Professional Documents
Culture Documents
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để phục vụ cho các mục tiêu vĩ mô, trong một thời gian dài tỷ giá hối đoái
được Nhà nước giữ ở mức ổn định tương đối, biến động tỷ giá không ảnh
hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh, khiến các doanh nghiệp chưa
quan tâm nhiều đến rủi ro tỷ giá. Nhưng tình hình đã thay đổi khi kinh tế
Việt Nam chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, với những cải cách
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Để ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa,
hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều chính sách đã được đề ra trong đó có
việc NHNN liên tục nới rộng biên độ tỷ giá. Cơ chế này cùng với sự biến
động chung của kinh tế toàn cầu đã khiến cho tỷ giá biến động tương đối
trong khoảng 2 năm gần đây. Cơ chế càng linh hoạt thì rủi ro tỷ giá càng lớn
và hiện tại rủi ro tỷ giá đang được đánh giá là một trong 5 áp lực chính mà
doanh nghiệp phải đối mặt trong kinh doanh bên cạnh chính sách thuế, môi
trường cạnh tranh, năng lực vốn, biến động thị trường. Do đó công tác quản
lý rủi ro tỷ giá được đặt ra như là một nhu cầu cần thiết tất yếu đối với các
doanh nghiệp có hoạt động thu chi bằng ngoại tệ.
II. CÁC TRƯỜNG HỢP CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TỶ GIÁ
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong
tương lai.
Mọi hoạt động mà dòng tiền thu vào phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi dòng tiền chi ra
lại phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Về cơ bản rủi ro
tỷ giá phát sinh trong 3 hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là hoạt động đầu tư, hoạt động xuất
nhập khẩu và hoạt động tín dụng. CT 2
- Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với công ty đa quốc gia
(multinational corporations) hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng
hoá trên bình diện quốc tế. Lý do là vốn đầu tư và doanh thu được tính bằng các loại đồng tiền
khác nhau.
Ví dụ: một công ty nước ngoài đầu tư sản xuất nước giải khát tại VN có vốn bỏ ra bằng
ngoại tệ để thiết lập nhà máy và nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất, như vậy phần lớn các chi
phí của công ty này đều phát sinh từ ngoại tệ. Hàng hóa sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
trong nước, do đó doanh thu lại chủ yếu bằng VND. Nếu tỷ giá tăng thì chi phí sản xuất gia tăng
tương đối so với doanh thu làm cho lợi nhuận giảm đi thậm chí còn có thể làm đảo lộn kết quả
kinh doanh.
- Rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập là loại rủi ro tỷ giá thường xuyên gặp phải và đáng
lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt động xuất nhập khẩu mạnh. Sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ so
với nội tệ làm thay đổi giá trị kỳ vọng của các khoản thu hoặc chi ngoại tệ trong tương lai khiến
cho hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng đáng kể.
Ví dụ: Tổng Công ty May 10 ký hợp đồng xuất khẩu trị giá 500.000USD ngày 08/05/2007, hợp
đồng được thanh toán sau 6 tháng kể từ ngày ký - 08/11/2007. Tại thời điểm ký kết tỷ giá
USD/VND = 16.200. Vào ngày thanh toán tỷ giá USD/VND = 16.000, như vậy cứ mỗi USD xuất
khẩu công ty bị thiệt 200VND. Toàn bộ hợp đồng trị giá 500.000USD, công ty bị mất 10 triệu
VND. Khoản tiền này không phải là lớn với 1 hợp đồng nhưng nếu tính chung cho toàn bộ
hoạtđộng xuất khẩu của công ty với vài ba trăm hợp đồng thì đó là một con số không nhỏ.
- Hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng bằng ngoại tệ cũng chứa đựng rủi ro tỷ giá rất lớn.
Khoản nợ có thể trở nên trầm trọng hơn khi tỷ giá biến động.
Ví dụ: Công ty ABC xin vay vốn ngân hàng VPBank với số tiền 2 triệu USD, lãi suất 5,5%/năm
trong thời hạn 1 năm. Như vậy sau 1 năm số tiền mà công ty phải trả nhà băng là 2(1 + 0,055) =
2,1 triệu USD, tại thời điểm hiện tại với tỷ giá USD/VND = 16.000, tương đương 33.600 triệu.
Nhưng nếu 1 năm sau tỷ giá USD/VND = 16.200 thì khoản tiền phải trả tương đương 34.020
triệu VND. Như vậy công ty phải trả thêm 420 triệu so với dự tính ban đầu.
Như vậy, mức độ rủi ro tỷ giá phụ thuộc vào biến động tỷ giá nhiều hay ít, giá trị hợp đồng hay
giá trị khoản thu chi lớn hay nhỏ.
III. THỰC TRẠNG RỦI RO TỶ GIÁ TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Rủi ro tỷ giá hối đoái luôn tồn tại và nó là một nhân tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua còn chưa quan tâm đến tác
động này, vì tỷ giá vẫn được Nhà nước “bảo hộ”. Mặc dù đồng USD có nhiều biến động trên thị
trường thế giới nhưng trong một thời gian dài tỷ giá tại Việt Nam được giữ ở mức ổn định tương
đối với biến động bình quân 1 năm chỉ khoảng 1%. Sự ổn định đó làm mờ nhạt đi những rủi ro về
tỷ giá, thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngay cả khi đồng USD là đồng tiền chiếm
khoảng 80% trong thanh toán. CT 2
Khi mà quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên sâu rộng và thực chất
thì hội nhập về tỷ giá là điều không thể tránh khỏi. Sự “bảo hộ” tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước
trong tương lai sẽ dần nới lỏng.
Cơ chế tỷ giá từng bước được thả nổi đã dần hiện hữu khi vào cuối năm 2005 Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) chính thức công nhận VN thực hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai.
Năm 2006, thị trường ngoại hối của Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới (WB)
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đã sớm cảnh báo về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần
tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn. Sự
can thiệp về tỷ giá hối đoái kịp thời sẽ góp phần giảm áp lực trong điều hành tiền tệ của NHNN.
Do đó, việc nới rộng biên độ tỷ giá là yêu cầu tất yếu. Nếu quan sát thường xuyên những diễn
biến phương thức điều hành tỷ giá của NHNN trong khoảng thời gian gần đây, chúng ta dễ cảm
nhận về một sự chuyển động khá âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ.
Cụ thể:
- Ngày 1/7/2002 biên độ tỷ giá được mở rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% ,
- Ngày 2/1/2007, tức là sau khoảng 5 năm không thay đổi, biên độ tỷ giá được mở rộng lên
thành +/-0,5%,
Ngày 24/12/2007, cách lần thay đổi gần nhất gần 1 năm, biên độ tỷ giá được điều chỉnh lên
thành +/- 0,75%,
- Sau đó hơn 2 tháng, ngày 10/3/2008 vừa qua, biên độ lại được đưa lên mức +/-1%.
Sự can thiệp của Nhà nước vào tỷ giá rõ ràng là ngày càng suy giảm và dường như đang theo một
cơ chế truyền động có chủ đích để tiến tới bước đi cuối cùng là xóa bỏ tỷ giá bình quân liên ngân
hàng. Đây có lẽ chính là điểm khởi sự đầu tiên cho một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý một
cách thực chất, theo hướng tỷ giá phải linh hoạt hơn nữa theo khuyến cáo của IMF và phù hợp
với việc Việt Nam là thành viên của WTO.
Khi cơ chế tỷ giá linh hoạt, thì rủi ro tỷ giá sẽ xẩy ra thường xuyên hơn, mức độ ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ lớn hơn. Thời gian gần đây trên báo chí những tiêu đề như “ảnh
hưởng của biến động tỷ giá” hay “khó khăn về tỷ giá”, “thiệt đơn thiệt kép vì USD”... xuất hiện
ngày càng nhiều hơn. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của biến động tỷ giá đã bắt đầu được các
doanh nghiệp quan tâm. Nhằm đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các ngân hàng và
các thành viên tham gia thị trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa biến động tỷ
giá.
V. KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế mở, rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Vấn đề là doanh nghiệp phải kịp thời nắm bắt, phân tích nguyên nhân biến động tỷ
giá, làm tốt công tác dự báo tỷ giá, trên cơ sở đó lựa chọn các giải pháp quản lý rủi ro tỷ giá phù
hợp, hạn chế đến mức thấp nhất tác động từ biến động tỷ giá, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
ổn định, bền vững của mình. Những giải pháp trình bầy trên là tư liệu hữu ích giúp doanh nghiệp
thực hiện có hiệu quả việc hạn chế rủi ro của biến động tỷ giá.