You are on page 1of 39

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

THẢO LUẬN
GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Nhóm 8 : Đặng Minh Toàn


Nguyễn Tuấn Toàn
Đậu Quốc Toản
Lưu Công Tố
Phạm Huyền Trang
Lê Đức Trọng
Đỗ Ngọc Tuấn
Nguyễn Anh Tuấn

1
Hà nội, tháng 9 năm 2010

Mục lục

Tình hình Việt Nam.....................................................................................................................4


Tình hình thế giới........................................................................................................................4
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam ...............................6
Tinh hoa văn hoá nhân loại..........................................................................................................8
Sự tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin.......................................10
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh........................................................................................11
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội..........................................................................................13
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội....................13
Giá trị tư tưởng độc lập dân tộc và CNXH trong thời đại ngày nay..........................16
Hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc: xu thế lớn của thời đại..................................21
Giá trị tư tưởng hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc trong thời đại ngày
nay............................................................................................................................22
Văn hóa, đạo đức, nhân cách trong tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................28
Giá trị văn hóa, đạo đức nhân cách trong thời đại ngày nay....................................33

2
Lời mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình
thành và phát triển từ thập kỷ đầu
của thế kỷ XX đến khi Người qua
đời. Hôm nay, Hồ Chí Minh đã đi
xa hơn 40 năm, thế giới nói
chung đã có nhiều đổi thay to lớn
và đất nước Việt Nam đã có
những bước chuyển mình mạnh
mẽ. Nhân loại đang sống trong kỷ
nguyên toàn cầu hóa với sự phát
triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Nhưng trong mọi biến đổi vẫn có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó chính là
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, các tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tự do, dân chủ, đoàn kết và
công bằng xã hội, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ đại, người theo chủ nghĩa
quốc tế cộng sản đã cống hiến trọn đời mình cho những lý tưởng đó. Tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn vẹn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
Thế giới đã và đang nhắc tới những giá trị tư tưởng sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh mới. Và người ta tìm về Hồ Chí Minh như một giá trị “bất biến”
trong một thế giới đầy “vạn biến”. Sẽ còn rất nhiều những thay đổi trên thế giới nói
chung và đất nước Việt Nam nói riêng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ trường tồn trong
kho tàng văn hóa của nhân loại.

Hoàn cảnh ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh

3
Tình hình Việt Nam
Từ thế kỉ XIX đến trước khi thực dân Pháp xâm lược năm 1858, Việt Nam là một
nước phong kiến dưới sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn nhu nhược và hủ bại. Các
chính sách đối nội và đối ngoại bảo thủ phản động: tăng cường đàn áp bóc lột bên
trong, bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài; cự tuyệt mọi đề án cải cách. Điều này đã
gây ra cho nền kinh tế nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại càng trì trệ kém phát triển,
thương nghiệp không được phát triển, đời sống dân sinh khó khăn. Việt Nam vốn đã
nhỏ bé, lại càng không theo kịp các nước, dẫn đến yếu thế về cả ngoại dao cộng thêm
với triều đình nhu nhược. Dẫn đến kết quả tất yếu là khi Pháp xâm lược, triều đình
nhà Nguyễn với sự chống cự yếu ớt gần như không có đã để mất nước vào tay giặc.
Vào cuối thế kỷ thứ XIX và những năm đấu thế kỷ XX, cả dân tộc Việt Nam bị đè
nén bởi hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn.
Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp đứng lên chống bọn đế
quốc thực dân nhưng không thành công. Các sĩ phu yêu nước đều trăn trở về con
đường giải phóng dân tộc, nhưng chỉ có anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hành
động hết sức sáng tạo mang tính cách mạng. Được Phan Bội Châu định đưa sang
Nhật để du học và để làm cách mạng, nhưng Nguyễn Tất Thành đã từ chối vì Anh
nghĩ rằng, nhờ Nhật chống Pháp thì chẳng khác nào "đưa cọp cửa trước, rước beo cửa
sau". Nguyễn Tất Thành cho rằng, cầnphải tìm hiểu về thế giới, về nước Pháp trước
khi lựa chọn con đường cách mạng cho dântộc mình. Tháng 6- 1911, Nguyễn Tất
Thành đã tâm sự: "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bàochúng ta".
Từ đầu thế kỉ XX, các cuộc khởi nghĩa đã tạm thời bị dập tắt, thực dân pháp bắt
đầu khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Từ đây, xã hội bắt đầu xuất hiện các tầng lớp
mới như tiểu tư sản, mầm mống giai cấp tư bản… Các phong trào yêu nước chuyển
sang xu hướng dân chủ do các sĩ phu yêu nước cựu học sĩ truyền bá và dẫn dắt. Các
phong trào này cũng nhanh chóng thất bại.

Tình hình thế giới


Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, dẫn đến sự tranh giành thuộc địa giữa các nước tư
bản. Đồng thời dẫn đến mâu thuẫn và các phong trào cách mạng trên thế giới: trước
đây, nhân dân 13 thuộc địa của đế quốc Anh ở Bắc Mỹ đã thành lập quốc gia Hoa Kỳ
vào năm 1776, được vua Pháp là Louis XVI thừa nhận năm 1778. Nguyễn Ái Quốc
cũng được biết, năm 1776 người Mỹ đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Nguyễn Ái Quốc

4
đã gặp gỡ các lãnh đạo phong trào cách mạng tại Trung Quốc thời bấy giờ. Nhờ thế,
ông đã được học hỏi về kinh nghiệm của cách mạng Tân Hợi năm 1911. Phong trào
cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ thắng lợi, lật đổ chế độ quân chủ do sultan đứng đầu. Sau khi
triều đình Ottoman sụp đổ, ngày 29 tháng 10 năm 1923 theo lời tuyên thệ của, lãnh tụ
Mustafa Kemal Ataturk, chính quyền sultan của đế quốc Ottoman không còn nữa và
quốc gia Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời. Năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Lenin, cách
mạng Tháng Mười thành công ở nước Nga, hệ thống xã hội chủ nghĩa xác lập trên
phạm vi thế giới. Phong trào công nhân trên thế giới nổ ra mạnh mẽ. .
Khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, chúng ta thấy nguyện vọng tha thiết nhất của
Người là giải phóng dân tộc, nhưng không đi theo con đường đấu tranh cho độc lập
dân tộc của các bậc tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu ... . Mặt khác,
trong khi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, Người đã tích cực tham gia phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, tham gia ĐCS Pháp; tham gia các tổ chức chính
trị, xã hội ở Pháp; viết báo, viết văn chống thực dân Pháp; tổ chức ra Hội liên hiệp
thuộc địa; tham gia quốc tế nông dân; tham gia Ban phương Đông QTCS; dự Đại hội
V QTCS; dự Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, .... Đây là nét đặc trưng của sự nghiệp
cách mạng của Hồ Chí Minh. Người đã nhận ra rằng, kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa là của giai cấp vô sản là bọn đế quốc thực dân, Vì thế cần phải đấu tranh
chống kẻ thù chung đó. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp
vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra".
Mặt khác, việc tham gia phong trào cộng sản quốc tế giúp cho Nguyễn ái Quốc có
thêm những kinh nghiệm hoạt động cách mạng, tăng thêm những hiểu biết về chủ
nghĩa Mác - Lênin, trau dồi phẩm chất, đạo đức uy tín của người cách mạng. Tham
gia hoạt động cách mạng thế giới, Người đã xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới, với phong trào cộng sản quốc tế. Thực chất là, bắt
đầu từ hoạt động sáng tạo của Nguyễn ái Quốc trong những năm 20 - 30 của thế kỷ
XX, phong trào cách mạng Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.

5
Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải nghiên cứu nguồn gốc, cái tạo
nên bản chất cốt lõi, xuyên suốt hình thành trong con người Hồ Chí Minh trong suốt
chiều dài của sự nghiệp. Về phương diện lý luận, nhiều nhà nghiên cứu coi nguồn gốc
tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ những điểm cơ bản là: Chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam; tinh hoa văn hóa nhân loại; Chủ
nghĩa Mác – Lênin. Những yếu tố trên kết hợp với nhân cách cá nhân kiệt xuất của
Người được đúc rút từ quá trình hoạt động thực tiễn của Người tạo nên tư tưởng Hồ
Chí Minh.

Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc
Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cho cách
mạng Việt Nam với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
của Người được tiếp thu từ truyền thống yêu nước từ ngàn đời của cha ông. Đó là một
truyền thống yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Truyền
thống đó đã khiến Người không cam tâm nhìn cảnh nước mất nhà tan, đồng bào mình
lầm than trong kiếp nô lệ. Truyền thống đó đã hun đúc người thanh niên Nguyễn Tất
Thành quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc hình thành rất sớm.
Nước chúng ta có từ thời Vua Hùng, có quốc gia dân tộc từ thời đại Văn Lang, Âu
Lạc. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn hiến, có một nền văn hóa truyền thống lâu
đời, đó là truyền thống nhân nghĩa, độc lập, tự lực tự cường của một dân tộc được
hình thành sớm, truyền thống này được hình thành từ cuộc đấu tranh khuất phục thiên
nhiên và chống kẻ thù xâm lược giữ gìn đất nước. Tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết,
tương thân tương ái được thể hiện thông qua thực tiễn các cuộc đấu tranh làm chủ
thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, trách nhiệm của con cháu là phải giữ
gìn và bảo vệ bờ cõi non sông như lời Bác Hồ đã căn dặn “Các Vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Trong những truyền thống tốt đẹp đó, chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên
suốt lịch sử dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh dân tộc ta là một dân
tộc có lòng yêu nước nồng nàn, và trên hết đó là một dân tộc có ý chí kiên cường, bất
6
khuất, không chịu làm nô lệ, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc mình.
Truyền thống đó đã thấm đẫm trong Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Người đã mang theo
trong suốt cuộc đời mình. Chính chủ nghĩa yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm
đường cứu nước.Có thể coi đó là hành trang giá trị nhất của người thanh niên Nguyễn
Tất Thành, nó là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Nhận thức về lòng yêu nước của con người Việt Nam, Người nói: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”.
Tư tưởng yêu nước, thương dân của Người được hình thành từ rất sớm. Từ nhỏ
cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu
tranh bất khuất của quê hương sông Lam núi Hồng, một mảnh đất địa linh, nhân kiệt.
Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ
là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước
mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, sự thống trị của thực dân Pháp vô
cùng hà khắc và bạo tàn. Các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo
đều đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam khi đó khủng hoảng về đường lối.
Tiếp thu truyền thống yêu nước, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã sớm
hình thành chí hướng và tìm con đường đi cho cho riêng mình. Hồ Chí Minh rất trân
trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những chí sĩ yêu nước trước đó,
nhưng Người có suy nghĩ khác với con đường cứu nước của các bậc tiền bối. Người
cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương,
chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu
nước. Người không đi theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà đi theo con
đường riêng của mình.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành cho Việt Nam các
giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ý thức chủ quyền quốc gia
dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất... tạo thành động lực
mạnh mẽ của đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố kết cộng
đồng dân tộc; thuỷ chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng tạo, quý trọng
hiền tài, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm phong phú văn hoá dân tộc...

7
Trong nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là dòng
chảy chính của tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch
sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Chính sức mạnh
truyền thống tư tưởng và văn hoá đó của dân tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm
tòi, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách
mạng và văn hoá của Người.

Tinh hoa văn hoá nhân loại


Có thể thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh có rất nhiều biểu hiện của việc tiếp thu
những giá trị nhân văn của cả văn hoá phương Đông và phương Tây
Về tư tưởng và văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích
cực của Nho giáo về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị,
hoà mục, thế giới đại đồng; về một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hoá
trung hiếu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh".
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ Người đã học
chữ Hán với các thầy là bậc túc nho yêu nước, làu thông Tứ Thư, Ngũ Kinh. Ảnh
hưởng của Nho giáo đối với Người rất lớn, đạo đức Nho giáo đã thấm vào tư tưởng
của Người, những triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đề cao
văn hoá, lễ giáo và coi trọng học hành. Khi đọc những bài viết của Người, dù ở bất cứ
lĩnh vực nào, ta đều thấy có rất nhiều luận điểm, phạm trù, mệnh đề của Nho giáo
được Hồ Chí Minh sử dụng có chọn lọc, đưa vào đó những tư tưởng mới, phù hợp với
điều kiện của đất nước và thời đại, đặc biệt trên lĩnh vực đạo đức.
Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". Người
dẫn lời của V.I. Lênin: "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại". Người tiếp thu tinh hoa Nho
giáo và đứng trên quan điểm cách mạng để sử dụng Nho giáo, tức là tiếp thu có phê
phán. Cũng giống như Mác tiếp thu có phê phán tư tưởngcủa các nhà khoa học xã hội
tư sản; triết học duy vật của Phơ-Bách và phép biện chứng của Hêghen, Hồ Chí Minh
có cách nhìn nhận khách quan, khoa học đối với Nho giáo, Người đánh giá đúng đắn
vai trò, ý nghĩa của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng xã hội nhân loại.
Cũng như vậy là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo - một nguồn gốc tư
tưởng, triết lý, văn hoá phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm. Những điểm
tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy hành động,
cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích cực của
8
Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị,
thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; không xa rời đời sống mà luôn gắn bó với dân
tộc, đất nước.Ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang cũng thể hiện đậm nét trong con
người Chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu thiên nhiên, lối sống giản dị, hoà mình với
thiên nhiên của người.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu
nạn; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện …
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều
thích hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh
hạnh phúc.Văn hoá phương Tây với tư tưởng dân chủ cách mạng cũng thể hiện đậm
nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng văn hoá dân
chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
Từ khi Người còn học ở các trường Tiểu học Đông Ba, Quốc học Huế, Người đã
say mê môn học lịch sử và tìm hiểu về cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Một
điểm quan trọng tác động đến Hồ Chí Minh là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, nó là
xuất phát điểm để Người xác định hướng đi tìm đường cứu nước của mình. Người kể
lại: Vào trạc tuổi 13, tôi có nghe được những từ “Tự do, bình đẳng, bác ái”, lúc đó các
sĩ phu yêu nước đang bàn với nhau về những từ này, điều đó thôi thúc Người quyết
tâm sang phương Tây, sang Pháp để tìm hiểu tự do, bình đẳng, bác ái, xem họ làm thế
nào để trở về cứu nước, cứu đồng bào. Qua đó, có thể thấy tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái có ảnh hưởng rất mạnh đến Hồ Chí Minh trước khi xuất dương tìm đường cứu
nước.
Những tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng như Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ
cũng ảnh hưởng đến tư tưởng Người. Khi sang Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập năm
1776, Người tiếp thu và hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn ở châu Âu.
Cần nhấn mạnh rằng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh không phải đi ra nước
ngoài người mới biết đến. Tinh thần về quyền của người dân, quyền sống ở nước ta
đã có, Cụ Phan Bội Châu đã đề cập đến, Cụ Phan Chu Trinh thuộc phái dân quyền
hiểu rất rõ về dân chủ. Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã tặng Phan Chu Chinh câu thơ: “dân
quyền tiên tổ chức”. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã biết đến khái niệm dân quyền
khi còn ở trong nước. Trong quá trình bôn ba nước ngoài, Người biết đến “Thế kỷ ánh
sáng”, “Cách mạng Pháp” Người nghiên cứu, tiếp thu có phê phán những tư tưởng

9
dân chủ của phương Tây. Điều này thể hiện rõ khi Người viết bản Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và tinh thần của Hiến pháp năm
1946.

Sự tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin
Cần nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Lênin rồi mới đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Người viết “Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là
chủ nghĩa Lênin”. Người đến với chủ nghĩa Lênin vì “Luận cương” của Lênin nói tới
vấn đề thuộc địa. Chính chủ nghĩa yêu nước đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Lênin.
Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” Người viết: “Lúc bấy giờ, tôi
ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên… Tôi tham gia Đảng
Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông, bà” ấy… đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”. Năm 1920 là một bước ngoặt lớn đối với
cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính Người đã đến với
chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong thời gian hoạt động, Người tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về chủ nghĩa Mác-
Lênin, đặc biệt thời gian làm việc ở Liên Xô, Người đã hiểu khá sâu sắc về chủ nghĩa
Mác-Lênin và phong trào cộng sản quốc tế. Sự tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác-
Lênin là một định hướng quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh đi vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-
Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và
nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim
chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản". Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí
Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy
vật; học tập lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-
Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Người nhận thấy rằng, không phải chỉ dân tộc mình cần được giải phóng mà cần
giải phóng những con người cùng khổ. Người nhận ra mối quan hệ giữa cách mạng
thuộc địa với cách mạng chính quốc; mối quan hệ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với

10
cách mạng vô sản, rồi đi đến giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin trang bị thế
giới quan cách mạng, phương pháp luận duy vật biện chứng để Hồ Chí Minh tổng kết
lịch sử, tổng kết thực tiễn tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng
của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh


Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh còn chịu sự tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã sống
và hoạt động. Chính quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và
khi còn bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt động đã làm cho Người
có một hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn phương Đông để xem
xét, đánh giá và bổ sung cơ sở triết lý phương Đông cho học thuyết Mác - Lênin.
Có thể khẳng định rằng, rất ít nhà cách mạng có được quá trình hoạt động thực
tiễn phong phú như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một người dân mất nước, một nho sinh,
Người đã đi năm châu bốn bể, trải qua đủ thứ nghề từ dạy học đến làm bồi tàu…
Người đã đi qua nhiều nước, tiếp thu văn hóa của nhiều nền văn hóa khác nhau, thu
nhận ở mỗi nước một thực tiễn sinh động. Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê
bình tinh tường, Người có cách nhìn nhận độc đáo, khoa học. Những người khác đến
Hắclem thấy vòng nguyệt quế, thấy tượng thần tự do, song Người lại thấy những
người da đen ở cách tượng thần tự do rất xa. Người sang Anh quốc, cường quốc với
nền đại công nghiêp. Người trở lại nước Pháp, tới Pari. Người qua Trung Quốc, sang
Liên Xô. Quá trình bôn ba tìm chân lý cách mạng, tiếp thu và phát triển những giá trị
tiến bộ của các học thuyết, tư tưởngtrên thế giới, Người không ngừng học tập, bền bỉ
trau rèn nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại và vốn kinh nghiệm quý báu trong
đấu tranh của phong trào cách mạng trên thế giới.
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội, đời
sống văn hoá và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc
gia và thời đại mới để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực
tiễn, qua kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý luận có giá trị khách
quan, tính cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do Người
sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ
11
thuộc rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư duy của chính người
sáng tạo ra nó.
Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn hoá -xã
hội ở nước ngoài đã nêu nhiều ý kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng trí
tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo
Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết: "Từ
Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Âu châu, mà có lẽ là
một nền văn hoá tương lai"1. Văn hoá Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng toả
sáng theo dòng thời gian của dân tộc và thời đại.
Con người Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh là một yếu tố quan trọng tạo
nên tư tưởng của Người, phẩm chất cá nhân cao đẹp đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, Người tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa những tinh hoa của dân tộc
và nhân loại để làm giàu cho kho tàng tư tưởng của chính mình. Hồ Chí Minh là hình
ảnh của sự kết hợp đức từ bi, bác ái của đạo Phật, triết học của C.Mác và thiên tài
cách mạng của Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng trong việc
phản ánh bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài bão, có lý
tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân, khiêm
tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng, có
phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy, Người đã khám
phá sáng tạo về lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một
hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, đã vượt
qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt động thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các
quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng.

12
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại
ngày nay
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc gắn bó thông nhất với tư tưởng của
Người về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa thực dân - một trong những điều sỉ nhục lớn của loài người - đã đem
xiềng xích, áp bức, đói nghèo, ngu dốt, bệnh tật... đè nặng lên số phận của các dân
tộc nhược tiểu. Giành lại tự do, độc lập là khát vọng cháy bỏng của các dân tộc bị áp
bức trong thế kỷ XX. Hồ Chí Minh được coi là một trong những người tượng trưng
cho ý chí và khát vọng đó. Người đã nêu lên một chân lý nổi tiếng “Không có gì quý
hơn độc lập tự do.” Nhiều quốc gia độc lập đã thừa nhận ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp của cách mạng Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, tư tưởng “Không
có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn còn nguyên sức sống của nó. Độc lập dân tộc ở Hồ
Chí Minh luôn luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Độc lập dân tộc cùng với chủ nghĩa xã hôi là luận điểm trung tâm của tư tưởng
Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người
trong các thời kỳ và trên các lĩnh vực. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ
Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cách mạng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, cho nên con đường phát triển tất yếu của cách
mạng giải phóng dân tộc sẽ là tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng
định: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong Chính cương vắn tắt
do Người khởi thảo, đã khẳng định sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa khi đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, đặt nền tảng cho bước chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là tư tưởng lớn thể hiện tính
qui luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt Nam: chỉ có hoàn thành cách mạng giải

13
phóng dân tộc mới có điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội, và chỉ có làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa mới giữ vững những thành quả do sự nghiệp giải phóng dân tộc
mang lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng
hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam. Nắm được nội dung tư tưởng ấy, quán triệt đúng nguyên tắc chiến
lược ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp luận để hiểu được con
đường phát triển của cách mạng nước ta, đồng thời giúp hiểu rõ những nguyên nhân
sâu xa và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới hiện nay. Cũng trên cơ sở ấy hiểu
rõ vì sao Đảng ta lại kết hợp được và kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc ta và sức
mạnh của thời đại trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta. Chân lý độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh
được cách mạng Việt Nam vận dụng thành công đã khẳng định đó cũng là chân lý
lớn của thời đại.
Người nói: "Muốn biết ta tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào thì trước hết phải
biết chủ nghĩa xã hội là gì? Chủ nghĩa xã hội ở Người không phải những điều cứng
nhắc, xa lạ với lợi ích vật chất và tinh thần của con người, mà hết sức cụ thể và thiết
thực. Theo Người: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời
hạnh phúc”. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc
hậu. Về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ,
"một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng".
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là ”làm sao cho dân giàu, nước mạnh", "Mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do". Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí
Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ
nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người
dân từ chỗ có ăn, có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc.
Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm.
Tuy nhiên, chỉ có tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể
gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, là phải không ngừng nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện

14
nước ta, nhiều khi đời sống tinh thần, văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân
đi; văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Từ rất sớm,
ngay khi còn phải tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí
Minh đã nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa, của đời sống tinh thần. Người
cho rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần vì đó là lẽ sinh tồn và
mục đích cuộc sóng chúng ta. Sau này, trong kháng chiến ác liệt, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân
không yên”. Trong đời sống tinh thần thì hàng đầu là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Bởi vì chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự xây dựng lấy, đó là
công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Trong điều
kiện đó, chỉ có phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì mới có sáng kiến và động
lực. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ
tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”. Đảng cầm quyền nhưng dân là
chủ và để dân làm chủ. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, dân chủ là giá trị lớn nhất mà
cách mạng do Đảng lãnh đạo đem lại cho người dân. Vì vậy, dân chủ trong chế độ
dân chủ nhân dân đến chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là động lực vừa là mục tiêu của
cách mạng.
Một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là sự tăng trưởng kinh tế phải "gắn liền
với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân", trong
đó, con người mới xã hội chủ nghĩa được phát triển cả về thể lực, trí lực, đạo đức và
tinh thần. Tiến lên chủ nghĩa xã hội "là yêu cầu cấp bách của hàng chục triệu người
lao động. Đó là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng". "Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm".
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời cho
mong muốn chủ quan, duy ý chí của con người theo quan niệm duy tâm, không
tưởng, mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm duy
vật phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách
quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là
thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong
quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí

15
mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại.Đó là sự
vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc tư tưởng Mác-Lênin kết hợp với truyền thống
văn hóa Việt Nam, với khát vọng công bằng, bác ái của loài người…

Giá trị tư tưởng độc lập dân tộc và CNXH trong thời đại ngày nay
Đối với Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về
bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan
của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước
đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư
tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn
đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân Việt Nam đã thoát khỏi ách thống trị thực dân tàn bạo, giành được độc
lập, tự do, thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ phát huy tác dụng
trong giai đoạn Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc (1945-1954) mà còn xuyên suốt quá trình tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng khác nhau, nhưng có quan hệ khăng khít với nhau - cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc (giai đoạn 1954-1975) cũng như trong nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay,
nhân dân Việt Nam luôn luôn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo công cuộc đổi
mới và đã giành được những thành tựu đáng khâm phục. Lịch sử và hiện thực đã
chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền móng tư tưởng vững chắc dẫn Việt Nam đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử và nhân dân Việt Nam, là sự
bảo đảm căn bản của nhân dân Việt Nam có được cuộc sống độc lập, tự do, dân
chủ và hạnh phúc, văn minh.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những
thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ
16
nghĩa ở nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước
ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế,
cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục
tiêu. Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn
chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững
trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì
phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của
cuộc sống con người. Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt
được để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ,
công bằng xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải
qua.Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của
điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như
mong muốn của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã
hội là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân
để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày
nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

17
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa,
sẵn sang là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất
nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình
hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến
bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị
thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của
đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta
tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và
bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh
được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng
cao.
Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi
thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận,
Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh để
tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối, chủ trương, chính
sách cùng với bước đi và cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng nước
ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu
đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải đi trước một bước. Đảng ta cũng
khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải gắn kết với nhau, nhưng đổi
mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế và phục vụ cho tiếp tục
đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải
góp phần tăng cường ổn định chính trị. Thực tiễn những năm đổi mới đã mang lại
nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Kinh tế
đất nước đang ngày một phát triển, đời sống nhân dân được tăng lên đáng kể. Đất
nước đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Thắng lợi của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam

18
cho mọi hành động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn
đề không phải là bản thân lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận
thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh
và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào
chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp
mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Tất cả đều
đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cho
phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng sáng tạo
bản chất khoa học và cách mang của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày
càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới.
Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”.
Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp.
Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi
mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những
nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước, bởi chủ
nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện
chứng giữa thuộc tính khoa học và thuộc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có thể ngăn
cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng
ta nhận thức và vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh,
phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những
kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào

19
sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với
thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở
thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay
đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết
hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường
mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt
Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành
công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”.
1.1.1. Đối với thế giới
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa đang suy thoái và khủng hoảng. Sự khủng hoảng kinh tế từ nước Mỹ và
nhanh chóng lan ra cả thế giới làm bừng tỉnh con đường phát triển của nhân loại.
Bốn từ “chủ nghĩa xã hội” tưởng đã bị chôn vùi dưới đống gạch đổ của bức tưởng
Béclin từ năm 1989 thì nay lại được vang lên một cách mạnh mẽ không chỉ ở các
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà ở Vênêxuêla với trào lưu của chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI, ở Nêpan, Ấn Độ, v.v.. Cho dù phong trào xã hội chủ
nghĩa ở các nước Mỹ Latinh do Tổng thống Chavez đại diện và đề xướng đang
trong quá trình vận động, nhưng điều quan trọng cần được khẳng định là người ta
không coi chủ nghĩa tư bản là con đường duy nhất. Chavez chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư
bản không thể thực hiện được việc tự vượt qua chính mình, chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chính nghĩa và hòa bình mới vượt qua được chủ nghĩa tư bản... Chúng ta
không thể thực hiện được mục tiêu của mình trong chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng
không thể đi theo con đường trung gian. Chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội
thế kỷ XXI”. Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã khẳng định, “Sự
phát triển và tiến bộ của Trung Quốc hôm nay đã chứng minh chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có thể cứu Trung Quốc, chỉ có cải cách mở cửa mới có thể phát triển
Trung Quốc, phát triển chủ nghĩa xã hội, phát triển Chủ nghĩa Mác. Nhân dân
Trung Quốc có lòng tin, có khả năng kiến thiết đất nước mình, cũng có lòng tin,
có khả năng cống hiến cho thế giới”… Sự lựa chọn mục tiêu xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cách đây gần một thế kỷ đang
được nhân loại tiến bộ tiếp tục chứng minh và khẳng định giá trị chân lý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập và chủ nghĩa xã hội đang ngày càng
được biết đến rộng rãi trên thế giới. Di sản Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và

20
chủ nghĩa xã hội có giá trị thực tiễn không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà cả
đối với nhân loại trong thời đại ngày nay.
Hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc: xu thế lớn của
thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác cùng phát triển và chính
sách đối ngoại rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá của Việt Nam hiện nay là sự
vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại do Hồ Chí Minh khởi xướng từ năm 1947 là
Việt Nam “Làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai.” Hồ
Chí Minh đến với nhân loại tiến bộ bằng tình yêu đối với hoà bình và bằng việc tổ
chức nhân dân Việt Nam đấu tranh giành hoà bình và xây dựng quan hệ hữu nghị,
hợp tác, cùng phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và với cộng
đồng quốc tế. Là chiến sĩ kiên cường trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, hữu nghị giữa
các dân tộc, Hồ Chí Minh đã để lại những di sản có ý nghĩa lớn lao đối với thời đại
ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Việt Nam từ một dân tộc bị áp bức, sống
khổ cực trong chiến tranh đã trở thành một quốc gia hoà bình, độc lập, tự do và bình
đẳng, hữu nghị với cộng đồng quốc tế. Đây là câu trả lời cho tất cả các quốc gia đang
đấu tranh để có một nền hoà bình chân chính và là một Di sản nổi bật của Hồ Chí
Minh đối với thời đại ngày nay. Lời kêu gọi “không có gì quý hơn độc lập tự do” của
Hồ Chí Minh có thể coi như một bản Thông điệp sống động đối với các quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia kém phát triển, đa sắc tộc trước xu thế phát triển của thời đại:
cần có quyết tâm cao và tránh sự mất độc lập, tự chủ về đường lối. Bài học xương
máu là chỉ có hoà bình thực sự khi gắn hoà bình với độc lập và thống nhất dân tộc.
Những người từng đối thoại với Hồ Chí Minh đều tỏ lòng kính trọng đối với
“một con người mềm dẻo, kiên nhẫn, ôn hoà, luôn luôn tìm cách hoà giải về thể thức
chuyển hoá,” đều ca ngợi Hồ Chí Minh là “người luôn luôn biết giải quyết những
vấn đề khó khăn với nụ cười trên môi..
Hồ Chí Minh là người đã bắc những nhịp cầu hữu nghị, đẩy mạnh việc giao
lưu, tiếp xúc nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc - một cơ sở để
duy trì và củng cố hoà bình. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không ngừng giáo dục nhân dân về lòng yêu hoà bình và tình hữu nghị giữa
các dân tộc, biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.

21
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và
hợp tác rộng rãi của Việt Nam với thế giới trên mọi lĩnh vực. Suốt đời mình, Hồ Chí
Minh theo đuổi lý tưởng hữu ái, đoàn kết, thân thiện giữa các dân tộc, không phân
biệt chủng tộc và màu da.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, những bài học của
Hồ Chí Minh về phương pháp ứng xử nhân nhượng có nguyên tắc trong đấu tranh vì
hoà bình và trong quan hệ quốc tế thực sự là một di sản có giá trị để bảo vệ hoà bình
hiện nay.

Giá trị tư tưởng hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc trong thời đại
ngày nay
1.1.2. Đối với Việt Nam
Cùng với quá trình tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện ở trong nước
cách đây hơn 20 năm, Việt Nam kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế với phương châm Việt Nam là bạn, đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Với đường lối đối ngoại đúng đắn đó, quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã
không ngừng được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, vị thế quốc tế của Việt
Nam ngày càng được nâng cao. Đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn
170 nước và có quan hệ về kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 200 nước và
vùng lãnh thổ. Việt Nam tham gia ngày càng tích cực trên các diễn đàn khu vực và
thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển.
Trong các hoạt động đối ngoại, Việt Nam ưu tiên tạo dựng khuôn khổ quan
hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, các nước khu vực
nhằm tạo môi trường hoà bình, ổn định và các điều kiện thuận lợi cho phát triển
đất nước. Quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam –
Lào tiếp tục được củng cố. Quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia tiếp tục phát triển
theo khuôn khổ "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền
vững lâu dài"; đặc biệt hiệu quả hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư được nâng
cao. Quan hệ Việt - Trung có bước phát triển mới và toàn diện, khuôn khổ quan hệ
song phương được hoàn thiện, tăng thêm sự ổn định và tin cậy lẫn nhau. Kim
ngạch thương mại giữa hai nước năm 2006 đạt khoảng 10 tỷ USD. Hai bên quyết
tâm nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên mức 15 tỷ USD vào năm 2010.

22
Quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt của Việt Nam với các nước ASEAN tiếp
tục được củng cố và tăng cường.
Với Ấn Độ - một nước láng giềng trong khu vực và là nước lớn có quan hệ
hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với Việt nam, quan hệ giữa hai nước
trong những năm gần đây tiếp tục phát triển tốt đẹp. Trong chuyến thăm Ấn Độ
của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh năm 2003, hai nước đã ký Tuyên bố chung về
khuôn khổ hợp tác toàn diện Việt Nam - Ấn Độ bước sang thế kỷ 21. Quan hệ trên
các mặt kinh tế thương mại và đầu tư, an ninh - quốc phòng, giáo dục - đào tạo
tiếp tục phát triển. Chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam tới Ấn Độ trong tháng 7
này tiếp tục đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Việt Nam cũng đã chủ động thúc đẩy quan hệ với các nước lớn, các trung
tâm kinh tế - chính trị thế giới… Năm ngoái đã đánh dấu việc bình thường hoá
hoàn toàn quan hệ Việt - Mỹ với việc Quốc hội Mỹ thông qua quy chế thương mại
bình thường vĩnh viễn (PNTR) đối với Việt Nam. Các chuyến thăm lẫn nhau của
lãnh đạo cấp cao hai nước, đặc biệt là chuyến thăm chính thức Mỹ của Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết tháng 6/2007 vừa qua đã nâng quan hệ “đối tác xây
dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hai
bên cùng có lợi” lên một tầm cao mới trên nền tảng rộng lớn, ổn định và hiệu quả.
Quan hệ kinh tế, thương mại đầu tư giữa Việt Nam và Mỹ tiếp tục phát triển mạnh
mẽ, kim ngạch buôn bán năm 2006 đạt 9,7 tỷ USD, nhiều tập đoàn và công ty lớn
của Mỹ đã vào Việt Nam để tìm cơ hội và thỏa thuận đầu tư. Quan hệ giữa Việt
Nam và Nhật Bản được nâng lên một bước phát triển mới với việc hai nước thoả
thuận "hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở
Châu Á". Chính phủ hai nước nhất trí tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế -
thương mại, phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt 15 tỷ USD vào
2010. Quan hệ giữa Việt Nam và Nga cũng có nhiều khởi sắc mới. Trong chuyến
thăm chính thức Việt Nam nhân dịp dự Hội nghị Cấp cao APEC-14, Tổng thống
Pu-tin nhấn mạnh việc coi quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam là một trong
những hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ở khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương và khẳng định Nga sẵn sàng đầu tư mạnh vào Việt Nam trong thời
gian tới. Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) đã thoả thuận bắt đầu đàm phán
về Hiệp định hợp tác mới thay thế Hiệp định hợp tác khung ký năm 1995, mở
rộng hợp tác và tăng cường trao đổi về nhiều mặt. Nhiều nước EU cam kết tiếp tục
duy trì và tăng viện trợ ODA cho Việt Nam.

23
Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, Việt
Nam luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt
Nam với các nước bạn bè truyền thống, các nước khác ở Châu Á, Đông Âu, Cộng
đồng các quốc gia độc lập (SNG), Trung Đông, Châu Phi và Mỹ La-tinh; hợp tác
phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch,
lao động.
Cùng với các hoạt động ngoại giao song phương, ngoại giao đa phương
Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ. Trên các diễn đàn đa phương, Việt Nam ngày
càng đóng một vai trò tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế, khu
vực. Thành công của Năm APEC 2006 tại Hà nội đã ghi đậm dấu ấn của Việt
Nam với nhiều sáng kiến và đóng góp rất tích cực vào các văn kiện quan trọng
được thông qua tại Hội nghị, đặc biệt là Kế hoạch hành động Hà Nội thực hiện Lộ
trình Bu-san. Thành công của Tuần lễ Cấp cao APEC-14 năm ngoái, tiếp theo các
thành công của Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ lần thứ 7 (1997), ASEAN VI (1998)
và ASEM V (2004), đã thể hiện một bước phát triển mới của ngoại giao đa
phương Việt Nam, đồng thời phát đi một thông điệp mạnh mẽ tới thế giới và bạn
bè quốc tế về một Việt Nam đổi mới thành công, về chính sách đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, và chủ trương hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng của Việt Nam; về một hình ảnh Việt Nam năng động, có trách
nhiệm, an toàn, cởi mở và mến khách.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực phát huy vai trò và chủ động
tham gia, đóng góp nhiều sáng kiến xây dựng tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế đa
phương khác như Liên Hợp quốc, ASEAN… Đồng thời, Việt Nam cũng tăng
cường hợp tác vì lợi ích chung của các nước đang phát triển như trong phong trào
Không Liên Kết, Hợp tác Nam – Nam, Nhóm 77… Vị thế và uy tín của Việt Nam
tiếp tục được nâng cao với việc tất cả các nước trong Nhóm Châu Á ở Liên Hợp
quốc nhất trí đề cử Việt Nam làm ứng cử viên Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên Hợp quốc khóa 2008-2009. Đó là sự thừa nhận của cộng đồng
quốc tế về uy tín quốc tế của Việt Nam và về khả năng đóng góp đầy trách nhiệm
của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề an ninh-chính trị quốc tế quan
trọng.
Trong thời gian gần đây, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ. Năm ngoái, Việt Nam đã đạt những kỷ lục mới về kinh tế đối
ngoại: kim ngạch xuất khẩu đạt gần 40 tỷ đôla, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt

24
10,2 tỷ đôla và viện trợ phát triển chính thức đạt 4,445 tỷ đôla. Đặc biệt ngày
7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), một sân chơi kinh tế toàn cầu chiếm khoảng 90% dân số thế giới,
95% GDP và 95% giá trị thương mại của toàn thế giới. Việc gia nhập WTO là kết
quả tất yếu của quá trình đổi mới, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của
Việt Nam. Đây là bước hội nhập đầy đủ hơn và thực chất hơn của Việt Nam vào
kinh tế thế giới, đồng thời đánh dấu một mốc mới rất quan trọng trên con đường
hội nhập kinh tế quốc tế: từ hội nhập ở cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) đến
cấp độ liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) và đến cấp độ toàn cầu
hiện nay.
Những thành tựu đối ngoại mà Việt nam đã đạt được trong những năm qua
là dựa trên thế và lực mới của đất nước đã được nâng lên sau 20 năm thực hiện
thành công công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo. Các hoạt động đối ngoại hiệu quả đã góp phần vào những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử trong 20 năm qua của cả dân tộc Việt Nam.
Cùng với thế giới, Việt Nam đang vững bước tiến lên trong thập niên đầu
của thế kỷ 21, một thế kỷ đang mở ra những cơ hội to lớn cho các dân tộc cùng
nhau hợp tác và phát triển, nhưng đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều thách thức
do tình hình thế giới và khu vực không ngừng biến động và diễn biến khó lường.
Việt Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ "hòa bình, hợp tác và phát triển" vì nó
không những phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới mà còn đáp ứng lợi
ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Hòa bình, ổn định là điều kiện tiên quyết để
phát triển. Ngược lại, phát triển nhanh và bền vững sẽ tạo nền tảng vật chất để
củng cố hơn nữa môi trường hòa bình, an ninh. Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020, Việt
Nam sẽ kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác theo phương châm Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
1.1.3. Đối với thế giới
Thế giới hiện nay đang diễn ra cả hai tình hình tưởng như mâu thuẫn nhau
nhưng nó lại thống nhất trong một chỉnh thể. Đó là đấu tranh dân tộc và đấu tranh

25
giai cấp gay gắt và phức tạp với nhiều hình thức. Đồng thời, thế giới cũng đang
diễn ra một quá trình hợp tác xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và có thể coi đó là
xu thế chủ đạo trên thế giới hiện nay. Các quốc gia trên thế giới phải đang nhận
thức được trách nhiệm ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết hòa bình các tranh chấp
quốc tế, tích cực tìm giải pháp công bằng cho các cuộc xung đột, tạo các điều kiện
thuận lợi khác cho quan hệ hòa bình, hữu nghị giữa các nước và kiên quyết chống
chính sách chiến tranh, sử dụng vũ lực. Cùng với đó, các quốc gia đang tiếp tục
tích cực mở rộng hợp tác, tạo thêm những điều kiện quốc tế thuận lợi cho nỗ lực
của các nước đang phát triển trong việc xây dựng chính sách, nâng cao năng lực
quản lý của mình.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều đổi thay, diễn biến nhanh
chóng và phức tạp. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tuy đã có dấu hiệu hồi phục
nhưng còn diễn biến phức tạp, khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế; cách mạng khoa
học- công nghệ, hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới. Tuy
nhiên có một luận điểm xuyên suốt cần được phân tích kỹ lưỡng trên tinh thần
cách mạng, khoa học, thực tiễn, đó là di sản Hồ Chí Minh là một học thuyết đầy
sinh khí trong thời đại ngày nay.
Rô-mét Chan-đra, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới đánh giá ảnh hưởng
to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc
lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu
chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh
bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói
nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
Phong trào hòa bình thế giới đã học được những gì ở Hồ Chí Minh và nước
Việt Nam của Người? Một là tính chất chống đế quốc của phong trào hòa bình thế
giới đã trở nên sắc bén hơn nhờ đứng bên cạnh cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam. Hai là đứng bên cạnh cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và đứng bên
cạnh Hồ Chí Minh, phong trào hòa bình thế giới đã nhìn thấy rõ hơn bao giờ hết
sự gắn bó sống còn giữa cuộc đấu tranh vì độc lập và tự do, cuộc đấu tranh cho
chính nghĩa và cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Đứng bên cạnh cuộc đấu
tranh của nhân dân dân Việt Nam, chúng ta học được ở Chủ tịch Hồ Chí Minh sự
cần thiết phải kết hợp cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới, chống chiến tranh,
với cuộc đấu tranh để xây dựng một thế giới mới, trong đó chủ nghĩa đế quốc và
đói nghèo vĩnh viễn bị xóa bỏ”.

26
Về hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực ASEAN: các quốc
gia trong khu vực đang quyết tâm và nỗ lực tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt về
thúc đẩy hợp tác vì hoà bình, an ninh và ổn định ở khu vực đẩy mạnh đối thoại,
hợp tác và xây dựng lòng tin về các vấn đề hợp tác chính trị-an ninh khu vực; tiếp
tục thúc đẩy thực thi hiệu quả các cơ chế và công cụ hiện có vì hòa bình và an
ninh khu vực như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Hiệp ước về Khu vực
Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về cách Ứng xử
của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)…
Trong khu vực châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia quan trọng ở
châu Á. Láng giềng hữu nghị, hợp tác cùng có lợi, cùng phát triển giữa Trung
Quốc và Ấn Độ không chỉ có lợi cho 2,4 tỷ dân 2 nước mà còn có ảnh hưởng quan
trọng cho hoà bình và phát triển ở châu Á và thế giới. Nhận thức được tầm quan
trọng của hợp tác và phát triển, hai nước đã xuất phát từ tầm cao toàn cầu và chiến
lược, tăng cường bàn bạc và hợp tác trên các vấn đề quốc tế và quốc tế, cùng tạo
dựng môi trường khu vực hoà bình ổn định, bình đẳng tin cậy lẫn nhau, hợp tác
cùng thắng, thúc đẩy xây dựng thế giới hoà bình lâu dài, cùng phồn vinh và hài
hoà. Và thực tế đã cho thấy, những năm qua, quan hệ kinh tế - mậu dịch phát triển
nhanh chóng, giao lưu về quốc phòng và anh ninh đạt được những kết quả đáng
mừng. Hai bên đã triển khai trao đổi và hợp tác trên những vấn đề toàn cầu và khu
vực như thay đổi khí hậu, giá cả lương thực. Tăng cường hợp tác trên các vấn đề
quốc tế, mang lại hạnh phúc cho nhân dân hai nước, đóng góp cho hoà bình và ổn
định của thế giới.
Xu thế lớn của thời đại ngày nay là hòa bình, hợp tác và phát triển. Hồ Chí
Minh là hiện thân cho nền văn hóa hòa bình. Di sản của Người là một kho tàng
đầy của báu, xét đến cùng là những giá trị văn hóa. Một nét nổi bật trong di sản
văn hóa Hồ Chí Minh là thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Ngày ra đi
tìm đường cứu nước (5-6-1911), khám phá, tìm hiểu thế giới, Hồ Chí Minh gửi
thông điệp hội nhập thế giới. Hơn nửa thế kỷ sau, ra đi về cõi vĩnh hằng (2-9-
1969), Người lại mang theo khát vọng khôi phục khối đoàn kết các nước anh em
trên thế giới “có lý có tình, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”. Cho đến ngày hôm nay sau hơn 40 năm, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn
tồn tại và được phát huy không chỉ trên đất nước Việt Nam mà trên toàn thế giới.
Di sản Hồ Chí Minh không chỉ là hoà bình hữu nghị và tiến bộ ở Việt Nam mà

27
còn là tác động lớn lao của nó đối với sự nghiệp bảo vệ hoà bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển của toàn nhân loại trong thời đại ngày nay
Văn hóa, đạo đức, nhân cách trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa, đạo đức và nhân cách
Về đạo đức
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta
phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng. Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người coi đạo đức là nền tảng của người
cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
"Cũng như sông thò có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì".
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đề cao những phẩm chất đạo đức của người Việt
Nam trong thời đại mới mà cần phải có. Đó là “trung với nước, hiếu với dân”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của
nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước. Đó là
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. . Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
là một biểu hiện sinh động của phẩm chất "trung với nước hiếu với dân". Cần tức
là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của
cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch, không tham lam
tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức
tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm giống như một
chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là
gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới
là hoàn chỉnh. Đó là “thương yêu con người”. Hồ Chí Minh thương yêu con người
với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với
từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì
thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư

28
tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí
của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn
vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn
gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc
cho con người. Đó là “tinh thần quốc tế, trong sang, thủy chung”. Nội dung chủ
nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng
và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình
đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản
đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của
nhân dân thế giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết
quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo
một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.

Tư tưởng nhân văn


Tư tưởng nhân văn là trào lưu tư tưởng bàn tới con người. Mỗi thời đại,
mỗi giai cấp có sự nhìn nhận khác nhau về con người. Con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là đồng bào đồng chí, là người Việt Nam yêu nước, là già, trẻ, gái,
trai, miền xuôi, miền ngược... Hồ Chí Minh thương yêu những người nô lệ mất
nước, những người cùng khổ, giai cấp vô sản bị bóc lột, những thanh niên chết vô
ích ở Việt Nam dù họ là da trắng, da đen, người Pháp hay người Mỹ. Bởi vì "máu
nào cũng là máu; người nào cũng là người". Những dòng máu đó đều quý như
nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đó là lý tưởng
chính trị, lý tưởng đạo đức và cũng là lý tưởng nhân văn của Người. Đối với Hồ
Chí Minh, giải phóng con người trước hết là giải phóng họ khỏi những tai hoạ do
cái đói, cái rét, cái dốt gây nên. Cuộc chiến đấu đó không thể tách rời cuộc chiến
đấu để giải phóng dân tộc. Chỉ có thoát khỏi thân phận nô lệ, mỗi con người mới
lấy lại được phẩm giá làm người. Hơn nữa, đó còn là cuộc chiến đấu vì hoà bình
và tình hữu nghị giữa các dân tộc, vì sự giải phóng của toàn nhân loại. Đó chính là
giá trị của nhân văn, một chủ nghĩa nhân văn hành động, chủ nghĩa nhân văn chiến
đấu, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người,
"không có một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quý
29
trọng sức dân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất
nhỏ". Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc
với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành
nghiêm minh pháp luật.
Lòng thương yêu con người ở Hồ Chí Minh theo tinh thần làm cho nước
nhà hoàn toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, được học hành, chữa bệnh... Đó là triết lý nhân văn hành động: ở đời và làm
người thì phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức và đấu
tranh nhằm đem lại hạnh phúc, tự do cho con người.
Hồ Chí Minh có lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh và tính chủ động sang tạo
của quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì Chính phủ
không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn
đường. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết.
Nhận thức như vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách
mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện
được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng
nhân dân.
Tin dân ở Hồ Chí Minh còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Theo
Người, con người có tốt, có xấu, nhưng "dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều
có tình". Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ. Hồ Chí
Minh xem xét con người trong tính đa dạng của nó, nên dù "có thế này, thế khác"
nhưng vẫn tin ở họ. Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần
chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Ở chủ tịch Hồ Chí Minh tỏa ra
một lòng khoan dung rộng lớn. Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống
"thương người như thể thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại",
Người có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh. Khi cán
bộ, đảng viên có lỗi, Người chú ý giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ
con người, hướng con người tới chân - thiện - mỹ. Người luôn trân trọng mọi ý
kiến khác nhau, kể cả những ý kiến không đồng tình, trái với suy nghĩ của Người.
Theo Quan điểm của Hồ Chí Minh, con người phải được đặt vào vị trí
trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo
nghĩa hẹp.Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có

30
những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải
do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu
là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ
bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công
việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây
dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây
là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội
chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn
bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền
thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm
chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Hồ Chí
Minh quan niệm"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người".
Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện
pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai
tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ
Chí Minh nói về vai trò của giáo dục: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì
dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc
ngoại xâm, giặc nội xâm. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả
đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã
hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời
nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa
nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... Có như vậy mới có thể "học để làm
người". "Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội "một sớm
một chiều", không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu
hay đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong
suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện vô cùng đa dạng và phong
phú, nó thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người, được toả sáng
trong từng việc làm, từng cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đối với mỗi con

31
người; tất cả đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm
tin vào khả năng cải tạo của con người, dù cho họ có nhất thời lầm lạc. Bằng hành
động và ứng xử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo
lý làm người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình nghĩa. Chủ nghĩa
nhân văn là bản chất cốt lõi, là kết tinh của văn hoá.

Về văn hóa
Văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là
thuộc về kiến trúc thượng tầng.
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến (kinh viện, xa thực tế, coi
sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức...) và nền giáo dục thực dân (ngu dân,
đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát). Người quan tâm xây dựng nền giáo
dục mới của nước Việt Nam độc lập. Nền giáo dục này được hình thành từ những
năm hai mươi, thực sự ra đời từ Cách mạng Tháng Tám thành công và phát triển
cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo
dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nógóp phần làm cho
dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục là một mặt
trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa
bằng giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp;
mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con
người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự
nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập
kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ,
bình đẳng trong giáo dục; học dốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo
lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.
Văn nghệ là mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn
nghệ cách mạng. Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, vì vậy, cần có lập trường vững, tư tưởng
đúng đắn, đặt lợi ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. Tác
phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá trị truyền
thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại; vừa phải ca ngợi cái chân thật
người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. Những tác phẩm như
32
vậy vừa làm gương mẫu cho các thế hệ hôm nay, vừa giáo dục nhắc nhở con cháu
đời sau.
Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới
giành được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng
sôi nổi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Văn hóa đời
sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp
sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì, có dựa trên nền
đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới
lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.

Giá trị văn hóa, đạo đức nhân cách trong thời đại ngày nay
1.1.4. Đối với Việt Nam
Nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách của một vĩ nhân không chỉ ở tầm
dân tộc, mà ở tầm thời đại, tầm nhân loại. Chính vì thế, Người đã được thế giới
tôn vinh là danh nhân văn hóa. Trong thế giới biến động như hiện nay thì nhân
cách trong sáng, thanh tao của Hồ Chí Minh lại càng nổi cao vời vợi.
Chúng ta đang nghiên cứu để hiểu sâu hơn di sản Tư tưởng, Đạo đức Hồ
Chí Minh nhằm kế thừa, vận dụng và phát triển vào hoàn cảnh hiện nay, khi
chúng ta đang thực hiện đổi mới và mở cửa... Có thế nói, nhiều người trong
chúng ta, kể cả một số cán bộ, đảng viên và người có chức, có quyền, đã thực
hiện không tốt, thậm chí lãng quên nhiều bài học vỡ lòng cơ bản mà Hồ Chí
Minh nêu lên ngay từ những ngày đầu sau khi cách mạng Tháng Tám thành công
và không ngừng nhắc lại cho đến khi Người sắp qua đời. Học lại và nhất là thực
hiện cho tốt những bài học ấy là trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức của
tất cả chúng ta từ các đồng chí Trung ương đến mọi người dân bình thường, để
khẩu hiệu "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại"
không phải là một câu sáo rỗng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn
hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Trung
ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải
xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." và khẳng định rằng:
"Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
33
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước,
trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình". Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Kết luận của Hội nghị Trung ương
10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ
chức đảng và nhà nước. Trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành
lập Đảng, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng yêu cầu phải phấn đấu để mỗi tổ
chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều là "một tấm gương văn hóa
trong xã hội"
Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây
dựng văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được
tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết
phải xây dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của
Nhà nước...
Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vừa đề cập, ta càng thấy rõ
vai trò quan trọng biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong
Đảng nói riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc
biệt nhấn mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".
Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với
mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là
những phẩm chất trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là không bao giờ cũ. Nếu có
cái gì gọi là cũ thì đó chính là nhận thức của chúng ta về các lời dạy của Bác
không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói
mà không đi đôi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong
Đảng, nhất là đời sống về đạo đức, có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng được tình trạng suy

34
thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ
thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi cán bộ, đảng viên
chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh.
1.1.5. Đối với thế giới
Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trên
nhiều lĩnh vực khác về xây dựng con người và văn hóa... Trong bối cảnh mới, tư
tưởng của Người mang ý nghĩa và giá trị mới.
Có thể nói, chưa bao giờ thế giới lại diễn ra nhiều nghịch lý như hiện nay.
Thế giới càng giàu lên thì sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc. Chính
nghịch lý đó đang tạo ra những khủng hoảng về niềm tin, về tâm lý, dẫn đến nhiều
tệ nạn xã hội như một tất yếu ở các nước được xem là văn minh, vào chính con
người ở ngay các nước giàu có nhất. Trớ trêu thay, cái thế giới văn minh như đã
thấy khiến con người có đủ mọi thứ, thực hiện được mọi ước mơ mà trước kia chỉ
là huyền thoại lại vẫn có vô số sự bất công, vô số người mất lòng tin đã tìm đến
cái chết để trốn tránh cuộc đời. Trớ trêu thay, chính ở những nước có nền kinh tế
phát triển, có nhiều người là tỷ phú đô-la, lại nảy sinh hiện tượng khủng hoảng về
lẽ sống, phải tìm đến những cách sống xa lạ trái với tự nhiên. Phải chăng, đó cũng
chính là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức khi con người chỉ hướng vào "cái tôi"
thuần túy, chạy theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, về đạo đức mới đang có ý nghĩa định hướng cho
con người hành động, cho con người thấy hướng đi đúng đắn.
Thế giới đã và đang nhắc tới một chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Hồ Chí
Minh trong bối cảnh mới. Người ta tìm về Hồ Chí Minh như một giá trị “bất biến”
trong một thế giới đầy “vạn biến”. Thế giới ngày nay vẫn đầy rẫy bất công, vô
nhân đạo, sự ích kỷ và ham muốn cá nhân. Giáo sư Sử học Ấn Độ Xanti Mauroi
nhận xét có lý rằng: “Ngày nay nhân loại đang ở ngã tư đường một sự xáo động
mãnh liệt khác. Nhân loại đói khát, bị tước đoạt, bị áp bức, đang kinh hoàng nhìn
cuộc diễu hành huyênh hoang của phồn vinh và giàu có, bị chà đạp bởi sự giả
nhân giả nghĩa xã hội ghê gớm, đi liền với cuộc cách mạng kỹ thuật khổng lồ đã
tạo nên cho loài người vô vàn quyền lực, của cải và ảnh hưởng, nhưng lại không
có sự tiến bộ tinh thần tương ứng và các giá trị nhân đạo phổ biến là cái gắn bó
loài người thành một khối đoàn kết anh em vững chắc từ buổi bình minh của văn

35
minh. Nhân loại dần dần đang nhường bước cho sự xuất hiện tàn nhẫn của ham
muốn cá nhân, ích kỷ để thống trị như chưa hề thấy. Chính sự xuyên tạc các giá trị
nhân đạo đã làm nảy sinh những sự thiên lệch nghiêm trọng khác, xa rời con
đường biến đổi cách mạng về xã hội và văn hóa số phận con người xung quanh ta.
Điều cần đến là một cuộc nổi dậy về đạo đức, một sự phục hưng mới chống lại
quá trình bất ổn định phi nhân tính này- ít nhiều nổi bật khắp thế giới. Ở giữa cơn
khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời
đại như Lênin, Hồ Chí Minh và Găngđi là những người đã để lại những dấu ấn
không thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều
biến động”.
Nơi này, nơi khác người ta vẫn đang tiếp tục tìm hiểu Hồ Chí Minh là nhà
dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ những dòng sau
đây của các loại chính kiến khác nhau thì chúng ta sẽ thấy có những giá trị còn lớn
hơn thế. Năm 1983, để chuẩn bị cho sự ra đời của tác phẩm loại từ điển tiểu sử
mang tên Văn hóa thế kỷ XX (XX Centurry culturre) do Alan Bullock và R.B
Wodinger chủ biên (Do Harper and Row xuất bản năm 1983), 300 nhà khoa học
trên thế giới đã được hỏi ý kiến để bình chọn danh nhân văn hóa thế kỷ XX. Hồ
Chí Minh, với những tiêu chí được xác định, đã được 300 nhà khoa học chọn là
một nhân vật tra cứu trong công trình đó. Trong các cuộc thảo luận, 300 nhà khoa
học nhất trí cho rằng: “Hồ Chí Minh là nhà mácxít hay nhà Nho, điều đó không
quan trọng. Hồ Chí Minh là người cộng sản hay là người dân tộc chủ nghĩa, điều
đó không quan trọng. Chỉ cần biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc- người yêu
nước- thế là đủ để xếp ông vào hàng danh nhân văn hóa thế kỷ XX. Vì Hồ Chí
Minh là người khởi xướng và giương cao ngọn cờ giải phóng các dân tộc thuộc
địa và trở thành người dẫn đường chủ chốt được mặc nhiên thừa nhận và kính
trọng của châu Á và của thế giới thứ ba”.
Nhân loại sống trong thế kỷ XXI có sứ mệnh tiếp tục kế thừa và phát triển
nhiều giá trị trong thế kỷ XX, một trong số đó là giá trị nhân văn. Hồ Chí Minh là
người cộng sản được cả thế giới ngưỡng mộ vì có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc.
Étmông Misơlê (Edmond Michelet), Bộ trưởng các quân Pháp, nhận xét về Hồ
Chí Minh: “Đó là một người cộng sản theo lý tưởng... Tôi thấy ông dường như
luôn luôn chịu ảnh hưởng của tác giả lớn của ông là Mác, chắc chắn là cả Lênin
nữa... Nhưng trong ông có Giôrex (Jaurès)... Ông là người đã chọn chủ nghĩa cộng
sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc... Tôi cho là trong thế

36
giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng
cộng sản chủ nghĩa, phải!... nhưng trong tự do”. Một đại biểu Mỹ đã phát biểu
trong Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu
chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận
được”
Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất là những trí
thức lớn, những chính khách giàu lòng bác ái, đã từng ca ngợi và bày tỏ sự khâm
phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng, có thể nói, trong bối
cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen những thời cơ và thử
thách, những tiêu cực và tích cực, những nghịch lý... thì ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết.

37
KẾT LUẬN
Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong khối óc và trái
tim cửa người Việt Nam của dân tộc Việt Nam. Giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong
tư tưởng của Người đã có tầm ảnh hưởng rất lớn tới dân tộc Việt Nam nói riêng và các
dân tộc yêu hòa bình trên thế giới nói chung.
Tính khoa học đúng đắn và tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, tư tưởng Hồ Chí Minh
càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa
của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào vô hạn của mỗi chúng ta. Dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân ta càng vững tin vào
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, theo mục tiêu "dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Mỗi người Việt Nam hãy học tập, vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân
tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới, trong thời đại mới, sánh vai với các nước tiên
tiến trên thế giới.
Không phải là không có lý khi người ta cho rằng: thế giới đã thay đổi và kiểu tư
duy tuyến tính không con thích hợp với một thế giới phi tuyến. Không có một bản đồ
vạch sẵn cho con đường phía trước. Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp
truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Vì thế, sáng tạo
và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động phải là phẩm chất hàng đầu của con
người Việt Nam đang sống trong thế kỷ XXI. Để có được phẩm chất đó, đỏi hỏi phải có
“sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động
và thực tế đời sống”. Để làm được điều đó, phải biết khai thác cái lợi thế vô song của
chúng ta, đó là uy tín của tên tuổi và sự nghiệp, tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh – anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá mà thế giới từng biết và đã tỏ
lòng ngưỡng mộ. Mỗi người dân Việt Nam cần phải có ý thức giữ gìn, học tập và tiếp tục
phát huy những thế lợi ấy để xây dưng đất nước ta ngày càng giàu đẹp hơn như Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu mong đợi.

38
39

You might also like