You are on page 1of 66

Tóm tắt nội dung công trình

Đề tài nghiên cứu khoa học “Ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng” của nhóm tác giả
chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề ứng dụng thương mại điện tử (TMĐT)
và công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng. Nội dung của đề tài gồm ba chương. Chương một:
“Tổng quan về thương mại điện tử”, trong chương này nhóm tác giả tập trung
tìm hiểu và giới thiệu khái niệm, các loại hình giao dịch TMĐT, lợi ích cũng
như những trở ngại mà các doanh nghiệp đã, đang và sẽ gặp phải khi tham gia
ứng dụng TMĐT. Chương hai: “Hiện trạng ứng dụng TMĐT của các doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng”, giới thiệu về Bát Tràng một làng nghề thủ công
nổi tiếng lâu đời ở Việt Nam. Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh gốm sứ
của nước ta đang lâm vào tình trạng khó khăn, các doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của TMĐT và mạnh dạn đầu
tư xây dựng website riêng cho công ty nhằm tìm kiếm các đơn đặt hàng từ
nước ngoài. Nhóm tác giả đã đánh giá những thành công mà các doanh
nghiệp đạt được và những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp phải đối
mặt trong lĩnh vực kinh doanh còn mới mẻ này. Chương ba “Một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh tại các
doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng”, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp cụ thể
đối với Nhà nước, hiệp hội gốm sứ Bát Tràng và các doanh nghiệp gốm sứ
Bát Tràng trong việc ứng dụng TMĐT nhằm đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra nhóm tác giả còn đề xuất xây dựng chiến lược ứng dụng TMĐT hiệu
quả cho các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng. Chiến lược mang tính chất lâu
dài bao gốm nhiều giai đoạn và cần có sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước,
hiệp hội và bản thân các doanh nghiệp.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1

Chương I. Tổng quan về Thương mại điện tử 4


I. Khái niệm 4
1. Khái niệm hẹp 4
2. Khái niệm rộng 5
II. Các loại hình giao dịch Thương mại điện tử 6
1. B2B (business to business) 7
2. B2C (business to customer) 7
III. Lợi ích của thương mại điện tử 8
1. Thu thập được nhiều thông tin 8
2. Giảm chi phí sản xuất 9
3. Giảm chi phí bán hàng, tiếp thị và giao dịch 9
4. Xây dựng quan hệ với đối tác 10
5. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức 10
IV. Những trở ngại đối với doanh nghiệp Việt Nam khi 10
ứng dụng TMĐT
1. An ninh, an toàn trong giao dịch 11
2. Thanh toán điện tử 12
3. Nhận thức xã hội 13
4. Môi trường pháp lý 14
5. Nguồn nhân lực CNTT 15

Chương II. Hiện trạng ứng dụng TMĐT của các doanh 17
nghiệp gốm sứ Bát Tràng
I. Tổng quan về làng gốm Bát Tràng 17
1. Lịch sử làng nghề và dân cư 17
2. Sản phẩm 18
3. Hoạt động sản xuất kinh doanh 20
II. Sự cần thiết phải ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh 23
doanh của các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng
III. Hiện trạng ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp gốm 25
sứ Bát Tràng

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
1. Thực trạng 25
2. Đánh giá 34
2.1. Những mặt tích cực 34
2.2. Những hạn chế 34
2.3. Xác định nguyên nhân 36

Chương 3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc ứng 40


dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh tại các doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng
I. Phương hướng phát triển kinh doanh gốm sứ Bát Tràng 40
II. Giải pháp cụ thể 41
1. Doanh nghiệp 41
2. Hiệp hội gốm sứ 50
3. Nhà nước 52
4. Đề xuất của nhóm tác giả 54

Kết luận 60

Phụ lục
Phụ lục 1. Website các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng i
Phụ lục 2. Mẫu phiếu điều tra của nhóm tác giả vi
Phụ lục 3. Tổng kết kết quả điều tra viii
Phụ lục 4. Hình ảnh làng nghề gốm sứ Bát Tràng xi
Phụ lục 5. Một số sản phẩm của làng nghề xv
Danh mục Tài liệu tham khảo xviii

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
MỤC LỤC BẢNG, HÌNH VÀ ĐỒ THỊ

Bảng 1: Đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng 11
dụng TMĐT
Bảng 2: Đánh giá nội dung website của các doanh nghiệp 28
Bát Tràng

Hình 1: Tỷ trọng tiền mặt so với Tổng phương tiện thanh toán 13
Hình 2: Kim ngạch xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ và dân dụng 23
(không tính gốm sứ xây dựng) 5 tháng đầu năm 2008.
Hình 3: Website www.quangvinh.com.vn 30
Hình 4: Form Chọn sản phẩm tại www.quangvinh.com.vn 30
Hình 5: Form tính Cước phí vận chuyển tại 31
www.quangvinh.com.vn
Hình 6: Hình ảnh sản phẩm tại www.quangvinh.com.vn 31
Hình 7: Website www.minhlong.com 43
Hình 8: Hình ảnh sản phẩm tại website www.minhlong.com 44

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-1-

LỜI NÓI ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài


Bát Tràng từ lâu đã được biết đến là một làng nghề thủ công nổi tiếng
và lâu đời với trên 500 năm tuổi, thuộc địa giới hành chính huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội. Trong vài năm trở lại đây, làng nghề đã có những khởi sắc
đáng kể. Nhờ những nỗ lực từ phía địa phương và hỗ trợ của nhà nước, cùng
động lực nền kinh tế thị trường, Bát Tràng không chỉ thành công trong việc
khôi phục lại làng nghề truyền thống, mà còn hứa hẹn tiềm năng phát triển
kinh tế cho địa phương dựa vào chính những sản phẩm gốm sứ của mình.

Nhắc đến Bát Tràng không thể không nhớ tới những sản phẩm gốm sứ
tinh xảo cùng chất men tuyệt hảo được truyền lại từ đời này qua đời khác.
Men ngọc, men rạn, men gio, men lam… là những lớp áo tuyệt mỹ khoác lên
những sản phẩm Bát Tràng mang đậm hồn đất, hồn cát. Du khách nước ngoài
đến với Bát Tràng vô cùng thích thú trước vẻ đẹp của những tác phẩm gốm
nơi đây. Bắt kịp với nhu cầu của thị trường nước ngoài mới mẻ đầy tiềm
năng, Bát Tràng đã và đang đẩy mạnh việc xuất khẩu sản phẩm của mình.
Nhiều doanh nghiệp nhạy bén đã nhanh chóng nắm lấy cơ hội, xúc tiến tìm
kiếm đơn đặt hàng nước ngoài, mở rộng thị trường cho gốm Việt nói chung,
gốm Bát Tràng nói riêng. Tuy nhu cầu của thị trường thế giới đối với sản
phẩm gốm sứ đẹp nổi tiếng như Bát Tràng là vô cùng triển vọng, nhưng việc
tiếp cận với thị trường đó như thế nào, bằng cách nào vừa nhanh, lại vừa
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất dường như vẫn là một vấn đề khó đối với
các doanh nghiệp gốm sứ hiện nay.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-2-

Thương mại điện tử là hình thức kinh doanh ngày càng mở rộng và phổ
cập trên toàn cầu. Quảng bá, giới thiệu sản phẩm qua mạng điện tử, thậm chí
bán hàng, thanh toán, chuyển khoản qua hệ thống toàn cầu đó đang dần trở
thành xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng của Việt Nam cũng đã sớm nhận ra những tác dụng to lớn mà TMĐT
mang lại. Trong vài năm gần đây, các trang web của họ lần lượt ra đời. Tuy
nhiên, những trang web này chưa mang lại hiệu quả kinh tế cho các doanh
nghiệp dẫn đến tình trạng một số trang web đã phải ngừng hoạt động. Hiện
nay nước ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, vì vậy, hoạt
động thương mại quốc tế sẽ ngày càng phát triển. Thị trường nước ngoài sẽ là
các thị trường hết sức tiềm năng đối với các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng.
Việc xây dựng và phát triển các hoạt động TMĐT trở thành ưu tiên hàng đầu
hiện nay.

Do tính cấp thiết của vấn đề, nhóm chúng tôi xác định đề tài nghiên
cứu là: “Ứng dụng Thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng”. Trong đó, nhóm nghiên cứu xin chỉ ra
những vấn đề nổi cộm trong việc nhận thức và ứng dụng TMĐT của các
doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng thông qua tìm hiểu thực tiễn, thu thập số liệu,
phân tích, tổng hợp vấn đề. Song song với đó, chúng tôi xin được đưa ra một
số biện pháp và kiến nghị với hy vọng sẽ góp phần giải quyết được phần nào
những vấn đề nan giải đang đặt ra trước mắt ngành kinh doanh gốm sứ Bát
Tràng hiện nay.

II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

· Đối tượng: việc ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh.

· Phạm vi nghiên cứu: các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-3-

III. Phương pháp nghiên cứu

· Tổng hợp và phân tích tài liệu

· Khảo sát và điều tra thực tế

IV. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:

Chương I. Tổng quan về Thương mại điện tử.

Chương II. Hiện trạng ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng.

Chương III. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng TMĐT trong
hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-4-

Chương I. Tổng quan về Thương mại điện tử

I. Khái niệm

Thương mại điện tử (TMĐT) là một khái niệm mới. Mặc dù ra đời
chưa lâu nhưng nó đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình nhờ sức
hấp dẫn cũng như đà phát triển khá ngoạn mục. Cùng với sự phát triển chóng
mặt của Internet, TMĐT đang có những bước tiến rất nhanh với tốc độ ngày
càng cao.

Cuối những năm 1990, TMĐT vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ ở
nước ta. Nhưng dưới sức lan tỏa rộng khắp của TMĐT, các công ty Việt Nam
cũng đang từng bước làm quen với phương thức kinh doanh hiện đại này.

Để hiểu rõ khái niệm “Thương mại điện tử” được dùng phổ biến như
hiện nay không phải là điều dễ dàng. Có rất nhiều khái niệm đã được đưa ra.
Dưới đây là 2 khái niệm mà nhóm nghiên cứu cho là dễ hiểu và rõ ràng hơn cả.

1. Khái niệm hẹp

Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại
điện tử trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện
điện tử, nhất là qua Internet và các mạng liên thông khác. Với cách hiểu đó,
Tổ chức thương mại thế giới và Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương đã đưa ra hai định nghĩa của mình về TMĐT:

Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua
bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-5-

hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua
mạng Internet".

Theo Uỷ ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), "Thương mại điện tử là công việc kinh doanh
được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật
số."

2. Khái niệm rộng

Theo nghĩa trong luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp
quốc tế về Luật Thương mại Quốc Tế (UNCITRAL):

“Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát
các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay
không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao
dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung cấp hoặc trao
đổi hàng hóa dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại,
ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật
công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc
tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt hoặc đường bộ.”

Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng, bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ
chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử. Theo
nghĩa hẹp thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến
hành trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-6-

thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại
điện tử.

Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ
qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng,
chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá
thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị
trực tuyến tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện
tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng,
các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung
cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như
chăm sóc sức khỏe, giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách
thức mua sắm của con người.

II. Các loại hình giao dịch Thương mại điện tử


Thương mại điện tử có 3 chủ thể tham gia: người tiêu dùng, doanh
nghiệp và chính phủ. Có những hình thức như: B2B (Business To Business)
doanh nghiệp với doanh nghiệp; B2C (Business To Consumer) doanh nghiệp
với người tiêu dùng; G2C (Government To Consumer) chính phủ với người
tiêu dùng; C2B (Consumer To Business) người tiêu dùng với doanh nghiệp…

Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu ở đây là tập trung vào doanh
nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gốm sứ Bát Tràng
nên chúng tôi chỉ đề cập đến 2 loại hình giao dịch thương mại điện tử là B2B
và B2C.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-7-

1. B2B (business to business)

Thương mại điện tử B2B trước hết là quá trình thực hiện việc mua và
bán trực tuyến trên mạng giữa các công ty với nhau, là nơi mà các công ty có
thể mua bán hàng hoá trên cơ sở sử dụng một nền công nghệ chung. Khách
hàng có thể chào mua, chào bán sản phẩm đồng thời có thể nhận được những
giá trị gia tăng như dịch vụ thanh toán hay dịch vụ hậu mãi, nhận các bản tin
tức kinh doanh, tham gia thảo luận trực tuyến... Ngoài ra, thương mại điện tử
B2B còn có nhiều tác nghiệp khác giữa các công ty với nhau trong đó có việc
quản lý dây chuyền cung ứng, từ nhà cung cấp đến công ty và từ công ty tới
khách hàng.

2. B2C (business to customer)

B2C là các giao dịch kinh doanh trực tiếp giữa nhà cung cấp và khách
hàng thông qua mạng Internet. Giao dịch loại này còn được gọi là giao dịch
thị trường giúp doanh nghiệp tiếp cận với người tiêu dùng để từ đó chào bán
các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cho khách hàng. Khi nói tới thương mại
điện tử B2C, mọi người thường nghĩ đến Amazon.com, một công ty bán sách
trực tuyến trên mạng đã thành công nhờ biết sử dụng công cụ Internet. Tuy
nhiên, ngoài việc bán lẻ trên mạng, B2C đã phát triển cả các dịch vụ như ngân
hàng trực tuyến, dịch vụ du lịch trực tuyến, đấu giá trực tuyến, thông tin về
sức khoẻ và bất động sản…

Trên thế giới, xu hướng TMĐT B2B chiếm ưu thế vượt trội so với B2C
trong việc chọn chiến lược phát triển của các công ty kinh doanh trực tuyến.
B2B được coi như là một kiểu “phòng giao dịch ảo”, nơi sẽ thực hiện việc
mua bán trực tuyến giữa các công ty với nhau, hoặc cũng có thể gọi là sàn
giao dịch mà tại đó, các doanh nghiệp có thể mua bán hàng hoá trên cơ sở sử

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-8-

dụng một nền công nghệ chung. Khi tham gia vào sàn giao dịch này, khách
hàng có cơ hội nhận được những giá trị gia tăng như dịch vụ thanh toán hay
dịch vụ hậu mãi, dịch vụ cung cấp thông tin về các lĩnh vực kinh doanh, các
chương trình thảo luận trực tuyến và cung cấp kết quả nghiên cứu về nhu cầu
của khách hàng cũng như các dự báo công nghiệp đối với từng mặt hàng cụ
thể.

Tại Việt Nam, với mục đích hỗ trợ các công ty nhanh chóng làm quen
và tham gia vào TMĐT, ngày 26 tháng 8 năm 2005, cổng TMĐT quốc gia
ECVN với Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản, có địa chỉ www.ecvn.com đã
chính thức ra mắt, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nước khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng
trên phạm vi toàn cầu. Cổng giao dịch với ngôn ngữ thể hiện là tiếng Anh và
tiếng Việt sẽ rất thuận tiện cho các công ty trong quá trình sử dụng và tra cứu.

III. Lợi ích của thương mại điện tử

1. Thu thập được nhiều thông tin

Thương mại điện tử giúp người tham gia thu thập được nhiều thông tin
về thị trường, đối tác, rút ngắn thời gian sản xuất, tạo dựng và củng cố quan
hệ bạn hàng. Các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế thị
trường, nhờ đó có thể xây dựng chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp
với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là khu vực được
nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực cho sự phát triển của
nền kinh tế.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
-9-

2. Giảm chi phí sản xuất

Thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất trước hết là chi phí văn
phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi
phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như
bỏ hẳn). Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng
lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên
cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.

3. Giảm chi phí bán hàng, tiếp thị và giao dịch

Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị.
Bằng phương tiện internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch
được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên web phong phú hơn rất
nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn có khuôn khổ giới hạn
và luôn luôn lỗi thời.

Thương mại điện tử giúp người tiêu thụ và doanh nghiệp giảm đáng kể
thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua internet chỉ bằng 7%
thời gian giao dịch qua fax, và bằng khoảng 0,5 phần nghìn thời gian giao
dịch qua chuyển phát nhanh, chí phí thanh toán điện tử qua internet chỉ bằng
10% đến 20% chi phí thanh toán thông thường.

Tổng hợp những lợi ích trên, chu trình sản xuất được rút ngắn, và do đó
sản phẩm mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 10 -

4. Xây dựng quan hệ với đối tác

Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối
quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương mại: thông qua
internet, các thành viên tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau
như không còn khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó sự hợp tác và
sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng, liên tục; các bạn hàng mới, các
cơ hội kinh doanh mới được phát hiện trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực,
toàn thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn.

5. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức

Trước hết, TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ
thông tin tạo cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Lợi ích này có ý
nghĩa to lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp
cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỉ nữa, nước đang phát triển
có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công
nghệ và tính chính sách phát triển dành cho các nước công nghiệp hoá.

IV. Những trở ngại đối với doanh nghiệp Việt Nam khi
ứng dụng TMĐT

So với các phương thức kinh doanh truyền thống, TMĐT phải đối mặt
với nhiều trở ngại đặc thù. Theo "Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam năm
2007 ” của Vụ Thương mại điện tử, Bộ Công Thương, hiện đang tồn tại 7 trở
ngại lớn nhất đối với việc ứng dụng thương mại điện tử. Kết quả điều tra trên
2000 doanh nghiệp được cho thấy trong bảng dưới đây.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 11 -

Bảng 1: Đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng dụng TMĐT

Các trở ngại Điểm bình quân


2005 2006 2007
An ninh, an toàn - 2,78 2,90
Thanh toán điện tử 3,27 3,19 2,84
Nhận thức 3,32 3,23 2,74
Pháp lý 3,11 2,64 2,55
Nhân lực CNTT 2,95 2,45 2,54
Môi trường xã hội và tập quán kinh doanh 3,09 2,45 2,48
Hạ tầng CNTT và truyền thông 2,81 2,22 2,32
* Tính trên thang điểm 4.
( Nguồn: Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam năm 2007)

Trong những năm trước, vấn đề nhận thức xã hội luôn được coi là trở
ngại hàng đầu đối với việc triển khai TMĐT trên diện rộng thì đến cuối năm
2007, trở ngại này đã được xếp xuống vị trí thứ 3. Vấn đề hiện đang nổi lên vị
trí hàng đầu là an ninh, an toàn trong giao dịch. Điều đó phản ánh đúng thực
trạng trong thời gian qua, các cơ quan, tổ chức xã hội và các phương tiện
thông tin đại chúng giúp nâng cao nhận thức của toàn xã hội về TMĐT,
nhưng mặt khác, việc đưa ứng dụng TMĐT vào từng lĩnh vực của đời sống
cũng nhanh chóng làm bộc lộ những nguy cơ tiềm ẩn về an toàn an ninh mà
người tiêu dùng và doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm xử lý khi gặp phải.

1. An ninh, an toàn trong giao dịch

Sau hàng loạt những vụ tấn công DDoS diễn ra trong năm 2006 gây
thiệt hại cho những doanh nghiệp như VietCo JSC, Nhân Hòa và nghiêm
trọng nhất là chodientu.com (Peace Soft), thì tới năm 2007, an ninh mạng đã
nổi lên trở thành trở ngại hàng đầu.

Đối với người tiêu dùng, do lo ngại dữ liệu cá nhân bị sử dụng bất hợp
pháp nên phần đông chưa thực sự có đủ niềm tin để tham gia giao dịch

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 12 -

TMĐT. Trong khi đó doanh nghiệp lại chưa thực sự quan tâm tới lĩnh vực
này. Còn hành lang pháp lý cho TMĐT vẫn chưa hoàn thiện, vấn đề an ninh
mạng, tội phạm mạng chưa có giải pháp tháo gỡ. Các cơ quan quản lý, doanh
nghiệp và các tổ chức chưa ý thức đầy đủ về vấn đề bảo mật nên kinh phí đầu
tư cho an ninh mạng còn hạn chế. Thực trạng cho thấy, sẽ không thể cụ thể
hoá được tiềm năng to lớn của TMĐT nếu người tiêu dùng chưa tin tưởng vào
thương mại điện tử, đặc biệt là vào khả năng bảo vệ dữ liệu cá nhân khi tham
gia giao dịch.

2. Thanh toán điện tử

Thanh toán điện tử trong thời gian qua đã có bước phát triển mạnh với
việc kết nối sâu rộng các liên minh thẻ, đa dạng hóa các loại hình thanh toán
và mở rộng các ứng dụng TMĐT. Tháng 5 năm 2008, hai hệ thống thanh toán
Smartlink và Banknetvn đã chính thức kết nối, chiếm tới 95% thị phần thị
trường thẻ.

Thế nhưng hệ thống thanh toán điện tử vẫn đang là trở ngại lớn thứ hai
cho việc ứng dụng TMĐT và thậm chí là lớn nhất theo nhiều đánh giá khác.
Các doanh nghiệp tỏ ra khá lúng túng khi muốn triển khai một quy trình ứng
dụng TMĐT trong bối cảnh hệ thống thanh toán điện tử còn yếu. Phát triển thị
trường thanh toán thẻ chính là giải pháp hàng đầu để khắc phục trở ngại này.
Với thực trạng lượng tiền mặt lưu thông còn quá cao mặc dù số tài khoán cá
nhân ngày càng tăng, Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc phát triển
thanh toán điện tử.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 13 -

Hình 1: Tỷ trọng tiền mặt so với Tổng phương tiện thanh toán

(Nguồn: Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam năm 2007)

Năm 2006, Chính Phủ đã phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền
mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng năm 2020 nhằm giảm tỷ lệ tiền
mặt/tổng phương tiện thanh toán xuống còn 18% vào năm 2010, với hàng loạt
giải pháp: hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, trả lương qua tài khoản, khuyến
khích doanh nghiệp xây dựng ứng dụng thanh toán điện tử, phát triển mạng
lưới ATM và mạng lưới chấp nhận các phương tiên thanh toán không dùng
tiền mặt… Điều đó sẽ tạo điều kiện cho thanh toán điện tử phát triển bền
vững và trở thành một hình thức thanh toán phổ biến đối với doanh nghiệp và
người tiêu dùng.

3. Nhận thức xã hội

Việc các ngân hàng đẩy mạnh triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử và
nhiều nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu như điện, nước, điện thoại, dịch vụ vận
chuyển bắt đầu chấp nhận phương thức thanh toán điện tử đã làm cho nhận
thức của người tiêu dùng về loại hình thanh toán này cũng ngày càng được
nâng cao. Thói quen sử dụng thẻ thanh toán của người tiêu dùng ở các đô thị

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 14 -

lớn bắt đầu được hình thành. Việc làm quen với thẻ thanh toán sẽ là tiền đề
hình thành tập quán mua sắm và tiêu dùng hiện đại, làm động lực cho việc
triển khai rộng rãi các ứng dụng thương mại điện tử trong xã hội.

Thay đổi và nâng cao nhận thức về thương mại điện tử là một quá trình
đòi hỏi sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội, tuy nhiên giữ vai trò nổi
bật nhất trong quá trình này vẫn là doanh nghiệp và các phương tiện truyền
thông. Đây là hai lực lượng năng động và nhạy bén hơn cả trong việc nắm bắt
những xu hướng, những trào lưu mới của xã hội.

4. Môi trường pháp lý

Khung pháp lý về thương mại điện tử tại Việt Nam đã cơ bản được
hình thành. Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật giao
dịch điện tử, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2006. Luật này quy
định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong
lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác. Để hướng dẫn
cụ thể việc thực hiện Luật Giao dịch điện tử, Chính phủ và Bộ Thương mại đã
ban hành các văn bản như Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện
tử, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch
điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định số
27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Quyết định số
25/2006/QĐ-BTM về việc ban hành quy chế sử dụng chữ ký số của Bộ
Thương Mại.

Hiện nay, theo các quy định của pháp luật Việt Nam, văn bản được sử
dụng như là một hình thức chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương mại.
Nhất là với các hợp đồng kinh tế, nó là một yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, chúng

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 15 -

ta vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và rõ ràng rằng thế nào là "văn bản".
Theo quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ vẫn
hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với
giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử
không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức của văn
bản, thì các hợp đồng được giao kết trên mạng máy tính giữa các chủ thể sẽ bị
coi là vô hiệu theo pháp luật của Việt nam, do không đáp ứng được các yêu
cầu về mặt pháp lý của hợp đồng. Nếu đòi hỏi các hợp đồng thương mại, dân
sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay thì những ưu thế của
các giao dịch thương mại điện tử sẽ không được tận dụng và phát huy. Chính
vì vậy, việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của thương
mại điện tử là về phía Nhà nước cần phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối
với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện điện tử.

Quá trình xây dựng pháp luật là một quá trình liên tục không phải cứ
ban hành một luật ra là đủ mà cần phải thường xuyên cập nhật, chỉnh sửa cho
phù hợp với thực tế. Hiện tại, thương mại điện tử ở Việt Nam còn thiếu nhiều
cơ sở pháp lý, nhất là trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên.

5. Nguồn nhân lực CNTT

Yếu tố con người là một trở ngại lớn, nhất là đối với doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời trong thời
gian quá sớm, chưa có kinh nghiệm quản lý, trình độ của đội ngũ nhân sự
trong các doanh nghiệp còn thấp và không đồng bộ, cách xử lý, tính chuyên
nghiệp hóa chưa cao. Chính vì vậy khi ứng dụng TMĐT, đưa các ứng dụng
ERP (hoạch định nguồn lực doanh nghiệp), các doanh nghiệp đều gặp phải
khó khăn. Có một thực trạng là các doanh cần rất nhiều nhân lực ngành công

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 16 -

nghệ thông tin nhưng không tuyển dụng được vì chất lượng thấp trong khi
nguồn cung lao động vẫn lớn hơn nhu cầu. Do vậy, lời giải cho nguồn nhân
lực công nghệ thông tin của Việt Nam không phải về số lượng mà là về chất
lượng. Việc đào tạo tràn lan, thiếu chuẩn hóa, trình độ thấp cả về chuyên môn
lẫn ngoại ngữ. Nhân lực phục vụ cho ngành công nghệ thông tin và thương
mại điện tử đòi hỏi cần phải có thời gian đào tạo và thích ứng công việc dài
hơn nhiều so với đào tạo lao động giản đơn. Vì vậy việc đào tạo nhân lực cần
phải có sự kết hợp với các doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 17 -

Chương II. Hiện trạng ứng dụng TMĐT của


các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng
I. Tổng quan về làng gốm Bát Tràng

1. Lịch sử làng nghề và dân cư

Bát Tràng là một trong số ít những làng nghề thủ công truyền thống
còn giữ lại được cho đến ngày nay của nước ta. Xã Bát Tràng gồm hai thôn
Bát Tràng và Giang Cao thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Trước năm 1945, Bát
Tràng và Giang Cao là hai xã riêng biệt. Xã Bát Tràng (tức làng Bát Tràng
ngày nay) thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc
Ninh) sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ và buôn bán, dạy học; xã
Giang Cao (thôn Giang Cao, xã Bát Tràng ngày nay) thuộc tổng Đa Tốn,
huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh sinh sống chủ yếu bằng nghề
thợ mộc và hàng sáo.

Thời nhà Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An,
trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn
Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng
Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận
Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949,
huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia
Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang
Cao và xã Kim Lan lập thành xã Quang Minh. Từ năm 1964, xã Bát Tràng
được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao như hiện nay. Xã Bát
Tràng rộng 153ha; toàn xã có khoảng 6000 người tương đương với 1500 hộ
dân trong đó có 1000 hộ tham gia sản xuất gốm sứ, các hộ còn lại thì làm dịch
vụ.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 18 -

2. Sản phẩm

Ngày nay Gốm Bát Tràng được xem là một trong những sản phẩm
tuyệt hảo từ kiểu dáng đến chất liệu gốm. Nhiều loại gốm quý, màu men độc
đáo đã trở thành tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Như gốm Men Ngọc xuất hiện
đời Lý-Trần. Gốm Hoa Nâu ra đời vào cuối thời Trần, đầu thời Lê. Gốm Men
Rạn và Gốm Hoa Lam thời Lê-Trịnh. Ðặc biệt Gốm Hoa Lam với đặc trưng
men trắng ngà, với lối vẽ phóng bút, khoáng hoạt trang trí hình, hoa màu
chàm đen uyển chuyển, mang đậm dấu ấn thẩm mỹ, mộc mạc nhưng tinh tế
như tâm hồn người Bát Tràng.

Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ
rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Thợ gốm Bát
Tràng thường dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết.
Thợ vẽ gốm có tay nghề cao, hoa văn họa tiết hài hoà với dáng gốm, các trang
trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi sản phẩm là một
tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác
nhau, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu...

Từ các thế kỷ trước, gốm Bát Tràng chủ yếu là đồ thờ. Về sau gốm Bát
Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ, ấm chén.
Và ngày nay, gốm Bát Tràng đã có khá nhiều mặt hàng phong phú về chủng
loại và kiểu dáng, bao gồm cả những mặt hàng mỹ nghệ như đĩa treo tường, lọ
hoa, con giống, tượng phiên bản và phù điêu với kỹ thuật và công nghệ cao.
Các bộ sưu tập gốm sứ Bát Tràng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật và kĩ
thuật chế tạo đồ gốm sứ ở Việt Nam.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 19 -

Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng:

Men lam
Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ thế kỷ 14. Thợ
Bát Tràng sử dụng men lam đồng thời với kỹ thuật dùng bút lông làm công cụ
vẽ trên đồ gốm. Men lam không để trần như men nâu mà bao giờ cũng được
phủ lớp men mầu trắng bóng, có độ thuỷ tinh hoá cao sau khi nung. Men lam
có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm.

Men nâu
Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng là men nâu,
sắc độ màu của men phụ thuộc nhiều vào xương gốm (xương gốm Bát tràng
dày và thường có mầu nâu xám).
Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mầu thế kỷ 16-17,
men nâu được dùng xen lẫn với men xanh rêu, men ngà, tạo ra các sắc độ
khác nhau. Men nâu giữ vị trí các đường chỉ chia băng, tô lên hoa sen hoặc
các hình rồng, đối với lư hương chữ nhật men nâu tô lên phần chân đế...
Thế kỷ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu đã chuyển sắc thành một loại
men bóng (thường gọi là men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới
tận ngày nay.

Men trắng (ngà)


Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng ngà, bóng khi
nhiệt độ nung đạt độ cao nhưng cũng nhiều trường hợp có màu trắng xám,
trắng sữa, đục. Cùng với kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên
một nét riêng biệt của đồ gốm Bát Tràng. Men trắng ngà đã thấy sử dụng phủ
lên trang trí men lam hay men nâu, nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng
chỉ thấy dùng men trắng ngà.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 20 -

Men xanh rêu


Thế kỷ 14-19 men xanh rêu được dùng khá nổi trội cùng với men trắng
ngà và nâu. Men xanh rêu, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm
Bát Tràng thế kỷ 16–17.

Men rạn
Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về độ co giữa
xương gốm và men. Cho đến nay các tài liệu gốm men cổ ở Việt Nam xác
nhận men rạn chỉ được sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỷ
16 và kéo dài tới đầu thế kỷ 20.

3. Hoạt động sản xuất kinh doanh

Có thể thấy một điều rằng hầu hết các doanh nghiệp Bát Tràng đều là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất kinh doanh theo hình thức hộ gia đình.
Bình quân vốn của mỗi hộ chỉ vào khoảng 75-100 triệu đồng và doanh thu
hàng năm đạt khoảng 15-25 triệu đồng. Với quy mô sản xuất nhỏ như vậy các
hộ gia đình chủ yếu cung ứng sản phẩm cho thị trường trong nước hoặc gia
công cho các doanh nghiệp lớn. Cũng vì nguyên nhân này mà rất nhiều đơn
đặt hàng lớn từ nước ngoài đã bị bỏ qua.

Toàn bộ làng nghề hiện nay có khoảng 1000 lò nung trong đó có


khoảng 200 lò gas. Đầu tư một lò lung bằng gas tốn ít nhất 150 triệu đồng-
một số tiền không nhỏ so với một hộ kinh doanh bình thường ở Bát Tràng.
Tuy nhiên dùng lò nung bằng gas có rất nhiều ưu điểm như khi sản xuất một
chiếc bình bằng khí ga sẽ rẻ hơn 20% so với lò nung bằng than, hay chi phí
sản xuất một chiếc vại lớn bằng gas sẽ rẻ hơn 60% khi dùng lò than. Hơn nữa,
sử dụng lò ga để nung sản phẩm sẽ hạn chế được lượng khí thải ô nhiễm môi
trường. Ngoài ra, sử dụng lò nung bằng gas còn đem lại vẻ đẹp rất riêng cho

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 21 -

gốm sứ Bát Tràng. Mầu men của sản phẩm đều, bóng, sản phẩm chịu lực tốt
hơn (có thể sử dụng để nấu nướng thức ăn trong lò vi sóng). Trong vài năm
gần đây, giá gas liên tục tăng cao đến chóng mặt, chi phí cho mỗi lần nung lên
tới 3 triệu đồng. Trong khi đó giá sản phẩm tăng thì sẽ không cạnh tranh được
trên thị trường. Trước thực trạng đó rất nhiều cơ sở sản xuất đã quay trở về
dùng lò than truyền thống.

Hiện nay nỗ lực tập trung phát triển kinh tế làng nghề là ưu tiên số
một của nhân dân và chính quyền Bát Tràng. Các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất gốm sứ Bát Tràng đang áp dụng mô hình kinh doanh theo kiểu cộng tác,
liên kết, thường khoảng 5-7 nhà với nhau phổ biến kinh nghiệm, tay nghề,
chia sẻ bí quyết. Liên kết để ra mắt thương hiệu chung sẽ rút ngắn con đường
quảng bá sản phẩm sang thị trường nước ngoài. Liên kết các nhà sản xuất
gốm sứ hiện là cách tốt nhất để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể thực hiện
mở rộng sản xuất trong điều kiện không cần trường vốn mà vẫn có thể sẵn
sàng đáp ứng các đơn đặt hàng lớn.

Phương thức quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề cũng được làng
nghề và nhà nước hết sức quan tâm. Tháng 11 năm 2003, làng cổ Bát Tràng
khai trương Chợ Gốm làng cổ Bát Tràng (Battrang ancient village ceramics
market), là nơi các hộ sản xuất kinh doanh mang sản phẩm tới chợ vừa bán
vừa trưng bày, nhằm mục đích chính là giới thiệu sản phẩm. Mô hình kết hợp
sản phẩm địa phương với du lịch và xuất khẩu tại chỗ cũng đang phát huy
hiệu quả cao tại làng gốm Bát Tràng. Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho mô hình du lịch văn hóa của Bát Tràng phát triển. Ví dụ như việc cho ra
đời tuyến xe bus số 47 Long Biên – Bát Tràng, nối liền làng cổ Bát Tràng với
khu vực nội thành thành phố Hà Nội khánh thành tháng 11 năm 2005 mở ra

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 22 -

hướng đi mới, thúc đẩy phát triển tham quan, du lịch làng gốm cổ truyền Bát
Tràng.

Ngoài ra, một nét mới trong việc quảng bá thương hiệu gốm Bát Tràng
là sự ra đời của Trung tâm xúc tiến xuất khẩu Bát Tràng (BTEP) cuối năm
2004. Trung tâm này được thành lập là kết quả hợp tác giữa Hiệp hội gốm sứ
Bát Tràng và Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) thuộc Công ty
tài chính quốc tế (IFC). Đây là một bước tiến mới trên con đường phát triển
của làng gốm Bát Tràng bởi nó đóng góp một kinh nghiệm tốt cho các ngành
kinh doanh nhỏ và vừa khác ở Việt Nam trên con đường tìm cách quảng bá
thương hiệu.

Đồ gốm Bát Tràng không những có mặt trên khắp mọi miền của đất
nước mà còn nổi tiếng ở thị trường nước ngoài. Sản phẩm của làng gốm
Bát Tràng được xuất khẩu sang Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan..v.v. với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên đến hơn 40 triệu
USD.

Sự phát triển của làng gốm Bát Tràng còn giải quyết được tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm tại khu vực nông thôn. Tại làng nghề này, hầu
hết tất cả mọi người, thậm chí cả người già và trẻ em đều có việc để làm.
Hơn 80% người dân trong làng sinh sống bằng nghề sản suất gốm sứ. Sự
phát triển sản xuất nhanh chóng tại làng gốm Bát Tràng không chỉ tạo đủ
việc làm cho người dân địa phương mà còn thu hút khoảng 3.000 - 5.000
lao động với mức lương trung bình từ 600.000đ - 700.000đ mỗi tháng ở
những khu vực lân cận đến làm việc hàng ngày.

Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, tình hình sản xuất kinh doanh
gặp nhiều khó khăn do giá cả nguyên vật liệu tăng cao, khó khăn trong việc

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 23 -

tìm đầu ra cho sản phẩm và phải cạnh tranh với gốm sứ nước ngoài, đặc
biệt là gốm Trung Quốc. Rất nhiều hộ gia đình đã phải đóng cửa ngừng sản
xuất do hoạt động kinh doanh không đem lại hiệu quả. Thực trạng này đòi
hỏi các doanh nghiệp cần nhanh chóng tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của làng nghề.

II. Sự cần thiết phải ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng

Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ và gia dụng của
Việt Nam đã liên tục giảm trong những tháng đầu năm 2008. Sau khi tăng khá
mạnh trong tháng 1, thì trong những tháng tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu đã
giảm mạnh. Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2008, tổng kim ngạch xuất
khẩu đạt 91,6 triệu USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2007. So với mức tăng
trưởng kim ngạch 16,2% của năm 2007, có thể thấy việc xuất khẩu các mặt
hàng này đang gặp nhiều khó khăn.

Hình 2: Kim ngạch xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ và dân dụng


(không tính gốm sứ xây dựng) 5 tháng đầu năm 2008.

35
29,6
30
Kim ngạch (triệu USD)

25
19,4
20
14,9 14,8
15 12,9

10
5
0
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5

(Nguồn số liệu: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công Thương)

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 24 -

Nguyên nhân chính của sự suy giảm này là do nền kinh tế của nhiều
quốc gia lâm vào tình trạng khó khăn, lạm phát tăng cao khiến người tiêu
dùng có xu hướng thắt chặt chi tiêu. Trong khi các mặt hàng gốm sứ xuất
khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là gốm sứ mỹ nghệ và đồ trang trí, đây
không phải là những mặt hàng thiết yếu, do đó sức mua đã giảm mạnh. Bên
cạnh đó, sự leo thang của giá nhiên liệu đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành
của sản phẩm, cộng với sự mất giá của đồng USD, đã gây ra không ít khó
khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu.

Chịu ảnh hưởng từ những khó khăn chung, doanh thu của gốm sứ Bát
Tràng đang giảm dần trong năm gần đây. Giá gas, chiếm đến 40% - 50% chi
phí sản xuất liên tục tăng làm giá thành sản phẩm tăng. Trải qua 500 năm lịch
sử, từ khi nung bằng củi, sau đó đến nung bằng than và cho đến nay, khi lò
gas được đưa vào sử dụng, Bát Tràng đã có tới 200 lò gas nhưng thời gian sử
dụng chưa được bao lâu thì giá gas trên thị trường biến đổi. Trong 6 tháng đầu
năm 2008 giá gas đã tăng đến 7 lần, tính đến ngày 8 tháng 7 năm 2008 giá cả
giao động từ 270.000 - 275.000 đồng bình 12kg. Dùng gas với giá thành cao,
đầu vào lớn, đầu ra giảm gây nhiều biến cố cho những hộ dùng gas. Điều này
đang trở thành mối lo cho nhà sản xuất kinh doanh.

Không chỉ gặp vấn đề giá cả càng ngày càng tăng, gốm sứ Bát Tràng
cũng đang phải đối diện với sự cạnh tranh từ gốm sứ nước ngoài ngày càng
lớn, nhất là đối với thị trường gốm sứ Trung Quốc. Hàng Trung Quốc hiện
nay đã chiếm lĩnh thị trường Việt Nam rất lớn, một ngày ở cửa khẩu Tam
Thanh tràn sang Việt Nam gần 100 tấn hàng gốm. Giá bán hàng Trung Quốc
rất rẻ, một cái bát ăn cơm giá từ 1.500 - 3.000 đồng, trong khi đó, hàng Bát
Tràng có giá từ 6.000 - 10.000 đồng. Với mức giá dễ chấp nhận, mẫu mã đẹp

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 25 -

rất hợp thị trường Việt Nam, mức cạnh tranh đó gây cho gốm sứ Bát Tràng
những khó khăn đáng kể.

Nhưng liệu có phải thị trường tiềm năng của gốm Bát Tràng không có
khả năng mở rộng thêm nữa? Từ những năm 1998, qua các cuộc khảo sát thị
trường và giới thiệu gốm sứ Bát Tràng tại các Hội chợ quốc tế với các bạn
hàng Nhật, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Đức, gian hàng của gốm sứ
Việt Nam tại triển lãm đã được đặt ngang hàng với các gian hàng của Trung
Quốc, Nhật Bản, Malaysia. Khách hàng Mỹ đánh giá cao tính mỹ thuật, tính
văn hóa, sự đa dạng của gốm sứ Bát Tràng. Từ việc đổi mới, áp dụng khoa
học kỹ thuật tiên tiến, cho đến nay các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ của nhiều
doanh nghiệp đã rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, nổi bật hàng gốm sứ nội
thất như: Âu men, những hàng giả cổ có từ thế kỷ XV, XVI, XVII đã được
khách hàng các thị trường Nhật, Mỹ, Đài Loan, Đan Mạch, Rumani, Tiệp
Khắc rất ưa chuộng. Đáng chú ý là khách hàng Mỹ và các nước Tây Âu rất
thích đặt hàng chậu hoa cảnh, các đồ trang trí nội thất. Qua đó cho ta thấy
tiềm năng xuất khẩu sang nhiều thị trường khác trên thế giới của Bát Tràng.
Vấn đề đặt ra là tìm cách nào để doanh nghiệp có thể tiếp cận với những khu
vực đó, và với mức chi phí trong khả năng của doanh nghiệp Việt Nam vốn
chỉ có quy mô vừa và nhỏ. Câu trả lời là “Thương mại điện tử”

III. Hiện trạng ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp
gốm sứ Bát Tràng

1. Thực trạng

Nhằm phục vụ hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thủ công mỹ nghệ trở thành một trong những lực lượng triển khai
mạnh nhất các ứng dụng thương mại điện tử. Đối với gốm sứ Bát Tràng, đã

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 26 -

có rất nhiều doanh nghiệp thuê thiết kế các website giới thiệu sản phẩm của
mình, từ những công ty lớn (Công ty TNHH Quang Vinh, Hợp tác xã công
nghiệp gốm sứ Hợp Lực, Công ty cổ phần sứ 51…) đến các doanh nghiệp tư
nhân (Nguyễn Lợi, Mùi Lầu...).

Tới giai đoạn năm 2003, hàng loạt website đã lần lượt ngừng hoạt động
vì không đem lại hiệu quả như cửa hàng Mùi Lầu (www.muilau-
ceramics.com), cửa hàng Nguyễn Lợi (nguyenloiceramic.com)… Các doanh
nghiệp nhỏ không thể tiếp tục bỏ ra chi phí để duy trì hoạt động của website
trong khi thống kê cho thấy có chưa tới nổi 500 lượt khách truy cập mỗi
tháng. Ngay cả website của Công ty cổ phần sứ 51 (www.cps51.com), một
doanh nghiệp lớn và đi đầu trong phong trào cũng phải ngừng hoạt động sau
đó.

Việc ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
gốm sứ Bát Tràng cũng nhận được sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước và chính
quyền địa phương. Tháng 6 năm 2004, Trung tâm xúc tiến xuất khẩu gốm sứ
Bát tràng (BatTrang Ceramics Export Promotion Center - BTEP) thuộc Hội
gốm sứ Bát Tràng được thành lập dưới sự bảo trợ của Chương trình Phát triển
kinh tế tư nhân (MPDF). Tới cuối năm 2004, BTEP thành lập phòng trưng
bày và cho ra mắt website www.battrang-ceramics.org với tham vọng tiếp thị
sản phẩm Bát Tràng tới thị trường quốc tế, nâng con số các nhà sản xuất hợp
tác với BTEP từ 34 lên 400 trong vòng 2 đến 3 năm. Thế nhưng, nội dung của
website này còn kém hơn cả website của các doanh nghiệp. Điều tất yếu là tới
cuối tháng 7 năm 2008, website này đã dừng hoạt động.

Theo số liệu thu thập được tính đến tháng 5 năm 2008 từ Hiệp hội gốm
sứ Bát Tràng, trụ sở tại xóm 3, thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, nhóm nghiên

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 27 -

cứu thu được những con số sau: có 100 trên tổng số 1000 doanh nghiệp và hộ
kinh doanh cá thể lắp đặt và sử dụng internet, xấp xỉ 10%. Trong số đó có 60
doanh nghiệp tư nhân và đều thuộc hiệp hội gốm sứ Bát Tràng. Cũng theo số
liệu của hội, hầu hết các website đều có cung cấp thông tin giới thiệu doanh
nghiệp, thông tin giới thiệu sản phẩm. Trong số đó chỉ khoảng 10% bước đầu
có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử như cho phép hỏi hàng hoặc
gửi yêu cầu, một số ít cho phép đặt hàng trực tuyến.

Thực trạng cho thấy, ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp
Bát Tràng mới chỉ dừng lại ở mức độ xây dựng website quảng bá hình ảnh
doanh nghiệp và sản phẩm, một số ít doanh nghiệp có những bước chuẩn bị
cho giao dịch điện tử.

Đánh giá chung về website của các doanh nghiệp Bát Tràng

Hiện tại, vẫn có một số website của các doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng còn duy trì được hoạt động. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 9
website trong số này và rút ra nhận định nội dung các trang web tương tự
nhau (từ giới thiệu sản phẩm, giới thiệu về công ty, về lịch sử của gốm sứ Bát
Tràng đến các mục liên hệ, tiếp nhận phản hồi từ phía khách hàng) không tạo
ra được sự khác biệt đáng kể.

· Có tới 4/9 website trên là website tĩnh. Loại website này dễ thiết kế
nhưng lại khó cập nhật thông tin và sản phẩm mới, chỉ đáp ứng được
mức độ giới thiệu thông tin cho người xem. Và cả 4 hợp đồng thiết kế
website tĩnh của Hợp Lực, Hà Phú, Xuân Thủy và Hoa Thanh đều ký
với cùng một đối tác, Công ty Cổ phần phát triển Thương mại điện tử
Việt Nam (ECO). Lẽ dĩ nhiên là tất cả có nội dung tương đồng, thậm
chí sự khác biệt chỉ là cái tên.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 28 -

Bảng 2: Đánh giá nội dung website của các doanh nghiệp Bát Tràng

Giới Giới thiệu Giới thiệu


Giới Nhận Đặt hàng Hỗ trợ
Catalogue thiệu về Website Chính Khách
Công ty Địa chỉ thiệu Phản trực trực
Sản phẩm Bát động sách hàng
công ty hồi tuyến tuyến
Tràng bán hàng Đối tác
Hợp
www.hoplucceramic.com x x x
Lực

www.gomsubattrang.com x x x x
Phú
Xuân
www.gombattrang.com x x
Thủy
Hoa
www.hoathanhceramic.com x x x x
Thanh
Phú
www.quangvinh.com.vn x x x x x x x
Vinh

Hamico www.hamico.com.vn x x x x

Minh
www.minhhaiceramic.com x x x
Hải
An
www.ando-ceramics.com x x x x x
Đô
Nam
www.sacgom.com x x x x x x
Việt

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 29 -

Thời gian đầu, nhiều doanh nghiệp ở Bát Tràng do hiểu biết về website
hạn chế, làm theo phong trào nên dễ bị mắc bẫy những công ty thiết kế
khi ký hợp đồng tạo website tĩnh, dẫn đến tình trạng nhiều website bị
bỏ hoang, không được cập nhật đều đặn nữa. Các site còn lại tuy cố
gắng duy trì hoạt động nhưng cầm chừng với lượng khách truy cập rất
thưa thớt. Sự bê trễ trong việc chăm sóc trang web thể hiện ở tần suất
cập nhật thông tin chậm chạp, khoảng 1 tháng 1 lần; sự rà soát website
không được coi là công việc hàng ngày.

· Hầu hết các website mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra catalogue sản phẩm.
Chỉ có 2/9 website được khảo sát có module Đặt hàng trực tuyến trong
khi đây là tính năng tối thiểu để hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử và
cũng không khó khăn về mặt kỹ thuật.

· Các website chỉ chú trọng giới thiệu về sản phẩm, không biết cách tạo
niềm tin cho khách hàng thông qua những mục như Giới thiệu Khách
hàng và Đối tác (1/9 website có), Chính sách bán hàng (2/9 website có),
Hỗ trợ trực tuyến (1/9 website có).

Đánh giá một website điển hình

Đi đầu trong ứng dụng thương mại điện tử, Công ty Cổ phần Phú Vinh
đã xây dựng một website với những chức năng khá đầy đủ so với các doanh
nghiệp khác. Đây là một trong những số ít website cho phép Đặt hàng trực
tuyến, cung cấp đầy đủ thông tin và giá của sản phẩm. Trong bài nghiên cứu
này nhóm tác giả chỉ đánh giá website www.quangvinh.com.vn của công ty
cổ phần Phú Vinh, các website còn lại có trong phụ lục.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 30 -

Hình 3: Website www.quangvinh.com.vn

Ngoài những những phần chung giống website của các doanh nghiệp
khác như : Giới thiệu công ty, Catalogue sản phẩm, Liên hệ…, website còn có
những tính năng bước đầu hỗ trợ cho giao dịch điện tử:

· Đặt hàng trực tuyến

Hình 4: Form Chọn sản phẩm tại www.quangvinh.com.vn

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 31 -

· Có Thông tin chi tiết sản phẩm (kích thước, trọng lượng) nhưng vẫn
còn ít thông tin. Có Giá sản phẩm, cước phí vận chuyển tới cảng khách
hàng lựa chọn.

Hình 5: Form tính Cước phí vận chuyển tại www.quangvinh.com.vn

Tuy nhiên, website này cũng có không ít điểm yếu:

· Giao diện kém thẩm mĩ và chuyên nghiệp. Thậm chí banner và các
button cũng được trình bày bằng dạng text.

· Sản phẩm mỹ nghệ đòi hỏi thẩm mĩ cao nhưng catalogue sản phẩm lại
không đạt yêu cầu. Hình ảnh sản phẩm không những chất lượng thấp
mà kích thước cũng quá nhỏ (113pixels × 90pixels) không thể cuốn hút
người xem. Đây là điểm yếu chung trong website của các doanh nghiệp
Bát Tràng.

Hình 6: Hình ảnh sản phẩm tại www.quangvinh.com.vn

Mặc dù những điểm yếu trên rất dễ dàng để nhận ra và cũng không khó
để khắc phục nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của doanh

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 32 -

nghiệp bởi sự hiểu biết về công nghệ thông tin và thương mại điện tử của các
chủ doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Quy trình triển khai TMĐT trong doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng

Qua nghiên cứu cho thấy, khi triển khai ứng dụng TMĐT, các doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng đã thực hiện quy trình gồm 5 bước.

Xác định mục tiêu, vốn đầu tư


Mua tên miền, thuê máy chủ
Thuê thiết kế website
Cập nhật thông tin, quản trị website
Quảng bá website

Trong khi đó, quy trình xây dựng một website TMĐT gồm những bước
cơ bản như sau:

Phân tích SWOT, lập kế hoạch, xác định mục tiêu, vốn đầu tư.
Xác định mô hình
Mua tên miền, thuê máy chủ
Thuê thiết kế website
Cập nhật thông tin, quản trị website
Đánh giá website
Điều chỉnh, bổ sung chức năng
Quảng bá website (đăng ký với search engine, tham gia các sàn
giao dịch TMĐT…)
Liên kết website với khách hàng, đối tác, cơ quan quản lý.
Xây dựng hệ thống cung cấp và phân phối.

Quy trình mà các doanh nghiệp Bát Tràng thực hiện đã rút ngắn quy
trình tiêu chuẩn, có phần chủ quan nóng vội do sự thiếu hiểu biết của doanh
nghiệp. Ngay từ bước đầu, các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng đã không có
một kế hoạch dài hạn, chưa nghiên cứu và phân tích thị trường. Sau khi thiết
kế xong website lại thiếu một bước rất quan trọng - đánh giá lại website để có
sự điều chỉnh, bổ sung chức năng hợp lý. Vì thế website khi hoàn thiện vẫn

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 33 -

mắc hàng loạt lỗi, thiếu những chức năng cơ bản, nếu không muốn nói là
chưa đạt được những yêu cầu tối thiểu.

Không chỉ vậy, trong mỗi bước mà doanh nghiệp Bát Tràng đã thực
hiện cũng không tốt, nhất là khi thuê thiết kế website. Với số vốn đầu tư ban
đầu ít ỏi cùng trình độ CNTT hạn chế, doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng gặp
khó khăn khi tìm đối tác thực hiện nhu cầu của mình, lại không đủ khả năng
thẩm định sản phẩm của đối tác nên luôn bất lợi khi thực hiện hợp đồng. Khi
website đã hoàn thành, việc cập nhật thông tin và quản trị website có 2 hình
thức chủ yếu là doanh nghiệp tự quản trị hoặc ký hợp đồng với chính nhà
cung cấp dịch vụ thiết kế website để làm việc này. Một số ít doanh nghiệp có
khả năng tự quản trị lại không có sự đầu tư thích đáng cho công việc này. Còn
các doanh nghiệp đi thuê ngoài hầu như hoàn toàn không có khả năng quản lý
các giao dịch, thông tin liên hệ qua website. Quảng bá website, một bước
quyết định hiệu quả đầu tư ở nhiều doanh nghiệp bị bỏ ngỏ.

Muốn đem lại hiệu quả, quy trình ứng dụng TMĐT cần phải được thực
hiện đầy đủ với sự đầu tư thích đáng. Tuy nhiên kết quả khảo sát những
doanh nghiệp đã thiết lập website cho thấy đầu tư về ứng dụng thương mại
điện tử chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng chi phí hoạt động thường
niên. Các doanh nghiệp trong hiệp hội gốm sứ Bát Tràng cho biết họ dành
không đến 5% chi phí hoạt động cho việc triển khai TMĐT, bao gồm cả việc
mua các phần mềm TMĐT, duy trì bảo dưỡng website và phân bổ nguồn nhân
lực cho những hoạt động này.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 34 -

2. Đánh giá

2.1. Những mặt tích cực

Các doanh nghiệp Bát Tràng đã bước đầu nhận thức được tầm quan
trọng của internet trong việc quảng bá sản phẩm, thương hiệu của mình ra khu
vực và thế giới. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả, trong số 28 doanh
nghiệp tham gia điều tra, có tới 61% doanh nghiệp đã có ứng dụng TMĐT
vào hoạt động kinh doanh. Trong số đó, có nhiều doanh nghiệp đi đầu đã sớm
xây dựng website ngay từ giai đoạn trước năm 2003. Mặc dù chưa phải là
thước đo trình độ triển khai ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp,
nhưng số lượng các website kinh doanh cũng là một tiêu chí quan trọng để
đánh giá mức độ phát triển thương mại điện tử, đặc biệt trong bối cảnh doanh
nghiệp Việt Nam còn tương đối bỡ ngỡ với các phương thức tiến hành thương
mại điện tử của thế giới. Khi việc kết nối hệ thống giữa các đối tác chiến lược
để tiến hành trao đổi dữ liệu điện tử trực tiếp ở Việt Nam hiện còn chưa phát
triển, thì các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng bá sản
phẩm, xúc tiến dịch vụ và tiến hành giao dịch thương mại điện tử cả theo hình
thức B2B lẫn B2C. Do vậy, nếu một doanh nghiệp xây dựng và duy trì được
một website hiệu quả để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
mình, điều này đã nói lên một trình độ nhất định về triển khai ứng dụng
TMĐT trong doanh nghiệp đó.

2.2. Những hạn chế

Mặc dù các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng đã sớm nhận ra tầm quan
trọng của TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng việc ứng dụng
còn gặp phải những hạn chế nhất định.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 35 -

Thứ nhất: Sự nghèo nàn về thông tin là vấn đề lớn và nổi cộm nhất.
Các nội dung chung ở các trang là: giới thiệu về làng nghề, về sản phẩm, về
các nghệ nhân, đồng thời nhận đặt hàng, chào hàng qua email, theo dõi diễn
biến thị trường trong nước và thế giới… Tuy nhiên, không chỉ nội dung có
phần giống nhau, hình thực thể hiện, nói cách khác là giao diện của trang web
cũng tương tự nhau. Sự thuận tiện cho khách vào xem cũng không được thể
hiện tốt, cụ thể như cách đặt tên gây khó khăn cho việc tìm kiếm, nội dung
quá đơn giản nên chưa thực sự thu hút người xem. Yếu tố thẩm mĩ cũng chưa
được xem xét đúng mức, làm tăng thêm sự đơn điệu và thiếu sáng tạo của
trang web.

Thứ hai: Công việc cập nhật website bị bê trễ là một vấn đề vô cùng
nghiêm trọng. Chỉ có 6% trong số các doanh nghiệp được điều tra có cập nhật
thông tin trên website thường xuyên trong khi 76% doanh nghiệp rất ít khi
cập nhật hoặc thậm chí là không hề cập nhật. Thông tin nóng hổi, cập nhật
thường xuyên là một trong những ưu điểm vượt trội của các trang web điện
tử. Mức độ, tần suất cập nhật thông tin lên web là một trong những tiêu chí
giúp đánh giá chất lượng và tính chuyên nghiệp của một website, là nhân tố
giúp trang web thực sự tồn tại một cách có ích và đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp. Nếu không đầu tư công sức, thời gian cho trang web của mình thì
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang lãng phí những tiềm năng mà công
nghệ thông tin mang lại, và cũng không khác mấy những doanh nghiệp truyền
thống hoạt động trong phương thức cũ, không được biết đến TMĐT.

Thứ ba: Cách thức quản lý website cũng là một vấn đề. Khi chuyển
giao trách nhiệm quản lý trang web của mình cho đơn vị bên ngoài, doanh
nghiệp có lợi là tiết kiệm được thời gian, nhân lực, chi phí cho công việc này.
Đây là nhận thức sai lầm của doanh nghiệp khi họ không nhìn nhận đúng mức

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 36 -

vai trò của những trang web như là kênh giao tiếp và tương tác trực tiếp với
khách hàng. Website là bộ mặt của công ty, là địa chỉ tin cậy nhất mà khách
hàng có thể tìm hiểu về sản phẩm và dịch vụ của công ty. Do đó sự nghèo nàn
về thông tin và tính năng giao tiếp của các trang web, sự thiếu thân thiện
trong giao diện và tìm kiếm của các trang web sẽ vô hình chung đẩy đi những
khách hàng tiềm năng, tạo ra những ấn tượng không tốt về sau. Bởi lẽ vậy, để
có thể cập nhật thông tin và duy trì quan hệ giao tiếp với khách hàng một cách
thường xuyên, doanh nghiệp cần phải là người chủ động nắm quyền quản trị
website. Khi giao phần việc này vào tay một công ty dịch vụ bên ngoài, doanh
nghiệp đã tự bỏ đi chức năng tương tác với khách hàng của website và biến
nó thành một công cụ quảng cáo thuần túy. Với những doanh nghiệp đã ý
thức được tầm quan trọng của việc tự mình đảm nhận công tác quản trị
website thì họ cũng phải ý thức được những thử thách bởi để làm việc này
một cách thật sự chuyên nghiệp cũng là thách thức lớn trong bối cảnh hiện
vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp bố trí được cán bộ chuyên trách về công
nghệ thông tin.

Thứ tư: Vấn đề hiệu quả quảng bá của website còn vô cùng thấp. Theo
ông Nguyễn Lợi, giám đốc công ty Nguyễn Lợi cho biết ông chưa nhận được
một hợp đồng nào trên mạng. Khách hàng tới doanh nghiệp của ông đều do
người quen giới thiệu, hoặc mối cũ. Từ trường hợp của công ty Nguyễn Lợi,
chúng ta nhận thấy mối lo lắng nhất hiện nay của các doanh nghiệp Bát Tràng
là nên tiếp tục hay từ bỏ những trang web của mình. Để tiếp tục cuộc chơi
mạo hiểm với công cụ quảng bá mới mẻ này, doanh nghiệp phải bỏ ra một
khoản tiền từ 2 đến 6 triệu đồng một năm để nuôi một trang web, và phải đầu
tư những khoản tiền khá lớn để nâng cấp, thiết kế một trang hiện đại, hấp dẫn
hơn nhưng kết quả thì chưa thể nhìn thấy ngay một sớm một chiều. Đây là
một chiến lược lâu dài cần những tính toán khôn ngoan.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 37 -

2.3. Xác định nguyên nhân

Chúng tôi xin đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thực
trạng chưa tốt nêu trên trong quá trình ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp
Bát Tràng:

Đầu tiên phải kể đến đó là nhận thức của doanh nghiệp. Đây là cơ sở
ban đầu mang tính quyết định liệu TMĐT thành công hay thất bại. Nhiều
doanh nghiệp vẫn có những suy nghĩ như đơn giản cho rằng ứng dụng TMĐT
chỉ là lập website cho doanh nghiệp mà không có chiến lược marketing,
quảng bá website. Hoặc với suy nghĩ chỉ cần sản phẩm của mình tốt thì khách
hàng sẽ tự đến với mình là sai lầm lớn. Việc xây dựng website chỉ là bước đầu
trong hành trình đầy thử thách chinh phục TMĐT, khiến TMĐT là công cụ
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp có những hiểu biết
sâu sắc, đúng đắn về TMĐT, về tiềm năng kinh tế lớn mà nó sẽ mang lại, thì
khi đó TMĐT chắc chắn sẽ là một phần không thể thiếu của nền kinh tế.

Nhân tố thứ hai cũng không kém phần quan trọng là khả năng tài chính
của các doanh nghiệp. Chi phí để đầu tư cho website với giao diện thân thiện,
đẹp mắt, cơ sở dữ liệu mạnh và ổn định là rất lớn, trung bình khoảng 1.500
USD trong khi thu nhập bình quân của 1 cơ sở sản xuất trong 1 năm là 15 - 25
triệu đồng. Ngoài ra, những chi phí thuê điều hành viên trong cập nhật thông
tin hàng ngày, tư vấn viên nhận và phản hồi thông tin từ khách hàng, đội kĩ
thuật bảo hành, bảo trì thường xuyên...vv... Thời điểm nền kinh tế nhiều biến
động, lãi suất ngân hàng mỗi ngày một cao hơn gây ra nhiều trở ngại về huy
động vốn. Hơn nữa, khoản đầu tư lớn như vậy cần sự quyết tâm rất lớn từ
phía doanh nghiệp. Đầu tư lớn vào TMĐT mà hiệu quả kinh tế trước mắt
không được khả quan dẫn đến những ngần ngại cho nhiều doanh nghiệp Bát
Tràng với quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 38 -

Thói quen kinh doanh nhỏ lẻ, không mang tầm quy mô lớn cũng là một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng ứng dụng TMĐT còn kém hiệu
quả như hiện nay. Tuy TMĐT mở ra những lợi ích vô cùng lớn, nhưng để đạt
được trái ngọt đó đâu thể một sớm một chiều. Những đầu tư chất xám, tiền
bạc, thời gian và cả rủi ro là vô cùng lớn. Trong khi đó, các hộ kinh doanh,
các công ty gốm sứ thì dường như vẫn yên ổn trong cách làm ăn truyền thống
của mình. Qua khảo sát điều tra thực tế, nhóm nghiên cứu được biết các đơn
đặt hàng chủ yếu đến từ những mối quen biết cũ, hoặc những mối mới dựa
trên giới thiệu bạn bè, người quen. Một phần nguồn cầu khác là từ các công ty
lớn đặt làm gia công khoán sản phẩm. Các hộ gia đình nhận khoán số lượng,
thực hiện đơn hàng theo mẫu sẵn rồi giao hàng theo hẹn. Tuy phương thức
làm gia công này lợi nhuận ít nhưng nó lại khá đều đặn và ổn định, nên vẫn
tiếp tục duy trì đến nay. Thiếu con mắt nhìn xa, lại quen trong phương thức
kinh doanh truyền thống từ xưa đã làm thu hẹp những thị trường tiềm năng, tự
đánh mất đi những cơ hội kinh doanh quảng bá sản phẩm vừa có giá trị thẩm
mỹ, vừa có giá trị văn hóa cao như gốm sứ Bát Tràng.

Trình độ về công nghệ thông tin (CNTT), những hiểu biết về máy tính,
số hóa...vv... của bộ phận nhân sự trong các doanh nghiệp Bát Tràng còn vô
cùng hạn chế. Như đã nêu trong hiện trạng, sự thiếu hiểu biết về CNTT và
TMĐT của các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng gây nhiều thiệt thòi cho chính
bản thân họ khi hợp đồng với công ty thiết kế website, khi phải tốn thêm chi
phí để thuê công ty ngoài quản lý website cho doanh nghiệp mình. Những chi
phí này thường không nhỏ do mức lương chi trả cho ngành CNTT là rất cao.
Nguồn nhân lực tại địa phương cũng có nhiều khó khăn tồn tại. Một bộ phận
trình độ học vấn thấp không có điều kiện tiếp xúc với CNTT. Một bộ phận
khác được đi học đại học, cao học thì thường ít quay về làng xã làm việc. Do
đó dẫn tới thực trạng là nguồn nhân lực thừa vẫn thừa, mà thiếu thì vẫn cứ

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 39 -

thiếu. Về lâu dài, nếu những hạn chế này không được nhanh chóng khắc phục
thì nó sẽ là vật cản lớn trên con đường tiếp cận và phát huy TMĐT trong kinh
doanh của các doanh nghiệp.

Các cơ quan chức năng ở địa phương Bát Tràng còn thiếu định hướng,
hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Biết đến TMĐT chỉ có một số doanh
nghiệp nhanh nhạy, năng động. Dám ứng dụng TMĐT, ví dụ như tạo website
riêng, lại càng ít doanh nghiệp thực hiện. Tuy vậy, ở Bát Tràng hiện nay có
đến 1000 hộ kinh doanh cá thể. Họ không có khả năng cũng như điều kiện
tiếp xúc với công nghệ cao, không thể biết đến TMĐT nhanh như các doanh
nghiệp. Họ cần những hướng dẫn, giới thiệu, chỉ đạo từ những lãnh đạo ở xã,
ở huyện. Tuy nhiên bộ phận lãnh đạo này lại khá chậm chạp trong tiếp xúc
với công nghệ thông tin. Gặp gỡ chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bát Tràng,
chúng tôi cũng nhận thấy nhiều hạn chế về thông tin, kiến thức về công nghệ
thông tin, về xu thế TMĐT. Những chính sách, những hoạt động nhằm giúp
các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ tiếp cận thông tin về TMĐT còn
chưa có. Nếu những hỗ trợ đó được thực hiện, thiết nghĩ TMĐT sẽ càng
nhanh chóng có được chỗ đứng xứng đáng của nó, góp phần đưa kinh tế của
xã Bát Tràng lên tầm cao mới.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 40 -

Chương III. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc


ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh
tại các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng

I. Phương hướng phát triển kinh doanh gốm sứ Bát Tràng

Trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập hiện nay, đặc biệt là từ khi nước
ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, thì phương thức kinh doanh cũ
của làng gốm Bát Tràng đã trở nên không còn phù hợp. Để duy trì sự tồn tại
và phát triển của làng nghề đòi hỏi các doanh nghiệp, chính quyền địa phương
cũng như Nhà nước cần phải có những giải pháp kịp thời và hiệu quả. Trong
chiến lược phát triển làng nghề của Uỷ ban nhân dân xã Bát Tràng và Hiệp
hội gốm sứ Bát Tràng thì TMĐT được đánh giá là một công cụ hữu hiệu. Dựa
trên những tìm hiểu và khảo sát cụ thể, chúng tôi cho rằng:

Đầu tiên Bát Tràng cần đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu. Trước
đây các doanh nghiệp Bát Tràng thường mạnh ai nấy làm, thương hiệu làng
nghề không được đầu tư xây dựng thích đáng cũng như không được khai thác
một cách triệt để. Do đó điều cần thiết hiện nay là các doanh nghiệp phải hợp
sức lại trong một hiệp hội ngành nghề để khai thác thương hiệu chung với tên
tuổi của địa phương trong hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời cần liên
tục đầu tư cho quảng bá và phát triển để duy trì thương hiệu chung.

Song song với công tác xây dựng thương hiệu, Bát Tràng cần tiếp tục
áp dụng mô hình kết hợp sản phẩm địa phương với du lịch và xuất khẩu tại
chỗ, một hướng đi được các làng nghề truyền thống nổi tiếng phát huy rất
hiệu quả. Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp cần có những đầu tư

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 41 -

thích đáng cho khu chợ gốm Bát Tràng để nâng cao sức hấp dẫn, thu hút
khách du lịch.

Cuối cùng, các doanh nghiệp, hiệp hội gốm sứ Bát Tràng và nhà nước
cần phối kết hợp với nhau để xây dựng chương trình ứng dụng TMĐT hiệu
quả nhất. Đây là một chương trình mang tính chiến lược và lâu dài đòi hỏi sự
kết hợp đồng bộ của các thành viên liên quan và những đầu tư thích đáng về
vốn, nhân lực và cơ sở hạ tầng.

Từ phương hướng phát triển kinh tế làng nghề trên và những nguyên
nhân nổi cộm trong thất bại của doanh nghiệp khi áp dụng TMĐT, nhóm
nghiên cứu xin đưa ra những giải pháp khả thi cho 3 đối tượng sau: doanh
nghiệp, hiệp hội gốm sứ Bát Tràng và Nhà nước.

II. Giải pháp cụ thể

1. Doanh nghiệp

Khi các doanh nghiệp Bát Tràng cùng bắt tay xây dựng được một
thương hiệu chung thành công thì khâu quảng bá cho thương hiệu đó cần phải
được thực hiện ngay sau đó. Các doanh nghiệp có thể cùng nhau xây dựng
một phòng trưng bày sản phẩm ảo quy mô lớn. Phòng trưng bày đó chính là
một trang web chung, nơi có vai trò giới thiệu thương hiệu và các sản phẩm
Bát Tràng cũng như cung cấp dịch vụ có chất lượng tới các khách hàng hiện
tại và tiềm năng.

Làm thế nào để có được trang web đem lại hiệu quả luôn là vấn đề gây
đau đầu của doanh nghiệp. Cái thiếu hiện nay của doanh nghiệp Bát Tràng là
một kế hoạch dài hạn cho xây dựng, marketing và duy trì các website mang

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 42 -

tầm chiến lược. Dựa trên cơ sở đó, dưới đây chúng tôi xin đề xuất một
phương án với sáu bước tiến hành cụ thể như sau:

Thứ nhất là vấn đề mở mang nhận thức của doanh nghiệp: Doanh
nghiệp cần thể hiện ra rằng họ đã sẵn sàng cho sân chơi mới mẻ đầy tiềm
năng này. Ai cũng biết rằng không thể bắt doanh nghiệp ứng dụng CNTT nếu
như chính họ không nhận thấy đấy là điều cần thiết. Một khi các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp nhận thức được tiềm năng kinh tế thực sự của việc triển khai
TMĐT thì những đầu tư liên quan đến nguồn lực và tài chính sẽ dễ dàng được
thông qua.

Thứ hai, đầu tư tạo dựng một website cho riêng mình là điều kiện cần
cho mỗi doanh nghiệp. Website chính là phòng trưng bày sản phẩm của mỗi
doanh nghiệp. Do đó khi xây dựng, website cần đảm bảo mang đến cho khách
hàng những thông tin tốt nhất về sản phẩm. Nội dung website còn sơ sài và
thiếu thông tin trầm trọng chính là điểm yếu mà các doanh nghiệp Bát Tràng
cần chú ý và sửa đổi. Yếu tố mỹ thuật cũng rất quan trọng để thu hút sự chú ý
của khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế những website nổi tiếng trên thế giới
về doanh số bán đều là những website được thiết kế rất đơn giản về mỹ thuật,
quan trọng là bố trí thông tin sao cho người xem dễ dàng tìm được điều họ
muốn một cách nhanh nhất và cung cấp đủ chức năng đáp ứng nhu cầu của
người xem. Tính năng dễ sử dụng luôn được đề cao.

Khi xây dựng website, các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng nên có sự
tham khảo thành công khi ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp khác trong
ngành. Trong các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng gốm sứ, công ty TNHH
Minh Long 1 được đánh giá là doanh nghiệp đã ứng dụng TMĐT khá thành
công, theo đúng quy trình. Minh Long 1 là doanh nghiệp sản xuất gốm sứ có
công nghệ hiện đại bậc nhất thế giới với số lượng công nhân lên tới 1500, với

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 43 -

trên 40 triệu sản phẩm và doanh thu hàng năm lên tới 15 triệu USD, là một
trong 30 doanh nghiệp đầu tiên được trao biểu trưng “Thương hiệu Quốc gia”.
Góp phần không nhỏ cho sự tăng trưởng vượt bậc của Minh Long 1 là những
khoản đầu tư lớn cho CNTT và TMĐT. Công ty đã đầu tư hàng tỷ đồng cho
hệ thống thiết kế khuôn mẫu có hỗ trợ CAD/CAM và lò nung vi tính để nâng
cao chất lượng sản phẩm, đầu tư xây dựng một website chuyên nghiệp nhất
trong số các doanh nghiệp trong ngành.

Hình 7: Website www.minhlong.com

Từ mục tiêu hướng đến đối tượng khách hang quốc tế và nhận thức
được tầm quan trọng của TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình, công
ty đã đầu tư xây dựng một website thực sự có chất lượng. Mặc dù website
chưa có chức năng đặt hàng trực tuyến nhưng chúng ta có thể nhận thấy
những ưu điểm nổi bật của nó như:

· Giao diện, catalogue sản phẩm được thiết kế bằng flash có tính thẩm mĩ
cao và chuyên nghiệp.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 44 -

Hình 8: Hình ảnh sản phẩm tại website www.minhlong.com

· Cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm; hình ảnh sản phẩm sắc nét, đạt
yêu cầu với đặc trưng sản phẩm mỹ nghệ, và có kích thước lớn, cuốn
hút người xem.

· Tốc độ nhanh, giao diện thân thiện thuận tiện cho khách hàng trong
việc tìm kiếm thông tin về sản phẩm, liên hệ.

· Sản phẩm và nội dung thường xuyên được cập nhật lôi cuốn được
khách hàng quay trở lại với website.

Nếu làm được như vậy, chắc chắn những khoản đầu tư cho TMĐT sẽ
đem lại hiệu quả kinh tế không nhỏ cho các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng.

Thứ ba là sau khi đã có một website tốt, chiến lược tiếp theo của doanh
nghiệp là một chiến lược marketing cho trang web thật hiệu quả. Có như vậy
họ mới mong có nhiều khách hàng thường xuyên truy cập vào website và mua
hàng. Có những sai lầm mà website mắc phải là được xây dựng theo kiểu “cứ
làm rồi sẽ có người đến thăm”. Đó là lối mòn cần tránh mắc phải với mỗi
doanh nghiệp. Kế hoạch marketing có thể được đưa ra như sau:

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 45 -

· Quảng bá qua banner trên các trang web có tiếng khác để tăng nhận
thức người dùng về tên tuổi.

· Đăng ký lên các search engine ( công cụ tìm kiếm )

· Đăng ký liên kết vào các danh bạ.

· Thiết lập các bản tin định kỳ nhằm thiết lập quan hệ thường xuyên
với khách hàng: gửi thư chào hàng, giới thiệu sản phẩm định kỳ,
thông tin bán hàng, khuyến mại. Doanh nghiệp càng tạo được mối
liên hệ thường xuyên bền chặt với khách hàng bao nhiêu, cơ hội
quảng bá sản phẩm đến nhiều người càng tăng bấy nhiêu

Thứ tư là về yêu cầu nhân sự chuyên môn, đối với những doanh nghiệp
gốm sứ vừa và nhỏ chỉ cần sử dụng một vài nhân sự có chuyên môn về
Thương mại điện tử (lập trình web, thiết kế web, cập nhật thông tin, hỗ trợ
khách hàng, marketing qua mạng, an toàn mạng...). Do phần lớn các doanh
nghiệp không chuyên về lĩnh vực công nghệ thông tin cho nên doanh nghiệp
nên chọn đối tác cung cấp dịch vụ thiết kế, lập trình website, an toàn mạng.
Việc cập nhật thông tin, marketing qua mạng, hỗ trợ khách hàng phải là việc
do doanh nghiệp đảm trách thường xuyên và chuyên nghiệp thì mới mang lại
hiệu quả tốt nhất. Việc bỏ bê hoặc giao phó trách nhiệm này cho đối tác khác
có thể gây ra nhiều thiệt hại như đã phân tích ở những phần trên.

Thứ năm là khâu hỗ trợ khách hàng cần được quan tâm đúng mức. Đây
là khâu chuyển tiếp của xây dựng website và marketing website nhằm mang
lại thành công cho website của doanh nghiệp. Khâu xây dựng chất lượng
website là điều kiện cần để cho nhưng ai đã ghé thăm đều có ấn tượng tốt, có
thể tìm thấy những thông tin bổ ích cho họ, còn khâu tương tác với khách
hàng là điều kiện đủ. Khâu này bao gồm nhưng dịch vụ hỗ trợ khách hàng qua

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 46 -

việc trả lời email, xử lý đơn hàng, cung cấp thông tin theo yêu cầu của từng
người. Nếu một người quan tâm gửi câu hỏi từ trang liên hệ của website mà
phải chờ đến vài ngày không thấy câu trả lời hoặc nhận được câu trả lời
không rõ ràng, không đầy đủ với văn phong cẩu thả.. thì chắc chắn doanh
nghiệp sẽ bị mất nhiều khách hàng tiềm năng.

Thứ sáu là nâng cao tri thức về công nghệ cũng như sự áp dụng công
nghệ vào kinh doanh của những nhà quản lý doanh nghiệp. Công nghệ thông
tin là lĩnh vực mà sự lạc hậu công nghệ diễn ra rất nhanh. Thương mại điện
tử là một loại hình kinh doanh dựa trên sự phát triển của công nghệ thông tin,
do đó, tốc độ đổi mới cũng diễn ra nhanh, đòi hỏi doanh nghiệp tham gia
thương mại điện tử phải luôn đổi mới: đổi mới công nghệ, đổi mới phương
thức kinh doanh, đổi mới tư duy, đổi mới cung cách quản lý v.v…Các nhà
lãnh đạo doanh nghiệp phải tự trau dồi cho mình những kiến thức mới bằng
nhiều nguồn khác nhau. Họ có thể khai thác nguồn tài liệu mở trên mạng
internet vô cùng phong phú, chi phí lại thấp, hầu như là miễn phí; hoặc tham
gia những lớp học ngắn hạn, những buổi hội thảo, những diễn đàn, những hội
nghị…

Ngoài ra doanh nghiệp còn phải thực những biện pháp khác nhằm hoàn
thiện, bổ sung, cải tiến bộ máy tổ chức, tăng cường chiến lược nghiên cứu và
phân tích thị trường, tìm kiếm cơ hội, chiến lược định giá….

a. Tái cơ cấu lại tổ chức doanh nghiệp trên cơ sở phát triển TMĐT để
doanh nghiệp có được hiệu quả kinh doanh tốt nhất

● Cải tiến quy trình quản lý: Bộ phận lãnh đạo phải hiểu rằng tiến hành
TMĐT đồng nghĩa với việc chuyên nghiệp hóa quy trình quản lý. Doanh
nghiệp phải có những quy trình kinh doanh và cơ cấu tổ chức cần thiết để tạo

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 47 -

sự tin tưởng cho khách hàng. Cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp thông
thường không thích hợp với TMĐT. TMĐT đặt ra một yêu cầu rất cao về tốc
độ xử lý bao gồm: xử lý thông tin khách hàng, xử lý đơn đặt hàng, giao hàng
và dịch vụ hậu mãi. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải có một số vị trí
nhân sự mới và cơ cấu tổ chức linh hoạt, nhanh nhạy cùng sự phân nhiệm rõ
ràng phục vụ cho kênh bán hàng - bộ phận tiếp xúc trực tiếp và giải quyết mọi
vấn đề liên quan đến khách hàng.

● Thay đổi văn hóa làm việc: Chỉ những công ty chú trọng vào dịch vụ
khách hàng mới có thể thành công trong TMĐT. Chuyển trọng tâm sang bộ
phận dịch vụ khách hàng yêu cầu những thay đổi đáng kể về văn hóa của
doanh nghiệp, nhất là đối với những doanh nghiệp như doanh nghiệp gốm sứ
Bát Tràng vốn mang tính chuyên môn hơn là dịch vụ. Những tập quán mới
cần được xây dựng thông qua một hệ thống quy định rõ ràng gắn với các hình
thức thưởng phạt công bằng, hơn là những sự động viên chung.

● Tăng cường khả năng CNTT của doanh nghiệp: TMĐT là một
phương tiện kinh doanh cao cấp, do đó đòi hỏi một đội ngũ nhân lực có năng
lực CNTT cao, đáp ứng được đòi hỏi ngày một khó khăn và phức tạp hơn.
Mặt khác, bản thân hạ tầng CNTT của doanh nghiệp cũng phải được nâng cấp
cho phù hợp với yêu cầu của TMĐT. Việc đầu tư này có thể lớn hơn nhiều so
với hình dung và các kế hoạch ban đầu.

b. Tiến hành nghiên cứu thị trường và phân tích kết quả nghiên cứu thị
trường một cách có định hướng và hiệu quả hơn.

Nghiên cứu thị trường qua mạng như hiện nay tạo điều kiện dễ dàng
hơn so với trước đây trong việc nghiên cứu các điều kiện kinh tế, xã hội, nhu
cầu, tiềm năng thị trường của bất kỳ nước nào. Với sức mạnh của internet,

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 48 -

doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm được cơ hội kinh doanh, xuất nhập khẩu theo
từng ngành, từng sản phẩm và từng nước; xác định được các nhà nhập khẩu
nước ngoài của các mặt hàng chuyên dùng, tìm ra các nguồn thông tin về thị
trường và tiếp thị trong TMĐT.

Chiến lược tiến hành TMĐT cũng cần phải dựa trên sự nghiên cứu và
phân tích thị trường một cách cặn kẽ. Quá trình nghiên cứu cần đảm bảo trả
lời được sản phẩm của công ty có thể bán trên mạng Internet được không, trên
thị trường nào, liệu hình dáng, kích thước, màu sắc và các đặc điểm khác của
sản phẩm sẽ thu hút được khách hàng tại một số thị trường đặc biệt, liệu nó có
thể thoả mãn yêu cầu của các nhóm khách hàng tiềm năng hay không. Ví dụ
như cụ thể về thị trường gốm sứ, những số liệu điều tra cho thấy: trong 6
tháng đầu năm 2008 về gốm sứ xây dựng có những sự tăng trưởng mạnh, đơn
cử với sản phẩm gạch ốp lát tráng men nếu như năm 2006 là 170 triệu
m2/năm thì trong năm 2007 đạt khoảng 200 triệu m2/năm; về gốm sứ mỹ
nghệ thì theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch của cả nước
lại giảm 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt 175,7 triệu USD trong 6
tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên không phải kim ngạch xuất khẩu đều giảm
trong mọi thị trường. Ở thị trường Đài Loan kim ngạch giảm khoảng 12,6%,
nhưng ở thị trường Nhật lại tăng 21,7% so với cùng kì 6 tháng đầu năm 2007.
Thị trường gốm sứ mỹ nghệ cũng mở rộng thêm ở các nước như Ba Lan, Tiểu
Vương Quốc Ả Rập thống nhất, Canada, Đan Mạch…Hay như trên thị trường
Mỹ, từ tháng 4 năm 2008, gốm sứ mỹ nghệ tuy giảm nhưng mặt hàng gốm sứ
gia dụng lại có chiều hướng tăng mạnh trở lại. Ở Pháp, kim ngạch xuất khẩu
đạt 1,6 triệu đô la Mỹ, tăng 12,4%, trong đó mặt hàng đồ chơi bằng gốm tăng
rất mạnh 1,2 triệu, trong khi kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong tháng 4
chỉ đạt 100 nghìn USD.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 49 -

Những số liệu trên cho thấy trong ngành gốm sứ các doanh nghiệp
phân khúc ra rất nhiều thị trường khác nhau. Do đó đòi hỏi về nghiên cứu và
phân tích thị trường kĩ lưỡng để đưa ra giải pháp kinh doanh đúng đắn, tối đa
hóa lợi nhuận là vô cùng thực tế và cần thiết.

c. Phân tích luồng xuất khẩu

Đối với các doanh nghiệp Bát Tràng với vai trò là nhà xuất khẩu, để có
thể tập trung chiến lược tiếp thị trên mạng và thành công ở một thị trường nào
đó thì cần phải xác định được sản phẩm của mình có tính cạnh tranh hay
không. Doanh nghiệp cần phải nhạy bén hơn nữa trước các nguồn thông tin về
cơ hội để cạnh tranh trên từng thị trường. Một cách tốt nhưng lại khá tốn kém
là trực tiếp nói chuyện với khách hàng, các đại lý, các nhà bán buôn và bán lẻ
trên thị trường gốm sứ, đặc biệt khi công ty bán sản phẩm của mình qua hệ
thống này. Ngoài ra thư điện tử cũng là một công cụ giao tiếp có ích, có thể
trợ giúp phần nào để giảm chi phí, nhưng cần phải gửi đúng cho người cần
gởi và phải gửi thường xuyên, liên tục để có thể nhận được sự hồi âm cần
thiết và chính xác.

d. Xác định giá xuất khẩu hợp lý

Tính toán giá thành sản phẩm rất quan trọng đối với doanh nghiệp để
dự trù tài chính. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, giá thành đơn vị cần phải
tìm hiểu và tính đến một số chi phí khác thường phát sinh ở nước ngoài. Mỗi
một chi tiết của kế hoạch TMĐT cần phải được tính đến trong dự trù tài chính
và đưa vào kế hoạch về ngân sách của doanh nghiệp tối thiểu trong ba năm.
Một số chi tiết sau đây cần phải xem xét khi tính giá để tiến hành TMĐT trên
thị trường quốc tế: thiết kế trang web, cập nhật trang web, theo dõi trang web,

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 50 -

xử lý đơn đặt hàng qua trang Web, tiếp thị trên mạng, phần trăm tăng giá,
dịch vụ sau bán hàng, chi phí đổi hàng hoá hư hỏng…

e. Tăng cường marketing diện rộng

Khi tham gia vào TMĐT, việc chủ động tìm kiếm đối tác kinh doanh
trong và ngoài nước là vô cùng cần thiết. Các công ty thường không thành
công trong việc bán hàng qua mạng vì không biết các cơ hội tiếp thị với chi
phí rất thấp hoặc miễn phí đã có sẵn cho họ. Ngoài những kỹ thuật tiếp thị qua
mạng thông thường, các cơ hội tiếp thị truyền thống có thể được cung cấp qua
các catalogue sản phẩm, các chương trình người mua hàng quốc tế, các dịch
vụ đại lý/người phân phối, triển lãm catalogue và các hiệp hội mậu dịch. Các
doanh nghiệp cũng không nên bỏ qua phương thức kết hợp trang web của họ
với phương thức kinh doanh truyền thống bằng cách giới thiệu website của
trên các tờ rơi quảng cáo truyền thống, trên báo chí và những tài liệu kinh
doanh khác. Ngoài ra có nhiều phương thức để tận dụng những cơ hội này
một cách tốt hơn như giới thiệu địa chỉ website (URL) của bạn trên tất cả các
tài liệu có liên quan: đồ dùng văn phòng, card giao dịch, quảng cáo trên báo
chí, tờ rơi quảng cáo, các tài liệu in của công ty, sách hướng dẫn, các danh
sách thư mục hay những trang vàng…

2. Hiệp hội gốm sứ

Là cầu nối giữa các doanh nghiệp, hiệp hội gốm sứ Bát Tràng có vai trò
quan trọng trong việc đẩy mạnh hợp tác của các doanh nghiệp với nhau nhờ
đó góp phần nâng cao thương hiệu chung cho làng nghề. Trong công cuộc
ứng dụng TMĐT vào kinh doanh, hiệp hội cần thể hiện vai trò tích cực của
mình qua những đóng góp như:

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 51 -

Thứ nhất: Phối hợp cùng với nhà nước trong việc nâng cao nhận thức
về TMĐT cho các doanh nghiệp. Hiệp hội cần đứng ra vận động các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động ứng dụng TMĐT trong kinh doanh, chỉ ra
những lợi ích mà hoạt động này đem lại nhằm tạo niềm tin cho các chủ doanh
nghiệp. Tiếp theo, Hiệp hội cần chủ động mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về
thương mại, mời các chuyên gia có uy tín rong lĩnh vực về giảng dạy và
truyền đạt kinh nghiệm.

Thứ hai: Các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng có đặc thù là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu sản xuất và kinh doanh dưới dạng hộ gia đình. Do
đó sản phẩm làm ra tuy cùng một loại nhưng chất lượng và giá cả lại khác
nhau, số lượng thì rất hạn chế. Một thực tế đáng buồn xảy ra là có rất nhiều
đơn đặt hàng lớn của khách nước ngoài bị bỏ qua do các doanh nghiệp không
thể sản xuất được số lượng hàng lớn như vậy, còn nếu gom hàng của nhiều
doanh nghiệp lại thì không thống nhất về chất lượng. Vì vậy song song với
việc nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, hiệp hội cũng cần quan tâm
đến việc liên kết các doanh nghiệp lại với nhau, thống nhất về sản phẩm, kiểu
dáng, chất lượng để có thể đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn- một điều tất
yếu có thể xảy ra khi tham gia TMĐT.

Thứ ba: Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc xây dựng, quản lý và duy
trì website của mình. Có thể thấy rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự thất bại của các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng trong hoạt động ứng dụng
TMĐT là ở bước xây dựng website như đã phân tích ở trên. Vì vậy Hiệp hội
có thể phát huy vai trò của mình bằng cách tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm
nhằm truyền đạt kiến thức cũng như giúp các doanh nghiệp chia sẻ kinh
nghiệm trong việc quản lý và duy trì website. Nhờ đó mà các doanh nghiệp có
thể nâng cao chất lượng website của mình đồng thời thu được lợi ích từ việc

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 52 -

ứng dụng TMĐT. Ngoài ra Hiệp hội cũng có thể tổ chức các cuộc thi về
website và ứng dụng TMĐT nhằm nâng cao trình độ cho các doanh nghiệp.

3. Nhà nước

Trong kế hoạch phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010 của Bộ Thương
Mại, hai mặt hàng may mặc và thủ công mỹ nghệ được coi là hai mặt hàng
tiềm năng của nước ta. Do đó việc đẩy mạnh ứng dụng TMĐT cũng nằm
trong chiến lược phát triển TMĐT của quốc gia. Nhà nước cần đề ra những
biện pháp và chính sách phù hợp nhất nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Bát Tràng ứng dụng TMĐT một cách có hiệu quả. Theo ý kiến của
nhóm tác giả, nhà nước cần quan tâm đến một số khía cạnh sau:

Thứ nhất là về vấn đề hệ thống pháp luật TMĐT: hiện tại nước ta mới
chỉ có một bộ luật giao dịch TMĐT, ngoài ra chưa có các văn bản dưới luật để
hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện. Điều này gây khó khăn cho các
doanh nghiệp khi tham gia ứng dụng TMĐT. Vì vậy nhà nước cần nhanh
chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT, ban hành các văn bản dưới
luật, tổ chức các hoạt động nhằm phổ biến luật tới các doanh nghiệp; xây
dựng một bộ máy quản lý chặt chẽ và có hiệu quả.

Thứ hai: Hoàn thiện mạng lưới hạ tầng viễn thông, internet, nhất là ở
các tỉnh nơi tập trung nhiều làng nghề. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong làng nghề có thể dễ dàng sử dụng các dịch vụ như điện thoại, fax và
truy cập internet để hướng tới việc dễ dàng tiếp cận với thương mại điện tử.
Do hàng thủ công mỹ nghệ mang bản sắc sản phẩm làng nghề có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động trong công nghiệp và nông thôn, góp phần thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng miền một cách bền vững, các cơ quan quản lý

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 53 -

nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp ở
đây khi học có những đầu tư ứng dụng thương mại điện tử.

Thứ ba: Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin và chi tiết về từng sản phẩm
của các làng nghề truyền thông cả nước; xây dựng sàn giao dịch điện tử về
các sản phẩm làng nghề với sự tham gia phối hợp của các ngân hàng. Ngoài
giới thiệu về sản phẩm của từng ngành nghề, sàn giao dịch này phục vụ thuận
lợi cho các giao dịch mua và bán

Thứ tư: Nhà nước hỗ trợ để các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không
làm được website thì vẫn có thể tham gia thương mại điện tử bằng cách thiết
lập một gian hàng trên chợ “ảo”, việc duy trì gian hàng này hoàn toàn miễn
phí. Tại đây, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều có thể tham gia
thương mại điện tử tìm kiếm đối tác, sản phẩm, giá cả và phương thức giao
dịch chỉ sau một vài cú click chuột.

Thứ năm: Thường xuyên tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng thủ công
mỹ nghệ hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển
lãm quốc tế nhằm mục đích giới thiệu các sản phẩm làng nghề ra thị trường
quốc tế, nâng cao thương hiệu cho sản phẩm.

Thứ sáu: Nâng cao nhận thức về TMĐT cho các doanh nghiệp, xây
dựng cho người dân thói quen mua hang qua mạng. Có thể thấy rằng nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các doanh nghiệp Bát Tràng trong việc
ứng dụng TMĐT là sự thiếu hiểu biết về TMĐT của các chủ doanh nghiệp.
Hầu hết họ chỉ biết bỏ tiền ra thuê xây dựng website nhưng không biết cách
duy trì và quản lý website của mình. Và hậu quả tất yếu xảy ra là câc website
nhanh chóng bị đóng cửa do chi phí duy trì quá tốn kém và không mang lại

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 54 -

hiệu quả. Vấn đề đặt ra ở đây là nhà nước cần phải có dự án cụ thể nhằm nâng
cao hiểu biết về kiến thức TMĐT cho các doanh nghiệp Bát Tràng chẳng hạn
như: mở các lớp đào tạo tại địa phương và mời các chuyên gia về giảng
dạy…vv..

4. Đề xuất của nhóm tác giả

Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Bát Tràng đã nhận thức được sự cần
thiết của việc ứng dụng TMĐT trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng
đã có những đầu tư cho việc xây dựng website của công ty mình. Tuy nhiên
sau khi sự đầu tư này không mang lại hiệu quả, kỳ vọng của các doanh nghiệp
gốm sứ Bát Tràng về lợi ích của TMĐT hầu như đã không còn. Vì thế khó có
thể thuyết phục những doanh nghiệp này bỏ vốn đầu tư một lần nữa và ngay
cả khi họ chấp nhận đầu tư, thì cũng khó mang lại hiểu quả bởi hiểu biết hạn
chế về công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Về phía Nhà nước và địa
phương, cũng đã có đầu tư và dự án cụ thể để hỗ trợ những doanh nghiệp
nhưng hiệu quả thậm chí còn thấp hơn hoạt động tự phát của các doanh
nghiệp. Để nâng cao hiệu quả ứng dụng TMĐT đối với các doanh nghiệp gốm
sứ Bát Tràng, ngoài sự nỗ lực của 2 bên là các doanh nghiệp gốm sứ và nhà
nước, địa phương thì còn cần có sự tham gia của một bên thứ 3, một doanh
nghiệp kinh doanh TMĐT.

Ứng dụng thương mại điện tử phải trải qua nhiều giai đoạn, nâng cao
dần hiệu quả và trình độ, nhận thức của doanh nghiệp. Quá trình đó đòi hỏi
phải có sự tham gia của một doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực
TMĐT. Thế nhưng thật khó để dung hòa lợi ích của các bên, khi mà doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng không còn mặn mà với đầu tư cho TMĐT còn
doanh nghiệp TMĐT không tìm thấy lợi ích khi đầu tư vào mặt hàng này. Vai
trò của nhà nước làm cầu nối giữa các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng và

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 55 -

doanh nghiệp TMĐT chính là yếu tố quyết định, nhất là là việc đầu tư trong
giai đoạn ban đầu.

Nhóm tác giả xin đề xuất kiến nghị một mô hình ứng dụng TMĐT cho
làng nghề Bát Tràng, trong đó có sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp
gốm sứ Bát Tràng, nhà nước và một doanh nghiệp TMĐT tư nhân.

Giai đoạn 1. Xây dựng website mới, hiệu quả nhằm quảng bá thương hiệu gốm
sứ Bát Tràng

Nhà nước cần cấp vốn ngân sách hoặc nguồn vốn viện trợ, phối hợp
với địa phương, Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng hợp tác để đầu tư cho doanh
nghiệp TMĐT xây dựng một website chung quảng bá cho làng nghề Bát
Tràng và các sản phẩm gốm sứ. Mục đích của website này là quảng bá thương
hiệu “Gốm sứ Bát Tràng”, nhất là tại thị trường nước ngoài. Nội dung của
website giới thiệu về làng nghề Bát Tràng, gallery ảnh các sản phẩm của làng
nghề (chưa mang mục đích thương mại), giới thiệu hoạt động sản xuất kinh
doanh tại Bát Tràng. Mô hình này tương tự như một số website:
www.hoianhandicraft.com (Xưởng sản xuất thủ công mỹ nghệ Hội An),... Do
đặc thù của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên website được thiết kế phải có
tính thẩm mỹ cao, gallery trưng bày ảnh các sản phẩm phái có hình ảnh chất
lượng, mang tính nghệ thuật và đa dạng. Đây là điều mà những website trước
đây về gốm sứ Bát Tràng chưa làm được. Hơn nữa, website này phải đảm bảo
tốc độ truy cập cao bởi số lượng ảnh được dùng rất lớn, tên miền quốc tế, đa
ngôn ngữ để dễ dàng quảng bá ra thị trường nước ngoài. Chi phí thiết kế một
website như thế là quá lớn đối với các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng. Do đó
Nhà nước cần hỗ trợ vốn, doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng phối hợp cung cấp
thông tin và doanh nghiệp TMĐT thực hiện.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 56 -

Xây dựng và duy trì tốt hoạt động của website là chưa đủ, việc quảng
bá website cũng đóng vai trò quan trọng để tạo ra hiệu quả. Chỉ khi có nhiều
người biết đến website, nhất là tại thị trường nước ngoài, thì đầu tư mới mang
lại hiệu quả và thương hiệu gốm sứ Bát Tràng mới đến được với khách hàng.
Chính vì không biết cách quảng bá mà website của những doanh nghiệp Bát
Tràng trước đây sau khi lập ra được một thời gian thì bị bỏ không, không có
người truy cập cũng như không có đơn đặt hàng nào. Muốn quảng cáo ra thị
trường nước ngoài cần chi phí rất lớn, hoạt động lâu dài, đây là nhiệm vụ của
doanh nghiệp TMĐT. Việc quảng cáo được thực hiện thông qua nhiều kênh,
quảng cáo qua search engine cần chấp nhận chi phí để giữ được thứ hạng cao
và đăng ký những từ khóa tiếng Anh thông dụng, thông qua các cổng giao
tiếp điện tử, sàn giao dịch, tổ chức xúc tiến của được ngoài, qua email…
Đồng thời liên kết website với website các công ty du lịch để, thu hút được
nhiều khách truy cập hơn.

Khi đánh giá thấy số người truy cập vào website đủ đông và ổn định,
hoạt động sẽ chuyển tiếp sang giai đoạn 2. Ngược lại, nếu website không
mang lại hiệu quả cần tìm hiểu nguyên nhân, do nội dung không tốt hay chưa
quảng bá được website qua internet để đưa ra những giải pháp cụ thể khắc
phục. Trong giai đoạn này, Nhà nước phối hợp với địa phương, Hiệp hội làng
nghề nhằm đào tạo kiến thức TMĐT cho doanh nghiệp, tuyên truyền về lợi
ích của việc ứng dụng TMĐT. Doanh nghiệp TMĐT dần tạo mối liên kết với
các doanh nghiệp gốm sứ nhằm tạo tiền đề cho việc triển khai sang giai đoạn
tiếp theo.

Giai đoạn 2. Xây dựng sàn giao dịch B2B

Thực tế cho thấy việc các doanh nghiệp gốm sứ tự bỏ kinh phí để xây
dựng website khó có thể mang lại hiệu quả, tham gia sàn giao dịch B2B

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 57 -

không những giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí mà còn tận dụng
được các công cụ, các mối quan hệ của sàn giao dịch. Hiện tại, Việt Nam đã
có rất nhiều sàn giao dịch điện tử, nhưng cũng chỉ nhiều về số lượng, thiếu
chất lượng thực sự, thiếu những sàn chuyên về hàng thủ công mỹ nghệ. Các
sàn vừa hoạt động vừa xây dựng, lại thiếu các bên tham gia, chưa đủ sức thực
hiện quảng bá ở thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng
dù có tham gia những sàn này thì cũng không đem lại hiệu quả đáng kể. Như
trường hợp của Công ty cổ phần Gốm sứ 51, một doanh nghiệp lớn và đi tiên
phong trong ứng dụng TMĐT ở Bát Tràng, sau khi website của công ty
www.cps51.com ngừng hoạt động, Gốm sứ 51 vẫn đăng tin giới thiệu, tìm
kiếm đối tác trên hàng trăm website, từ những sàn giao dịch, trang vàng tới
những trang rao vặt nhưng không thu được nhiều kết quả.

Trong khi đó, nhu cầu tìm kiếm đối tác cung cấp đồ gốm sứ qua
internet của các nhà nhập khẩu nước ngoài là khá lớn. Tham khảo trên các sàn
giao dịch của Việt Nam hiện nay, có thể tìm được hàng loạt công ty có nhu
cầu này như Tierra Fina (Mỹ, www.tierrafina.com), Hawa (Úc), Toptrade
International (Mỹ, http://toptrade-hk.com), Leo Carell S. A(Thổ Nhĩ Kì),...

Vì thế, xây dựng một sàn B2B chuyên về sản phẩm gốm sứ, làm cầu
nối giữa các doanh nghiệp sản xuất gốm sứ và những doanh nghiệp có nhu
cầu nhập khẩu là việc làm cần thiết. Sau khi đã xây dựng và quảng bá thành
công website về sản phẩm gốm sứ Bát Tràng trong giai đoạn 1, Nhà nước tiếp
tục hỗ trợ vốn để doanh nghiệp TMĐT xây dựng website đó trở thành một sàn
B2B hoạt động theo mô hình mua hàng thông qua tập hợp các nhà cung cấp.
Trong đó, doanh nghiệp TMĐT cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp gốm
sứ Bát Tràng. Doanh nghiệp TMĐT không xây dựng catalogue sản phẩm mà
các doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng tự xây dựng các catalogue sản phẩm
riêng của mình sau đó đặt vào "chợ chung" để tạo nên catalogue chung. Vì thế

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 58 -

website sẽ rất đa dạng sản phẩm và đáp ứng nhiều hơn nhu cầu của khách
hàng khi họ ghé thăm. Thêm vào đó, sàn giao dịch không chỉ đăng tải thông
tin và nhu cầu mua bán, mà còn cung cấp tiện ích tốt để hỗ trợ doanh nghiệp
gốm sứ Bát Tráng đàm phán, giao kết hợp đồng trực tuyến, theo dõi thực hiện
hợp đồng và chăm sóc khách hàng. Mô hình này sẽ giúp liên kết các doanh
nghiệp Bát Tràng nhỏ lẻ thành một nhà cung cấp lớn và tạo nên sức mạnh
xâm nhập thị trường. Tuy nhiên mô hình vẫn đảm bảo là khách lựa chọn sản
phẩm của doanh nghiệp nào thì khách sẽ làm việc với doanh nghiệp đó một
cách riêng tư.

Nhờ đó, doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng sẽ không mất một khoản chi
phí nào ngoài việc xây dựng catalogue sản phẩm trong khi lại thu được hàng
loạt lợi ích từ TMĐT. Còn doanh nghiệp TMĐT sẽ tiến hành thu phí của
doanh nghiệp gốm sứ dựa trên doanh thu của đơn hàng, thu phí từ hoạt động
quảng cáo trực tuyến và dịch vụ ngoại tuyến. Đồng thời, hoàn trả lại khoản
đầu tư cho Nhà nước khi đã có doanh thu ổn định.

Việc xây dựng sàn giao dịch B2B không được tiến hành ngay từ đầu
mà phải trải qua giai đoạn xây dựng website giới thiệu sản phẩm gốm sứ Bát
Tràng để các doanh nghiệp gốm sứ có thời gian thay làm quen với TMĐT,
xây dựng cataloge sản phẩm có chất lượng và thẩm mĩ cao.

Giai đoạn 3. Xây dựng Nhà phân phối trực tuyến

Khi sàn giao dịch B2B đã hoạt động ổn định, doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng nhận được đơn đặt hàng thông qua sàn còn doanh nghiệp TMĐT cũng
thu được lợi nhuận từ hoạt động cung cấp dịch vụ, mô hình có thể thực hiện
giai đoạn thứ 3. Tiến hành chuyên môn hóa các khâu sản xuất, doanh nghiệp
TMĐT trở thành một Nhà phân phối chung cho tất cả các doanh nghiệp gốm
sứ Bát Tràng. Sàn giao dịch B2B phát triển giúp cho doanh nghiệp TMĐT có

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 59 -

điều kiện tiếp xúc, thu hút thêm nhiều đối tác. Qua đó xây dựng được nhiều
kênh phân phối, tiến tới trở thành Nhà phân phối trực tuyến sản phẩm gốm sứ
Bát Tràng.

Trong mô hình này, lợi ích của TMĐT được thể hiện rõ nhất, các
doanh nghiệp gốm sứ trước đây phải tìm kiếm đơn đặt hàng qua sàn giao dịch
thì đến khi sản xuất được chuyên môn hóa, khâu tiêu thụ sản phẩm do doanh
nghiệp TMĐT đảm nhận. Điều đó đảm bảo cho doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng có thể tiết kiệm thời gian, chi phí sản xuất, đồng thời hưởng lợi kinh tế
nhờ quy mô khi có những đơn hàng lớn ổn định, giá thành sản phẩm qua đó
giảm xuống. Doanh nghiệp TMĐT có thể cung cấp sản phẩm cho đối tác với
mức giá hợp lý mà vẫn thu được lợi nhuận. Doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng
tập trung vào sản xuất còn doanh nghiệp TMĐT tập trung vào tìm kiếm đơn
đặt hàng, phân phối sản phẩm.

Tóm lại, thông qua ứng dụng TMĐT theo từng giai đoạn với sự hỗ trợ
vốn của Nhà nước và sự hợp tác của doanh nghiệp TMĐT, hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng gốm sứ Bát Tràng sẽ được chuyên môn hóa, làm giảm giá
thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp gốm sứ Bát Tràng.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- 60 -

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng từ xưa đến nay không chỉ là niềm tự hào
của người dân Bát Tràng mà nó còn là nguồn thu nhập chính nuôi sống hàng
nghìn hộ dân Bát Tràng. Trong vài năm gần đây, nguồn thu nhập từ hoạt động
sản xuất gốm sứ giảm sút đáng kể do giá cả nguyên vật liệu sản xuất tăng cao
và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Đã có rất nhiều doanh nghiệp phải
ngưng hoạt động, nhiều nhà xưởng bị bỏ hoang. Các chủ doanh nghiệp còn lại
cũng đã nhận biết được sự nghiêm trọng của vấn đề, chủ động nghiên cứu,
sáng tạo ra nhiều loại sản phẩm mới nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng
TMĐT để mở rộng thị trường. Hàng loạt các website của các doanh nghiệp đã
ra đời nhằm quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế, tìm kiếm các đơn đặt
hàng. Tuy nhiên do thiếu sự hiểu biết về kiến thức TMĐT, không có những
đầu tư thích đáng trong việc xây dựng, duy trì website cũng như thiếu khả
năng quản lý của các chủ doanh nghiệp nên các website này nhanh chóng bị
bỏ hoang.

TMĐT đang dần trở thành phương thức kinh doanh trên toàn thế giới,
việc các doanh nghiệp Bát Tràng ứng dụng TMĐT là một bước đi hoàn toàn
đúng đắn. Nhưng làm thế nào để có được thành công trong việc này luôn là
một trăn trở đối với chính quyền địa phương và các chủ doanh nghiệp. Vì vậy
nhóm tác giả chúng tôi thực hiện đề tài này với mong muốn góp phần nâng
cao hiệu quả của việc ứng dụng TMĐT cho các doanh nghiệp gốm sứ Bát
Tràng.

Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2008.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- xviii-

Danh mục Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt:

Bản in:
Vụ Thương mại Điện tử - Bộ Thương mại, Báo cáo Thương mại
Điện tử Việt Nam 2007, 2007.
Nguyễn Văn Thoan, Bộ môn Thương mại điện tử, trường Đại học
Ngoại Thương, Tập bài giảng Thương mại điện tử, 2007.
Nguyễn Trung Toàn, Khái quát Thương mại điện tử, 2007, NXB
Lao động.

Website:
www.hoplucceramic.com - Hợp tác xã công nghiệp sứ Hợp Lực.
www.gomsubattrang.com - Công ty TNHH thương mại xuất nhập
khẩu Hà Phú.
www.gombattrang.com - Công ty TNHH gốm Xuân Thủy.
www.hoathanhceramic.com - Công ty TNHH gốm Hoa Thanh.
www.quangvinh.com.vn - Công ty cổ phần Phú Vinh.
www.hamico.com.vn - Công ty TNHH xuất khẩu gốm sứ Bát Tràng.
www.minhhaiceramic.com - Công ty TNHH gốm Minh Hải.
www.ando-ceramics.com - Công ty gốm An Đô.
www.sacgom.com - Công ty TNHH Nam Việt.
www.minhlong.com – Công ty TNHH Minh Long 1.
http://battrang.info - Cổng thông tin làng gốm cổ truyền Bát Tràng.

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG
- xix -

Tài liệu tiếng Anh:

Bản in:

Turban, Electronic Commerce, 2006, Prentice Hall, USA.

Rayport J.F., Jaworski B.J., E-Commerce, 2001, Mc Graw-


Hill/Irwin, USA.

Erik Brynjolfsson, Glen L Urban, Strategies for E-business success,


2001, Jossey Bass, USA.
Gary P. Schneider, James T.Perry, Electronic Commerce, 2000,
Course Technology-Thomson Learning, Canada.

Website:

www.alibaba.com
www.tradekey.com
www.amazon.com

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GỐM SỨ BÁT TRÀNG

You might also like