực tiếp cho các nhà cung cấp nước ngoài (người không cư trú-người không cư trú

Trong một chừng mực nào đó, đối với các khoản nhập khẩu được tài trợ bằng ODA và tí
khẩu, thì một sự “thâm hụt” cán cân thương mại chưa chắc đã là điều xấu. Còn ở phân
ứng, các luồng vốn ODA và tín dụng xuất khẩu tạo “thặng dư” cho cán cân vốn dài hạn
một điều tốt, những luồng thặng dư thực sự, với kỳ vọng bù đắp cho thâm hụt của cán

Thay cho lời kết

Bài viết này, tuy xoay quanh các phân tích về cán cân thanh toán quốc tế, nhưng vẫn m
mạn. Chúng tôi hy vọng rằng nó có thể là một gạch nối cho một chủ đề sâu xa hơn, chỉ
là việc sử dụng cán cân thanh toán quốc tế như là một công cụ quan trọng trong hoạch
thi chính sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước nói riêng và Chính phủ

Người ta tự hỏi, phải chăng những khó khăn trong tính toán, thống kê, phân tích và dự
lượng kinh tế vĩ mô thể hiện trong bảng cán cân thanh toán là một trong những nguyên
gây nên sự thụ động, lúng túng của các cơ quan hữu quan trong thời gian qua trong việ
chính sách tiền tệ?

Chẳng hạn, nếu như cán cân cơ bản (= cán cân vãng lai + cán cân vốn dài hạn) được d
dư, thì đó chính là hàm ý của một khả năng lên giá đồng nội tệ. Thế nhưng, tại sao cuố
một sự thâm hụt lớn ngoài dự đoán của cán cân tổng thể, được xem là một trong những
chính dẫn đến việc giảm giá đồng nội tệ vào những ngày cuối tháng 11-2009?

Rõ ràng, chúng ta vẫn còn lúng túng và chồng chéo trong việc quản lý các nguồn vốn đ
tiếp. Việc phối hợp quản lý các luồng FDI, ODA, tín dụng xuất khẩu vẫn chưa thực sự th
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và một số cơ quan khác.

______________________

* Đại học Kinh tế TPHCM


( )

You might also like