You are on page 1of 16

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tư

tưởng của Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam đúc
kết lại, sử dụng như là hệ thống tư tưởng chính trong nước
hiện nay, bên cạnh chủ nghĩa Marx Lenin. Hệ tương tưởng
này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam [1] Tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu được đưa ra trong
thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc chống Thực dân Pháp
(trước Cách mạng tháng 8) và một số được đúc rút sau này,
trong suốt quá trình giải phóng đất nước chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ, xây dựng Đảng Cộng sản và chính
quyền. Theo nhận định, đây là sự kết hợp của các luồng tư
tưởng và văn hóa của Việt nam, cách mạng Pháp, tư tưởng
tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng Cộng sản Mác Lê nin, tư tưởng
văn hóa phương Đông. [2]
Hiến pháp 1992 và điều lệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đều lấy “tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với Chủ nghĩa Marx-
Lenin, làm nền tảng định hướng cho sự phát triển của đất
nước và của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Marx-Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam,
và trong thực tế Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài
sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của
dân tộc Việt Nam.[3]
Hoàn cảnh ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh
[sửa]Việt Nam
 Là quốc gia nằm dưới sự cai trị của triều đình nhà
Nguyễn và thực dân Pháp. Năm 1883, triều đình Huế ký
kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa nhận quyền
bảo hộ của họ trên khắp An Nam.[4] Từ sau Hiệp ước
Patenôtre năm 1884, Việt Nam trở thành một nướcphong
kiến nửa thuộc địa.
 Có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân
Pháp.
 Trong xã hội tồn tại nhiều mâu thuẫn.
 Mâu thuẫn giữa người dân lao động và triều
đình phong kiến.
 Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân
Pháp.
 Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và
giai cấp tư sản.

[sửa]Thế giới
 Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền, dẫn đến sự tranh giành thuộc địa giữa các nước tư
bản.
 Phong trào cách mạng trên thế giới:
 Trước đây, nhân dân 13 thuộc địa của đế quốc
Anh ở Bắc Mỹ đã thành lập quốc gia Hoa Kỳ vào năm 1776,
được vua Pháp là Louis XVI thừa nhận năm 1778. Nguyễn
Ái Quốc cũng được biết, năm 1776 người Mỹ đọc
bản Tuyên ngôn độc lập.[5]
 Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ các lãnh đạo phong
trào cách mạng tại Trung Quốc thời bấy giờ. Nhờ thế, ông
đã được học hỏi về kinh nghiệm của cách mạng Tân
Hợi năm 1911.
 Phong trào cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ thắng lợi, lật
đổ chế độ quân chủ do sultan đứng đầu. Sau khi triều đình
Ottoman sụp đổ, ngày 29 tháng 10 năm 1923 theo lời tuyên
thệ của, lãnh tụ Mustafa Kemal Ataturk, chính quyền Sultan
của đế quốc Ottoman không còn nữa và quốc gia Cộng hòa
Thổ Nhĩ Kỳ ra đời. [5]
 Năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Lenin, cách
mạng Tháng Mười thành công ở nước Nga, hệ thống xã hội
chủ nghĩa xác lập trên phạm vi thế giới.
 Phong trào công nhân trên thế giới nổ ra mạnh mẽ.

[sửa]Nguồn gốc

1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam:


 Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu
tranh để dựng nước và giữ nước;
 Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết,
tương thân, tương ái;
 Truyền thống lạc quan, yêu đời;
 Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo.
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:
 Tư tưởng văn hóa phương Đông: Nho
giáo, Phật giáo;
 Tư tưởng và văn hóa phương Tây: thắng lợi
của cuộc Đại cách mạng Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập
1776 của Hoa Kỳ, tư tưởng dân chủ phương Tây,...;
3. Chủ nghĩa Marx-Lenin: cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh;
4. Nhân tố chủ quan: phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh.
Xem thêm: Hồ Chí Minh
[sửa]Quá trình hình thành và phát triển

 Từ 1890 – 1911: giai đoạn hình thành tư tưởng yêu


nước và chí hướng cách mạng;
 Từ 1911 – 1920: giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm;
 Từ 1921 – 1930: giai đoạn hình thành cơ bản tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam;
 Từ 1930 – 1945: giai đoạn vượt qua thử thách, kiên
trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam;
 Từ 1945 – 1969: giai đoạn phát triển và thắng lợi
của Tư tưởng Hồ Chí Minh.

[sửa]Những nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí


Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về
giải phóng dân tộc, giai cấp và con người, về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối
đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư
tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng
về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh
đạo, vừa là người công bộc thật trung thành của nhân dân.
[sửa]Về vấn đề dân tộc
 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm
phạm của các dân tộc.
"Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do". - Hồ Chí Minh
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An
Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình
Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm
để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lí
tưởng của Tổng thống Hoa Kì Woodrow Wilson cho các lãnh
thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng
thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị[6].
 Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một
động lực to lớn của đất nước.
 Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế.

[sửa]Về cách mạng giải phóng dân tộc


 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường của cách mạng vô sản.
"Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường của cách mạng vô sản, tức là phải theo đường
lối Mác-Lênin" - Hồ Chí Minh.
 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九龍, Kowloon)
thuộc Hương Cảng, Hồ Chí Minh thống nhất ba tổ chức
đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi
tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng
Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
 Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm
toàn dân tộc.
"Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ
trang toàn dân" - Hồ Chí Minh
 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
Luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa nêu ở Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928):
"chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến"
Nhưng ngay từ Đại hội V, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : "vận mệnh
của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa".
"Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi
trước" - Hồ Chí Minh.
 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện
bằng con đường cách mạng bạo lực.
"Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và
dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền" - Hồ Chí Minh.
[sửa]Về chủ nghĩa xã hội
Khái niệm chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
mang nhiều ý nghĩa khác nhau, chủ yếu tập trung vào các
nội dung sau:
- Chủ nghĩa xã hội như là một phong trào lịch sử mang
tính chính trị xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, ở
đây, Hồ Chí Minh hiểu chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ
nghĩa Marx-Lenin.
- Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã
hội đối lập với chế độ tư bản mà hình thức xấu xa, tàn bạo
nhất của nó là chủ nghĩa thực dân, cả chủ nghĩa thực dân
cũ và chủ nghĩa thực dân mới. [7]
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh chủ yếu tập
trung vào những nội dung sau:
 Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
 Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế
phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật.
 Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột
người.
 Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn
hóa, đạo đức.[8]
"Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản
và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [9]
"Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao
mức sống của nhân dân"[9]
"Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc,
ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục
tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ...Tóm lại, xã hội
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội" [9]
[sửa]Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
 Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng
Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội.[10]
 Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam phải đi lên bằng con đường gián tiếp.
 Phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc
trước, sau đó mới từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Về thời gian của thời kỳ quá độ: xây dựng CNXH là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu
dài.
 Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
 Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, xây dựng tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa,
tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
 Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trong đó
xây dựng là trọng tâm, là nội dung cốt lõi, lâu dài.[11]
 Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ:
 Chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do
Đảng cộng sản lãnh đạo.
 Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao
động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ
thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành
sản xuất xã hội. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
 Văn hóa - xã hội: nhấn mạnh vấn đề xây dựng
con người mới.[12]

[sửa]Về đại đoàn kết dân tộc


 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
quyết định thành công của cách mạng.
 Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng.
 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
 Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất,
thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn
kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo
của Đảng.

[sửa]Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại
 Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách
mạng vô sản thế giới.
 Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
 Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là
chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa,
sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên
nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
 Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng
làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ.

[sửa]Về nông dân


Xem thêm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân
[sửa]Về công nhân
Xem thêm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nhân
Hồ Chí Minh xem giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo
nhất của phong trào dân tộc, là cơ sở cho các cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, có gắn bó máu thịt với giai cấp
công nhân, chịu áp bức bởi thực dân Pháp và tay sai (phong
kiến và địa chủ), sẵn sàng đứng lên cùng công nhân trong
cuộc cách mạng vô sản đang phát triển. Trong Sách lược
cách mạng của Đảng, ông viết: “ Đảng phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và
dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh
hưởng của bọn tư bản quốc gia. Đảng phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,” [2]. Tổng kết quá trình
lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trải qua
các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn
vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng
ta đấu tranh chống những xu hướng “hữu khuynh” và “tả
khuynh” đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ lực
của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất
của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai
cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội” [3].
[sửa]Về quân sự
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là quan điểm và lý thuyết
của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền quốc phòng, lực
lượng vũ trang, về những vấn đề có tính quy luật của khởi
nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về chính trị và
quân sự. Đó là sự áp dụng lý thuyết quân sự củachủ nghĩa
Marx Lenin vào thực tiễn Việt Nam, kết hợp truyền thống
quân sự, nghệ thuật binh pháp cổ truyền của dân tộc Việt
Nam, tiếp thu khoa học quân sự cổ kim của nhân loại.
Một trong các cơ sở quân sự của tư tưởng Hồ Chí Minh là
lấy dân làm gốc theo phương châm "quân với dân như cá
với nước", tất cả sức mạnh đều từ dân mà ra. Cơ sở tiếp
theo của quân sự là chính trị. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
quân sự phục vụ cho chính trị là một quan điểm cơ bản, đấu
tranh chính trị và chiến tranh quân sự luôn gắn bó với nhau.
Do đó, trong Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn có
nhữngchính trị viên và chính ủy, họ có nhiệm vụ giáo dục
chính trị trong quân đội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chiến tranh ở Việt Nam là cuộc
chiến của toàn dân chống ngoại xâm, bao gồm cả ba thứ
quân: quân chủ lực, quân địa phương và dân quân tự vệ.
Nguyên tắc "ba thứ quân" này là kế thừa từ truyền thống tổ
chức quân sự cổ truyền trong lịch sử Việt Nam, khi đó các
thành phần hương binh, quân các lộ và quân triều đình đều
tham gia chiến sự. Chiến tranh du kích là nền tảng, kết hợp
với chiến tranh chính quy, lấy nhỏ quấy phá lớn, lấy thế
thắng lực, áp dụng cơ sở tinh thần chính trị khi cần, ứng
dụng quân sự tiên tiến.
Chiến lược cơ bản chống đối phương xâm lược là bước đầu
tiến hành quấy rối, làm hao mòn lực lượng, đánh vào tâm lý,
sau đó gây sức ép chính trị để đối phương tự rút quân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát biểu về Chiến tranh Đông Dương như
sau:

“ Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ


đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không
đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra
ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé
những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào
rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến
chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy. ”

—Hồ Chí Minh[13]


Phương pháp chiến tranh của tư tưởng này nhấn mạnh vào
việc vận dụng hợp lý việc xây dựng lực lượng và đánh tiêu
hao đối phương, trong đó việc xây dựng lực lượng, tích trữ
lương thảo, vũ khí, và trường kỳ mai phục vào mùa khô, ẩn
nấp vào ban ngày, đánh tiêu hao địch vào mùa mưa và ban
đêm.
[sửa]Về dân chủ
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ có nhiều nét tương
tự với chủ nghĩa Marx Lenin, tuy nhiên vẫn có những kiến
giải riêng về cách vận dụng linh hoạt và phù hợp với hoàn
cảnh thực tiễn của Việt Nam. Theo ông, đặc điểm dân chủ
tại Việt Nam là:
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và giai cấp công
nhân, trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động
làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên
chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với
những người phản động.
- Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Marx Lenin) là
tư tưởng lãnh đạo, ngày càng phát triển và củng cố.
- Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng này, nhân dân có
đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó như: Công
đoàn, Nông hội, Hội thanh niên, Hội phụ nữ,... thực hiện dân
chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. [14]
Về khái niệm "dân chủ tập trung", ông cho rằng các cơ quan
chính quyền phải thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và
Chính phủ Trung ương, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng
trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung. [15]
Dân chủ là "của báu" vì đó không phải là thứ tự nhiên có sẵn
mà đó là thành quả của cách mạng, nhân dân Việt Nam đã
phải đấu tranh, hy sinh gian khổ mới giành được. Có dân
chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Thực hành dân chủ có tác dụng giải phóngtiềm năng sáng
tạo của người dân và trở thành động lực của sự tiến bộ và
phát triển. Trái lại, ông cho rằng, nếu trong cán bộ, nhân dân
"ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì
cách lãnh đạo của ta không được dân chủ". [16]
Hồ Chí Minh có quan điểm không khoan nhượng với những
hành vi lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân danh dân chủ để
chống phá cách mạng. Theo ông thì dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để
phòng kẻ phá hoại. Dân chủ và chuyên chính đi đôi với
nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì
không chuyên chính thực sự, "bọn thù địch sẽ làm hại dân
chủ của nhân dân". Dân chủ và chuyên chính là quan hệ
mật thiết với nhau. [17]
Hồ Chí Minh cho rằng dưới chế độ tư bản, phong kiến,
chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân
dân. Dưới chế độ dân chủ, chuyên chính là đại đa số nhân
dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích
của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân. [18]
[sửa]Về vấn đề giai cấp
Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và
nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông
dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song đa số người
lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không
lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do
một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản
xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm
lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà
có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm
mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những
người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và
thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột haygiai cấp công
nhân. [19]
[sửa]Thế giới nhận định về Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vì tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu được áp dụng ở cách
mạng Việt nam, nên hệ tư tưởng này không được nhiều các
học giả Phương Tây nghiên cứu như đối với các hệ tư
tưởng khác. Một số nghiên cứu đánh giá tích cực về ý nghĩa
của Tư tưởng Hồ chí Minh đối với cách mạng giải phóng
dân tộc chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam và ở Đông
dương. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các vấn đề xã hội
mang tính nhân văn, vẫn mang tính thời sự.
Tháng 12 năm 2008, tại cuộc Hội thảo Việt Nam học tại Hà
Nội, giáo sư Yoshiharu Tsuboi, đại học Waseda, Nhật Bản,
đã thu hút sự chú ý của hàng trăm nhà nghiên cứu Việt Nam
và nhiều nước với bài thuyết trình nhận định Hồ Chí Minh là
người theo chủ nghĩa cộng hòa chứ không phải cộng sản.
Giáo sư cho rằng: "Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng
nhất trong suốt cuộc đời mình là những giá trị của nền cộng
hòa", "cơ sở lý luận là Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Tóm lược
bài thuyết trình: Hồ Chí Minh coi mục tiêu cao nhất là giải
phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước; không chỉ xây
dựng chế độ Dân chủ Cộng hòa mà còn xây dựng những
con người đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập; không chỉ
đất nước được độc lập, nhà nước có chủ quyền, mà phải
thực hiện thứ tự do của mỗi người dân. Người dân phải trở
thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật tự của nền cộng
hòa. Từng cá nhân suy nghĩ, quyết định với tinh thần trách
nhiệm cao. Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người dân đều có
quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động, tích cực tranh
đấu để giành được hạnh phúc.
Khi là thành viên Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn cho
rằng lúc đó cần ưu tiên "đấu tranh giải phóng dân tộc giành
lại độc lập cho Việt Nam chứ không phải là vấn đề giai cấp.
Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản
'chính thống' theo chủ nghĩa Marx-Lenin".
Về huyền thoại "vị Thánh dân tộc", bà Quinn-Judge, hiện
dạy ở đại học Temple của Mỹ, nói ông Hồ không phải là đồ
đệ một chiều của Quốc tế cộng sản. Quan hệ của ông với
phong trào này phức tạp và mong manh, và ông thường
hành động theo niềm tin của riêng mình [20]
Nhà sử học Pháp ông Pierre Brocheux: ông Hồ Chí Minh về
bản chất thực ra là một người theo Khổng Giáo. Ông luôn cố
gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng Giáo, một truyền
thống ý thức hệ Đông Á với các dòng tư tưởng châu Âu, từ
Marxism đến Leninism. Theo tôi, trước sau ông là một người
tốt, một người Khổng Giáo. Những gì người ta nói về ông ở
Việt Nam hiện nay chỉ đúng một phần mà thôi. Theo tôi, ông
đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân và tính công bằng xã
hội theo kiểu của Khổng Giáo."[21]

You might also like