You are on page 1of 101

NGHIÊN CỨU

XÚC TIẾN TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI


CHO ĐƠN VỊ XUẤT KHẨU VIỆT NAM
BẰNG ĐỒNG YÊN

Ủy quyền của Bộ Tài chính Nhật Bản

°
c VIỆN TIỀN TỆ QUỐC TẾ (IIMA)

Tháng 3 năm 2005


Lời nói đầu

Báo cáo do Viện Tiền tệ Quốc tế (IIMA) trình bày về “Nghiên cứu XÚC TIỀN
TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN CHO ĐƠN VỊ XUẤT KHẨU
VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN” theo ủy quyền của Bộ Tài chính Nhật Bản
năm 2005.

Trong báo cáo năm trước về “Đề xuất CƠ CHẾ TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI
BẰNG ĐỒNG YÊN CHO VIỆT NAM”, IIMA đã tiến hành nghiên cứu thực
nghiệm về ứng dụng của đồng yên trong thương mại và tài trợ thương mại
tại Việt Nam. Kết quả cho thấy đô la Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối và được
sử dụng rộng rãi ngay cả trong các giao dịch nội địa. Trên cơ sở đó, nhóm
nghiên cứu đề xuất một cơ chế tài chính trong đó tổ chức tài chính Nhật Bản
cung cấp các khoản vay bằng đồng yên cho ngân hàng thương mại của Việt
Nam để các ngân hàng này tiếp tục tài trợ thương mại bằng đồng yên với
các hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam.

Với kinh nghiệm và mô hình của năm trước, nghiên cứu trong năm nay
xem xét khả năng phát triển tài trợ thương mại bằng đồng yên thông qua
khối tư nhân mà không có sự hỗ trợ từ khu vực công cộng. Để bắt đầu triển
khai nghiên cứu, IIMA đã tổ chức một cuộc hội thảo vào tháng 12/2004
với sự hợp tác của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Tham dự hội
thảo, về phía Việt Nam có NHNN, các quan chức chính phủ và cán bộ liên
quan, các ngân hàng và doanh nghiệp xuất nhập khẩu; về phía Nhật Bản có
Bộ Tài chính Nhật Bản, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), các
ngân hàng thương mại Nhật Bản có trụ sở tại Việt Nam và nhóm chuyên
gia IIMA. Các vấn đề xung quanh mở rộng tài trợ thương mại bằng đồng
yên đã được trình bày và thảo luận tại hội thảo. Tiếp đó, quá trình kết hợp
nghiên cứu giữa IIMA và NHNN được triển khai nhằm làm rõ các vấn đề
đã nêu ra. Ý kiến đóng góp từ các ngân hàng thương mại Nhật Bản và các
tổ chức liên quan được thu thập và một buổi hội thảo tổng kết được tổ chức
tháng 2/2005 với sự tham gia của các ngân hàng thương mại Việt Nam, và
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu- về cơ bản, là các đại biểu đã tham dự hội
thảo tổ chức tháng 3/2004. Các kết quả nghiên cứu và kết luận được trình
bày trong lần gặp gỡ này. Các đại biểu đã dành nhiều thời gian tranh luận
về các kết luận nghiên cứu và đề xuất hướng tiếp tục triển khai của nghiên

ii
cứu trong các năm tới.

Trong cơ chế hối đoái hiện tại, đồng Việt Nam được giữ ổn định với đô la
Mỹ, còn tỷ giá đồng-yên sẽ dao động tùy thuộc vào mối tương quan yên-đô
la. Đô la Mỹ được sử dụng trong phần lớn các giao dịch thương mại, do vậy,
tài trợ thương mại bằng đồng yên chỉ mang lại thêm rủi ro ngoại hối trừ khi
hợp đồng thương mại qui định việc thanh toán bằng đồng yên. Việc chuyển
đổi sang các giao dịch thương mại bằng đồng yên có rất nhiều khó khăn.
Mặt khác, Việt Nam cũng bắt đầu nhận thức được sự cần thiết phải đa dạng
các loại tiền tệ sử dụng trong tài trợ thương mại do các biến động của môi
trường. Nhận thức này được phản ánh qua thực tế là Việt Nam đang dần
nới lỏng các qui định về quản lý ngoại hối. Theo các ý kiến tranh luận tại
hội nghị tổng kết, một số ngân hàng thương mại Việt Nam đang có kế hoạch
trình bày về lợi ích của việc sử dụng các đồng tiền mạnh khác bên cạnh đô
la tới khách hàng thông qua tổ chức các buổi gặp mặt khách hàng.

Trong điều kiện này, khả năng mở rộng các hoạt động thương mại và
tài trợ thương mại bằng đồng yên vẫn tiếp tục được theo đuổi. Thu thập ý
kiến từ nhiều phía và một nghiên cứu tổng quan về thị trường tài chính và
ngoại hối, cơ sở hạ tầng thúc đẩy sử dụng đồng yên, được tiến hành trong
quá trình phối hợp làm việc với NHNN. Báo cáo này ghi lại toàn bộ các hoạt
động đã triển khai.

Nghiên cứu có thể thực hiện được là nhờ có sự hợp tác của NHNN, các tổ
chức Việt Nam và Nhật Bản đang hoạt động trong lĩnh vực liên quan. Nhóm
nghiên cứu bày tỏ sự biết ơn và hy vọng báo cáo sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt
động tài trợ thương mại bằng đồng yên, quá trình đổi mới và phát triển của
thị trường tài chính và ngoại hối Việt Nam, những nền tảng cơ bản cho việc
sử dụng đồng yên trong tài trợ thương mại.

Các chương trong báo cáo được thực hiện bởi:


Chương 1: Yozo Nishimura, Kinh tế gia cao cấp, Bộ phận Nghiên cứu
Kinh tế, IIMA
Chương 2: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV)
Chương 3: Hideki Nukaya, Kinh tế trưởng, IIMA
Chương 4: Akihiko Abe, Cộng tác viên nghiên cứu cao cấp, IIMA
Chương 5: Naoyoshi Kinukawa, Giám đốc, Bộ phận Nghiên cứu Kinh
tế, IIMA

Theo yêu cầu của IIMA, NHNN đã cung cấp các bài viết được sử dụng
trong chương 2.

Dịch bởi EMISCOM iii °


c IIMA, tháng 3/2005
Mục lục

Danh mục hình vẽ viii

Danh mục bảng biểu ix

1 Quá trình và Hoạt động 1


1.1 Mục tiêu của dự án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1.2 Hội thảo khởi động . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
1.2.1 Các nội dung dẫn tới hội thảo . . . . . . . . . . . . . 2
1.2.2 Nội dung trình bày chính tại hội thảo . . . . . . . . . 3
1.2.3 Phần hỏi đáp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1.2.4 Kết luận của hội thảo. . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
1.3 Quản lý dự án trên cơ sở hội thảo khởi động . . . . . . . . . 7
1.3.1 Nhóm công tác 1 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
1.3.2 Nhóm công tác 2 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
1.3.3 Nhóm công tác 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
1.4 Hội thảo về quản lý rủi ro ngoại hối và các thông lệ thị trường 9
1.5 Hội thảo tổng kết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
1.5.1 Nội dung hội thảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
1.5.2 Hỏi đáp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12

2 Môi trường Tài trợ Thương mại bằng Yên Nhật tại Việt Nam 14
2.1 Giới thiệu về hệ thống ngân hàng và quá trình cải cách ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNN . . . . . . . . . . . 14
2.1.1 Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam . . . . . . 14
2.1.2 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam . . . . . . . . . . . . . 14
2.1.3 Vị trí pháp lý và thị phần của các ngân hàng . . . . . 15
2.1.4 Tình hình cải cách hệ thống ngân hàng . . . . . . . . 15
2.1.5 Kết quả bước đầu của quá trình cải cách ngân hàng . 18
2.1.6 Triển vọng của khu vực ngân hàng trong thời gian tới 19
2.2 Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam và xu thế trong tương
lai
Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20

iv
MỤC LỤC

2.2.1 Tổng quan về kinh tế Việt Nam . . . . . . . . . . . . . 20


2.2.2 Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam . . . . . . . . 22
2.2.3 Một số quy định cụ thể . . . . . . . . . . . . . . . . . 24
2.2.4 Khuynh hướng quản lý ngoại hối trong thời gian tới:
Xây dựng pháp lệnh về ngoại hối . . . . . . . . . . . . 26
2.2.5 Khả năng sử dụng đồng yên trong tài trợ thương mại
Việt-Nhật . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 26
2.3 Nội dung chính các văn bản pháp qui về vay trả nợ nước ngoài
điều chỉnh việc chuyển tiền qua biên giới dưới hình thức vay
nợ nước ngoài của doanh nghiệp
Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
2.3.1 Một số nội dung cơ bản của Nghị định 90/1998/NĐ-
CP điều chỉnh hoạt động vay trả nợ nước ngoài của
doanh nghiệp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
2.3.2 Một số qui định hiện hành của NHNN điều chỉnh
hoạt động vay trả nợ nước ngòai của doanh nghiệp
theo tinh thần Nghị định 90 . . . . . . . . . . . . . . 29
2.4 Dự án xúc tiến sử dụng đồng Yên trong tài trợ thương mại tại
Việt Nam
Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 34
2.4.1 Về thuế GTGT . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.4.2 Về thuế TNDN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.5 Vai trò quản lý, giám sát tài chính đối với các Ngân hàng
thương mại Nhà nước
Ban Quản lý Thuế DNNN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 38
2.5.1 Các loại thuế chủ yếu hiện hành đang áp dụng cho
các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng
thương mại Nhà nước nói riêng . . . . . . . . . . . . 38
2.5.2 Tổ chức quản lý thu thuế hiện nay của Việt Nam đối
với các ngân hàng thương mại . . . . . . . . . . . . . 39
2.5.3 Những bất cập, kiến nghị rút ra trong quá trình quản
lý thuế đối với các Ngân hàng thương mại . . . . . . . 39
2.6 Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc ngoại tệ
Vụ Chính sách Tiền tệ, NHNN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40
2.6.1 Các quy định đối với công cụ dự trữ bắt buộc . . . . . 40
2.6.2 Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc . . . . . . . . . 44
2.6.3 Cơ sở xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ . . 48

3 Thị trường Ngoại hối và Tiền tệ tại Việt Nam 50


3.1 Thị trường ngoại hối . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 50
3.1.1 Hệ thống tỷ giá hối đoái . . . . . . . . . . . . . . . . . 50
3.1.2 Giao dịch ngoại hối . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 52
3.2 Hoạt động cho vay và thu hút tiền gửi ngân hàng, và thị trường
tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 54

Dịch bởi EMISCOM v °


c IIMA, tháng 3/2005
MỤC LỤC

3.2.1 Đặc trưng của hệ thống ngân hàng . . . . . . . . . . . 54


3.2.2 Chính sách tiền tệ của NHNN và thị trường tiền tệ . . 54
3.2.3 Tiền gửi ngân hàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 56
3.2.4 Cho vay ngân hàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 57
3.2.5 Các qui định đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài 59
3.3 Các vấn đề đối với tài trợ thương mại bằng đồng yên . . . . . 59
3.3.1 Nuôi dưỡng thị trường tiền tệ liên ngân hàng . . . . . 60
3.3.2 Tăng cường phương tiện phòng ngừa rủi ro ngoại hối 61

4 Tài trợ Thương mại bằng Yên Nhật từ Góc nhìn của Doanh
nghiệp Xuất Nhập Khẩu 62
4.1 Tài trợ và thanh toán thương mại trong hoạt động xuất nhập
khẩu tại Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 62
4.1.1 Hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam . . 63
4.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới thanh toán thương mại và
lựa chọn đồng tiền tài trợ . . . . . . . . . . . . . . . . 65
4.2 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và các vấn đề nhìn từ quan
điểm của đơn vị xuất nhập khẩu . . . . . . . . . . . . . . . . 68
4.2.1 Lợi thế của việc giới thiệu tài trợ thương mại bằng
đồng yên với doanh nghiệp xuất nhập khẩu . . . . . . 69
4.2.2 Cấu trúc ngoại hối và chi phí tài chính của ba nhóm
doanh nghiệp thương mại . . . . . . . . . . . . . . . . 69
4.2.3 Nghiên cứu khả năng giới thiệu tài trợ thương mại
bằng đồng yên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 71
4.3 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và các điều kiện liên quan 75
4.3.1 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và hạch toán ngoại
tệ ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 75
4.3.2 Các thay đổi khác . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 76
4.4 Thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu . . . . . 76
4.4.1 Thông tin thu thập từ các doanh nghiệp thương mại
Nhật Bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 77
4.4.2 Ý kiến của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ngân hàng
thương mại Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . 79
4.5 Kết luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 81

5 Vấn đề và Triển vọng 83


5.1 Một số kết quả của nghiên cứu và vấn đề lưu ý trong tương lai 83
5.1.1 Các yêu cầu từ phía NHNN . . . . . . . . . . . . . . . 83
5.1.2 Cơ sở của các yêu cầu này . . . . . . . . . . . . . . . . 84
5.1.3 Các vấn đề trong tương lai . . . . . . . . . . . . . . . 88
5.2 Triển vọng với một nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . 88
5.2.1 Các vấn đề liên quan tới tài trợ thương mại . . . . . . 89
5.2.2 Phát triển hạ tầng của thị trường tài chính . . . . . . 89

Dịch bởi EMISCOM vi °


c IIMA, tháng 3/2005
MỤC LỤC

5.2.3 Tăng cường năng lực quản lý của kiểm soát rủi ro
ngoại hối trong các ngành công nghiệp tài chính và
phi tài chính Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . 89
5.2.4 Khuyến nghị về quá trình nới lỏng kiểm soát trên thị
trường tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 89
5.2.5 Đưa vai trò nhà môi giới vào hệ thống thị trường tiền
tệ và ngoại hối . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 90

Dịch bởi EMISCOM vii °


c IIMA, tháng 3/2005
Danh mục hình vẽ

2.1 Hệ số tạo tiền và tỷ lệ DTBB . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 44


2.2 Tỷ lệ DTBB và dự trữ vượt . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 45
2.3 Tỷ lệ DTBB và lãi suất huy động vốn . . . . . . . . . . . . . . 46

3.1 Tỷ giá hối đoái của Việt Nam Đồng . . . . . . . . . . . . . . . 51


3.2 Lãi suất liên ngân hàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55
3.3 Lãi suất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 56
3.4 Số dư tiền gửi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 57

viii
Danh mục bảng biểu

2.1 Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21


2.2 Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
2.3 Tỷ lệ DTBB qua các thời kỳ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 47

3.1 Tỉ lệ dự trữ bắt buộc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 57

ix
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Dịch bởi EMISCOM x °


c IIMA, tháng 3/2005
Chương 1

Quá trình và Hoạt động

1.1 Mục tiêu của dự án


Trong khuôn khổ nghiên cứu năm trước theo uỷ quyền của Bộ Tài chính
Nhật Bản, “Đề xuất Cơ chế Tài trợ Thương mại bằng Yên Nhật cho Việt
Nam”, IIMA đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về việc sử dụng đồng yên
trong thanh toán và tài trợ thương mại ở Việt Nam. Kết quả cho thấy đôla
Mỹ chiếm vai trò chủ đạo trong các hoạt động này, thậm chí, còn được sử
dụng rộng rãi ngay cả trong các giao dịch nội địa. Mặt khác, IIMA rút ra kết
luận rằng đa dạng các loại tiền tệ sử dụng trong giao dịch quốc tế thông qua
sử dụng đồng yên rộng rãi hơn trong thanh toán và tài trợ thương mại sẽ
góp phần giảm bớt rủi ro được tạo ra bởi khả năng dễ tổn thương của nền
kinh tế và môi trường tài chính Việt Nam. Từ quan điểm này, nhóm nghiên
cứu đã xây dựng khuôn khổ trong đó tổ chức tài chính Nhật Bản cung cấp
khoản vay thương mại bằng đồng yên cho ngân hàng thương mại Việt Nam
để tiếp tục thực hiện tài trợ thương mại với các đơn vị xuất khẩu hoặc nhập
khẩu Việt Nam.

Trong năm nay, tiến xa hơn nghiên cứu trước, dự án nghiên cứu tính khả
thi của việc áp dụng mô hình này vào thực tế. Mặc dù không phải là tổ chức
tài chính trực tiếp tham gia vào các giao dịch đồng yên, IIMA được các bên
liên quan ủng hộ cùng trao đổi về độ khả thi của một giao dịch thử nghiệm
trong khuôn khổ này. Khi đề cập tới “tổ chức tài chính Nhật Bản”, người
đọc có thể hiểu rằng tổ chức này có thể thuộc về khu vực tư nhân hoặc khu
vực công cộng. Tuy nhiên, nhằm tận dụng sức sống của khu vực tư nhân,
nhóm nghiên cứu trước tiên giả định rằng ban đầu các ngân hàng thương
mại Nhật Bản (trong các phần sau được gọi là ngân hàng Nhật Bản) đang
hoạt động tại Việt Nam sẽ nới rộng các khoản vay thương mại bằng đồng
yên cho ngân hàng Việt Nam và ngân hàng này sẽ sử dụng khoản vay để tài
trợ thương mại cho các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu Việt Nam, mà không
cần hỗ trợ (giảm lãi suất, hỗ trợ tín dụng) từ khu vực công cộng (chính phủ

1
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

hoặc cơ quan chính phủ). Nghiên cứu tính khả thi của cơ chế này là mục
tiêu của dự án năm nay.

1.2 Hội thảo khởi động


1.2.1 Các nội dung dẫn tới hội thảo
IIMA đã làm việc với ông Nguyễn Quang Huy, Vụ trưởng, Vụ Hợp tác Quốc
tế, NHNN, giải thích nội dung của dự án và đề nghị được hợp tác. Ông Huy
đồng ý rằng đa dạng các loại tiền tệ, trong đó có đồng yên, sẽ góp phần ổn
định kinh tế, tài chính Việt Nam trong dài hạn và cơ chế tài trợ thương mại
bằng đồng yên không nên tính tới khả năng hỗ trợ từ khu vực công cộng
theo quan điểm đưa ra các điều kiện tín dụng ưu đãi cho ngân hàng Việt
Nam. Dựa trên tinh thần buổi thảo luận, nhóm nghiên cứu đã nhận được
ủng hộ hoàn toàn từ NHNN trong suốt quá trình triển khai dự án về sau.
NHNN và IIMA cùng khẳng định rằng việc giải thích rõ ràng và đầy đủ ý
tưởng của dự án tới các bên tham gia là vô cùng quan trọng. Do vậy, các
hoạt động triển khai và mục tiêu của dự án cần thường xuyên được kiểm
tra và đánh giá lại, cũng như không nên cứng nhắc với các nội dung định sẵn.

Hội thảo khởi động được tổ chức nhằm cập nhật tình hình môi trường
tài chính hiện thời và xây dựng phương thức xác định giao dịch thử nghiệm
thông qua ý tưởng của khu vực tư nhân. Nhóm nghiên cứu hiểu rằng sự góp
mặt của các đại biểu đến từ các cơ quan chính phủ, tổ chức tài chính, đơn vị
xuất nhập khẩu từ cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản tại hội thảo là rất quan
trọng. Được NHNN ủng hộ, đại biểu từ các tổ chức chính phủ hàng đầu (Bộ
Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại), các ngân hàng Việt Nam
lớn (4 ngân hàng thương mại quốc doanh, một số ngân hàng thương mại
cổ phần), đơn vị xuất nhập khẩu lớn được các ngân hàng thương mại Việt
Nam giới thiệu, đến từ Nhật Bản còn có đại điện của Bộ Tài chính Nhật Bản,
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), 4 ngân hàng thương mại Nhật
Bản đang hoạt động tại Việt Nam. Khoảng 50 đại biểu đã tham dự buổi hội
thảo tổ chức ngày 14/12 tại NHNN. Đại diện của NHNN và IIMA chia nhau
đảm nhiệm vị trí chủ tọa và phó chủ tọa hội thảo. Hội thảo gồm các nội
dung chính sau:
• Giới thiệu thành phần chủ tọa.
• Lợi thế của việc sử dụng đồng Yên trong tài trợ thương mại ở Việt Nam
(IIMA)
• Hệ thống tài chính và đổi mới hệ thống ngân hàng ở Việt Nam (Vụ
Chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNN)
• Cơ chế quản lý ngoại hối và quản lý vay nợ nước ngoài (Vụ Quản lý
Ngoại hối, NHNN)

Dịch bởi EMISCOM 2 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.2. HỘI THẢO KHỞI ĐỘNG

• Tài trợ thương mại tại ngân hàng thương mại Việt Nam và triển vọng
sự dụng đồng yên trong tài trợ thương mại tại Việt Nam (Vietcombank)

• Làm thế nào để tìm ra người sử dụng tiềm năng các khoản tài trợ
thương mại bằng đồng yên (IIMA)

• Ý kiến và thảo luận

1.2.2 Nội dung trình bày chính tại hội thảo


Chương trình hội thảo được xây dựng hướng tới mục tiêu xác định các giao
dịch thử nghiệm thanh toán bằng đồng yên hoặc tài trợ thương mại bằng
đồng yên. Nội dung của mỗi phần được trình bày như sau.
1. Ý kiến của Bộ Tài chính Nhật Bản
Bài phát biểu của đại diện Bộ Tài chính Nhật Bản được tóm tắt như
sau:
“Chúng tôi tin tưởng việc tăng cường sử dụng đồng yên trong thanh
toán và tài trợ thương mại sẽ mang lại lợi ích cũng như củng cố mối
quan hệ tốt đẹp cho cả hai phía, Việt Nam và Nhật Bản, bởi cách làm
này sẽ giảm thiểu rủi ro ngoại hối giữa Việt Nam và Nhật Bản, tận
dụng mức lãi suất thấp của đồng yên Nhật. Đây cũng là cách hạn chế
rủi ro do lệ thuộc vào một đồng tiền duy nhất như đã xảy ra trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á. Tài trợ thương mại bằng đồng yên là
biện pháp thực tế tăng cường việc sử dụng đồng yên. Năm trước, dự
án đã nghiên cứu các vấn đề cơ sở và mục tiêu của năm nay là nghiên
cứu khả thi nhằm hiện thực hóa các giao dịch thử nghiệm. Chúng tôi
hy vọng hội thảo này sẽ là chất xúc tác quan trọng để đạt được mục
tiêu này.”

2. Lợi thế của việc sử dụng đồng Yên trong tài trợ thương mại ở Việt Nam
(IIMA)
IIMA có bài trình bày giải thích ích lợi của việc sử dụng đồng yên trong
tài trợ thương mại ở Việt Nam.
Đôla Mỹ được sử dụng rộng rãi trong giao dịch và tài trợ thương mại
ở Việt Nam bởi đồng tiền được sử dụng phổ biến trên thế giới này rất
tiện dụng và tỷ giá đồng-đôla được giữ khá ổn định tại Việt Nam, nhờ
chính sách thả nổi có quản lý trong đó đồng Việt Nam được neo vào
đôla Mỹ với biên độ dao động nhỏ. Tuy nhiên, sử dụng đồng yên sẽ
mang lại hiệu quả trong việc giảm thiểu rủi ro và tạo môi trường ổn
định hơn. Đôla Mỹ dao động rất lớn với yên và euro, do vậy để duy
trì khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và bình ổn gánh nặng nợ
nước ngoài thông qua đa dạng tiền tệ, sử dụng yên bên cạnh đôla là
giải pháp hữu hiệu. Với cả khu vực công cộng và khu vực tư nhân,
dự trữ hạn mức tín dụng của các đồng tiền mạnh thông qua duy trì
khả năng của hạn mức tín dụng đồng yên trong giao dịch quốc tế là

Dịch bởi EMISCOM 3 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

rất quan trọng. Bên cạnh nhu cầu giảm thiểu rủi ro ngoại hối, đồng
yên còn có lợi thế về mức lãi suất thấp. Năng lực cạnh tranh xuất
khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật cũng tăng lên khi đồng yên được
sử dụng. Tài trợ thương mại bằng đồng yên là phương thức khai thác
đầy đủ các thế mạnh này.

3. Hệ thống tài chính và đổi mới hệ thống ngân hàng ở Việt Nam (Vụ
Chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNN)
Khi tìm hiểu khả năng triển khai cơ chế trong đó “ngân hàng Nhật Bản
cung cấp các khoản vay thương mại bằng đồng yên cho ngân hàng Việt
Nam để các ngân hàng này tiếp tục cung cấp tài trợ thương mại bằng
đồng yên cho khách hàng Việt Nam”, điều kiện tiên quyết là việc mở
rộng các khoản vay của ngân hàng Nhật Bản dành cho ngân hàng Việt
Nam. Để làm được điều đó, các ngân hàng Nhật Bản cần tìm được các
ngân hàng Việt Nam có tín dụng tốt làm đối tác và hệ thống tài chính
Việt Nam phải ổn định. Về khía cạnh này, NHNN có bài trình bày về
quá trình cải cách hệ thống ngân hàng và các triển vọng trong tương
lai. Bài trình bày đề cập tới nhiều khía cạnh chính sách khác nhau
như xử lý nợ xấu, nỗ lực tăng vốn cơ bản cho ngân hàng (bao gồm cả
việc bơm vốn từ khu vực công cộng), cải thiện quá trình lập pháp (bao
gồm việc hòa nhập với các tiêu chuẩn quốc tế), và kế hoạch tư nhân
hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh.

4. Cơ chế quản lý ngoại hối và quản lý vay nợ nước ngoài (Vụ Quản lý
Ngoại hối, NHNN)
Nhằm đẩy mạnh tài trợ thương mại bằng đồng yên trong khi phần
đông các giao dịch ngoại hối trên thị trường là đôla Mỹ, các giao dịch
ngoại hối với đồng yên cần được thực hiện thuận tiện. Để kiểm tra các
qui định có khả năng hạn chế giao dịch bằng đồng yên, nhóm nghiên
cứu đã đề nghị NHNN trình bày về vấn đề này. NHNN đã giải thích
khuôn khổ pháp lý, các chính sách quản lý ngoại hối cơ bản, hệ thống
giao dịch ngoại hối hiện tại, các qui định về tình trạng ngoại hối của
ngân hàng, can thiệp của NHNN vào thị trường, hiện trạng phát triển
thị trường ngoại hối và thị trường phái sinh. Dù chưa thể giải quyết
ngay, NHNN còn giải thích sâu hơn các chính sách trong tương lai
như (a) tự do hóa các giao dịch vốn và không can thiệp vào cơ chế thị
trường lành mạnh, (b) tăng tính linh hoạt của cơ chế tỉ giá nhằm hỗ
trợ xuất khẩu và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, (c) tự do
hóa các sản phẩm trên thị trường ngoại hối, và (d) khuyến khích sử
dụng Việt Nam đồng trong các giao dịch nội địa để khống chế đôla
hóa. NHNN khẳng định không có bất kỳ qui định cụ thể nào hạn chế
việc sử dụng đồng yên, và để đa dạng hóa các đồng tiền được sử dụng,
NHNN cho biết trên nguyên tắc, các chính sách được áp dụng sẽ từng
bước nới lỏng kiểm soát với các giao dịch ngoại hối. Ngoài giới thiệu

Dịch bởi EMISCOM 4 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.2. HỘI THẢO KHỞI ĐỘNG

về chính sách quản lý ngoại hối, bài trình bày còn đề cập tới khuôn
khổ pháp lý của hoạt động vay và trả nợ nước ngoài của cá ngân hàng
và các doanh nghiệp tư nhân.

5. Tài trợ thương mại tại ngân hàng thương mại Việt Nam và triển vọng
sự dụng đồng yên trong tài trợ thương mại tại Việt Nam (Vietcombank)
Vietcombank, ngân hàng có thị phần giao dịch thương mại quốc tế lớn
nhất Việt Nam, trình bày tổng quan hoạt động tài trợ thương mại ở
Việt Nam, và giải thích quan tâm của họ đối với tài trợ thương mại
bằng đồng yên. Vietcombank cho biết, giao dịch và tài trợ thương mại
chủ yếu được thực hiện bằng đôla là bởi đôla được sử dụng phổ biến
và tỷ giá đồng-đô là ổn định trong khi tỉ giá đồng-yên lại giao động
phụ thuộc vào tỷ giá yên-đôla. Vì các lý do đó, mặc dù ghi nhận các
ưu thế của đồng yên, vẫn không có nhiệt tình thực sự để đẩy mạnh
các giao dịch đồng yên trong thương mại hoặc tài trợ thương mại. Để
thay đổi lối nghĩ này cần (a) tăng hạn mức tín dụng đồng yên từ các
ngân hàng Nhật Bản, (b) tăng tính thanh khoản của đồng yên trên thị
trường ngoại hối và thị trường phái sinh nhằm phòng ngừa các rủi ro
liên quan tới việc sử dụng đồng yên, (c) hình thành các hình thức quỹ
hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể sử dụng đồng
yên trong tài trợ thương mại, (d) tăng cường các hoạt động hợp tác
bao gồm trao đổi thông tin giữa hai quốc gia ở các độ ngân hàng, nhà
xuất khẩu và nhà nhập khẩu.

6. Làm thế nào để tìm ra người sử dụng tiềm năng các khoản tài trợ
thương mại bằng đồng yên (IIMA)
Tiếp theo các bài trình bày trên, IIMA nhấn mạnh các ngân hàng Việt
Nam và các đơn vị kinh doanh thương mại trong quá trình tìm kiếm
và giới thiệu tới các khách hàng tiềm năm cần lưu ý rằng đây là một
sáng kiến của khu vực tư nhân. Mặc dù có hai cách tiếp cận từ khu vực
tư nhân hoặc khu vực công cộng nhưng các thảo luận hiện tại đang tập
trung vào các ý tưởng của khu vực tư nhân đối với giao dịch thương
mại. Do vậy, một nguyên tắc được hình thành là sẽ không có bất kỳ sự
can thiệp nào của khu vực công cộng như đóng vai trò người bảo lãnh
hay tổ chức trung gian. Các khoản vay sẽ tuân theo các qui tắc thương
mại thông thường khi ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Nhật Bản
trực tiếp đàm phán và thỏa thuận. Rủi ro tín dụng của các đơn vị xuất
nhập khẩu Việt Nam sẽ do các ngân hàng Việt Nam đảm nhận, điều
này có nghĩa là các ngân hàng sẽ phải đánh giá cẩn thận khả năng tín
dụng các khách hàng của mình.

1.2.3 Phần hỏi đáp


Dưới đây là các ý kiến trao đổi sau khi kết thúc các bài trình bày.

Dịch bởi EMISCOM 5 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

1. Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN.


Dòng vốn chảy vào Việt Nam mang theo nhiều đơn vị tiền tệ khác
nhau bên cạnh đôla Mỹ trong các giao dịch vốn như ODA, do vậy hình
thành nên các khoản nợ phi đôla ở Việt Nam. Mặt khác, giao dịch tài
khoản vãng lai bao gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu lại chủ yếu được
thực hiện bằng đôla. Rõ rằng là sự mất cân đối này không hề được
mong đợi và để loại trừ rủi ro, các biện pháp cho phép tự do sử dụng
các sản phẩm phòng ngừa rủi ro được khuyến khích. Nhờ đó, các loại
tiền tệ khác ngoài đôla Mỹ được sử dụng dễ dàng hơn trong các giao
dịch tài khoản vãng lai. Các dự án thí điểm với các sản phẩm phái
sinh, như quyền chọn (options), đã được triển khai tại một số ngân
hàng thương mại và các giao dịch thử nghiệm đang được kiểm và và
nghiên cứu nhằm tiếp tục nới lỏng các biện pháp quản lý.

2. Một đại biểu Việt Nam đặt câu hỏi nhằm làm rõ khoản tài trợ thương
mại bằng đồng yên là dài hạn hay ngắn hạn và các khoản vay thương
mại này có nhận được sự hỗ trợ gì từ khu vực công cộng của Nhật Bản
hay không. IIMA giải thích rằng tài trợ thương mại bằng đồng yên
đang được giải thích là ý tưởng xuất phát từ khu vực tư nhân và không
có sự hỗ trợ nào từ khu vực công cộng, các điều kiện cho vay như kỳ
hạn và các điều khoản khác sẽ được xác định trên cơ sở đàm phán giữa
người vay và người cho vay.

3. Một đại biểu Nhật Bản đưa ra câu hỏi về các vấn đề có thể phát sinh
(kỹ thuật hoặc luật pháp) khi ngân hàng Việt Nam mở rộng tài trợ
thương mại bằng đồng yên và các sản phẩm phòng ngừa rủi ro. Đại
diện của một ngân hàng thương mại Việt Nam đã trả lời rằng chỉ có
thể cung cấp các khoản tài trợ thương mại bằng đôla Mỹ. Tuy nhiên,
các khách hàng Việt Nam thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết
trong việc phòng ngừa các rủi ro ngoại hối.

4. Một vài đại diện từ các ngân hàng Việt Nam bình luận rằng giao dịch
đồng yên có nhiều rủi ro hơn trong thương mại và tài trợ thương mại
bởi tỷ giá đồng-yên dao động theo tỷ giá yên-đôla trên thị trường. Một
số ý kiến cho rằng để thúc đẩy tài trợ thương mại bằng đồng yên ở
Việt Nam, một số biện pháp khuyến khích như ủng hộ từ khu vực công
cộng dưới dạng bảo lãnh hay giảm mức lãi suất áp dụng, là cần thiết
để bù đắp cho các rủi ro trong giao dịch đồng yên.

5. Một ngân hàng Nhật Bản nêu cầu hỏi nếu thuế thu nhập được tính
vào chi phí, thuế suất được áp dụng sẽ là bao nhiêu trong trường hợp
nguồn vốn được huy động bên ngoài Việt Nam để mở rộng các khoản
vay thương mại bằng đồng yên cho Việt Nam. Họ muốn có thông tin
về điều kiện hiện tại và định hướng tương lai của vấn đề này. Họ cũng

Dịch bởi EMISCOM 6 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.3. QUẢN LÝ DỰ ÁN TRÊN CƠ SỞ HỘI THẢO KHỞI ĐỘNG

yêu cầu cải thiện công bố thông tin bởi thông tin chính xác về các ngân
hàng thương mại là điều kiện cần thiết để ra quyết định cho vay.

1.2.4 Kết luận của hội thảo.


1. Chủ tọa từ phía IIMA đưa ra các nhận xét sau. Sau buổi làm việc này,
đề nghị các ngân hàng Nhật Bản và Việt Nam bắt đầu liên lạc trao đổi
các vấn đề liên quan tới tài trợ thương mại bằng đồng yên. Mặc dù
các liên lạc nên được tiến hành trực tiếp, IIMA sẽ cung cấp các thông
tin cần thiết có ích cho quá trình tìm kiếm các khách hàng tiềm năng.

2. Chủ tọa từ phía NHNN đưa ra các nhận xét sau. Qua buổi làm việc
này, các ngân hàng Nhật Bản đã thể hiện mối quan trong việc phát
triển quan hệ kinh doanh với các ngân hàng Việt Nam. Bắt đầu từ giai
đoạn này, thảo luận sẽ được thay thế bằng đàm phán kinh doanh. Các
bên cần luôn tự nhắc mình rằng tài trợ thương mại bằng đồng yên chỉ
có thể hoạt động khi thực sự tồn tại nhu cầu này. NHNN mong muốn
hỗ trợ ý tưởng phát triển xa hơn cũng như chứng kiến các kết quả thực
tế của hội thảo. Các nội dung thảo luận cần được truyền đạt tới các
đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam để họ có thể thấy rõ các ưu thế của
tài trợ thương mại bằng đồng yên.

3. Chủ tọa từ phía NHNN đề xuất buổi gặp gỡ tiếp theo sẽ thảo luận về
cách thức tìm kiến người sử dụng tiềm năng các khoản tài trợ thương
mại và bày tỏ hy vọng các đại biểu sẽ tiếp tục tham dự một buổi hội
thảo sau khi các vấn đề được nêu ra trong hội thảo lần này được nghiên
cứu. Chủ tọa từ phía Nhật Bản nhất trí với các đề xuất này.

1.3 Quản lý dự án trên cơ sở hội thảo khởi động


Trên cơ sở các kết luận của hội thảo khởi động dự án, NHNN và IIMA thảo
luận các hoạt động cần triển khai tiếp theo hội thảo. Các nội dung được
quyết định gồm có: <1> NHNN và IIMA cùng nhau hình thành các nhóm
công tác trong ba vấn đề lớn, mỗi nhóm công tác sẽ nghiên cứu vấn đề được
giao đến tháng ba, <2> kết qua nghiên cứu của các nhóm công tác sẽ được
trình bày tại hội thảo kết thúc dự án vào tháng ba.

Bên cạnh đó IIMA sẽ tiến hành khảo sát và thu thập ý kiến từ các ngân
hàng Nhật Bản trong tháng một để xác định các vấn đề và câu hỏi cần nghiên
cứu và trả lời thêm. Các ngân hàng Nhật Bản đưa ra một số bình luận sau.

Phải thừa nhận thực tế rằng nhờ vấn đề nợ quá hạn của Vietcombank đã
được giải quyết và môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi tiếp tục được duy trì,
môi trường tín dụng để mở rộng các khoản vay cho ngân hàng Việt Nam đã
được cải thiện đáng kể. Tiến hành thử nghiệm các giao dịch tài trợ thương

Dịch bởi EMISCOM 7 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

mại bằng đồng yên theo đề xuất từ ngân hàng Việt Nam là rất đáng xem
xét, mặc dù, không cần phải nói, việc đánh giá tín dụng cần được thực hiện
chặt chẽ hơn. Mặt khác, rất khó định vị nhu cầu thực sự về tài trợ thương
mại bằng đồng yên của các đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam bởi biến động
của tỷ giá đồng-yên lớn hơn rất nhiều tỷ giá đồng-đôla. Các khách hàng của
ngân hàng Nhật Bản phần lớn mang quốc tịch Nhật do đó họ gặp nhiều khó
khăn hơn trong việc hiểu biết đầy đủ thực trạng thị trường nội địa. Thu thập
thông tin là rất quan trọng, cũng như cần thiết phải cần nhắc việc khai thác
nhu cầu như thế nào.

Trên cơ sở các ý kiến này, IIMA quyết định khảo sát tổng quan hơn về
thị trường tài chính và thị trường ngoại hối Việt Nam, nền tảng cơ sở cho
các giao dịch đồng yên phục vụ thanh toán và tài trợ thương mại. NHNN,
trong hội thảo khởi động dự án, cũng trình bày rằng họ đang từng bước tự
do hóa hoạt động ngoại hối và các sản phẩm phái sinh như một biện pháp
đa dạng hóa tiền tệ với các giao dịch quốc tế. Tầm quan trọng của việc cải
thiện cơ sở hạ tầng thị trường để có thể đẩy mạnh giao dịch bằng đồng yên
cũng được chỉ ra.

Nhiệm vụ của các nhóm công tác được phân công như sau. Nhóm 1 gồm
các thành viên Việt Nam và Nhật Bản. Nhóm 2 gồm các thành viên Việt
Nam. Nhóm 3 gồm các thành viên Nhật Bản. Thành viên từ cả hai nước sẽ
hợp tác chặt chẽ để đạt tới các kiến quả nghiên cứu cuối cùng.

1.3.1 Nhóm công tác 1


1. IIMA, không phải là tổ chức tài chính, do đó không thể trực tiếp tham
dự đàm phán thương mại giữa các ngân hàng Việt Nam và Nhật Bản.
Nhưng IIMA sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu về ngân hàng Việt
Nam, ngân hàng Nhật Bản, các tổ chức xuất khẩu và nhập khẩu Việt
Nam, công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam nhằm xác định
cơ hội triển khai thí điểm tài trợ thương mại bằng đồng yên.

2. Theo như các bài trình bày “Đổi mới hệ thống ngân hàng”, “Cơ chế
quản lý ngoại hối”, và “Vay và trả nợ nước ngoài” của NHNN tại hội
thảo khởi động dự án, IIMA đề nghị NHNN chuẩn bị các báo cáo chi
tiết về các chủ đề này (xem chương 2). Đặc biệt với báo cáo về “Đổi
mới hệ thống ngân hàng”, IIMA yêu cầu có thêm phần về quá trình tư
nhân hóa các ngân hàng quốc doanh. Trong báo cáo về “Cơ chế quản
lý ngoại hối”, IIMA yêu cầu đề cập tới quá trình nới lỏng kiểm soát với
các giao dịch ngoại tệ.

3. IIMA tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu về thị trường tài chính và ngoại
hối để làm rõ các điều kiện của thị trường nội địa cần được cải thiện
như thế nào để thúc đẩy sử dụng đồng yên trong thị trường nội địa.

Dịch bởi EMISCOM 8 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.4. HỘI THẢO VỀ QUẢN LÝ RỦI RO NGOẠI HỐI VÀ CÁC THÔNG LỆ
THỊ TRƯỜNG
IIMA sẽ đưa ra các kiến nghị về hoàn thiện thị trường tài chính và
ngoại hối nhằm hỗ trợ tài trợ thương mại bằng đồng yên.

1.3.2 Nhóm công tác 2


Nhóm công tác 2 nghiên cứu các vấn đề được đưa ra trong hội thảo liên
quan tới chi phí giao dịch tài chính bằng đồng yên, như thuế thu nhập đối
với nguồn vốn huy động từ nước ngoài và tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi
ngoại tệ.

1.3.3 Nhóm công tác 3


Nhóm công tác 3 sẽ tổ chức các buổi thảo luận về quản lý rủi ro hối đoái với
ngân hàng Việt Nam, đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam, qua đó, giúp các tổ
chức này sẵn sàng với các tình huống mới của thị trường, mang lại nhiều rủi
ro ngoại hối hơn.

1.4 Hội thảo về quản lý rủi ro ngoại hối và các


thông lệ thị trường
Theo chương trình làm việc của các nhóm công tác, IIMA đã tổ chức hội
thảo về quản lý rủi ro ngoại hối và thông lệ thị trường với sự tham dự của
hơn 40 đại biểu đến từ các ngân hàng thương mại, tổ chức xuất nhập khẩu
Việt Nam và các quan chức của NHNN.

Sau buổi hội thảo, các câu hỏi được đặt ra như sau.

1. Qui định hiện tại của NHNN về trạng thái ngoại hối không đề cập tới
đầu tư bằng ngoại tệ. Chênh lệch trạng thái ngoại hối giữa tài sản và
nguồn vốn sẽ được được kiểm soát và quản lý như thế nào? Việc tính
toán cân đối tài sản và nguồn vốn theo từng loại tiền riêng biệt có phù
hợp không?

2. Các đại biểu ngân hàng Việt Nam phát biểu rằng khách hàng của họ,
phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không thực hiện các nghiệp vụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Ngân hàng nên đào tạo quản lý rủi ro
ngoại hối với khách hàng như thế nào? Các sản phẩm nào thường
được sử dụng để phòng ngừa rủi ro ngoại hối? Kinh nghiệm Nhật Bản
trong trường hợp này như thế nào?

3. Cách đây 2 năm, một tổ chức giống như hiệp hội kinh doanh ngoại
hối đã được thành lập, thực hiện chức năng như một ủy ban giám sát
với các thị trường quốc tế lớn. Tuy nhiên, do thiếu hỗ trợ tài chính,
tổ chức này đã giải thể. Liệu có khả năng hỗ trợ tài chính cho tổ chức
này từ Nhật Bản không?

Dịch bởi EMISCOM 9 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

4. Trong phần hỏi đáp, nhóm nghiên cứu ghi nhận mức phí ngân hàng
thương mại Việt Nam áp dụng cho cho một khoản tín dụng thông
thường với hợp đồng ngoại hối là 1%.

Sau hội thảo, một số đại biểu đưa ra câu hỏi về kế hoạch tổ chức các nghiên
cứu cụ thể về quản lý rủi ro ngoại hối.

1.5 Hội thảo tổng kết


Hội thảo tổng kết được tổ chức vào ngày 10/3 như hoạt động tiếp sau hội
thảo khởi động, báo cáo kết quả các nghiên cứu của các nhóm công tác và
thảo luận sâu hơn các vấn đề đã được trình bày. Hình thức tổ chức hội thảo
giống với hội thảo khởi động với sự tham gia của NHNN, các cơ quan liên
quan, các ngân hàng thương mại, các đơn vị xuất nhập khẩu lớn, ngân hàng
thương mại Nhật Bản. Chủ tọa hội thảo gồm có quan chức Việt Nam và IIMA.

Chương trình hội thảo được trình bày như sau.

• Diễn văn khai mạc (Vụ HTQT, NHNN)

• Nghiên cứu khả thi tài trợ thương mại bằng đồng yên và các vấn đề
liên quan (IIMA)

• Vấn đề thuế với chuyển vốn ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam (Bộ Tài
chính Việt Nam)

• Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc với ngoại tệ (NHNN)

• Khó khăn, thách thức và cơ hội khi sử dụng tài trợ thương mại bằng
đồng yên (Tổng công ty Than Việt Nam)

• Thảo luận

• Phát biểu bế mạc (IIMA)

1.5.1 Nội dung hội thảo


1. Trong phần “Nghiên cứu khả thi tài trợ thương mại bằng đồng yên và
các vấn đề liên quan”, IIMA đánh giá lại các bước phát triển của dự án
kể từ năm 2003 và tóm tắt các kết quả như sau.

• Tài trợ thương mại bằng đồng yên là một lựa chọn hợp lý trong
trường hợp giao dịch được thanh toán bằng đồng yên. Ngoại trừ
trường hợp này, sử dụng đồng yên sẽ làm tăng rủi ro ngoại hối
bởi tỷ giá đồng-yên không ổn định so với tỷ giá đồng-đôla. Lý
do đôla Mỹ được sử dụng phổ biến không chỉ bởi tính thuận tiện
của nó mà còn vì tỷ giá đồng-đôla được giữ ổn định trong cơ chế

Dịch bởi EMISCOM 10 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.5. HỘI THẢO TỔNG KẾT

ngoại hối của Việt Nam. Nếu chính sách thả nổi có quản lý hiện
tại của Việt Nam đối với tỷ giá đồng-đôla được áp dụng linh hoạt
hơn trong tương lai, các đơn vị xuất nhập khẩu sẽ có xu hướng
sử dụng yên hoặc euro nhiều hơn đa dạng hóa rủi ro ngoại hối,
trong trường hợp đó, sử dụng các sản phẩm phòng ngừa rủi ro
bằng ngoại tệ thậm chí còn trở nên quan trọng hơn.
• Nới lỏng kiểm soát giao dịch ngoại hối cần được tiếp tục và hỗ
trợ giao dịch không chỉ với đô là mà còn với các đồng tiền khác
trong đó có yên Nhật. Củng cố cơ sở hạ tầng cho tài trợ thương
mại bằng đồng yên trên thị trường tài chính và thị trường ngoại
hối, cũng như khuyến khích giao dịch với các đồng tiền khác. Các
thay đổi này sẽ cải thiện cơ chế thị trường đối với thị trường ngoại
hối và tài chính, đồng thời, nâng cao hiệu quả toàn bộ hệ thống
tài chính, qua đó, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam.
• Cải cách ngân hàng và tự do hoá các giao dịch ngoại hối cần giữ
được thăng bằng, thực hiện từng bước và hài hòa với các biện
pháp đổi mới khác như các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp
quốc doanh nhằm xây dựng hệ thống tài chính vững chắc, cũng
chính là, xây dựng môi trường thuận lợi cho mở rộng tài trợ
thương mại bằng đồng yên.

Sau phần này, kết quả làm việc của nhóm công tác 1 được trình bày
để thảo luận sâu hơn. IIMA đề nghị các chủ đề cần có nhận thức rõ
rằng hơn và thông tin mà IIMA đã thu thập được về điều kiện hiện tại
của thị trường cũng như các thông lệ tài trợ thương mại đối với khách
hàng (ví dụ: mức lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đôla Mỹ, bằng đồng
Việt Nam, phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng của khách hàng, khả
năng chuyển từ đôla Mỹ sang yên, . . . ), hoạt động giao dịch hiện tại
trên thị trường liên ngân hàng đối với các khoản vay ngắn hạn và trao
đổi ngoại tệ, môi trường thị trường hiện tại với tiền gửi đôla, quan
điểm hiện tại của các cơ quan quản lý nhà nước, ngân hàng thương
mại và công ty tư nhân đối với hoạt động phòng ngừa rủi ro. IIMA
đề nghị các đại biểu cho ý kiến về các vấn đề trên, và trình bày trong
chương 2 và các chương sau của báo cáo.

2. Nội dung chi tiết các bài trình bày về “Vấn đề thuế với chuyển vốn
ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam” của đại diện Bộ Tài chính Việt Nam
và “Dự trữ bắt buộc với ngoại hối” của đại diện NHNN được trình bày
trong chương 2. Nhóm nghiên cứu có thể xác nhận đồng yên được đối
xử công bằng như với đôla Mỹ và các đồng tiền khác đối với thuế thu
nhập và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

3. Bài trình bày về “Khó khăn, thách thức và cơ hội khi sử dụng tài trợ
thương mại bằng đồng yên” của đại biểu đến từ Tổng công ty Than Việt

Dịch bởi EMISCOM 11 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG

Nam, đại diện cho các đơn vị xuất khẩu lớn một lần nữa nhắc lại lý do
sử dụng hạn chế đồng yên là tính biến động cao của tỷ giá đồng-yên.
Mặc dù, việc sử dụng đôla Mỹ vẫn chiếm ưu thế, trong những năm
qua, euro đã được sử dụng nhiều hơn.

1.5.2 Hỏi đáp


Tiếp sau các bài trình bày, các đại biểu Việt Nam đưa ra các nhận xét sau.
Mặc dù đã được giải thích rằng các khoản tài trợ thương mại bằng đồng yên
trong khuôn khổ dự án này được cung cấp trên cơ sở thương mại và không
có bất kỳ hỗ trợ nào từ khu vực công cộng, vẫn có những nhầnm lẫn về tính
chất cơ bản này của dự án và một số câu hỏi nêu ra với kỳ vọng sẽ có được
sự hỗ trợ từ khu vực công cộng để bảo lãnh cho các đơn vị xuất nhập khẩu
Việt Nam.

Trong phần này, nhóm nghiên cứu khẳng định chắc chắn rằng chính
sách của NHNN là khuyến khích đa dạng các loại tiền tệ trên thị trường và
NHNN đang thực hiện các chính sách đó bằng những bước đi cụ thể.

1. Thành công của dự án tài trợ thương mại bằng đồng yên phụ thuộc
vào phát triển thị trường tài chính của Việt Nam. Vẫn thiếu những
hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm quản lý rủi ro ngoại hối (bao gồm
cả các sản phẩm có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro trong giao dịch
đồng yên) tại Việt Nam.

2. Người Việt Nam ưu chuộng hàng hóa Nhật Bản nhưng sử dụng đồng
yên lại là chuyện khác. Khoảng 90% các giao dịch ngoại thương được
thực hiện bằng đôla Mỹ nhưng 8 đến 10 loại tiền tệ khác được sử
dụng. Tuy nhiên, sự bất ổn của tỷ giá yên-đồng do biến động của tỷ giá
yên-đôla là lý do chính hạn chế tài trợ thương mại bằng đồng yên. Bên
cạnh đó, ký ức tồi tệ về việc các khoản nợ bằng đồng yên bị tăng lên
nhiều lần do đồng yên tăng giá trong quá khứ vẫn còn ám ánh nhiều
người.

3. Mặc dù tồn tại cận trên của lãi suất tiền gửi đối với đôla của doanh
nghiệp, lãi suất tiền gửi đối với các ngoại tệ khác không bị điều chỉnh.
Các qui định sẽ được điều chỉnh theo hướng linh hoạt và gần với thị
trường hơn.

4. Khuôn khổ pháp lý dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế đang được phát
triển đối với các giao dịch phòng ngừa rủi ro.

5. Cần có nhiều thông tin chi tiết hơn liên quan tới tài trợ thương mại
bằng đồng yên như lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, bảo lãnh và thế
chấp, . . . Cũng như xác định người chịu trách nhiệm thanh toán trong
trường hợp tổ chức xuất nhập khẩu Việt Nam không trả được nợ.

Dịch bởi EMISCOM 12 °


c IIMA, tháng 3/2005
1.5. HỘI THẢO TỔNG KẾT

6. Các lợi ích và hạn chế của sử dụng tài trợ thương mại bằng đồng yên là
gì? Sẽ hiệu quả hơn nếu nghiên cứu được tiến hành với một mô hình
thử nghiệm và đến nay, nhóm nghiên cứu đã hiểu được rất nhiều khó
khăn trong việc mở rộng tài trợ thương mại bằng đồng yên.

7. Nhóm nghiên cứu cần xác định các bước đi cụ thể để từng bước đẩy
mạnh tài trợ thương mại bằng đồng yên. Tranh luận về vấn đề này
vẫn chưa thể kết thúc và cần nhiều sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong
dự án này.

8. Dường như có rất nhiều điểm liên lạc cho hợp tác giữa các đơn vị ra
quyết định phía Nhật Bản và NHNN để điều phối dự án. Các bên cần
hợp tác chặt chẽ hơn, mọi ý kiến đóng góp và kiến nghị đều được hoan
nghênh.

Trong cuộc hội thảo này và các buổi làm việc sau đó, một vài kế hoạch
khác được bàn đến và sẽ được trình bày trong chương 5.

Dịch bởi EMISCOM 13 °


c IIMA, tháng 3/2005
Chương 2

Môi trường Tài trợ Thương


mại bằng Yên Nhật tại Việt
Nam

Nhóm nghiên cứu đã yêu cầu NHNN và Bộ Tài chính Việt Nam cho ý kiến
về các vấn đề quan trọng cần xem xét đối với tài trợ thương mại bằng đồng
yên tại Việt Nam. Vai trò quan trọng và nội dung chính của các vấn đề này
được nêu trong chương 1.

2.1 Giới thiệu về hệ thống ngân hàng và quá trình


cải cách ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNN

2.1.1 Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam


2.1.2 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ
và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; hoạt động
của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.

Hệ thống Ngân hàng Nhà nước gồm:


- Ngân hàng Nhà nước Trung ương (trụ sở tại Hà Nội);
- Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước đóng tại các tỉnh, thành phố;
- Văn phòng đại diện tại nước ngoài.

14
2.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ QUÁ TRÌNH CẢI
CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
VỤ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG, NHNN

Các ngân hàng thương mại Việt Nam


Các ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam gồm:

- 05 ngân hàng thương mại nhà nước;

+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;


+ Ngân hàng Công thương Việt Nam;
+ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam;
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam;
+ Ngân hàng Nhà đồng bằng Sông Cửu Long;

- 36 ngân hàng thương mại cổ phần,

- 04 ngân hàng liên doanh,

- 28 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Ngoài ra còn có 01 Ngân hàng Chính sách xã hội và một số công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân.

2.1.3 Vị trí pháp lý và thị phần của các ngân hàng


Vị trí pháp lý
- Các Ngân hàng Việt Nam, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ
chức tài chính, quỹ tín dụng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Việt
Nam và được đối xử như nhau trước pháp luật.

- Các ngân hàng thương mại có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.

- Các khoản tiền gửi của công chúng được mua bảo hiểm tiền gửi.

Về thị phần
Thực tế 05 ngân hàng thương mại nhà nước chiếm tới 3/4 tổng nguồn vốn
huy động và cho vay; phần còn lại là của các NHTM cổ phần, các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tín dụng khác.

2.1.4 Tình hình cải cách hệ thống ngân hàng


Đối tượng cải cách
Tập trung vào các NHTM nhà nước và NHTM cổ phần.

Dịch bởi EMISCOM 15 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

Mục tiêu cải cách


- Tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh;

- Tăng cường khả năng quản trị, điều hành, nâng cao hiệu quả hoạt
động;

- Xây dựng các ngân hàng thương mại Việt Nam đủ mạnh để có thể hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

Nội dung cải cách


1. Đối với các NHTM nhà nước.

• Cơ cấu lại tài chính.


+ Cấp bổ sung vốn điều lệ để tăng vốn, bảo đảm các tỷ lệ an
toàn vốn;
+ Xử lý các khoản nợ không sinh lời, làm sạch bảng tổng kết
tài sản:
(i) Xây dựng cơ chế đặc biệt để xử lý nợ tồn đọng phát sinh
trước 31/12/2000;
(ii) Phân loại và xử lý nợ xấu theo sát với thông lệ quốc tế.
• Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động:
+ Tách bạch cho vay chính sách và cho vay thương mại;
+ Hoàn thành Chiến lược kinh doanh và Sổ tay tín dụng;
+ Thành lập Bộ phận chuyên trách để quản lý rủi ro, quản lý
tài sản nợ/có;
+ Xây dựng hệ thống thông tin quản lý;
+ Hoàn thiện bộ máy kiểm tra kiểm toán nội bộ;
+ Thực hiện kiểm toán theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế,
• Xây dựng Đề án cổ phần hoá các NHTM nhà nước, trước mắt
tập trung vào thực hiện cổ phần hoá 02 ngân hàng là Ngân hàng
Ngoại thương và Ngân hàng Nhà đồng bằng Sông Cửu Long.

2. Đối với các NHTM cổ phần.

• Tăng vốn để mở rộng quy mô kinh doanh:


+ Sáp nhập, hợp nhất các NHTMCP nhỏ thành NHTMCP lớn;
+ Kêu gọi các cổ đông góp thêm vốn hoặc phát hành cổ phiếu
để huy động vốn;
• Xử lý nợ xấu:
+ Trích lập dự phòng rủi ro;
+ Xử lý tài sản bảo đảm, tận thu nợ từ khách hàng;

Dịch bởi EMISCOM 16 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ QUÁ TRÌNH CẢI
CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
VỤ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG, NHNN

+ Cơ cấu lại nợ dưới các hình thức: Bán nợ, chuyển thành vốn
góp, giãn nợ, đầu tư thêm. . .
3. Xây dựng cơ chế, quy định để thúc đẩy cải cách ngân hàng.
Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt các Đề án
• Đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, tập trung
mọi nguồn lực để xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu phát sinh trước
31/12/2000.
• Phê duyệt các Đề án cơ cấu lại NHTM nhà nước;
• Đề án cơ cấu lại các NHTM nhà nước giai đoạn 2001- 2010, với
mục tiêu các NHTM nhà nước sẽ đạt đầy đủ các chỉ số của một
ngân hàng hiện đại để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
• Phê duyệt Đề án chấn chỉnh, củng cố, sắp xếp lại các NHTM cổ
phần để khắc phục các tồn tại yếu kém trong hoạt động của các
NHTM cổ phần trước đây, hình thành các NHTM cổ phần lớn
mạnh, đủ sức cạnh tranh.
• Xây dựng Đề án cổ phần hoá các NHTM nhà nước, đạt các mục
tiêu:
+ Tăng cường năng lực quản trị điều hành, và hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử
dụng vốn.
+ Tăng cường năng lực tài chính đảm bảo an toàn hoạt động
và phát triển.
+ Nâng cao sức cạnh tranh của NHTM nhà nước trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng.
+ Tối đa hoá lợi ích của Nhà nước.
4. Rà soát để chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới các quy định pháp lý về
tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại theo sát với thông
lệ quốc tế:
+ QQuy định về phân loại nợ theo thông lệ quốc tế (phân tích khách
hàng) làm cơ sở để đánh giá chất lượng tín dụng, hạch toán kế
toán và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro;
+ + Quy định về vốn tự có và xác định các tỷ lệ an toàn trong hoạt
động ngân hàng theo các chuẩn mực xác định tại Basel 1, Basel 2.
+ Quy định về bắt buộc kiểm toán độc lập đối với các Báo cáo tài
chính của các ngân hàng; khuyến khích việc thuê các công ty kiểm
toán độc lập quốc tế thực hiện kiểm toán theo tiêu chuẩn kế toán
quốc tế cho các năm tài chính, và xử lý dứt điểm các tồn tại, yếu
kém rút ra từ báo cáo kiểm toán này.
+ Mở rộng quyền tự chủ về tài chính, tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về các quyết định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Dịch bởi EMISCOM 17 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

2.1.5 Kết quả bước đầu của quá trình cải cách ngân hàng
Cơ cấu mô hình tổ chức và hoạt động
- Các NHTM nhà nước tách bạch tín dụng chính sách khỏi hoạt động
kinh doanh;

- Hoàn thành Sổ tay tín dụng và Chiến lược kinh doanh; thành lập các
bộ phận chuyên trách để quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ/có; tiến
hành xây dựng hệ thống thông tin quản lý với sự trợ giúp kỹ thuật của
một số tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới…; nâng cấp hệ thống
thanh toán; xây dựng quy trình nghiệp vụ đối với dịch vụ phát hành
và quản lý thẻ ngân hàng, phát hành thẻ thanh toán, thẻ tín dụng nội
địa, dần tiến tới phát hành thẻ quốc tế;

- Xây dựng bộ máy kiểm tra kiểm toán nội bộ, để đảm bảo tính độc lập,
khách quan của công tác kiểm toán nội bộ theo sát chuẩn mực quốc
tế;

- Thực hiện kiểm toán theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế (do các Công ty
kiểm toán quốc tế thực hiện) cho các năm tài chính, xử lý các tồn tại,
yếu kém rút ra từ báo cáo kiểm toán này.

* Các NHTM cổ phần cũng tích cực, củng cố sắp xếp, từ hơn 50 NHTM
cổ phần trước thời điểm năm 2000 đến nay chỉ còn 36 NHTM cổ
phần, với quy mô vốn lớn hơn, mô hình tổ chức bộ máy gọn nhẹ,
không ngừng mở rộng và hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ, chú trọng
quản trị rủi ro, nâng cao chất lương tín dụng, hiệu quả hoạt động kinh
doanh.

Cơ cấu lại tài chính


- Về cấp bổ sung vốn điều lệ:
Đến nay các NHTM nhà nước đã được Bộ Tài chính cấp bổ sung vốn
điều lệ với tổng số tiền gần 13.000 tỷ đồng từ nguồn Trái phiếu đặc
biệt của Chính phủ và các nguồn khác, đưa tổng số vốn điều lệ của các
NHTM nhà nước lên đến hơn 17.000 tỷ đồng Việt Nam, từng bước
nâng cao vốn tự có, cải thiện đáng kể tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo
sát với thông lệ quốc tế (8%).
Các NHTM cổ phần cũng liên tục phát hành cổ phiếu để huy động vốn
của các cổ đông và công chúng. Hầu hết các NHTM cổ phần đều đạt
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.

- Về xử lý nợ tồn đọng:
Đã cơ bản xử lý được hơn 90% tổng số nợ tồn đọng phát sinh trước
31/12/2000 từ các biện pháp tự xử lý (thu hồi bằng tiền, xử lý tài sản,

Dịch bởi EMISCOM 18 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ QUÁ TRÌNH CẢI
CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
VỤ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG, NHNN

sử dụng dự phòng rủi ro,. . . ) và Chính phủ hỗ trợ xử lý từ nguồn ngân


sách nhà nước. Hiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại đạt
dưới 5% trên tổng dư nợ (theo chuẩn mực kế toán Việt Nam).

2.1.6 Triển vọng của khu vực ngân hàng trong thời gian tới
Tính đến 31/12/2004, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã giải quyết
cơ bản các tồn tại cũ, tạo tiền đề để thực hiện các biện pháp cải cách mạnh
mẽ, triệt để hơn trong giai đoạn tới: khi Việt Nam gia nhập WTO và thực
hiện lộ trình mở cửa theo Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Việt Nam cần
phải đẩy mạnh tự do hoá các dịch vụ của khu vực tài chính, dịch vụ ngân hàng.

Thời gian tới sẽ xuất hiện nhiều ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam với nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Điều này đòi hỏi, hệ
thống ngân hàng Việt Nam phải thực hiện khẩn trương nhiều cải cách:
• Về chính sách, môi trường pháp lý: Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước phải sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về hoạt động
ngân hàng, trước mắt là các quy định về hạch toán kế toán, phân loại
nợ và trích lập dự phòng rủi ro, các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân
hàng theo sát với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế; bảo đảm cho mọi
đối tượng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trong cung một lĩnh vực
hoạt động đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, không có sự phân bịêt,
đối xử.

• Hoàn thiện bộ máy và nâng cao năng lực của Thanh tra Ngân hàng
Nhà nước, thực hiện vai trò thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro trong
hoạt động ngân hàng; xây dựng quy trình cảnh báo sớm rủi ro, đặc
biệt là rủi ro tín dụng;

• Đẩy nhanh việc thực hiện các Đề án cơ cấu lại nhằm tăng cường năng
lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại,
đặc biệt là các NHTM nhà nước trong việc: phân loại và xử lý nợ xấu;
tăng vốn tự có; xây dựng phương án xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM
Việt Nam sau khi có kết quả phân loại nợ theo thông lệ quốc tế; Tiếp
tục hợp tác với các tổ chức tư vấn nước ngoài để hỗ trợ kỹ thuật liên
quan đến cải cách ngân hàng.

• Đối tượng khách hàng chủ yếu của các ngân hàng thương mại vẫn là
các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua, hoạt động
của các doanh nghiệp này chưa thực sự hiệu quả, một số doanh nghiệp
thua lỗ kéo dài, không có khả năng trả nợ ngân hàng dẫn đến nợ tồn
đọng lớn. Việc Nhà nước Việt Nam đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá và
sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sẽ loại bỏ những doanh nghiệp
kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ; tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh; thực tế cho thấy những doanh nghiệp được cổ phần hoá hoạt

Dịch bởi EMISCOM 19 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

động hiệu quả hơn và có khả năng trả nợ ngân hàng.


Trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, với tư cách là các
chủ nợ lớn, các ngân hàng thương mại cần tham gia tích cực vào quá
trình phân tích năng lực tài chính để quyết định phương án sắp xếp
lại doanh nghiệp đạt hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng.

• Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các NHTM nhà nước để huy động
nguồn vốn to lớn từ công chúng trong, ngoài nước. Theo đó, các tổ
chức cá nhân nước ngoài, các đối tác chiến lược có thể sở hữu cổ phiếu
của các NHTM nhà nước được cổ phần hoá; tham gia quá trình quản
trị, điều hành ngân hàng, chuyển giao các công nghệ quản trị kinh
doanh ngân hàng hiện đại; tạo ra động lực mới trong hoạt động của
các NHTM nhà nước.

2.2 Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam và xu


thế trong tương lai
Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN

2.2.1 Tổng quan về kinh tế Việt Nam


Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
Giai đoạn vừa qua, kinh tế Việt nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, trung
bình khoảng 7%/năm, trong khi đó lạm phát ở mức độ khá thấp (ngoại trừ
năm 2004 do một số nguyên nhân khách quan như dịch cúm gia cầm, nhu
cầu gạo của thế giới cao và giá dầu tăng ở mức kỷ lục). Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu đã vượt ngưỡng 50 tỷ USD/năm và mức nhập siêu chiếm khoảng
10% GDP. Nợ nước ngoài trên 10 tỷ USD, trong đó nợ của các doanh nghiệp
khoảng trên 3 tỷ USD. Theo các tiêu chuẩn quốc tế, nợ nước ngoài của Việt
nam vẫn ở mức an toàn và nằm trong tầm kiểm soát. Đầu tư trực tiếp của
nước ngoài đã đạt khoảng 40 tỷ USD vốn cam kết và thực hiện được trên
30 tỷ USD. Mục tiêu của Việt nam trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh
xuất khẩu, kiềm chế lạm phát, thu hút vốn nước ngoài, tăng cường hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đề ra các giải pháp để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Mục tiêu trong năm 2005: Tốc độ tăng trưởng là 8,5%, Chỉ số giá tiêu
dùng tăng ở mức 6,5% và xuất khẩu vượt ngưỡng 30 tỷ USD.

Các quan hệ quốc tế của Việt nam


Việt nam đang chủ động đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo một lộ
trình đã được xác định.

Dịch bởi EMISCOM 20 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM VÀ XU THẾ
TRONG TƯƠNG LAI
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô


Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Mục tiêu 2005

GDP% 6,75 6,84 7,04 7,24 7,70 8,50


CPI% -0,60 0,80 4,00 3,00 9,5 6,50
Xuất khẩu 14,48 15,03 16,71 19,89 26,5 31,5 Tỷ USD
Tăng XK% 25,5 3,8 11,2 19 28,9
Nhập khẩu 15,64 16,16 19,73 24,99 31,5
Tăng NK% 33,20 3,40 21,70 26,70 25
Nhập siêu 1,15 1,14 3,03 5,15 5,00Tỷ USD
FDI 36,1 37,9 39,6 40,8 45,1Tỷ USD

Bảng 2.2: Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản


Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004

Nhập khẩu 1,33 2,22 2,44 3 3,55 Tỷ USD


Xuất khẩu 2,62 2,50 2,44 2,91 3,50

- Quan hệ song phương: Việt nam có quan hệ thương mại với 170 quốc
gia và vùng lãnh thổ; đã ký 60 Hiệp định kinh tế về thương mại song
phương (Trong đó quan trọng nhất là với Trung quốc năm 1992, với
Mỹ năm 2000);

- Quan hệ đa phương: Khai thông và nối lại quan hệ với IMF và WB


năm 1993. Tham gia ASEAN năm 1995, AFTA năm 1996, ASEM năm
1996, NAFTA năm 1998. Từ năm 1995 gửi đơn xin gia nhập WTO và
là quan sát viên tại tổ chức này, đến năm 2004 đã thực hiện 8 vòng
đàm phán và dự kiến gia nhập WTO vào cuối năm 2005;

- Thanh toán quốc tế thực hiện theo UCP 500.

Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản


Với Nhật bản, tuy chưa chính thức ký Hiệp định thương mại song quan hệ
kinh tế thương mại Việt - Nhật rất phát triển. Đối với Việt nam, Nhật Bản
dẫn đầu về viện trợ Phát triển chính thức (ODA), đứng thứ ba về đầu tư trực
tiếp (FDI) và là một trong 3 thị trường xuất quan trọng nhất của Việt Nam.

Một số Ngân hàng lớn của Nhật Bản đã thiết lập chi nhánh tại Việt nam
(như Bank of Tokyo and Mitsubishi). Nhật Bản đã tham gia Uỷ ban Ngân
hàng trong việc giải quyết nợ của Việt Nam tại Câu lạc bộ London, tham gia
Nhóm các Nhà tài trợ chính thức về ODA cho Việt Nam. Cơ quan phát triển

Dịch bởi EMISCOM 21 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

kinh tế Nhật bản (JETRO), Cơ quan hợp tác hải ngoại Nhật Bản (JIKA) và
nhiều tổ chức kinh tế, nghiên cứu của Nhật Bản đã hoạt động có hiệu quả ở
Việt nam trong nhiều dự án cấp chính phủ, các doanh nghiệp lớn của Nhật
bản hoạt động trong nhiều lĩnh vực như sản xuất ôtô, xe máy, thiết bị điện
tử, xây dựng…đã thành công ở thị trường Việt nam.

Kết luận:

- Việt nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới.

- Các hoạt động kinh tế - thương mại của Việt nam trong quan hệ với
nước ngoài tuân thủ thông lệ quốc tế.

- Nhật bản đã có quan hệ kinh tế - thương mại rất tốt với Việt nam từ
nhiều năm, qua đó đã có sự hiểu biết cần thiết để hợp tác có hiệu quả
trong nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

- Quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Nhật chắc chắn sẽ còn phát triển
tốt đẹp hơn nữa, đặc biệt sau khi Việt nam gia nhập WTO, khi nền
kinh tế Trung quốc (nơi rất nhiều doanh nghiệp Nhật bản đang đầu
tư) bị coi là phát triển quá nóng, có dấu hiệu khủng hoảng, khi Việt
nam vẫn được coi là “Điểm đến an toàn” trong khu vực.

2.2.2 Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam


Các văn bản pháp quy liên quan đến chính sách quản lý ngoại hối
- Luật Ngân hàng Nhà nước

- Luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam

- Luật Dầu khí

- Nghị định 63 về quản lý ngoại hối

- Nghị định số 24 hướng dẫn Luật đầu tư nước ngoài

- Nghị định số 48 hướng dẫn Luật Dầu khí.

- Nghị định số 144 về chứng khoán và chứng khoán và thị trường chứng
khoán

- Nghị định số 90 về quản lý vay, trả nợ nước ngoài.

- Nghị định số 86 về quản lý Dự trữ ngoại hối Nhà nước.

- Nghị định số 22 về đầu tư trực tiếp của Việt nam ra nước ngoài

- Thông tư 01 hướng dẫn Nghị định số 63 về quản lý ngoại hối

Dịch bởi EMISCOM 22 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM VÀ XU THẾ
TRONG TƯƠNG LAI
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

- Thông tư 04 hướng dẫn Nghị định số 24 về đàu tư trực tiếp nước ngoài.

- Thông tư 01 hướng dẫn Nghị định số 22 về đầu tư trực tiếp của Việt
nam ra nước ngoài.

- Thông tư 09 hướng dẫn Nghị định số 90 về quản lý vay, trả nợ nước


ngoài.

- Quyết định số 653 hướng dẫn Nghị định số 86 về Quản lý Dự trữ ngoại
hối Nhà nước.

- Quyết định số 1550 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 144 về Chứng
khoán và thị trường chứng khoán

- Quyết định số 1452 về các giao dịch ngoại tệ

Nguyên tắc quản lý ngoại hối


Trong các văn bản nói trên, quan trọng nhất là Nghị định số 63 về quản lý
ngoại hối và Nghị định số 90 về quản lý vay, trả nợ nước ngoài. Hai văn bản
này quy định các nguyên tắc chủ yếu của chính sách quản lý ngoại hối, bao
gồm

• Quản lý ngoại hối theo tiêu thức Người cư trú và Người không cư trú.

- Cách phân loại về Người cư trú và Người không cư trú cơ bản dựa
trên các khuyến nghị của IMF.
- Người cư trú và Người không cư trú được thực hiện các giao dịch
bằng ngoại tệ trong các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn.
- Mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt nam phải thực hiện bằng VND
- Có 13 giao dịch đặc biệt của Người cư trú được thực hiện bằng
ngoại tệ (như Xuất nhập khẩu uỷ thác, bán hàng thu ngoại tệ...)
- Mọi giao dịch bằng ngoại tệ trong lãnh thổ phải thực hiện qua
các Tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
- Các tổ chức, cá nhân khác muốn hoạt động ngoại hối (kiều hối,
bàn đổi ngoại tệ...) phải có giấy phép của NHNN.

• Quản lý ngoại hối theo các giao dịch:

- Giao dịch vãng lai: Đã tự do hoá theo yêu cầu của Điều VIII -
Điều lệ IMF. Hiện nay, IMF đang làm việc với Việt nam để hoàn
thành các thủ tục cuối cùng công bố chính thức việc Việt nam
chấp thuận Điều VII Điều lệ IMF.
- Giao dịch vốn: Đang được tự do hoá theo một lộ trình có kiểm
soát:

Dịch bởi EMISCOM 23 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

+ Vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp: được chuyển vốn
vào và ra theo hợp đồng vay nợ đã đăng ký với NHNN.
+ Đầu tư trực tiếp của nước ngoài : Chuyển vốn vào ra theo
Giấy phép đầu tư và các quy định về quản lý ngoại hối.
+ Đầu tư vào thị trường chứng khoán: Được chuyển vốn vào
và ra theo quy định về quản lý ngoại hối.
- Các giao dịch ngoại hối được phép thực hiện trong nước:
+ Huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ của các Tổ chức tín
dụng được phép.
+ Chiết khấu chứng từ, giấy tờ có giá bằng ngoại tệ của các Tổ
chức tín dụng được phép.
+ Bán hàng thu ngoại tệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác theo
giấy phép của NHNN.

2.2.3 Một số quy định cụ thể


Cơ chế tỷ giá
NHNN thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát. Tỷ giá được hình thành
trên cơ sở cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. NHNN công bố tỷ giá bình
quân giao dịch thị trường liên ngân hàng theo ngày giữa VND và USD. Các
NHTM giao dịch trong biên độ +/- 0,25%/ngày đối với giao dịch giao ngay
(SPOT) và chỉ áp dụng đối với USD. Tỷ giá VND các ngoại tệ khác được tính
chéo qua tỷ giá VND/USD. Tỷ giá áp dụng trong các giao dịch ngoại hối phái
sinh do các NHTM tự tự tính toán theo thông lệ quốc tế trên cơ sở chênh
lệch lãi suất giữa hai đồng tiền (lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo năm
và lãi suất mục tiêu do Quỹ Dự trữ liên bang Mỹ công bố trong từng thời kỳ).

Trạng thái ngoại tệ


NHNN quy định trạng thái ngoại tệ cho các TCTD được phép hoạt động
ngoại hối trong biên độ +/- 30% so với vốn tự có.

Cơ chế can thiệp thị trường ngoại hối của NHNN


NHNN tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với tư cách là một thành
viên và mua – bán ngoại tệ để thực hiện các mục tiêu của Chính sách tiền
tệ. NHNN đảm bảo, hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho một số dự án đầu tư nước
ngoài đặc biệt theo cam kết của Chính phủ.

Thực hiện quản lý ngoại hối


NHNN Việt nam là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về ngoại
hối. NHNN là cơ quan cấp giấy phép hoạt động ngoại hối, tổ chức kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các quy định về ngoại hối. NHNN uỷ quyền cho các

Dịch bởi EMISCOM 24 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM VÀ XU THẾ
TRONG TƯƠNG LAI
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

Chi nhánh của mình ở các Tỉnh, Thành phố thực hiện một phần công tác
quản lý ngoại hối.

NHNN uỷ quyền cho các TCTD được phép hoạt động ngoại hối thực hiện
việc kiểm soát ngoại hối trong các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn theo các
quy định về quản lý ngoại hối trên cơ sở các chứng từ hợp lệ.

Các giao dịch ngoại hối trong nước


Người cư trú (bao gồm cả các Nhà đầu tư nước ngoài) được liên hệ với với
các TCTD được phép để thực hiện các giao dịch mua – bán ngoại tệ phục vụ
cho Giao dịch vãng lai, giao dịch vốn). Một số đối tượng có nguồn thu ngoại
tệ được vay ngoại tệ từ các TCTD trong nước.

Thị trường ngoại tệ và các giao dịch phái sinh


• Thị trường ngoại tệ:

- Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: thành viên gồm các TCTD
được phép và NHNN.
- Thị trường ngoại tệ giữa các TCTD với Khách hàng.

• Các giao dịch ngoại hối phái sinh

NHNN cho phép các Tổ chức tín dụng được phép thực hiện các giao dịch
kỳ hạn, hoán đổi theo thông lệ quốc tế. Giao dịch quyền chọn đang cho
áp dụng thí điểm tại một số NHTM. Các giao dịch mua – bán ngoại tệ nếu
thông qua VND thì phải xuất trình các chứng từ hợp lệ Các giao dịch trực
tiếp từ ngoại tệ này sang ngoại tệ khác không phải xuất trình chứng từ.

Việc mở cửa thị trường ngoại hối bằng việc cho áp dụng các công cụ phái
sinh theo thông lệ quốc tế đã tạo cho các doanh nghiệp các công cụ bảo hiểm
thích hợp khi thực hiện các giao dịch liên quan đến ngoại tệ

Vay trả nợ nước ngoài


Thực hiện theo Nghị định số 90 của Chính phủ. Bộ Tài chính quản lý vay
nợ nước ngoài của Chính phủ, NHNN quản lý vay trả nợ nước ngoài của
doanh nghiệp. NHNN đã ban hành Thông tư 09 hướng dẫn thực hiện quản
lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp với các nội dung chính bao gồm:
“Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được vay nợ nước ngoài,
có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích phù hợp với quy định của pháp
luật Việt nam, tự chịu rủi ro và trách nhiệm trước pháp luật trong việc ký và
thực hiện Hợp đồng vay vốn nước ngoài”.

Dịch bởi EMISCOM 25 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

- Vay nước ngoài ngắn hạn phải đáp ứng các điều kiện vay do Thống
đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ (về đối tượng, thời hạn, chi
phí…).
- Vay nước ngoài trung dài hạn phải thực hiện đăng ký với NHNN trong
thời gian 30 ngày sau khi ký hợp đồng và trước khi rút vốn. Doanh
nghiệp Nhà nước trước khi ký hợp đồng vay nước ngoài phải có ý kiến
của NHNN. Điều kiện để doanh nghiệp được vay nước ngoài do Chính
phủ quy định.
Nhìn chung, Việt nam không có các hạn chế việc vay trả nợ nước ngoài
của doanh nghiệp. Chính phủ và NHNN chỉ kiểm soát khả năng trả nợ nước
ngoài của nền kinh tế để ngăn chặn khủng hoảng nợ nước ngoài và thực
hiện các mục tiêu của nền kinh tế.

2.2.4 Khuynh hướng quản lý ngoại hối trong thời gian tới:
Xây dựng pháp lệnh về ngoại hối
Trong năm 2005 NHNN sẽ xây dựng Pháp lệnh về Ngoại hối để trình Quốc
hội thông qua. Việc xây dựng Pháp lệnh về ngoại hối có mục đích tăng cường
hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước và đáp ứng các yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế khi mở cửa thị trường thương mại - dịch vụ và áp dụng các
thông lệ quốc tế trong quản lý ngoại hối, bao gồm:
1. Tự do hoá giao dịch vãng lai.
2. Tiếp tục tự do hoá giao dịch vốn theo một lộ trình thận trọng có chọn
lọc.
3. Tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát nhưng có giải
pháp để tỷ giá linh hoạt hơn nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút
nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài.
4. Phát triển thị trường ngoại tệ theo hướng đa dạng hoá các công cụ, đặc
biệt sẽ cho phép áp dụng nghiệp vụ Quyền chọn giữa VND và ngoại tệ.
Tỷ giá áp dụng cho các giao dịch phái sinh sẽ căn cứ vào chênh lệch lãi
suất giữa VND và lãi suất ngoại tệ do Tổ chức tín dụng công bố.
5. Chuyển dần quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ thành quan hệ mua – bán
ngoại tệ. Hạn chế hiện tượng Đô la hoá, tăng cường khả năng chuyển
đổi của VND, tiến tới thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt nam chỉ
dùng VND.

2.2.5 Khả năng sử dụng đồng yên trong tài trợ thương mại
Việt-Nhật
1. Mức độ sử dụng USD: Tại Việt nam trên 90% các giao dịch liên quan
đến ngoại tệ sử dụng đồng USD do trên thực tế, USD đồng tiền được

Dịch bởi EMISCOM 26 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM VÀ XU THẾ
TRONG TƯƠNG LAI
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

giao dịch chủ yếu trên thế giới. Mặt khác tỷ giá USD/VND khá ổn định
(biên độ dao động chỉ khoảng 1%/năm) nên ít có rủi ro về tỷ giá, nhất
là khi thị trường các công cụ phái sinh đã bắt đầu phát triển.

2. Nỗi “ám ảnh” về đồng Yên: Trước đây, trong quan hệ với Nhật bản,
các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt nam đã vay bằng đồng Yên do
lãi suất khá thấp. Tuy nhiên sự biến động quá lớn về tỷ giá JPY/USD
(làm biến động tỷ giá JPY/VND) đã làm nhiều doanh nghiệp có nguy
cơ phá sản. Ví dụ: Khi họ vay tỷ giá là 243Yên = 1 USD nhưng đến khi
trả nợ thì chỉ còn 90 Yên = 1 USD và số nợ của doanh nghiệp đã tăng
gấp 2,5 lần. Kể từ đó, sử dụng đồng Yên trong vay nợ được coi là có
rủi ro lớn bất kể mức lãi suất rất hấp dẫn.

3. Vị thế của đồng Yên: Đồng Yên là một ngoại tệ mạnh, thậm chí là
1 trong 4 ngoại tệ được IMF công nhận là “Ngoại tệ tự do sử dụng”
nhưng mức độ phổ biến lại thấp. Nếu hàng hoá xuất nhập khẩu được
định giá bằng Yên thì thực tế vẫn được tính chéo qua USD trong tính
toán của các Nhà xuất nhập khẩu Việt nam. Do đó khi tỷ giá hối đoái
của đồng Yên thay đổi sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong năm 2004, Chính phủ Nhật đã phải dùng đến 32.000
tỷ Yên (bằng nửa ngân sách) để mua USD nhằm ngăn chặn đồng Yên
lên giá, điều này cho thấy vay nợ bằng đồng Yên vẫn tiềm tàng rủi ro
tỷ giá.

4. Nhu cầu vốn ngoại tệ của Việt nam: Để thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt nam rất cần thu hút vốn nước ngoài cho việc nhập khẩu máy
móc, thiết bị, công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, xét về
mặt cơ cấu, Việt nam cần các nguồn vốn dài hạn, nhất là nguồn vốn
có mức độ ưu đãi cao. Đối với các nguồn vốn ngoại tệ ngắn hạn, Hệ
thống ngân hàng Việt nam có khả năng đáp ứng (hiện tại số vốn này
được gửi khá nhiều ở nước ngoài).

5. Khả năng bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng các công cụ phái sinh: Với việc
hoàn thiện các công cụ phái sinh, các doanh nghiệp và Ngân hang
thương mại đã có khả năng bảo hiểm rủi ro về biến động tỷ giá của
đồng Yên. Tuy nhiên việc này đòi hỏi phải có thời gian để thị trường
làm quen và sử dụng thành thạo các công cụ phái sinh.

6. Khả năng tài trợ bằng thương mại bằng đồng Yên: Các phân tích cho
thấy việc sử dụng đồng Yên trong tài trợ thương mại Việt - Nhật là có
tính khả thi do:

- Quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Nhật ngày càng phát triển.
- Nhu cầu vốn ngoại tệ của Việt nam ngày càng lớn.

Dịch bởi EMISCOM 27 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

- Phát sinh nhu cầu đa dạng hoá tiền tệ khi tỷ giá hối đoái của đồng
VND tiến tới gắn kết vào một “rổ tiền tệ” theo tỷ trọng quan hệ
thương mại - đầu tư của Việt nam với các nước.
- Thị trường ngoại hối các công cụ phái sinh đang phát triển và
ngày càng hoàn thiện, cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro
trước những biến động về tỷ giá của đồng Yên.
- Tuy nhiên tính hấp dẫn trong điều kiện tài trợ sẽ quyết định mức
độ khả thi của Dự án này ( về lãi suất, điều kiện tín dụng, thưòi
hạn và tổng giá trị tài trợ).

7. Việc sử dụng đồng Yên trong các hoạt động kinh tế khác: Đồng Yên
có thể sử dụng để tài trợ các hoạt động đầu tư, tài chính. Đây cũng
là những khu vực kinh doanh rất có tiềm năng tại Việt nam. Việc sử
dụng đồng Yên trong các lĩnh vực này cũng có tác động tích cực trong
việc nâng cao mức độ phổ biến của đồng Yên và có tác động tích cực
trở lại đối với việc tài trợ thương mại bằng đồng yên trong quan hệ
Việt - Nhật.

2.3 Nội dung chính các văn bản pháp qui về vay
trả nợ nước ngoài điều chỉnh việc chuyển
tiền qua biên giới dưới hình thức vay nợ
nước ngoài của doanh nghiệp
Vụ Quản lý Ngoại hối, NHNN

2.3.1 Một số nội dung cơ bản của Nghị định 90/1998/NĐ-


CP điều chỉnh hoạt động vay trả nợ nước ngoài của
doanh nghiệp
Nghị định 90 đã quy định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc quản lý vay,
trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp như:

1. Cấp bảo lãnh Chính phủ cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài;

2. Hướng dẫn, kiểm tra việc bảo lãnh của các NHTM;

3. Xây dựng kế hoạch tổng hạn mức vay nước ngoài hàng năm của Doanh
nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và điều hành kế hoạch
tổng hạn mức này;

4. Tổ chức thực hiện việc đăng ký khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp
(Khoản 3 Điều 2). Cụ thể:

a) Các khoản vay nước ngoài trung, dài hạn của doanh nghiệp phải
nằm trong kế hoạch tổng hạn mức hàng năm đã được Chính phủ

Dịch bởi EMISCOM 28 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.3. NỘI DUNG CHÍNH CÁC VĂN BẢN PHÁP QUI VỀ VAY TRẢ NỢ
NƯỚC NGOÀI ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHUYỂN TIỀN QUA BIÊN GIỚI
DƯỚI HÌNH THỨC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

phê duyệt; Đáp ứng được các điều kiện về vay trung và dài hạn
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định trong từng thời kỳ;
Phải được đăng ký và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác
nhận. Định kỳ doanh nghiệp vay nước ngoài trung dài hạn phải
báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định (Khoản 2
và 6 Điều 22).
b) Các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp phải đáp
ứng các điều kiện về vay ngắn hạn do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam quy định cho từng thời kỳ. Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ duyệt hạn mức
dư nợ ngắn hạn hàng năm (Khoản 3 Điều 22).
c) Việc rút vốn vay và chuyển tiền trả nợ nước ngoài của doanh
nghiệp phải được thực hiện qua các ngân hàng hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam được phép hoạt động ngoại hối (Khoản 4 Điều
22);
d) Các doanh nghiệp vay nước ngoài có nghĩa vụ sử dụng vốn vay
đúng mục đích, không được sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư
cho các dự án trung, dài hạn; Tự chịu mọi rủi ro và trách nhiệm
trước pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hiện khoản
vay và trả nợ (Khoản 5 Điều 22).
e) Doanh nghiệp vay nước ngoài có thể sử dụng các hình thức đảm
bảo cho khoản vay như: Bảo lãnh của ngân hàng hoạt động tại
Việt Nam; Bảo lãnh của Người không cư trú; Bảo lãnh của Chính
phủ; Sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay và các hình thức đảm
bảo khác phù hợp với Pháp luật Việt Nam (Điều 23).

2.3.2 Một số qui định hiện hành của NHNN điều chỉnh
hoạt động vay trả nợ nước ngòai của doanh nghiệp
theo tinh thần Nghị định 90
Trước đây, NHNN điều chỉnh hoạt động vay trả nợ nước ngòai của doanh
nghiệp theo Thông tư 03/1999/TT-NHNN7. Từ ngày 21 tháng 12 năm 2004,
thông tư 09/2004/TT-NHNN đã thay thế thông tư 03 nói trên trong việc
điều chỉnh hoạt động vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Dưới đây là
một số nội dung chính của thông tư này:

1. Các hình thức vay nước ngoài chủ yếu:

a) Vay tài chính (bằng tiền);


b) Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư
tín dụng, nhờ thu qua Ngân hàng được phép hoặc theo phương
thức trả chậm khác;
c) Thuê tài chính nước ngoài;

Dịch bởi EMISCOM 29 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

d) Phát hành trái phiếu ra nước ngoài;


e) Các loại hình vay nước ngoài khác.

2. Trách nhiệm của Doanh nghiệp khi ký Hợp đồng vay nước ngoài:

- Tự chịu trách nhiệm về năng lực pháp lý, tài chính, khả năng thực
hiện Hợp đồng của Bên cho vay nước ngoài.
- Có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích và phù hợp với qui
định của pháp luật Việt Nam.
- Tự chịu mọi rủi ro và trách nhiệm trước pháp luật của nhà nước
trong việc ký và thực hiện Hợp đồng vay nước ngoài

3. Các thoả thuận vay nước ngoài không có hiệu lực rút vốn (HĐTD
khung; biên bản ghi nhớ…..): không phải đăng ký

4. Đối với các khoản vay hợp vốn từ các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam và Bên cho vay nước ngoài chỉ cần đăng ký phần vay nước
ngoài.

5. Điều kiện vay nước ngòai ngắn hạn:

- Đáp ứng các điều kiện vay do Thống đốc NHNN quy định (đối
tượng, thời hạn, chi phí, ký quỹ….)
- Đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài các điều
kiện trên, chỉ được ký Hợp đồng vay ngắn hạn khi đáp ứng điều
kiện sau:
+ Trong thời gian xây dựng: số dư nợ ngắn, trung và dài hạn
(cả dư nợ vay trong nước) phải nằm trong giới hạn được vay
và không làm vượt tổng vốn đầu tư.
+ Khi đã hoàn thành việc xây dựng và đưa dự án vào hoạt động:
có thể vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động mà không tính
vào tổng vốn đầu tư.
- Doanh nghiệp là tổ chức tín dụng: ngoài các quy định trên, phải
thực hiện quy định về giới hạn vay, bảo lãnh vay nước ngoài ngắn
hạn của NHNN.
- Các nội dung khác của Hợp đồng vay nước ngoài ngắn hạn phải
phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.

6. Điều kiện vay nước ngòai trung, dài hạn:

6.1 Doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng chỉ được ký Hợp
đồng vay nước ngoài trung, dài hạn khi đảm bảo các điều kiện
sau:
a) Có Dự án đầu tư hoặc Phương án sản xuất kinh doanh được
cấp có thẩm quyền phê duyệt;

Dịch bởi EMISCOM 30 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.3. NỘI DUNG CHÍNH CÁC VĂN BẢN PHÁP QUI VỀ VAY TRẢ NỢ
NƯỚC NGOÀI ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHUYỂN TIỀN QUA BIÊN GIỚI
DƯỚI HÌNH THỨC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

b) Khoản vay dùng để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh
theo đúng phạm vi hoạt động của Doanh nghiệp;
c) Hợp đồng vay phải phù hợp với quy định của Thống đốc
NHNN;
d) Các thoả thuận trong Hợp đồng vay phải phù hợp với quy
định hiện hành của pháp luật: Mở tài khoản ngoại tệ ở nước
ngoài, Cầm cố, thế chấp tài sản, Vay để góp vốn thành lập
Doanh nghiệp….
e) Đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: số dư nợ
(gồm cả dư nợ vay trong nước) phải nằm trong giới hạn và
không vượt tổng vốn đầu tư;
f) Đối với Doanh nghiệp nhà nước:
∗ Có văn bản của cấp có thẩm quyền phê duyệt Dự án đầu
tư;
∗ Có văn bản tham gia ý kiến của NHNN.
∗ Các điều kiện quy định khác nêu trên.
6.2 Doanh nghiệp là tổ chức tín dụng:
a) Khoản vay trung, dài hạn dùng để bổ sung nguồn vốn tín
dụng;
b) Các điều kiện quy định tại điểm 18(c), 18(d) Mục II, Chương
II của Thông tư này.
c) Riêng đối với tổ chức tín dụng nhà nước: ngoài các điều kiện
trên, chỉ được ký Hợp đồng khi đã có văn bản tham gia ý kiến
của NHNN.

7. Đăng ký, đăng ký thay đổi khoản vay nước ngòai của doanh nghiệp:

7.1 Yêu cầu và quy trình thực hiện việc đăng ký khoản vay nước ngoài:
a) Đối với khoản vay ngắn hạn: Không phải đăng ký nhưng
Hợp đồng vay phải đảm bảo phù hợp với các quy định của
Thông tư.
b) Đối với khoản vay trung, dài hạn: Doanh nghiệp được ký
Hợp đồng vay nước ngoài. Trong thời gian 30 ngày làm việc
kể từ ngày ký hợp đồng và trước khi rút vốn, Doanh nghiệp
phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước.
c) Trường hợp khoản vay ngắn hạn được gia hạn: nếu tổng thời
gian gia hạn và thời gian đã vay trên 1 năm, Doanh nghiệp
phải đăng ký với NHNN.
d) Trường hợp có thay đổi liên quan đến khoản vay, Doanh
nghiệp được ký thoả thuận thay đổi và thực hiện đăng ký
thay đổi với NHNN.

Dịch bởi EMISCOM 31 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

e) Doanh nghiệp nhà nước: phải gửi dự thảo lần cuối các văn
bản sau để NHNN tham gia ý kiến trước khi ký:
- Dự thảo Hợp đồng vay nước ngoài;
- Dự thảo Thư bảo lãnh, trường hợp được Người không cư
trú bảo lãnh .
7.2 Thẩm quyền xác nhận đăng ký / đăng ký thay đổi:
a) Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố: đến 10
triệu đô la Mỹ và phù hợp với các qui định tại Thông tư này;
Đối với trường hợp Doanh nghiệp vi phạm các qui định tại
Thông tư này, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành
phố phải trình Thống đốc NHNN xem xét quyết định.
b) Ngân hàng Nhà nước TƯ: ngoài điểm 24 (a) nêu trên.
7.3 Hồ sơ đăng ký khoản vay của doanh nghiệp:
- Đối với Doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng:
a) Đơn đăng ký vay, trả nợ nước ngoài (theo Mẫu 1);
b) Các văn bản chứng minh tư cách pháp nhân;
c) Văn bản của cấp có thẩm quyền phê duyệt Dự án đầu tư
hoặc Phương án sản xuất kinh doanh (trừ Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài);
d) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho phép Doanh
nghiệp được phát hành trái phiếu ra nước ngoài (trường
hợp vay vốn qua hình thức phát hành trái phiếu);
đ) Hợp đồng vay nước ngoài đã ký.
- Đối với Doanh nghiệp là tổ chức tín dụng: Các tài liệu quy
định tại mục (a), (d), (đ) nêu trên.
7.4 Hồ sơ đăng ký thay đổi khoản vay của doanh nghiệp:
a) Đơn đăng ký thay đổi (Mẫu số 2);
b) Thoả thuận thay đổi đã ký;
c) Văn bản chấp thuận của Bên bảo lãnh (trường hợp được bảo
lãnh).
7. 5 Xác nhận đăng ký khoản vay của doanh nghiệp:
- Ngân hàng Nhà nước xác nhận trên cơ sở:
a) Tổng hạn mức vay nước ngoài hàng năm;
b) Chính sách QLNH trong từng thời kỳ;
c) Các điều kiện qui định tại Thông tư này;
d) Ý kiến của cơ quan liên quan đối với khoản vay trong
trường hợp cần thiết.
- NHNN thông báo cho Doanh nghiệp trong 15 ngày kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ về việc:

Dịch bởi EMISCOM 32 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.3. NỘI DUNG CHÍNH CÁC VĂN BẢN PHÁP QUI VỀ VAY TRẢ NỢ
NƯỚC NGOÀI ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHUYỂN TIỀN QUA BIÊN GIỚI
DƯỚI HÌNH THỨC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI, NHNN

∗ Xác nhận hoặc từ chối đăng ký / đăng ký thay đổi.


- Trong trường hợp cần thêm thông tin, điều kiện khác để có
đủ cơ sở xác nhận hoặc từ chối xác nhận đăng ký, đăng ký
thay đổi NHNN sẽ thông báo cho Doanh nghiệp biết.

8. Rút vốn và trả nợ của doanh nghiệp:

8.1 Các giao dịch rút vốn và trả nợ chỉ được thực hiện thông qua 01
Ngân hàng được phép, trừ một số giao dịch (trong đó Ngân hàng
được phép không bảo lãnh và làm dịch vụ) sau đây:
a) Rút vốn thanh toán trực tiếp cho Người thụ hưởng nước
ngoài;
b) Rút vốn, trả nợ thông qua tài khoản được mở tại nước ngoài;
c) Rút vốn bằng hàng, trả nợ bằng hàng.
8.2 Trường hợp đang thực hiện rút vốn, trả nợ qua một Ngân hàng
nhưng chuyển sang một Ngân hàng khác thì phải tất toán các
giao dịch rút vốn, trả nợ tại ngân hàng cũ và đăng ký thay đổi với
NHNN.
8.3 Doanh nghiệp khi thực hiện dịch vụ Ngân hàng phải theo các quy
định sau:
a) Khi rút vốn:
- Đối với khoản vay ngắn hạn, phải xuất trình cho Ngân
hàng Hợp đồng vay;
- Đối với khoản vay trung, dài hạn, phải xuất trình Văn
bản Xác nhận đăng ký của NHNN;
- Ngoài ra, có trách nhiệm xuất trình các văn bản, tài liệu
cần thiết khác khi Ngân hàng yêu cầu.
b) Khi trả nợ:
- Văn bản Xác nhận đăng ký của NHNN (trường hợp vay
trung, dài hạn);
- Hợp đồng vay nước ngoài (ngắn, trung, dài hạn) đã ký;
- Các chứng từ chứng minh việc rút vốn theo Hợp đồng
vay và các văn bản, tài liệu cần thiết khác khi Ngân hàng
yêu cầu.
8.4 Trách nhiệm của Ngân hàng khi dịch vụ khoản vay cho Doanh
nghiệp:
- Rút vốn, trả nợ cho Doanh nghiệp trên cơ sở Hợp đồng vay
đã ký;
- Đối chiếu các văn bản, tài liệu do Doanh nghiệp xuất trình
để đảm bảo thực hiện đúng các giao dịch;

Dịch bởi EMISCOM 33 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

- Không thực hiện việc giải ngân, chuyển tiền trả nợ theo yêu
cầu của Doanh nghiệp khi khoản vay trung, dài hạn không có
văn bản xác nhận đăng ký hoặc đăng ký thay đổi; hoặc Hợp
đồng vay có những nội dung không phù hợp với qui định của
pháp luật.
- Hướng dẫn Doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định; kịp
thời báo cáo NHNN khi phát hiện Doanh nghiệp vi phạm.
Cuối ngày làm việc (nếu có phát sinh), NHNN chi nhánh gửi
NHNN TW các tài liệu về việc xác nhận đăng ký hoặc đăng
ký thay đổi khoản vay cho Doanh nghiệp.

9. Chế độ báo cáo:

9.1 Doanh nghiệp là tổ chức tín dụng báo cáo Ngân hàng Nhà nước
theo qui định về chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn
vị thuộc NHNN.
9.2 Doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng báo cáo Ngân hàng
Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố về tình hình thực hiện các
khoản vay nước ngoài theo quy định.
9.3 Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tổng hợp tình hình thực hiện
các khoản vay của Doanh nghiệp trên địa bàn báo cáo Ngân hàng
Nhà nước TW.

10. Kiểm tra, xử lý vi phạm:

10.1 Định kỳ hoặc khi cần thiết, NHNN và các cơ quan liên quan tiến
hành kiểm tra tình hình vay và trả nợ của Doanh nghiệp.
10.2 Trường hợp xảy ra vi phạm các qui định, tuỳ theo mức độ vi
phạm, sẽ bị xử phạt theo các qui định hiện hành.

2.4 Dự án xúc tiến sử dụng đồng Yên trong tài


trợ thương mại tại Việt Nam
Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính

Theo chúng tôi hiểu: Dự án nghiên cứu xúc tiến sử dụng đồng Yên trong tài
trợ thương mại tại Việt Nam được thực hiện dưới hình thức: Các Ngân hàng
thương mại Nhật Bản cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam vay bằng
đồng Yên; sau đó các Ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ cho các doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Việt Nam vay lại. Do đó, căn cứ
vào các văn bản về thuế hiện hành, chính sách thuế áp dụng với dự án này
như sau:

Dịch bởi EMISCOM 34 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.4. DỰ ÁN XÙC TIẾN SỬ DỤNG ĐỒNG YÊN TRONG TÀI TRỢ
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
TỔNG CỤC THUẾ, BỘ TÀI CHÍNH

2.4.1 Về thuế GTGT


Khoản 7 Điều 4 Luật thuế GTGT; khoản 7 Điều 4 Nghị định số 158/2003/NĐ-
CP ngày 10/12/2003 ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thuế GTGT; điểm 7 mục II phần A Thông tư số 120/2003/TT-BTC
ngày 12/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số
158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
GTGT quy định: hoạt động cho vay vốn thuộc dịch vụ tín dụng thuộc đối
tượng không chịu thuế GTGT.

Căn cứ quy định trên, trường hợp các Ngân hàng thương mại Nhật Bản
ký Hợp đồng với các Ngân hàng thương mại Việt Nam cho vay bằng đồng
Yên; sau đó các Ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ cho các doanh nghiệp
Việt Nam vay lại thì các Ngân hàng thương mại Nhật Bản, các Ngân hàng
thương mại Việt Nam không phải nộp thuế GTGT đối với tiền lãi thu được
từ hoạt động cho vay.

Trường hợp các Ngân hàng thương mại Việt Nam chuyển đổi ngoại tệ
là đồng Yên ra đồng Việt Nam và cho các doanh nghiệp vay lại thì phải nộp
thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ.

2.4.2 Về thuế TNDN


Đối với các Ngân hàng thương mại Nhật Bản
1. Đối tượng nộp thuế TNDN:

- Theo quy định tại Điều 1, Điều 3 Luật thuế TNDN số 09/2003/QH11
ngày 17/6/2003 về thuế TNDN, thì: Công ty nước ngoài và tổ chức
nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thuộc đối tượng nộp thuế TNDN.
- Theo hướng dẫn tại điểm 1, mục I, phần A Thông tư số
05/2005/TT-BTC ngày 11/1/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn
chế độ thuế áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có
tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh
hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, thì: tổ chức nước ngoài
không có tư cách pháp nhân Việt Nam ký hợp đồng hoặc thỏa
thuận, cam kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc với tổ chức, cá
nhân nước ngoài khác đang hoạt động kinh doanh tại Việt nam
thuộc đối tượng nộp thuế TNDN theo hướng dẫn tại Thông tư
này.

Căn cứ quy định trên, các Ngân hàng thương mại Nhật Bản ký Hợp
đồng với các Ngân hàng thương mại Việt Nam cho vay bằng đồng Yên

Dịch bởi EMISCOM 35 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

thì các Ngân hàng thương mại Nhật Bản phải nộp thuế TNDN đối với
thu nhập có từ khoản cho vay (hay còn gọi là lãi tiền vay).

2. Phương pháp tính thuế TNDN:

- Theo hướng dẫn tại Thông tư số 05/2003/TT-BTC nêu trên, thì:


các Ngân hàng thương mại Nhật Bản không thực hiện chế độ kế
toán Việt Nam thực hiện nộp thuế TNDN theo tỷ lệ (%) tính trên
doanh thu. Cụ thể:

Thuế TNDN = Doanh thu chịu thuế × Tỷ lệ thuế TNDN

Doanh thu chịu thuế TNDN là toàn bộ doanh thu, chưa trừ các
khoản thuế phải nộp (nếu có) mà bên nước ngoài nhận được.
Trường hợp theo thỏa thuận tại Hợp đồng, phía nước ngoài nhận
doanh thu không bao gồm thuế TNDN phải nộp thì doanh thu
chịu thuế TNDN được xác định theo công thức:
Doanh thu không bao gồm thuế TNDN
Doanh thu chịu thuế TNDN =
1 − tỷ lệ thuế TNDN tính trên DTCT

- Doanh thu chịu thuế TNDN đối với lãi tiền vay là thu nhập của
Bên cho vay từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào mà khoản
vay đó có hay không được đảm bảo bằng thế chấp, người cho vay
có hay không được quyền hưởng lợi tức của người đi vay. Lãi tiền
vay bao gồm cả các khoản phí mà Bên Việt Nam phải trả theo
quy định của Hợp đồng vay theo quy định điểm 8 mục IV phần
A Thông tư số 05/2003/TT-BTC nêu trên.
- Tỷ lệ thuế TNDN tính trên doanh thu chịu thuế là 10% quy định
tại điểm 2.2 mục II phần B Thông tư số 05/2003/BTC nêu trên.

3. Thủ tục kê khai nộp thuế TNDN:


Việc đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế của Ngân hàng thương
mại Nhật Bản do Ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện; Bên Việt
Nam đăng ký, kê khai nộp thuế hộ Ngân hàng thương mại Nhật Bản
theo hướng dẫn tại mục II phần C Thông tư số 05/2003/TT-BTC nêu
trên.

4. Liên quan đến Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Nhật Bản:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản, thì trường hợp các
Ngân hàng thương mại Nhật Bản hoàn toàn thuộc sở hữu của Chính
phủ thì sẽ được miễn thuế đối với lãi từ tiền cho vay tại Việt Nam.

Dịch bởi EMISCOM 36 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.4. DỰ ÁN XÙC TIẾN SỬ DỤNG ĐỒNG YÊN TRONG TÀI TRỢ
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
TỔNG CỤC THUẾ, BỘ TÀI CHÍNH

Thủ tục thực hiện áp dụng Hiệp định được thực hiện theo quy định
tại mục II, phần D Thông tư số 133/2004/TT-BTC ngày 31/12/2004
hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đối với
các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước
có hiệu lực thi hành tại Việt Nam. Cụ thể:

“Hồ sơ xin miễn, giảm thuế theo Hiệp định bao gồm:

1.1. Đối với các loại thu nhập (trừ thu nhập từ vận tải quốc tế)
1.1.1. Đơn đề nghị miễn, giảm thuế theo Hiệp định (mẫu số 2 đính kèm
Thông tư này) trong đó cung cấp các thông tin về giao dịch liên
quan đến thu nhập đề nghị được miễn, giảm thuế thuộc phạm vi
điều chỉnh của Hiệp định; Trường hợp vì lý do bất khả kháng,
người làm đơn không cung cấp đủ các thông tin hoặc các tài liệu
theo yêu cầu của Thông tư này đề nghị giải trình cụ thể tại văn
bản này.
1.1.2. Giấy chứng nhận cư trú của nước cư trú do cơ quan thuế cấp (ghi
rõ là đối tượng cư trú trong năm tính thuế nào);
1.1.3. Bản sao: đăng ký kinh doanh và/hoặc giấy chứng nhận đăng ký
thuế do nước cư trú cấp trong trường hợp là tổ chức kinh doanh.
Bản sao: đăng ký kinh doanh và/hoặc giấy phép hành nghề, giấy
chứng nhận đăng ký thuế do nước cư trú cấp và hộ chiếu sử dụng
cho việc xuất nhập cảnh tại Việt Nam trong trường hợp là cá nhân
hành nghề độc lập. Bản sao: hợp đồng lao động và hộ chiếu sử
dụng cho việc xuất nhập cảnh tại Việt Nam trong trường hợp là
cá nhân hành nghề phụ thuộc;
1.1.4. Bản sao hợp đồng kinh tế, hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng
đại lý, hợp đồng uỷ thác, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hay
hợp đồng lao động ký với tổ chức, cá nhân Việt Nam, giấy chứng
nhận tiền gửi tại Việt Nam, giấy chứng nhận góp vốn vào công ty
tại Việt Nam (tuỳ theo loại thu nhập trong từng trường hợp cụ
thể);
1.1.5. Bản sao chứng từ nộp thuế và giấy xác nhận của Kho bạc Nhà
nước nơi tổ chức, cá nhân nộp thuế về số thuế đã nộp theo mẫu
giấy xác nhận quy định tại Thông tư số 68/2001/TT-BTC ngày
24/08/2001 của Bộ Tài chính (nếu đã nộp thuế). Trường hợp
xác nhận của Kho bạc không chi tiết số thuế theo từng đối tượng
nộp thuế, đối tượng nộp thuế đề nghị Cục Thuế xác nhận đối với
số thuế đề nghị miễn, giảm trong tổng số thuế đã được Kho bạc
xác nhận;
1.1.6. Xác nhận của tổ chức, cá nhân Việt Nam ký kết hợp đồng về thời
gian hoạt động theo hợp đồng và thực tế hoạt động tại Việt Nam.”

Dịch bởi EMISCOM 37 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam


Nộp thuế TNDN đối với lãi cho vay theo quy định của Luật thuế TNDN và
các văn bản hướng dẫn hiện hành: Luật số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003
về thuế TNDN; Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN; Thông tư số 128/2003/TT-
BTC ngày 22/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số
164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật thuế TNDN ./.

2.5 Vai trò quản lý, giám sát tài chính đối với các
Ngân hàng thương mại Nhà nước
Ban Quản lý Thuế DNNN

Nền kinh tế Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, bao gồm nhiều thị trường có liên quan mật thiết với nhau,
tác động đến nhau nhằm tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh tổng sản phẩm
quốc dân; đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp;
đảm bảo ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do hoạt động; cân bằng
xuất nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước phải sử dụng các công
cụ bằng các chính sách có thể điều chỉnh tốc độ và phương hướng của hoạt
động kinh tế.

Quá trình thực hiện các chính sách của Nhà nước đều tác động đến hoạt
động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của các ngân hàng thương mại
nói riêng.

Sau đây tôi xin trình bày tham luận về công tác quản lý thuế đối với các
Ngân hàng thương mại:

2.5.1 Các loại thuế chủ yếu hiện hành đang áp dụng cho
các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng
thương mại Nhà nước nói riêng
Thuế GTGT
Cơ sở pháp lý: Luật, Nghị định, Thông tư.

Cụ thể áp dụng vào các Ngân hàng thương mại:

• Hoạt động tín dụng Ngân hàng: không thu thuế GTGT.

• Dịch vụ ngân hàng khác: thu thuế GTGT với thuế suất 10% theo
phương pháp khấu trừ đối với dịch vụ ngân hàng. Các dịch vụ khác
theo quy định chung.

Dịch bởi EMISCOM 38 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.5. VAI TRÒ QUẢN LÝ, GIÁM SÁT TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
BAN QUẢN LÝ THUẾ DNNN

• Riêng kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ: thu 10% theo phương
pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.

Thuế TNDN
Cơ sở pháp lý: Thực hiện chung theo Luật, Nghị định, Thông tư. Cụ thể
thuế suất áp dụng hiện nay là 28%.

Ngoài ra các Ngân hàng còn thực hiện kê khai, nộp các loại thuế như:
thuế môn bài, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu (nếu có) theo quy
định chung.

2.5.2 Tổ chức quản lý thu thuế hiện nay của Việt Nam đối
với các ngân hàng thương mại
Tổ chức quản lý thu thuế đối với các Ngân hàng thương mại thực hiện phù
hợp với tổ chức bộ máy của hệ thống Ngân hàng thương mại Nhà nước. Cụ
thể:

• Thuế GTGT được đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán tại nơi phát
sinh, tức là tại các Cục thuế sở tại, nơi các Ngân hàng mở chi nhánh
trực thuộc đóng trụ sở.

• Thuế môn bài, thu nhập cá nhân cũng được quản lý tương tự như trên.

• Thuế TNDN: Được thực hiện tập trung tại Cục thuế nơi đóng trụ sở
chính của Ngân hàng (Hội sở, hoặc Ngân hàng thương mại Trung
ương).

* Tại Trung ương: Tổng cục thuế có các Ban quản lý thuế trực thuộc.
Trong đó có Ban quản lý thuế DNNN chịu trách nhiệm quản lý, giải
đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách thuế đối với hệ
thống thuế trực thuộc cũng như vướng mắc từ các Ngân hàng thương
mại.

2.5.3 Những bất cập, kiến nghị rút ra trong quá trình quản
lý thuế đối với các Ngân hàng thương mại
• Về thuế GTGT: Quy định cho hoạt động ngân hàng còn phức tạp, một
số quy định hiện hành chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: còn thu thuế
GTGT đối với các dịch vụ Ngân hàng, còn thực hiện 3 loại thuế suất.
Do vậy, trong quá trình thực hiện giữa cơ quan thuế, doanh nghiệp
còn gặp vướng mắc.

• Về thuế TNDN: Các Ngân hàng thương mại thực hiện theo quy định
chung theo Luật thuế TNDN đối với các cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên,
phần lớn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực hiện theo hệ

Dịch bởi EMISCOM 39 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

thống tài khoản kế toán, chuẩn mực kế toán do Bộ Tài chính ban hành
nên thường có sự thống nhất cao trong quá trình thực hiện giữa biểu
mẫu kê khai của thuế và biểu mẫu kế toán. Tuy nhiên, các Ngân hàng
thương mại lại thực hiện theo hệ thống tài khoản kế toán và biểu mẫu
kế toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nên đôi khi còn bất
cập, khác biệt giũa hệ thống báo cáo của Ngân hàng và biểu mẫu kê
khai thuế.
Một trong những tồn tại lớn hiện nay là chứng từ hạch toán của các ngân
hàng thương mại: thường sử dụng chứng từ đặc thù theo quy định riêng của
Ngân hàng Nhà nước. Còn Bộ Tài chính lại quy định chung về chế độ hóa
đơn, chứng từ cho các đơn vị SX, KD.

Những kiến nghị:


• Phải nói rằng hệ thống các Ngân hàng thương mại Nhà nước của Việt
Nam hiện nay còn yếu cả về quy mô, chất lượng dịch vụ, trang thiết
bị cong nghệ thông tin, kinh nghiệm do vậy kéo theo cơ quan quản lý
nói chung cũng rơi vào tình trạng này.

Do vậy, để quản lý và giám sát tài chính đối với các Ngân hàng thương
mại Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như các Ngân hàng thương mại phải
nhận thức đúng các thực trạng nêu trên, kiến nghị ban hành các chính
sách phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế của Việt Nam.
• Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại
Nhà nước về vốn, công nghệ, chính sách, thông tin thị trường – giá cả
để các tổ chức này vươn lên có đủ sức cạnh tranh khi hội nhập.
• Cần thống nhất việc hướng dẫn kế toán và ban hành chế độ kế toán về
Bộ Tài chính, tạo thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước
trong quá trình kê khai nộp thuế.
• Tăng cường bộ máy quản lý, giám sát đủ mạnh, tranh thủ nghiên cứu,
học hỏi kinh nghiệm quản lý về nghiệp vụ Ngân hàng của các nước
phát triển để áp dụng vào Việt Nam.

2.6 Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc ngoại


tệ
Vụ Chính sách Tiền tệ, NHNN

2.6.1 Các quy định đối với công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc được thực hiện lần đầu từ tháng 6/1992 theo Pháp
lệnh Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, NHNN quy định việc thực hiện dự trữ

Dịch bởi EMISCOM 40 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.6. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC NGOẠI TỆ
VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, NHNN

bắt buộc chung đối với cả đồng Việt Nam và ngoại tệ. Các quy định cụ thể
về công cụ dự trữ bắt buộc qua các thời kỳ cụ thể như sau:

Quy định dự trữ bắt buộc áp dụng chung cho cả VND và ngoại tệ
qua các thời kỳ
• Từ tháng 6/1992, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định tối thiểu là 10%
tối đa là 35%. Do tính chất bất lợi của công cụ dự trữ bắt buộc như là
một hình thức thuế đánh vào các tổ chức tín dụng, do vậy trong thời
gian này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định cứng ở tỷ lệ 10%/tổng
tiền gửi huy động. Thêm vào đó, tiền gửi dự trữ bắt buộc được giữ
trên một tài khoản riêng. Do vậy, công cụ dự trữ bắt buộc nhìn chung
không phát huy được vai trò điều tiết tiền tệ, luôn đặt các tổ chức tín
dụng trong tình trạng phải dự trữ vượt mức quy định hàng ngày và
như vậy đã hạn chế khả năng phát triển thị trường tiền tệ, hạn chế
vai trò điều tiết của NHNN và hạn chế việc các ngân hàng thương mại
nâng cao kỹ năng quản lý vốn khả dụng.

• Đến tháng 3/1994, mặc dù dự trữ bắt buộc vẫn được duy trì theo cơ
sở hàng ngày trên một tài khoản riêng, nhưng tiền gửi tính dự trữ bắt
buộc được quy định chỉ bao gồm loại tiền gửi không kỳ hạn, tiền tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi có tính chất tiền gửi có kỳ hạn đến 12
tháng.

• Đến tháng 10/1995, NHNN đã có sự thay đổi trong việc duy trì dự trữ
bắt buộc. Đó là tiền dự trữ bắt buộc được gửi chung với tài khoản tiền
gửi thanh toán. Quy định như vậy đã tạo cho các tổ chức tín dụng giảm
bớt dự trữ vượt và thuận tiện cho quá trình thanh toán. Tuy nhiên,
dự trữ bắt buộc vẫn được tính trên cơ sở hàng ngày, kỳ duy trì dự trữ
bắt buộc rút ngắn còn 15 ngày 1 kỳ (1 tháng 2 kỳ), cơ cấu dự trữ bắt
buộc gồm tối thiểu 70% gửi tại NHNN, tối đa 30% là tiền mặt và ngân
phiếu thanh toán còn giá trị tồn quỹ tại tổ chức tín dụng.

• Đến tháng 12/1887, để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng khai thác
tối đa vốn trong thanh toán, đồng thời nâng cao khả năng điều tiết của
công cụ dự trữ bắt buộc, NHNN đã quy định tiền dự trữ bắt buộc được
tính bình quân theo kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là hàng tháng, đồng
thời dự trữ bắt buộc được mở rộng áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn
đến dưới 24 tháng.

• Đến tháng 3/1999, sau khi hai Luật NHNN có hiệu lực, Thống
đốc NHNN đã ban hμnh Quyết định số 51/1999/QĐ-NHNN1 ngày
10/2/1999 với nội dung về dự trữ bắt buộc như sau: đối tượng phải
duy trì dự trữ bắt buộc mở rộng thêm Ngân hàng Hợp tác xã, Quỹ Tín
dụng nhân dân và Hợp tác xã tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0-20%,

Dịch bởi EMISCOM 41 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

tiền gửi dự trữ bắt buộc phải gửi tại NHNN, số tiền dự trữ bắt buộc
được tính theo số dư bình quân tiền gửi trong kỳ duy trì.
• Đến tháng 8/2003 NHNN đã ban hành Quy chế dự trữ bắt buộc theo
Quyết định 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09/6/2003. Đây là quy định
hiện hành về dự trữ bắt buộc, trong đó có quy định cụ thể về dự trữ
bắt buộc như sau:
- Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng hoạt động
tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại
NHNN. Do vậy, NHNN hiện nay không chấp thuận việc dự trữ
bắt buộc bằng các loại giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ,
hoặc dự trữ bắt buộc bằng tiền mặt tồn quỹ tại các tổ chức tín
dụng.
- Đối tượng thi hành Quy chế dự trữ bắt buộc là các tổ chức tín
dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và
từng loại tiền gửi do Thống đốc NHNN quy định tùy thuộc vào
mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Dự trữ bắt buộc cho kỳ duy trì dự trữ bắt buộc được tính bằng
cách lấy số dư bình quân các loại tiền gửi huy động phải dự trữ
bắt buộc của tổ chức tín dụng của tháng trước nhân với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc quy định cho từng loại hình tổ chức tín dụng và cho
từng loại tiền gửi tương ứng.
- Dự trữ bắt buộc được tính đối với tất cả các khoản tiền gửi có kỳ
hạn dưới 24 tháng.
- Việc duy trì dự trữ bắt buộc hiện nay được tính theo phương pháp
bình quân hàng tháng. Như vậy, trong tháng, tổ chức tín dụng
có thể để số dư cuối ngày thấp hơn số tiền phải dự trữ bắt buộc
nhưng tính chung trong cả tháng, số dư bình quân phải bằng hoặc
cao hơn số tiền phải dự trữ bắt buộc.

Riêng đối với dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, có các quy định hiện
hành cụ thể như sau
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ hiện nay cụ thể như sau:
a. Đối với loại tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 8%
b. Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc là 2%.
2. Các loại tiền gửi huy động bằng ngoại tệ phải dự trữ bắt buộc bao gồm:
- Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước.

Dịch bởi EMISCOM 42 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.6. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC NGOẠI TỆ
VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, NHNN

- Tiền gửi của khách hàng:


* Tiền gửi của khách hàng trong nước:
+ Tiền gửi không kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc
+ Tiền gửi vốn chuyên dùng
* Tiền gửi tiết kiệm:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt
buộc
* Tiền gửi của khách hàng nước ngoài
+ Tiền gửi không kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc
* Tiền thu được từ việc phát hành giấy tờ có giá có kỳ hạn thuộc
loại phải dự trữ bắt buộc.

3. Tiền gửi bằng ngoại tệ làm cơ sở tính dự trữ bắt buộc là các loại ngoại
tệ, được quy đổi thành USD để dự trữ bắt buộc bằng USD. Trường
hợp tổ chức tín dụng có số dư tiền gửi huy động bằng EURO, hoặc
JPY, hoặc GBP, hoặc CHF chiếm trên 50% tổng nguồn huy động bằng
ngoại tệ thì có thể dự trữ bắt buộc bằng loại ngoại tệ đó.

4. Tiền dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được duy trì trên tài khoản tiền gửi
thanh toán mở tại Sở Giao dịch NHNN.

5. NHNN trả lãi phần thừa dự trữ bắt buộc vào tài khoản tiền gửi thanh
toán của Hội sở chính tổ chức tín dụng theo lãi suất tiền gửi không kỳ
hạn do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ. Lãi suất theo
quy định hiện hành là 1%/năm.

6. NHNN phạt bằng tiền phần thiếu dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của tổ
chức tín dụng như sau:

- Trường hợp tổ chức tín dụng thiếu dự trữ bắt buộc lần đầu trong
năm sẽ chịu hình thức xử phạt cảnh cáo.
- Trường hợp tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc lần thứ
2 trở đi trong năm, NHNN xử phạt bằng tiền đối với phần thiếu
tiền dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ theo lãi suất bằng 150% lãi
suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore
(SIBOR) kỳ hạn 3 tháng được công bố vào ngày làm việc cuối
cùng của kỳ duy trì dự trữ bắt buộc, tính trên phần thiếu hụt cho
cả kỳ duy trì dự trữ bắt buộc.

Dịch bởi EMISCOM 43 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

Hình 2.1: Hệ số tạo tiền và tỷ lệ DTBB

2.6.2 Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc


Có thể xem xét tác động của dự trữ bắt buộc đến việc thực hiện mục tiêu
chính sách tiền tệ nói chung và đến chi phí đối với các luồng vốn vào và ra
nói riêng cụ thể như sau:

1. Đối với việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, cũng như các nước
có sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, ở Việt Nam, công cụ dự trữ
bắt buộc được sử dụng nhằm kiểm soát cung tiền tệ, tác động đến
hệ số tạo tiền, qua đó tác động đến kiểm soát lạm phát. Ví dụ như
trong những năm 2000- 2001, chỉ số giá tiêu dùng giảm mạnh và có
lúc xuống đến mức âm, NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
để nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngược lại, trong những tháng đầu năm
2004, chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng cao vượt mục tiêu, NHNN
đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát lạm phát. Kết quả là chỉ số
giá tiêu dùng đã được kiềm chế ở mức 1 con số. Việc thực hiện công
cụ dự trữ bắt buộc theo quy định hiện nay làm cho khả năng kiểm soát
của NHNN với cung tiền tệ tăng lên. Tuy nhiên, tác động của việc thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với kiểm soát tiền tệ thường có độ trễ và
chỉ có tác động trong khoảng thời gian nhất định. Có thể thấy điều
này thông qua biểu đồ (2.1)

2. Bên cạnh việc kiểm soát cung tiền tệ, dự trữ bắt buộc còn là công
cụ tương đối mạnh để bơm hoặc hút vốn khả dụng. Theo quy định
hiện hành về dự trữ bắt buộc, các tổ chức tín dụng không nhất thiết
phải duy trì tiền gửi trên mức dự trữ bắt buộc trong các ngày duy trì,
do vậy khả năng điều hành vốn của các tổ chức tín dụng linh hoạt
hơn. Qua mức biến động số dư tiền gửi tại NHNN của các tổ chức tín

Dịch bởi EMISCOM 44 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.6. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC NGOẠI TỆ
VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, NHNN

Hình 2.2: Tỷ lệ DTBB và dự trữ vượt

dụng, NHNN có thể dự đoán được tổng nhu cầu dự trữ của các ngân
hàng thương mại. Việc điều hành công cụ dự trữ bắt buộc cho thấy
khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mức dự trữ thừa của các tổ chức
tín dụng giảm mạnh, và ngược lại, khi NNHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, mức dự trữ thừa tăng lên (biểu đồ 2.2), từ đó NHNN quyết định
sử dụng các công cụ khác như tái cấp vốn hoặc nghiệp vụ thị trường
mở để bơm tiền hay rút tiền về nhằm giảm bớt tác động của công cụ
dự trữ bắt buộc, đảm bảo ổn định tiền tệ.

3. Công cụ dự trữ bắt buộc được sử dụng để tác động đến chi phí của tổ
chức tín dụng, qua đố tác động đến lãi suất thị trường và tác động
đến luồng vốn vào và ra của các ngân hàng thương mại. Dự trữ bắt
buộc có tác động đến lãi suất thị trường thông qua việc tác động đến
chi phí huy động vốn của tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, dự trữ bắt
buộc được áp dụng cả đối với đồng Việt Nam và tất cả các loại ngoại tệ
huy động trên thị trường, do vậy sẽ tác động đến chi phí huy động vốn
đối với cả đồng Việt Nam và ngoại tệ. Tuy nhiên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng ngoại tệ thường cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt
Nam nhằm tăng chi phí huy động vốn bằng ngoại tệ. Từ năm 1999
đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã đóng vai trò tương đối quan trọng
để điều tiết thị trường. NHNN đã thường xuyên điều chỉnh tăng giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, từ đó đã điều
tiết thị trường tạo điều kiện mở rộng tín dụng kích thích đầu tư bằng
đồng Việt Nam. Như năm 1999, đã 2 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ
10% xuống 5% hoặc sử dụng dự trữ bắt buộc để tạo lợi thế cho đồng
Việt Nam trong mối quan hệ lãi suất -tỷ giá, hạn chế sự dịch chuyển
từ đồng Việt Nam sang ngoại tệ. Như trong hai năm 2000 và 2001 đã

Dịch bởi EMISCOM 45 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

Hình 2.3: Tỷ lệ DTBB và lãi suất huy động vốn

điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam và tăng dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên đến 15% và từ đó đã góp phần tạo lợi
thế so sánh cho đồng Việt Nam, hạn chế dòng chuyển đổi đồng Việt
Nam sang ngoại tệ. Từ cuối năm 2001 đến nay, khi lãi suất trên thị
trường quốc tế giảm mạnh, NHNN đã hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
ngoại tệ xuống 10%, 8%, 5%, rồi còn 4% để phù hợp với xu hướng lãi
suất quốc tế. Thêm vào đó, tiền duy trì dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ
không được trả lãi (NHNN trả lãi cho phần vượt dự trữ bắt buộc bằng
ngoại tệ), trong khi tiền duy trì dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam
được trả lãi. Điều này cũng là một nhân tố làm tăng chi phí đối với
các khoản huy động ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, qua đó khuyến
khích các tổ chức tín dụng huy động vốn bằng đồng Việt Nam.

Bên cạnh đó, công cụ dự trữ bắt buộc cũng được sử dụng để hạn chế
luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài. Trong những năm 2000-2001, lãi
suất quốc tế có xu hướng tăng cao, cùng với tác động của việc đồng
đôla Mỹ vững mạnh trên thị trường đã làm luồng tiền chảy ra nước
ngoμi tăng mạnh. NHNN đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ lên
đến 15% nhằm tăng hạn chế mức chênh lệch giữa lãi suất trong nước
với lãi suất quốc tế, giữa lãi suất huy động đồng Việt Nam với lãi suất
ngoại tệ và mức gia tăng tỷ giá, do vậy đã hạn chế phần nào luồng
ngoại tệ chảy ra nước ngoài. Các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định
qua các thời kỳ cụ thể trong bảng (2.3)

Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ và không trả lãi cho
tiền gửi dự trữ bắt buộc ngoại tệ như trên nhằm tạo ra sự chênh lệch

Dịch bởi EMISCOM 46 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.6. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC NGOẠI TỆ
VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, NHNN

Bảng 2.3: Tỷ lệ DTBB qua các thời kỳ


Quyết định Hiện lực VND Ng.tệ
441/2000/QĐ-NHNN1 ngày 10/10/2000 11-2000 5 8
496/2000/QĐ-NHNN1 ngày 1/12/2000 12-2000 5 12
560/2001/QĐ-NHNN ngày 27/4/2001 05-2001 3 15
1472/2001/QĐ-NHNN ngày 23/11/2001 12-2001 3 10
270/2002/QĐ-NHNN ngày 01/4/2002 04-2002 3 8
1277/2002/QĐ-NHNN ngày 18/11/2002 12-2002 3 5
582/2003/QĐ-NHNN ngày 09/06/2003 08-2003 3 4
831/2003/QĐ-NHNN ngày 30/7/2003 08-2003 2 4
796/QĐ-NHNN ngày 25/6/2004 07-2004 5 8

giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ cũng đã phần nào khuyến khích các
cá nhân có ngoại tệ bán cho ngân hàng, đồng thời khuyến khích các tổ
chức kinh tế thực hiện các giao dịch phái sinh ngoại tệ với các tổ chức
tín dụng, qua đó pháttriển thị trường ngoại hối trong nước.

Dự trữ bắt buộc còn có tác động nhằm đảm bảo khả năng
thanh toán đối với các tổ chức tín dụng

Với quy định thực hiện dự trữ bắt buộc bình quân như hiện nay, khi
các tổ chức tín dụng thiếu hụt thanh khoản tạm thời có thể sử dụng
phần duy trì dự trữ bắt buộc để phục vụ thanh toán, và bù đắp thiếu
hụt dự trữ bắt buộc trong những ngày tiếp theo của kỳ duy trì dự trữ
bắt buộc. Do vậy, các tổ chức tín dụng sẽ không phải vay qua đêm trên
thị trường liên ngân hàng hoặc vay thấu chi từ NHNN ngay khi bắt
đầu thiếu hụt thanh khoản, qua đó giảm bớt được những biến động
đột ngột về lãi suất ngắn hạn, nhất là lãi suất qua đêm trên thị trường
liên ngân hàng. Thêm vào đó, việc sử dụng phần dự trữ bắt buộc để
bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sẽ cảnh báo cho tổ chức tín
dụng cần có những biện pháp tăng cường dự trữ thanh khoản nhằm
đảm bảo khả năng thanh toán. NhƯ vậy, phần dự trữ bắt buộc có thể
được coi là “vật đệm” cho hoạt động thanh toán của tổ chức tín dụng.
Ngược lại, khi tổ chức tín dụng dự thừa dự trữ bắt buộc trong khoảng
thời gian đầu kỳ dự trữ bắt buộc là tín hiệu để các tổ chức tín dụng
cần tăng cường cho vay liên ngân hàng vào khoảng thời gian còn lại
của kỳ duy trì dự trữ bắt buộc mà vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ dự
trữ bắt buộc. Hơn nữa, chức năng vật đệm thanh toán như trên cũng
phát huy hiệu quả khi NHNN áp dụng kỳ duy trì dự trữ bắt buộc trễ
hơn 1 tháng so với kỳ tính dự trữ bắt buộc, bởi vậy, cả các ngân hàng
thương mại và NHNN đều nắm được lượng dự trữ bắt buộc. Qua đó
các ngân hàng thương mại có biện pháp chủ động thực hiện dự trữ bắt

Dịch bởi EMISCOM 47 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 2. MÔI TRƯỜNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT
TẠI VIỆT NAM

buộc, NHNN có thể quản lý và dự báo tình hình vốn trên thị trường,
tránh những biến động đột ngột về lãi suất cũng như tình trạng căng
thẳng vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.

2.6.3 Cơ sở xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại


tệ

Công cụ dự trữ bắt buộc hiện nay được coi là một công cụ có tác động
mạnh nhất đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đến lãi suất thị
trường. Việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ của NHNN được
dựa trên những cơ sở sau:

(a) Một là căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ:
Dựa vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ là thắt
chặt hoặc nới lỏng tiền tệ, NHNN có biện pháp để tăng hoặc giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm theo mục tiêu chính sách tiền tệ.
(b) Hai là căn cứ vào các diễn biến kinh tế như lạm phát, tăng trưởng
kinh tế và các mục tiêu kinh tế khác: Theo Luật NHNN đã quy
định chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách
kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội,
do vậy việc thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ cũng cần căn
cứ vào tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Trong đó, công
cụ dự trữ bắt buộc là một công cụ mạnh có tác động đến hệ số
tạo tiền. Do vậy, để thực hiện việc kiểm soát lạm phát, NHNN
thường tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm tiền cung ứng (M2).
Ngược lại, khi lạm phát có xu hướng giảm thấp đến mức thiểu
phát, NHNN thường giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng cung tiền
tệ. Ngoài ra, thông qua tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN
đã tác động đến việc thắt chặt hoặc mở rộng tín dụng nhằm tác
động đến nguồn vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy,
việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc phụ thuộc vào các diễn biến
kinh tế nhằm thực hiện được mục tiêu chính sách tiền tệ.
(c) Ba là căn cứ vào các diễn biến tiền tệ như tình hình huy động vốn
và cho vay bằng đồng Việt Nam, bằng ngoại tệ, lãi suất đồng Việt
Nam và ngoại tệ, lãi suất ngoại tệ trong nước vμ quốc tế: Như đã
đề cập trong phần 2.3, công cụ dự trữ bắt buộc có tác động đến
chi phí huy động vốn cũng như đến sự dịch chuyển nguồn vốn
giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Vì vậy, khi lãi suất quốc tế có
xu hướng tăng gây sức ép làm tăng lãi suất ngoại tệ trong nước,
tạo luồng chuyển đổi tiền gửi từ đồng Việt Nam sang ngoại tệ,
NHNN phải sử dụng đến công cụ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ
làm tăng chi phí huy động vốn, qua đó giảm lãi suất huy động

Dịch bởi EMISCOM 48 °


c IIMA, tháng 3/2005
2.6. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC NGOẠI TỆ
VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, NHNN

ngoại tệ trong nước, đồng thời duy trì ổn định cơ cấu huy động
vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Khi tốc độ gia tăng tín dụng
quá nóng, NHNN cũng thường sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc
để hạn chế tốc độ gia tăng tín dụng, nhất là đối với tín dụng ngoại
tệ, nhằm hạn chế những rủi ro về tỷ giá trong hoạt động tín dụng
của các tổ chức tín dụng

Dịch bởi EMISCOM 49 °


c IIMA, tháng 3/2005
Chương 3

Thị trường Ngoại hối và


Tiền tệ tại Việt Nam

Chương này trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng thị trường tiền tệ và
ngoại hối, hoạt động cho vay và thu hút tiền gửi ngân hàng tại Việt Nam.
Đây là những nhân tố quan trọng cần xem xét khi xây dựng các điều kiện
tài trợ thương mại bằng đồng yên bởi các tổ chức tài chính sẽ phải xác định
chính xác tỷ giá giao ngay, tỷ giá kỳ hạn, và lãi suất tài trợ dựa trên thực tế
thị trường khi cung cấp khoản tài trợ bằng đồng yên.

3.1 Thị trường ngoại hối


Giao dịch ngoại hối phải được thực hiện tại các tổ chức tài chính có giấy
phép giao dịch ngoại hối do NHNN cấp.

3.1.1 Hệ thống tỷ giá hối đoái


Tỷ giá giao ngay
Việt Nam chính thức áp dụng hệ thống tỷ giá thả nổi có kiểm soát kể từ năm
1999. Trên thực tế, NHNN thông báo tỷ giá giao dịch liên ngân hàng bình
quân (tỷ giá với đôla Mỹ) của sáng hôm sau vào ngày hôm trước. Các ngân
hàng sẽ đưa ra tỷ giá áp dụng với khách hàng trong giới hạn ±0.25% tỷ giá
chính thức. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn của hệ thống ngoại hối, đồng
Việt Nam được neo vào đôla Mỹ. Tỷ giá với các loại tiền tệ khác được xác
định tự do.

NHNN đang dần định hướng thị trường làm yếu đồng Việt Nam. Do
hơn 90% giao dịch ngoại hối được thực hiện bằng đôla Mỹ, NHNN có thể
điều chỉnh tỷ giá các đồng tiền khác thông qua quản lý tỷ giá đồng-đôla.

50
3.1. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

Hình 3.1: Tỷ giá hối đoái của Việt Nam Đồng

Hàng ngày, các ngân hàng có nghĩa vụ báo cáo mọi giao dịch ngoại hối
cho NHNN, nhưng không có bất kỳ số liệu thống kê nào về tổng giá trị giao
dịch ngoại hối được công bố. Khoảng gần 90% giao dịch ngoại hối là giao
ngay và chỉ khoảng 10% là giao dịch kỳ hạn.

Tỷ giá kỳ hạn
Tỷ giá kỳ hạn đôla Mỹ-đồng được tính toán dựa trên tỷ giá giao ngay và lãi
suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam và đôla Mỹ. Cụ thể, lãi suất FF được áp
dụng với đôla Mỹ và lãi suất cơ bản được áp dụng với đồng Việt Nam. Chênh
lệch giữa hai loại lãi suất nhân với số ngày được cộng vào tỷ giá giao ngay.
Thông thường, chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền trogn một thời kỳ cụ
thể (ba tháng, sáu tháng, . . . ) được sử dụng để tính tỷ giá kỳ hạn, nhưng
ở Việt Nam, lãi suất FF được áp dụng với O/N và lãi suất cơ bản, lãi suất
cho vay cơ sở của ngân hàng, được sử dụng làm lãi suất tiền gửi với mỗi loại
tiền tệ. (Lãi suất cho vay được tính bằng lãi suất cơ bản cộng thêm tỷ lệ lợi
nhuận không đổi theo thời hạn cho vay). Cách tính tỷ giá kỳ hạn tại Việt
Nam không phản ánh chính xác chênh lệch lãi suất giữa các thời hạn khác
nhau và chênh lệch này trở nên lớn hơn tỷ giá kỳ hạn của đôla Mỹ (chiết
khấu đồng Việt Nam).

Phương pháp tính toán này được qui định trong hướng dẫn của NHNN.
Mặc dù có thể tự đưa ra tỷ giá của mình, tất cả các ngân hàng đều đơn giản
tuân theo hướng dẫn này và dường như không hề tự tính toán tỷ giá.

Không có thị trường kỳ hạn liên ngân hàng. Nhóm nghiên cứu sẽ bình
luận các lý do mà giao dịch kỳ hạn không được thực hiện trong phần sau.

Dịch bởi EMISCOM 51 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

3.1.2 Giao dịch ngoại hối


Giao dịch giao ngay
Thành viên tham gia thị trường ngoại hối liên ngân hàng là NHNN và các
ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối. NHNN thực hiện giao dịch nhằm
thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và đóng vai trò người mua và
bán ngoại tệ cuối cùng.

Thành viên chủ đạo trên thị trường liên ngân hàng là bốn ngân hàng
thương mại quốc doanh (NHTMQD). Các ngân hàng, Mỹ, Đức và Pháp cũng
tham gia rất tích cực. Không có môi giới trên thị trường liên ngân hàng, các
ngân hàng trực tiếp giao dịch thông qua điện thoại.

Các ngân hàng khi thực hiện giao dịch ngoại hối cho khách hàng luôn có
một giao dịch bảo hiểm. Trước tiên, ngân hàng sẽ tìm một khách hàng có
nhu cầu ngược lại để thực hiện giao dịch bảo hiểm. Nếu không tìm được,
ngân hàng sẽ thực hiện giao dịch bảo hiểm trên thị trường liên ngân hàng.
Nếu giao dịch liên ngân hàng vẫn chưa đủ để bảo hiểm, ngân hàng sẽ giao
dịch với NHNN.

Trong giao dịch ngoại hối với NHNN, bán đôla Mỹ được thực hiện khá
dễ dàng, nhưng giao dịch mua đôla (NHNN bán đôla) thì phức tạp hơn bởi
các ngân hàng phải đưa ra các văn bản chứng minh nhu cầu cần mua với
NHNN, ví dụ như hóa đơn giao dịch thương mại. Chính sách ngoại hối của
NHNN dựa trên chính sách quốc gia chung, nếu đôla được sử dụng để nhập
khẩu các hàng hóa quan trọng, ví dụ như năng lượng, thì việc mua đôla từ
NHNN sẽ dễ dàng hơn.

Tuy vậy, do hệ thống tỷ giá được neo vào đôla Mỹ, rất hiếm khi NHNN
phải can thiệp vào thị trường liên ngân hàng.

Giao dịch bảo hiểm đối với đôla Mỹ có thể thực hiện trên thị trường liên
ngân hàng. Nhưng với các loại tiền tệ khác, ví dụ yên, khả năng thanh khoản
được như vậy. Lý do của tính thanh khoản yếu một phần xuất phát từ rủi
ro biến động tỷ giá đồng-yên là cao và các ngân hàng Nhật Bản, được trông
đợi sẽ đưa ra tỷ giá với đồng yên, có hạn mức tín dụng thấp cho các ngân
hàng Việt Nam và duy trì thái độ bảo thủ (gạt nhu cầu của khách hàng về
đồng yên sang một bên).

Khi có nhu cầu về đồng yên mà không thể mua được yên từ các giao dịch
ngoại hối trên thị trường nội địa, các ngân hàng sẽ mua yên qua giao dịch
đôla-yên trên thị trường nước ngoài. Do tính thanh khoản thấp của đồng yên
trên thị trường nội địa, ngân hàng có xu thế bán đồng yên ngay khi thu được.

Dịch bởi EMISCOM 52 °


c IIMA, tháng 3/2005
3.1. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

Giá trị một giao dịch trên thị trường liên ngân hàng thường nằm trong
khoảng từ 0.5 đến 1 triệu đôla, chủ yếu là các giao dịch nửa triệu đôla. Việt
Nam đồng được thanh toán thông qua hệ thống bù trừ của NHNN và đôla
thường được thanh toán thông qua ngân hàng tương ứng tại New York. Tuy
vậy, các ngân hàng vẫn giữ tài khoản đôla tại NHNN

Giao dịch kỳ hạn


Ngoài trừ việc định giá giao dịch kỳ hạn đôla Mỹ-đồng, không có qui định về
các giao dịch phái sinh khác như hoán đổi (swap), hay quyền chọn (option).
Kỳ hạn giao dịch có thể tới một năm. Tuy nhiên, các phương thức giao dịch
phòng ngừa rủi ro như giao dịch kỳ hạn hay phái sinh không được áp dụng
nhiều.

Như đã nói ở trên, tỷ giá kỳ hạn đôla Mỹ-đồng được tính khá bất thường.
Do tỷ giá kỳ hạn được tính toán trên cơ sở Việt Nam đồng ngày càng yếu đi,
giao dịch kỳ hạn trong đó ngân hàng đôla bán ra và khách hàng mua vào có
chi phí cao hơn cho khách hàng. Trên thực tế, tỷ giá hối đoái dần làm yếu
Việt Nam đồng và lãi suất dùng để tính tỷ giá kỳ hạn có thể cũng thay đổi,
do vậy, tỷ giá kỳ hạn không nhất thiết phản ánh sự mất giá của Việt Nam
đồng. Nhưng sự thực là trong rất nhiều trường hợp, các đơn vị xuất khẩu
không có động lực để thực hiện giao dịch nhanh hơn khi họ hiểu rằng thua
thiệt là không thể tránh khỏi. Các giao dịch kỳ hạn phần lớn là giao dịch
liên quan tới nhập khẩu. Bởi vậy, giao dịch kỳ hạn không được sử dụng như
biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

Các giao dịch hoán đối (swap) ngoại hối thường được thực hiện giữa các
ngân hàng với đôla Mỹ, euro, và đôla Úc, rất hiếm giao dịch hoán đổi được
thực hiện với khách hàng. Cũng có trường hợp giao dịch không thể thực
hiện do thiếu hạn mức tín dùng vì các ngân hàng nước ngoài dành cho ngân
hàng Việt Nam hạn mức tín dụng rất hạn chế.

Không có giao dịch hoán đổi lãi suất.

Giao dịch quyền chọn được giới thiệu từ năm 2004. Các ngân hàng đều
giới thiệu giao dịch này nhưng các giao dịch cụ thể vẫn chưa được hiện thực
hóa.

Rõ ràng là kiến thức của khách hàng về các sản phẩm phái sinh còn rất
hạn chế bởi lịch sử phát triển ngắn của thị trường. Mặc khác, chính các
ngân hàng cũng không có đủ kiến thức trong các lĩnh vực này. Các ngân
hàng không thể cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm cho khách hàng.

Sử dụng nhiều hơn các sản phẩm phái sinh, như giao dịch ngoại hối kỳ

Dịch bởi EMISCOM 53 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

hạn, như một biện pháp phòng ngừa rủi ro là vấn đề cần được giải quyết
trong những năm tới.

3.2 Hoạt động cho vay và thu hút tiền gửi ngân
hàng, và thị trường tiền tệ
3.2.1 Đặc trưng của hệ thống ngân hàng
Theo IMF, bốn NHTMQD chiếm gần 74% thị phần tiền gửi và 76% thị phần
cho vay vào thời điểm cuối tháng 3/2003, gần như hình thành thế độc quyền
trong kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng này chiếm tới 90% các khoản
vay của công ty quốc doanh. Chính phủ cũng can thiệp vào các quyết cho
vay của NHTMQD. Thực tế này chỉ ra rằng hoạt động ngân hàng vẫn chưa
vận hành hoàn toàn trên cơ sở các điều kiện thương mại.

Bên cạnh các NHTMQD, có 35 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân
hàng liên doanh giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài, và 27
chi nhánh ngân hàng nước ngoài (vào thời điểm cuối 2004).

Trong khi các NHTMQD tập trung hoạt động cho vay vào các doanh
nghiệp nhà nước, nhu cầu vốn của khối doanh nghiệp tư nhân ngày một
tăng lên. Điều này góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các ngân hàng trong
hoạt động cho vay và thu hút tiền gửi.

3.2.2 Chính sách tiền tệ của NHNN và thị trường tiền tệ


Mặc dù tồn tại thị trường liên ngân hàng cho đối với đồng và đôla Mỹ, các
giao dịch trên thực tế được tiến hành trực tiếp giống như thị trường ngoại
hối. Kết quả là thị trường liên ngân hàng hoạt động không thật sự hiệu quả.
Các NHTMQD cũng có nguồn tiền gửi dồi dào do vậy không cần thiết phải
huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng.

Thông tin về thị trường liên ngân hàng của Việt Nam đồng được trình
bày trong hình (3.2). Tuy nhiên, các lãi suất này chỉ dùng để tham khảo. Ví
dụ, lãi suất qua đêm dao động từ 6,0% đến 6,60%, và các ngân hàng đưa
ra mức lãi suất thấp nhất là ACB, một ngân hàng thương mại cổ phần, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài như ANZ, HSBC Việt Nam, Standard Char-
tered Bank, còn các ngân hàng có lãi suất cao nhất, 6,60% là Ngân hàng
Nông nghiệp và Vietcombank, các NHTMQD và có lượng vốn dồi dào. Với
lãi suất 6 tháng, các ngân hàng thương mại đưa ra mức cao nhất như ACB,
Sacombank, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đưa ra mức thấp nhất,
Deutsche Bank và HSBC.

Dịch bởi EMISCOM 54 °


c IIMA, tháng 3/2005
3.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ THU HÙT TIỀN GỬI NGÂN HÀNG, VÀ
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

Hình 3.2: Lãi suất liên ngân hàng

Giá trị mỗi giao dịch thường trong khoảng 10-20 triệu đồng.

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng đối với đôla Mỹ dù tồn tại nhưng không
thực sự hoạt động, và có thể vay được từ các ngân hàng trong nước. Bên
cạnh đôla Mỹ, các giao dịch gây quỹ còn được thực hiện với euro và đôla Úc,
không có giao dịch bằng yên.

NHNN có ba cách để tăng vốn cho các tổ chức tài chính.

Cách thứ nhất được gọi là hoạt động thị trường mở và xuất phát từ phía
các tổ chức tài chính. Đó là cách các ngân hàng huy động vốn thông qua bán
trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, hoặc chứng chỉ tiền gửi cho NHNN.
Hoạt động thị trường mở được tiến hành hai lần một tuần (các buổi sáng
thứ ba và thứ năm) hoặc hai phiên một ngày tùy theo lựa chọn của NHNN.
Hiện tại, lãi suất với hoạt động thị trường mở với kỳ hạn 2 tuần là 4%, và kỳ
hạn một tháng là từ 6-7%.

Hoạt động thị trường mở không chỉ là biện pháp để NHNN cấp vốn mà
còn là cách hấp thụ vốn của NHNN (NHNN bán trái phiếu chính phủ và tín
phiếu kho bạc).

Cách thứ hai được gọi là cửa sổ chiết khấu. Các tổ chức tài chính dùng
tín phiếu kho bạc thế chấp để vay vốn. Lãi suất được NHNN thông báo hàng
tháng. Mức lãi suất hiện tại là 5%.

Cách thứ ba được gọi là cửa sổ tái tài trợ. Các tổ chức tài chính xuất
trình chứng từ của một khoản vay để huy động vốn. Đây là phương pháp

Dịch bởi EMISCOM 55 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

Hình 3.3: Lãi suất

thực sự sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước lớn và thường
được các NHTMQD áp dụng khi nới rộng các khoản vay với doanh nghiệp
nhà nước. Do vậy, các ngân hàng cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài rất khó sử dụng hình thức này để huy động vốn.

NHNN phê duyệt riêng biệt từng đề nghị cấp vốn qua cửa sổ chiết khấu
hoặc tái tài trợ.

Bên cạnh ba phương thức trên, ngân hàng có thể thực hiện hoán đổi
ngoại hối đôla Mỹ-đồng (bán đôla Mỹ và mua Việt Nam đồng) và huy động
vốn Việt Nam đồng với đôla Mỹ.

Trong bốn phương tiện trên của chính sách tài chính, hoạt động thị
trường chiếm khoảng 81% khối lượng giao dịch trong năm 2004.

3.2.3 Tiền gửi ngân hàng


Từ năm 2002, lãi suất tiền gửi ngân hàng được thả nổi, ngoại trừ tiền gửi
bằng đôla Mỹ của doanh nghiệp. Lãi suất tiền gửi đôla Mỹ của doanh nghiệp
có giới hạn trần là 0,4%. Không có giới hạn nào với tiền gửi đôla của cá nhân.

Như đã trình bày, cạnh tranh thu hút tiền gửi ngày càng mạnh mẽ hơn
bởi nhu cầu huy động vốn đáp ứng yêu cầu đầu tư ngày một tăng lên của xã
hội. Tuy nhiên, không thể nói rằng cạnh tranh thực sự công bằng và bình
đẳng. Bốn NHTMQD đã thống nhất với nhau trần lãi suất tiền gửi để tránh
làm xấu đi bảng cân đối tài sản như một kết cục của cuộc chiến lãi suất. Thế
nhưng, vào tháng 7/2004, lãi suất tiền gửi đã vượt quá mức lãi suất trần.
Biến động của lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi được thể hiện trong hình
(3.3).

Theo IMF, cấu trúc tiền gửi tính đến hết tháng 7/2004 như sau: 22,4%
là tiền gửi thông thường, 46,7% là tiền gửi cố định, và 30,9% là tiền gửi ngoại

Dịch bởi EMISCOM 56 °


c IIMA, tháng 3/2005
3.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ THU HÙT TIỀN GỬI NGÂN HÀNG, VÀ
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

Hình 3.4: Số dư tiền gửi

Bảng 3.1: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc


Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Dưới 1 năm 5,0% 8,0%
1 - 2 năm 2,0% 2,0%

tệ, đa phần là đôla Mỹ. (Biến động của số dư tiền gửi được trình bày trong
hình (3.4)). Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng dao động trong khoảng
từ 30-50%. Tỷ lệ giữa tiền gửi cá nhân và tiền gửi của doanh nghiệp biến
động giữa các ngân hàng. Thông thường, tiền gửi cá nhân chiếm từ 60-70%,
phần còn lại là tiền gửi của doanh nghiệp.

Các ngân hàng có nghĩa vụ duy trì mức dự trữ tiền gửi tại NHNN. Đối
phó với tình trạng tăng quá nhanh của các khoản vay ngân hàng, NHNN đã
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ cuối tháng 6/2004. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc hiện
tại được trình bày trong bảng (3.1). Tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi ngoại
tệ có kỳ hạn trên một năm thấp hơn tỷ lệ này với tiền gửi Việt Nam đồng.
Chính sách này nằm tăng lượng tiền gửi dài hạn trong đó có tiền gửi ngoại
tệ. Sau khi chính sách này được áp dụng, có vẻ như kỳ hạn của các khoản
tiền gửi dài hơn. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi Việt Nam đồng là
1,2% p.a.

3.2.4 Cho vay ngân hàng


Các qui định về lãi xuất cho vay của các ngân hàng tại Việt Nam đã được xóa
bỏ.

Dịch bởi EMISCOM 57 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

Cơ sở xây dựng lãi suất cho vay bằng Việt Nam đồng là lãi suất cơ bản
do NHNN ban hành, hiện nay là 0,725%/ tháng. Tuy nhiên, các ngân hàng
đã không còn tính lãi suất cho vay dựa trên lãi suất cơ bản và lãi suất này
trở nên hoàn toàn vô nghĩa.

Do nhu cầu vốn ngày một tăng lên, hoạt động cho vay của ngân hàng
ngày một phát triển. So với các NHTMQD, chủ yếu cho vay với các doanh
nghiệp nhà nước, hoạt động cho vay của các ngân hàng cổ phần có tốc độ
tăng nhanh hơn. Nói chung, lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng cổ phần cao
hơn NHTMQD nhưng các ngân hàng này lại có ROE cao hơn các NHTMQD,
mặc dù chỉ có mức chênh lệch nhỏ. Đây là bằng chứng rõ rệt về sự khác biệt
hiệu quả quản lý ngân hàng.

Khi ngân hàng cung cấp các khoản vay, nguồn vốn chủ yếu được huy
động từ nguồn tiền gửi, nhưng tỷ lệ tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay khác
biệt với từng ngân hàng. 60-70% các khoản vay được đáp ứng từ lượng tiền
gửi, và khoản 30-40% còn lại được huy động từ NHNN hoặc vay của các
ngân hàng khác.

Các khoản vay đôla cũng áp dụng cùng công thức trên. Nguồn vốn cần
thiết cho các khoản vay đôla là tiền gửi bằng đôla nhưng phần lớn lại là các
khoản tiền gửi tiêu dùng và không trùng với kỳ hạn cho vay. Điều này nghĩa
là ngân hàng luôn phải gánh chịu khoảng trống về kỳ hạn.
Lãi suất cho vay Việt Nam đồng được xác định tren cơ sở lãi suất tiền
gửi, lãi suát thị trường tiền tề và các yếu tố khác, cộng thêm chi phí và lợi
nhuận, sau đó được điều chình theo điều kiện cạnh tranh.

Lãi suất cho vay với đôla Mỹ dựa trên cơ sở SIBOR và cộng thêm 2-3%.
Hầu như không có bất kỳ mối quan hệ nào giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất
cho vay bằng đôla Mỹ. SIBOR được sử dụng là cơ sở tính lãi suất có lẽ là do
trước đây NHNN đã sử dụng lãi suất này để đặt ra lãi suất trần cho vay đôla
Mỹ. Lãi suất cho vay đôla Mỹ được thả nổi hoàn toàn từ tháng 6/2001.

Để huy động đôla Mỹ, có thể sử dụng hoán đổi ngoại hối đôla Mỹ-đồng,
và giao dịch hoán đổi (6 tháng, 1 năm) được thực hiện với NHNN.

Hiện nay, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam là 9-10% một tháng, và
4-5% với đôla Mỹ.

Các ngân hàng Việt Nam thực hiện hoán đổi ngoại hối đôla Mỹ-euro với
các ngân hàng châu Âu tại Hồng Kông và Singapore để huy động vốn cho
vay bằng euro. Các ngân hàng châu Âu có cấp hạn mức tín dụng cho các giao
dịch hoán đổi nhưng rất hiếm trường hợp ngân hàng Việt Nam vay euro từ

Dịch bởi EMISCOM 58 °


c IIMA, tháng 3/2005
3.3. CÁC VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN

các ngân hàng này.

Các ngân hàng phải chịu thuế thu nhập khi huy động vốn từ các nguồn
nước ngoài, làm chi phí vốn đắt hơn và tăng lãi suất cho vay.

3.2.5 Các qui định đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Mặc dù các qui định về số dư tiền gửi và số dư cho vay bằng tiền đồng đang
dần được xóa bỏ, hạn mức trần vẫn đang được áp dụng với các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài. Tiền gửi Việt Nam đồng với các ngân hàng Mỹ và
châu Âu không được vượt quá 500% vốn đưa vào Việt Nam của chi nhánh.
Với ngân hàng từ các quốc gia khác là 50%. Các ngân hàng Mỹ và châu Âu
được đối xử đặc biệt nhờ có các hiệp định thương mại song phương. Qui
định cấm cá nhân Việt Nam mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài vẫn
đang được áp dụng.

Nhằm xóa bỏ các qui định đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
NHNN đã dỡ bỏ qui định về quản lý quỹ ở nước ngoài đối với chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và ngân hàng cổ phần vào tháng 4/2004. (Chiếm tới
30% vốn của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 10% đối với ngân hàng
cổ phần). Lý do là vì dự trữ ngoại tệ đã tăng lên và không cần thiết phải có
các qui định về ngoại tệ.

3.3 Các vấn đề đối với tài trợ thương mại bằng
đồng yên
Việt Nam phải khuyến khích đầu tư trực tiếp và đẩy mạnh giao dịch thương
mại nhằm đặt được các mục tiêu phát triển kinh tế cao hơn. Nền kinh tế
nội địa phải được mở cửa với thế giới bên ngoài. Việt Nam đang nỗ lực gia
nhập WTO vào năm 2005.

Lệ thuộc quá nhiều vào đôla Mỹ sẽ khiến nền kinh tế phải đổi mặt với
các rủi ro trong giao dịch tài chính như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái khi
thực hiện các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai. Điều này không chỉ hạn
chế với khu vực tư nhân mà còn thực sự tác động tới chính phủ, hiện vẫn
đang có những khoản vay phi đôla.

Nhận thức các rủi ro trong tương lai, chính phủ Việt Nam đang dần nới
lỏng các qui định về giao dịch tài chính và phát triển từng bước thị trường
tài chính. Việc xóa bỏ qui định về quản lý quỹ ở nước ngoài và giới thiệu
sản phẩm quyền chọn (option) có thể coi là một phần của chính sách này.

NHNN có dự kiến đẩy mạnh hơn nữa quá trình nới lỏng qui định quản
lý. Mức trần tỷ giá giao ngay dự kiến sẽ được xóa bỏ trong tỷ giá hối đoái

Dịch bởi EMISCOM 59 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

nhằm dỡ bỏ hệ thống tỷ giá neo ổn định đang được áp dụng. Tỷ lệ dự trữ


bắt buộc trên thị trường tiền tệ được giảm xuống. Hoạt động thị trưởng mở
được tập trung nhằm thực hiện chính sách tiền tệ.
Nhằm từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào đồng đôla Mỹ, Việt Nam phải
tăng khối lượng giao dịch ngoại tệ bằng đồng yên và các đồng tiền phi đôla
khác cũng như cung cấp các phương thức phòng ngừa rủi ro ngoại hối trong
giao dịch ngoại tệ. Phát triển các thị trường cung cấp giao dịch vốn và ngoại
hối cạnh tranh và hiệu quả là việc làm bắt buộc không chỉ nhằm tăng khối
lượng ngoại thương của các tổ chức kinh doanh và lợi nhuận mà còn mang
lại môi trường cần thiết cho quản lý lành mạnh tại các ngân hàng cung cấp
giao dịch tài chính. Hiện tại, các sản phẩm phòng ngừa rủi ro ngoại hối mới
chỉ áp dụng cho đôla Mỹ và một số ít với euro.

Trên tình hình hiện tại, các vấn đề quan trọng trước mắt của thị trường
tiền tệ và ngoại hối Việt Nam là hai điểm sau, không chỉ đối với các giao dịch
bằng đồng yên mà cho mọi giao dịch ngoại tệ.

3.3.1 Nuôi dưỡng thị trường tiền tệ liên ngân hàng


Vai trò cơ bản của ngân hàng là phân phối nguồn vốn hiệu quả và phù hợp
giữa các tổ chức kinh tế. Việc điều chỉnh lượng vốn giữa các ngân hàng được
thực hiện trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Thị trường tiền tệ liên ngân
hàng có đủ tính thanh khoản không? và nguồn vốn có được điều chỉnh theo
các nguyên tắc thị trường không? sẽ tác động đến các giao dịch tài chính
trong nền kinh tế.

Hiện tại, các giao dịch trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tại Việt Nam
được thực hiện qua điện thoại. Không thể nói thị trường đã hoạt động hiệu
quả trên giác độ chi phí và tính thanh khoản. Để xây dựng một thị trường
tiền tệ liên ngân hàng hiệu quả, bước đi đầu tiên cần thực hiện là khuyến
khích các giao dịch đa phương. Nhiều biện pháp khác nhau có thể được áp
dụng với giao dịch đa phương như xây dựng các trung gian môi giới hay hệ
thống các nhà tạo lập thị trường sơ cấp.

Điều chỉnh tiền tệ của ngân hàng trung ương cần cơ bản thực hiện trên
thị trường liên ngân hàng. Các hình thức điều chỉnh hiện tại thông qua giao
dịch cụ thể hoặc cấp vốn trực tiếp cho ngân hàng cần được chuyển dần sang
điều chỉnh trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Nếu qui mô thị trường
trái phiếu chính phủ tăng lên sau khi nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, thì
sự phát triển của thị trường repo, sử dụng trái phiếu chính phủ, cũng cần
được xem xét như một khả năng. Để giảm rủi ro cho NHNN và các tổ chức
tài chính tham gia thị trường tiền tệ, hình thành và phát triển thị trường
repo là một yêu cầu cần thiết.

Dịch bởi EMISCOM 60 °


c IIMA, tháng 3/2005
3.3. CÁC VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN

3.3.2 Tăng cường phương tiện phòng ngừa rủi ro ngoại


hối
Các sản phẩm phái sinh tài chính như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, tương lai,
quyền chọn là các phương tiện phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Giao dịch kỳ
hạn được thực hiện với các khách hàng Việt Nam, nhưng như đã trình bày ở
trên, các giao dịch này không được sử dụng như một biện pháp phòng ngừa
rủi ro ngoại hối mà như một hình thức điều chỉnh kỳ hạn nguồn vốn (điều
chỉnh kỳ hạn). Giao dịch kỳ hạn ngoại hối không được thực hiện trên thị
trường liên ngân hàng cũng là một vấn đề. Tổng kết lại, có rất ít hoạt động
phòng ngừa rủi ro ngoại hối cả về phía doanh nghiệp lẫn ngân hàng.

Để thoát khỏi sự lệ thuộc vào đồng đôla Mỹ, cần thiết phải khuyến khích
các phương tiện phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Nếu không, cả doanh nghiệp
và ngân hàng sẽ phải gánh chịu các rủi ro lớn. Giao dịch hoán đối và quyền
chọn vẫn đang trong quá trình phát triển.

Nhằm đẩy mạnh các phương thức phòng ngừa rủi ro ngoại hối, các giao
dịch yêu cầu các phương thức này cần được khuyến khích. Hiện tại, không
thực sự cần thiết phải có các cơ chế phòng ngừa rủi ro vì tỷ giá đôla Mỹ-Việt
Nam đồng được quản lý rất kỹ càng và giao dịch bằng các ngoại tệ khác
chiếm tỉ trọng rất nhỏ. Do vậy, kịch bản trong tương lai sẽ là cơ chế tỷ giá
dần được thay đổi, sử dụng các loại ngoại tệ khác bên cạnh đôla Mỹ được
khuyến khích cùng với việc mở rộng các cơ chế phòng ngừa rủi ro.

Trước khi khuyến khích phát triển các cơ chế phòng ngừa rủi ro, quản
lý rủi ro ngoại hối và lãi suất tại các ngân hàng cần đươc cải thiện và cần
tích lũy bí quyết về của các cơ chế này. Các ngân hàng trước tiên cần có đầy
đủ thông tin về các kỹ thuật quản lý rủi ro. Chỉ sau khi thực hiện được điều
này, ngân hàng mới có thể làm rõ với khách hàng tầm quan trọng của quản
lý rủi ro và bán được các sản phẩm phòng ngừa rủi ro, cũng như phát triển
các sản phẩm mới khác. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ tốt hơn nêu các
ngân hàng nước ngoài, vốn giàu các kinh nghiệm tiên tiến, cũng được phép
tham gia các hoạt động này.

Dịch bởi EMISCOM 61 °


c IIMA, tháng 3/2005
Chương 4

Tài trợ Thương mại bằng


Yên Nhật từ Góc nhìn của
Doanh nghiệp Xuất Nhập
Khẩu

Để thúc đẩy tài trợ thương mại bằng đồng yên, mỗi thành phần tham gia
cần đươc khích lệ bao gồm các nhà hoạch định chính sách của chính phủ
như NHNN, NHTM kinh doanh ngoại hối, và các tổ chức xuất nhập khẩu có
thể sử dụng đồng yên trong tài trợ thương mại. Các tài liệu được sử dụng
trong hội thảo khởi động vào 14/12/2004 đã nêu lên các lợi ích chính dành
cho đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam khi sử dụng tài trợ thương mại bằng
đồng yên.

Về bản chất, ở một quốc gia mà đôla Mỹ chiếm tuyệt đại đa số trong hoạt
động thương mại, tài trợ thương mại bằng đồng yên sẽ không thể ngay lập
tức được triển khai ào ạt. Chương này sẽ trình bày các vấn đề mà đơn vị
xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể gặp phải khi sử dụng đồng yên trong
thanh toán và tài trợ thương mại, dựa trên kết quả của hội thảo tại Hà Nội
và ý kiến thu thập được trước và sau hội thảo.

4.1 Tài trợ và thanh toán thương mại trong hoạt


động xuất nhập khẩu tại Việt Nam
Các hoạt động của dự án nhằm đạt tới mục tiêu các đơn vị xuất nhập khẩu
Việt Nam sẽ sử dụng đồng yên trong thanh toán và tài trợ ngoại thương, nhờ
đó mà đồng yên được sử dụng nhiều hơn trong thanh toán và tài trợ thương
mại cả trên thị trường tài chính nội địa. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp
Việt Nam, sử dụng đồng yên làm đồng tiền tài trợ thương mại cũng có nghĩa

62
4.1. TÀI TRỢ VÀ THANH TOÁN THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM

bên cạnh rủi ro hối đoái đồng-đôla, họ sẽ phải chấp nhận thêm rủi ro ngoại
hối đồng-yên.

Bốn lĩnh vực chính mà bộ phận tài chính của doanh nghiệp Việt Nam
quan tâm trong rủi ro tài chính là rủi ro ngoại hối, mức lãi suất, quản lý hạn
mức tín dụng và chi phí hành chính. Trong phần đầu tiên dưới đây nhóm
nghiên cứu sẽ làm rõ các loại rủi ro ngoại hối gắn với các hình thức thanh
toán và tài trợ thương mại. Phần tiếp theo sẽ tổng kết lại các vấn đề kỹ thuật
mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi cân nhắc sử dụng đồng yên trong
giao dịch thương mại. Các phân tích này xem xét sâu sắc các hoạt động xuất
nhập khẩu và cấu trúc tài chính phù hợp nhất với hoạt động thử nghiệm tài
trợ thương mại bằng đồng yên ở Việt Nam.

4.1.1 Hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Để phân nhóm các hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam, các
tiền đề sau được đặt ra.

Các tiền đề để phân loại:

• Đôla Mỹ được dùng trong tất cả các thanh toán đối ngoại. Thanh toán
trong nước chỉ sử dụng duy nhất đồng Việt Nam.

• Điều kiện thanh toán đối ngoại là “thanh toán ngay khi nhìn thấy” (“at
sight payment”).

• Các đơn vị xuất khẩu có thể vay trước khi xuất hàng và các đơn vị nhập
khẩu có thể vay thanh toán nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại
Việt Nam bằng đồng hoặc đôla Mỹ. Thời hạn vay trước khi xuất hàng
để thu mua và sản xuất trong nước, và thời hạn vay thanh toán nhập
khẩu để tiêu thụ nội địa là 3 tháng.

• Tất cả máy móc thiết bị cần thiết cho sản xuất trong nước được nhập
khẩu từ nước ngoài và giá thành được tính bằng đôla Mỹ. Các máy
móc và thiết bị này được mua nhờ các khoản vay dài hạn bằng đồng
hoặc đôla Mỹ.

Nhìn nhận vị thế ngoại hối của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu dựa
trên các giả định trên, có thể phân thành ba nhóm như sau.

Hoạt động xuất khẩu từ thu mua nội địa


Đây là mô hình trong đó đơn vị xuất khẩu thanh toán cho các khoản thu
mua nội địa, chiếm phần lớn chi phí, bằng đồng và thu tiền thanh toán hàng
xuất bằng đôla Mỹ. Đây là các doanh nghiệp trong nước thu mua nguyên
vật liệu nội địa và xuất sản phẩm ra nước ngoài hoặc các đơn vị xuất khẩu

Dịch bởi EMISCOM 63 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

với hàng hóa sơ cấp. . . Các doanh nghiệp có xu hướng nắm giữ đôla Mỹ.
Qui định về tập trung ngoại tệ đã được xóa bỏ và doanh nghiệp được phép
giữ phần đôla thặng dư dưới hình thức tiền gửi ngoại tệ. Do NHNN đang
theo đuổi chính sách phá giá từ từ Việt Nam đồng theo đôla Mỹ, các doanh
nghiệp này có vị thế ngoại hối dễ chịu vì họ có thể kỳ vọng không chỉ hưởng
lãi suất gộp từ tiền gửi đôla mà còn có lợi nhuận từ việc tiền đồng mất giá.
Nếu họ tham gia một hợp đồng ngoại hối kỳ hạn để bán đôla Mỹ, lượng tiền
đồng sẽ tăng lên khi thời hạn dài hơn bởi lãi suất Việt Nam đồng cao hơn
lãi suất đôla Mỹ, và trên thị trường ngoại hối kỳ hạn có sự chiết khấu tiền
đồng.

Vay trước khi xuất khẩu có thể bằng cả Việt Nam đồng và đôla Mỹ. Nếu
vay bằng đồng, khoản nợ sẽ được thanh toán bằng việc đổi từ đôla Mỹ do
bên mua nước ngoài thanh toán, hoặc nhận được khoản thanh toán hóa đơn
xuất khẩu từ ngân hàng thương mại. Việc trả nợ phải hoàn thành trong
vòng 3 tháng sau khi việc xuất hàng kết thúc. Điều này nghĩa là tồn tại rủi
ro vị thế ngoại hối trong thời gian 3 tháng của khoản vay. Mặc khác, nếu
họ vay đôla Mỹ, vị thế ngoại hối cố định tại thời điểm khoản vay được thực
hiện. Lượng đôla đi vay sẽ được ghi sổ như một khoản nợ trong thời gian 3
tháng, sau đó, sẽ được trả lại bằng hóa đơn xuất khẩu của ngân hàng thương
mại, hoặc bằng đôla thanh toán của người nhập khẩu nước ngoài. Và trong
trường hợp này sẽ không có thêm rủi ro ngoại hối nào.

Hoạt động xuất khẩu phải mua nhiều từ nước ngoài


Có nhiều hoạt động kinh doanh xuất khẩu sản phẩm thu đôla Mỹ và có
chi phí nhập khẩu sản phẩm/linh kiện trung gian/nguyên liệu thô từ nước
ngoài chiếm phần lớn chi phí sản xuất. Việc thanh toán cả nhập và xuất
đều được thực hiện bằng đôla Mỹ. Đây là các nhà sản xuất hàng xuất khẩu
lệ thuộc vào việc mua nguyên vật liệu chủ chốt từ nước ngoài hoặc nhà sản
xuất tham gia vào quá trình lắp ráp hay chế biến. Vị thế ngoại hối cơ bản là
nắm giữ đôla Mỹ. Tuy nhiên, so sánh với các đơn vị xuất khẩu thu mua nội
địa, các đơn vị xuất khẩu này có các khoản nợ bằng đôla, điều này làm giảm
mức thặng dư đôla. Vị thế ngoại tệ sẽ được duy trì dưới dạng tiền gửi ngoại
tệ, được điều chỉnh thông qua các khoản thanh toán vào và ra. Đây là vị thế
quản lý rủi ro ngoại hối dễ nhất. Các khoản vay liên quan tới thương mại
xuất hiện từ cả hai phía nhưng đôla Mỹ là đồng tiền thường được lựa chọn.

Đơn vị nhập khẩu bán hàng hóa trên thị trường nội địa
Đây là các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu và sản phẩm từ nước ngoài
bằng đôla Mỹ và thu tiền đồng từ việc bán sản phẩm trên thị trường nội
địa. Họ là các doanh đơn vị nhập khẩu bản địa và các đơn vị sản xuất liên
kết với nước ngoài (trong các giả thiết Nhật Bản, đó là các nhà sản xuất
điện dân dụng, xe máy và ô tô,. . . ) nhằm vào các khách hàng nội địa. Các

Dịch bởi EMISCOM 64 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.1. TÀI TRỢ VÀ THANH TOÁN THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM

đơn vị này được gọi là giả thiết định hướng thị trường nội địa. Nhìn chung
các đơn vị này ở vào vị thế thiếu đôla Mỹ và rất dễ bị tổn thương với biến
động cung cầu đôla trên thị trường tài chính. Nếu họ không thể mua đôla,
việc nhập khẩu hàng và nguyên liệu sẽ chậm trễ, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sản xuất và bán hàng trong nước. Bởi vậy, đảm bảo được đôla trên thị
trường ngoại hối là rất quan trọng trong quản lý rủi ro sản xuất và tài chính
của các doanh nghiệp này. Có thể thực hiện các hợp đồng mua đôla kỳ hạn,
nhưng sử dụng tỷ giá kỳ hạn lại là bất lợi cho đơn vị xuất khẩu khi cố định
các khoản thanh toán trong tương lai bởi nó sẽ làm tăng chi phí chiết khấu
của Việt Nam đồng so với đôla Mỹ vì lãi suất Việt Nam đồng cao hơn đôla Mỹ.

Các khoản vay liên quan tới nhập khẩu được thực hiện cả bằng đôla Mỹ
và đồng Việt Nam. Vay đôla để thanh toán nhập khẩu nghĩa là giả thiết phải
gánh chịu rủi ro ngoại hối trong 3 tháng giữa đôla đi vay và Việt Nam đồng
sẽ thu về sau khi bán hết hàng trên thị trường trong nước trong 3 tháng.
Mặc khác, nếu vay Việt Nam đồng tại thời điểm thanh toán hàng nhập khẩu,
ngay sau đó qui đổi số tiền này ra đôla Mỹ để thực hiện thanh toán, thì vị
thế ngoại hối sẽ được xác định ngay tại thời điểm thanh toán nhập khẩu và
không có rủi ro gì về ngoại hối xuất hiện.

4.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới thanh toán thương mại
và lựa chọn đồng tiền tài trợ
Trên đây là ba mô hình thương mại điển hình ở Việt Nam. Lựa chọn đồng
tiền thanh toán quốc té và tài trợ thương mại còn liên quan tới năng lực
của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đồng tiền được sử dụng cho đầu
tư vốn, hiệu quả của các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, chi phí hành
chính và năng lực kinh doanh bằng ngoại tệ.

Lựa chọn đồng tiền tài trợ thương mại


Trong cả ba nhóm trên, đôla Mỹ được giả định sẽ sử dụng để thực hiện thanh
toán quốc tế cho cả xuất khẩu và nhập khẩu, và kỳ hạn vay trong nước là 3
tháng. Để tài trợ thương mại có thể lựa chọn đôla Mỹ hoặc đồng Việt Nam,
trong điều kiện chính phủ kiểm soát việc giảm dần giá trị đồng Việt Nam so
với đôla Mỹ và lãi suất ngắn hạn của Việt Nam đồng các hơn nhiều so với
đôla Mỹ. Khi so sánh rủi ro ngoại hối giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ và giả
sử rằng chính sách quản lỷ tỷ giá hiện tại tiếp tục được duy trì, vay đôla là
lựa chọn hợp lý cho các giao dịch xuất khẩu với rủi ro huy động lượng đôla
cần thiết nhỏ. Đối với đơn vị nhập khẩu, vay đôla sẽ tạo nên vị thế rủi ro
ngoại hối bất lợi khi trả nợ bằng Việt Nam đồng cho khoản vay bằng đôla.
Do vậy, với đơn vị nhập khẩu đảm bảo hạn mức tín dụng với đôla để thực
hiện thanh toán nhập khẩu là rất quan trọng. Có thể thấy, có nhiều lý do
tốt để lựa chọn khoản vay bằng đôla với cả đơn vị nhập khẩu và đơn vị xuất
khẩu.

Dịch bởi EMISCOM 65 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Đồng tiền tại trợ cho các khoản đầu tư dài hạn cho máy móc và
thiết bị
Trong cả ba nhóm trên, đồng tiền được sử đụng với các khoản vay dài hạn
để đầu tư vào máy móc thiết bị cũng có thể ảnh hưởng tới lựa chọn đồng
tiền dùng trong thanh toán sản phẩm. Nếu vay ngoại tệ để đầu tư vào máy
móc và thiết bị, bên cạnh các hoạt động thương mại, giả thiết sẽ có vị thế
thiếu ngoại tệ. Lấy trường hợp các doanh nghiệp Nhật Bản làm ví dụ, họ có
thể mua máy móc và thiết bị nhờ các khoản vay dài hạn bằng đồng yên từ
doanh nghiệp mẹ. Trong trường hợp đó, họ có xu hướng sử dụng đồng yên
trong thanh toán để hoàn trả lại khoản vay.

Các ngân hàng thương mại Việt Nam mở rộng các khoản vay dài hạn
đầu tư cho máy móc thiết bị bằng đôla Mỹ, nhưng đều nói rằng nguồn huy
động phần lớn là ngắn hạn, thông qua tiền gửi ngắn hạn và sử dụng hạn
mức tín dụng do các ngân hàng nước ngoài đặt ra. Các ngân hàng thương
mại Việt Nam có thể gặp phải khoảng cách về kỳ hạn gây ra bởi nguồn huy
động ngắn hạn và khoản vay dài hạn.

Hãy xem xét vấn đề này với hai nhóm sau.

1. Hoạt động thu mua trong nước để xuất khẩu


Khi thực hiện đầu tư tư bản nội địa bằng vay dài hạn đôla Mỹ, doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ giữ đôla thu được từ xuất khẩu trong tài khoản
tiền gửi ngoại tệ và trả nợ bằng đôla Mỹ. Vị thế ngoại hối sẽ được bù
đắp một phần bằng cách này. Mặt khác, nếu vay dài hạn bằng đồng
Việt Nam, doanh nghiệp sẽ trả nợ bằng đồng trong khi chấp nhận rủi
ro tỷ giá đôla Mỹ-đồng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu giả sử rằng chính
sách tỷ giá làm yếu đồng Vệit Nam tiếp tục được duy trì trong tương
lai, và gạt sang bên mức lãi suất cao của Việt Nam đồng, vị thế ngoại tệ
của doanh nghiệp sẽ không quá tồi do đôla Mỹ thu được từ xuất khẩu
sẽ được dùng để thanh toán khoản vay bằng đồng Việt Nam, đang
ngày càng mất giá so với đôla.

2. Doanh nghiệp nhập khẩu tiêu thụ trong nước


Khi đơn vị nhập khẩu tiêu thụ sản phẩm trong nước vay dài hạn đôla
Mỹ để nhập khẩu máy móc và thiết bị, họ sẽ trả nợ bằng cách dùng
Việt Nam đồng thu được qua hoạt động bán hàng trên thị trường nội
địa mua đôla Mỹ. Điều này nghĩa là bên cạnh nghĩa vụ thanh toán
nhập khẩu, doanh nghiệp có vị thế thiếu đôla Mỹ. Khi đồng Việt Nam
có xu thế giảm giá so với đôla Mỹ, trong trung hạn, doanh nghiệp có vị
thế ngoại hối không thuận lợi. Đó là vì kỳ hạn của khoản nợ càng dài,
nghĩa vụ trả nợ bằng đồng Việt Nam càng lớn. Mặt khác, nếu doanh
nghiệp vay dài hạn đồng Việt Nam để đầu tư, lượng đồng Việt Nam
tương ứng với lượng đôla Mỹ sử dụng để nhập khẩu máy móc và thiết

Dịch bởi EMISCOM 66 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.1. TÀI TRỢ VÀ THANH TOÁN THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM

bị sẽ được xác định ngay tại thời điểm vay, và sau đó, giả thiết không
phải chịu thêm rủi ro ngoại hối nào.

Hiệu quả của các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối
Trong cả ba nhóm trên, vị thế ngoại hối đều thay đổi theo thời gian. Với
doanh nghiệp xuất khẩu, vị trí này dao động từ khi bắt đầu quá trình sản
xuất trong nước đến khi nhận được hóa đơn thanh toán hàng xuất khẩu
phải thu. Với hoạt động nhập khẩu, vị thế này biến động trong 3 tháng giữa
thời điểm thanh toán nhập khẩu hóa đơn nhập khẩu phải trả và khi hoàn
thành việc bán hàng trong nước. Bên cạnh vị thế của các hoạt động thương
mại, còn có vị thế ngoại hối đôla-đồng được xác lập từ việc vay dài hạn đầu
tư cho máy móc và thiết bị. Khi các rủi ro ngoại hối này được phòng ngừa
bằng đồng Việt Nam thông qua hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, người phụ trách
tài chính của giả thiết phải xem xét hiệu quả của các công cụ phòng ngừa
rủi ro ngoại hối. Hiện tại, hợp đồng ngoại hối kỳ hạn với mức kỳ hạn tới
6 tháng đang được áp dụng tại Việt Nam. Hiệu quả hợp đồng ngoại hối kỳ
hạn chịu tác động của chính sách quản lý hạn mức tín dụng của ngân hàng
thương mại có liên quan, độ minh bạc của cơ chế khớp giá trên thị trường
ngoại hối kỳ hạn, số yêu cầu có thể được thực hiện, độ thanh khoản của mỗi
nhóm kỳ hạn và mức phí do các ngân hàng thương mại niêm yết. Lãi suất
của hợp đồng ngoại hối kỳ hạn có thể được xác định độc lập giữa các ngân
hàng dựa trên chênh lệch với mức lãi suất cho vay cơ bản bằng đồng Việt
Nam do NHNN thông báo (7,8% vào tháng 3/2005), và lãi suất ngắn hạn
tiêu biểu của đôla Mỹ (hiện thời sử dụng lãi suất của Cục dự trữ liên bang
Mỹ). Nhưng giả sử đồng Việt Nam được kiểm soát đề dần giảm giá so với
đôla Mỹ trong trung hạn, vị thế cần phòng ngừa rủi ro trong ba nhóm trên
chỉ duy nhất là trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu để tiêu thụ trong nước.
Điều này ngụ ý rằng không có quá nhiều nhu cầu thực về phòng ngừa rủi ro
ngoại hối trong hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là lý do vì sao lãi suất kỳ
hạn được đưa ra phản ánh không trung thực chênh lệch giữa lãi suất ngắn
hạn của đôla Mỹ và đồng Việt Nam.

Năng lực của ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại
hối
Để các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể sử dụng đôla Mỹ trong tài trợ
thương mại, đảm bảo hạnh mức tín dụng ngoại tệ của từ các ngân hàng
thương mại và vận hành các phương tiện quản lý rủi ro tiền tệ là rất quan
trọng. Để có năng lực đáng tin cậy về nguồn đôla Mỹ và thực hiện các yêu
cầu giao dịch ngoại hối, ngân hàng thương mại Việt Nam phải có doanh số
giao dịch lớn trên thị trường ngoại hối và tín nhiệm cao trông cộng đồng
ngân hàng quốc tế. Khi tiến hành phân loại ba nhóm trên, “thanh toán ngay
khi nhìn thấy” (“payment at sight”) được xác định là một tiền đề trong thanh
toán. Tuy nhiên, trong thực tế, không chỉ có thanh toán ngay mà còn có các

Dịch bởi EMISCOM 67 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

hình thức thanh toán chậm (30 ngày, 60 ngày,. . . ), bao gồm cả việc mua hối
phiếu xuất hóa đơn xuất khẩu phải trả, phát hành thư tín dụng có kỳ hạn,
xác nhận của ngân hàng đối ứng nước ngoài về thư tín dụng. Nhằm đảm
bảo điều kiện giao dịch ngoại tệ thuận lợi, doanh nghiệp xuất nhập khẩu
tìm hiểu cẩn thận điều kiện vay ngoại tế, năng lực huy động vốn ngoại tệ,
tính cạnh tranh về lãi suất, và hệ thống các ngân hàng đối ứng. Nếu ngân
hàng, mà doanh nghiệp dự kiến sử dụng dịch vụ, không thể đáp ứng đầy đủ
các dịch vụ này, thì doanh nghiệp cần cứng nhắc sử dụng đôla Mỹ cho thanh
toán quốc tế và đồng Việt Nam cho tài trợ thương mại. Nếu muốn mở rộng
việc sử dụng yên hay euro, doanh nghiệp sẽ phải xây dựng quan hệ kinh
doanh với ngân hàng thương mại có năng lực giao dịch ngoại tệ toàn diện.

Chi phí hành chính của giao dịch ngoại tệ


Chi phí phát sinh liên quan tới giao dịch ngoại hối khác với giao dịch trong
nước. Đó là chi phí nhân sự và hệ thống quản lý bên trong của doanh nghiệp,
chi phí cần thiết cho hoạt động ngoại hối của ngân hàng thương mại, hàng
loạt chi phí hành chính khác, chi phí để thu thập thông tin cần thiết về thị
trường ngoại tệ, thông tin tín dụng của đối tác và ngân hàng của đối tác
nước ngoài.

Với giao dịch ngoại tệ, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần xét tới chi phí
thuế và kế toán liên quan cùng với chi phí tài chính. Các doanh nghiệp Việt
Nam có đủ kinh nghiệm với giao dịch bằng đôla Mỹ nhưng tình thế sẽ hoàn
toàn khác khi sử dụng yên hoặc euro. Trong phần tiếp theo, nhóm nghiên
cứu sẽ tổng kết các hạn chế và qui định giao dịch ngoại tệ dựa trên tư liệu
do một doanh nghiệp kế toán nội địa cung cấp.

4.2 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và các vấn
đề nhìn từ quan điểm của đơn vị xuất nhập
khẩu
Trong phần trước, nhóm nghiên cứu đã tổng kết lại vị thế ngoại hối tiêu biểu
và thực trạng kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng đôla Mỹ trong thanh toán
quốc tế và tài trợ thương mại. Phần này tổng kết các điều kiện để doanh
nghiệp Việt Nam có thể tính đến các giao dịch bằng đồng yên.

Hiện nay, yên chỉ được sử dụng cho 2-3% trong tổng số thanh toán
thương mại ở Việt Nam. Đôla Mỹ chiếm đa số với 90% và yên ở vị trí thứ
3 sau euro. Tại các ngân hàng thương mại lớn, tiền gửi ngoại tệ bằng đồng
yên cũng rất hiếm, ngoại trừ tại chi nhánh các ngân hàng Nhật Bản. Yên có
được sử dụng trong thanh toán ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam, nhưng khối lượng không lớn và không có ý nghĩa trong chiến lược

Dịch bởi EMISCOM 68 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.2. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN VÀ CÁC VẤN ĐỀ NHÌN
TỪ QUAN ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ XUẤT NHẬP KHẨU

quản lý kinh doanh tài trợ thương mại.

Mặt khác, các cơ quan nhà nước, trong Hội thảo khởi động dự án tháng
12/2004, đã giải thích rằng để thị trường được tự do hơn, tăng cường sử
dụng yên và euro chảy vào qua đường ODA và FDI là rất quan trọng đối
với các giao dịch vãng lai của khu vực tư nhân. Định hướng này thể hiện
rõ ràng trong các chính sách của NHNN đã đươc giải thích trong chương 2.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam sẽ phải đối mặt với rủi ro vô
cùng lớn khi tình trạng cung cầu đôla Mỹ bị bóp méo trên thị trường nội
địa. Nhưng nếu yên trở thành đồng tiền tài trợ thay thế cho đôla Mỹ, điểm
mạnh của yên là gì? và làm thế nào để yên có thể cạnh tranh được với đôla
Mỹ và euro? cũng như các tiền đề cần thay đổi như thế nào khi các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm tới việc sử dụng yên và euro và chấm dứt
chính sách chỉ dùng duy nhất đôla Mỹ ở Việt Nam? Phần tiếp theo nhằm
nghiên cứu các câu hỏi này?

4.2.1 Lợi thế của việc giới thiệu tài trợ thương mại bằng
đồng yên với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Trong tài liệu sử dụng tại Hội thảo ngày 14/12/2004, lợi ích của việc giới
thiệu tài trợ thương mại bằng đồng yên với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
được tóm tắt như sau:

• Tăng cường năng lực tài chính cho Việt Nam bằng việc giới thiệu đồng
yên trong thanh toán và tài trợ thương mại.

• Tăng cường khả năng huy động vốn bằng ngoại tệ bằng việc đa dạng
hóa hạn mức tín dụng.

• Giảm chi phí tài chính nhờ tận dụng lợi thế lãi suất thấp của đồng yên.

• Tăng cường cơ hội cho sản phẩm Việt Nam tại thị trường Nhật Bản
bằng việc chấp nhận hóa đơn ghi bằng yên và xây dựng năng lực tài
trợ đồng yên ở Việt Nam.

Bây giờ, nhóm nghiên cứu sẽ kiểm tra các điểm trên có đủ để tạo ra động
lực cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam sử dụng tài trợ thương mại
bằng đồng yên hay không.

4.2.2 Cấu trúc ngoại hối và chi phí tài chính của ba nhóm
doanh nghiệp thương mại
Sử dụng ba nhóm doanh nghiệp thương mại ở trên, vị thế ngoại hối và rủi
ro tài chính của các giả thiết sử dụng tài trợ thương mại bằng đồng yên sẽ
được xem xét như sau.

Dịch bởi EMISCOM 69 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Doanh nghiệp thu mua nội địa để xuất khẩu

Đây là các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp sản phẩm tại Việt Nam và xuất
khẩu thu đồng yên. Các doanh nghiệp này có vị thế nắm giữ đồng yên. Họ
có các khoản nợ bằng đồng Việt Nam và có hóa đơn xuất khẩu phải thu bằng
yên. Ở phân tích trước, các doanh nghiệp thuộc nhóm này có vị thế thuận
lợi bởi họ có hóa đơn xuất khẩu phải thu bằng đôla Mỹ, đồng tiền được các
quan có thẩm quyền quản lý. Tuy nhiên, ở đây, đồng tiền thanh toán của
hóa đơn xuất khẩu phải thu đã chuyển từ đôla Mỹ sang yên, và do đó, doanh
nghiệp trực tiếp gánh chịu rủi ro ngoại hối yên-đôla.

Nếu yên được sử dụng với khoản vay trước khi xuất hàng, số yên vay
được sẽ được qui đổi ra đồng Việt Nam và dùng để sản xuất và lắp ráp nội
địa, tiếp đó, số yên nhận được từ việc thanh toán hàng xuất khẩu sẽ được
sử dụng để hoàn trả lại khoản vay này. Trong giao dịch này, vay bằng yên
và xuất hàng thu yên có thể là lựa chọn thay thế của các doanh nghiệp xuất
khẩu khi phải lo lắng về khả năng thiếu đôla Mỹ trên thị trường tài chính
trong nước.

Vị thế nắm giữ đồng yên sẽ không còn nữa khi có sự đầu tư dài hạn bằng
đồng yên cho máy móc và thiết bị bởi phần yên thu được từ xuất khẩu sẽ
được sử dụng để thanh toán các khoản nợ dài hạn. Lượng yên tích lũy được
từ hoạt động xuất khẩu sang Nhật Bản có thể được giữ dưới dạng tiền gửi
ngoại tệ bằng đồng yên.

Với loại doanh nghiệp này, một yêu cầu quan trọng là yên có thể chuyển
đổi hiệu quả sang đôla Mỹ hoặc đồng Việt Nam.

Doanh nghiệp xuất khẩu mua đầu vào từ nước ngoài

Có các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu và thiết bị bằng yên từ Nhật
Bản và xuất khẩu sản phẩm của họ bằng yên sang Nhật Bản. Loại giao dịch
này áp dụng với các cơ sở sản xuất Nhật Bản và doanh nghiệp Việt Nam
nhập khẩu linh kiện và thiết bị từ Nhật Bản bằng yên và xuất khẩu sản phẩm
sang Nhật Bản. Với các chi nhánh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam,
sử dụng đồng yên trong thanh toán cả xuất và nhập khẩu với doanh nghiệp
mẹ là phù hợp. Tuy vậy, chỉ một số hạn chế doanh nghiệp Việt Nam có khả
năng tận dụng ưu điểm này khi chuyển đồng tiền thanh toán từ đôla Mỹ
sang đồng Việt Nam bởi không có nhiều giao dịch đủ lớn cho cả dòng vào
và dòng ra với Nhật Bản. Với nhà nhập khẩu Nhật Bản, thanh toán bằng
đồng yên là lý tưởng bởi sẽ không có rủi ro ngoại hối tại Nhật Bản. Bởi câu
hỏi là doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể hấp dẫn đối tác Nhật Bản
bằng việc chuyển đồng tiền giao dịch sang yên không? Bên cạnh lợi ích về
vị thế ngoại hối, doanh nghiệp cả hai phía đều có thể hưởng lợi từ lãi suất

Dịch bởi EMISCOM 70 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.2. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN VÀ CÁC VẤN ĐỀ NHÌN
TỪ QUAN ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ XUẤT NHẬP KHẨU

thấp của đồng yên. Giống như nhóm một, yêu cầu quan trọng là họ có thể
chuyển đổi hiệu quả yên sang đôla Mỹ hoặc đồng Việt Nam.

Doanh nghiệp nhập khẩu tiêu thụ hàng hóa trên thị trường nội
địa
Các doanh nghiệp này nhập khẩu linh kiện và vật liệu từ Nhật Bản bằng
đồng yên và tiêu thụ sản phẩm bằng đồng Việt Nam trên thị trường nội địa.
Ở đây, nghĩa vụ trả nợ bằng đôla Mỹ được chuyển sang yên. Trong trường
hợp này, đánh giá phụ thuộc vào việc nhìn nhận chuyển từ đôla Mỹ sang yên
làm tăng rủi ro tài chính hay là biện pháp đa dạng rủi ro. Có khả năng huy
động yên để thanh toán nhập khẩu là một tiến bộ lớn để đảm bảo cho tài
trợ nhập khẩu. Nhưng mặt khác, rủi ro ngoại hối có thể lớn hơn rất nhiều
nếu sử dụng đôla Mỹ. Điều này có nghĩa sử dụng các công cụ phòng ngừa
rủi ro là thiết yếu. Yêu cầu quan trọng trong trường hợp này là đảm bảo
tính thanh khoản của đồng yên trên thị trường ngoại hối và có một công cụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiệu quả.

4.2.3 Nghiên cứu khả năng giới thiệu tài trợ thương mại
bằng đồng yên
Tiếp theo là các điểm được xem xét khi sử dụng yên trong tài trợ thương
mại được ghi nhận từ nghiên cứu và thu thập ý kiến. Lợi thế của tài trợ
thương mại bằng đôla Mỹ trong môi trường tài chính hiện tại là gì? Những
khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi chuyển đồng tiền tài trợ
thương mại từ đôla Mỹ sang yên? Thị trường cần thay đổi như thế nào để
tạo ra động lực cho các doanh nghiệp sử dụng tài trợ thương mại bằng đồng
yên?

Rủi ro ngoại hối


Mối quan tâm lớn nhất của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam là không
giống với tỷ giá đồng-đôla được kiểm soát bởi cơ quan có thẩm quyền, yên
dao động theo đôla Mỹ trên thị trường. Các lý do không sử dụng yên hoặc
euro để tài trợ thương mại được trình bày như sau.

• Không có vấn đề gì trong việc ghi hóa đơn và thanh toán quốc tế bằng
đôla Mỹ. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng có xu thế sử dụng đôla Mỹ.
Giao dịch bằng đồng yên chỉ được các doanh nghiệp Nhật Bản vừa và
nhỏ sử dụng hoặc doanh nghiệp Nhật Bản có sức mạnh đàm phán lớn
và nhất quyết sử dụng yên để thanh toán.

• Nhu cầu phòng ngừa rủi ro ngoại hối trong giao dịch đôla rất hạn chế.
Các công cụ phòng ngừa cần thiết là sử dụng hợp đồng ngoại hối kỳ
hạn với đôla hoặc cân bằng thu-chi.

Dịch bởi EMISCOM 71 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

• Để doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng các đồng tiền như euro và
yên, có tỷ giá dao động trên thị trường, xây dựng các nguyên tắc, chính
sách nội bộ và tổ chức bộ máy quản lý rủi ro ngoại hối là cần thiết.
Nhưng phần lớn các giao dịch ở Việt Nam là bằng đôla, nên các sắp
xếp này vẫn chưa được thực hiện ở đa số các doanh nghiệp. Điều này
nghĩa là, tại Việt Nam, cơ cấu quản lý rủi ro ngoại hối cho yên và euro
chưa được thiết lập và kiểm tra.
Trong điều kiện này, có thể hiểu được vì sao các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu rất quan ngại về rủi ro ngoại hối khi nghiên cứu khả năng sử dụng tài
trợ thương mại bằng đồng yên, hàm ý rủi ro biến động ngoại hối thực tế
hơn. Để giải quyết lo ngại này, một buổi hội thảo danh cho các ngân hàng
thương mại và doanh nghiệp quốc doanh đã được tổ chức tại NHNN ngày
22/2 để giải thích rủi ro ngoại hối cần được kiểm soát và giám sát như thế nào.

Đối với euro, dường như giao dịch thương mại sử dụng euro đang tăng
lên cùng với việc mở rộng quan hệ kinh doanh với châu Âu. Tuy nhiên, hoạt
động phòng ngừa rủi ro ngoại hối với các giao dịch sử dụng euro có vẻ đã
được tiến hành và trong nhiều trường hợp vị thế ngoại hối vẫn tiếp tục để
ngỏ. Nhóm nghiên cứu cũng không thu nhận được bất kỳ ý kiến nào cho
rằng tình trạng sử dụng kỳ hạn ngoại hối và tiền gửi euro tốt hơn yên. Có
vẻ như euro đang bắt đầu được chấp nhận như một đồng tiền thay thế bên
cạnh đôla Mỹ nhờ vị trí một đồng tiền thay tếh trên thị trường ngoại hối
toàn cầu.

Sản phẩm phòng ngừa rủi ro ngoại hối


Các ngân hàng thương mại đều trang bị hệ thống cung cấp các sản phẩm
phòng ngừa rủi ro ngoại hối với tiền gửi, kỳ hạn ngoại hối và các giao dịch
bằng đồng yên cũng như các loại ngoại tệ khác. Có một vài ngoại lệ trong đó
ngân hàng Việt Nam thực hiện các hợp đồng trao đổi kỳ hạn đồng/yên với
doanh nghiệp Việt Nam. Theo luật Việt Nam, không có bất kỳ lệnh cấm nào
được áp dụng với việc nắm giữ đồng yên thu được từ hoạt động xuất khẩu
dưới dạng tiền gửi hoặc vay bằng đồng yên.

Nhưng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không quen thuộc với tỷ giá
yên-đồng, là sự kết hợp giữa tỷ giá đồng-đôla trên thị trường trong nước và
tỷ giá đôla-yên trên thị trường nước ngoài, cũng như không có hạ tầng công
nghệ thông tin lưu giữ đầy đủ thông tin hiện tại của thị trường. Một khả
năng khác là nếu các chi nhánh tại Việt Nam của các ngân hàng Nhật Bản,
Mỹ, và châu Âu tham gia thị trường, sẽ có sự khác biệt trong các mức lãi
suất chào mời các doanh nghiệp thương mại Việt Nam do có sự khác biệt
về cơ sở tính toán chênh lệch lãi suất giữa đồng Việt Nam, đôla Mỹ và yên
Nhật Bản trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Cần có chức năng
“arbitrage” để giải quyết vấn đề này trên thị trường liên ngân hàng.

Dịch bởi EMISCOM 72 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.2. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN VÀ CÁC VẤN ĐỀ NHÌN
TỪ QUAN ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Lợi thế lãi suất thấp của đồng yên


Một trong các ưu điểm của tài trợ thương mại bằng đồng yên là mức lãi suất
thấp của đồng yên khi so sánh với đôla Mỹ. Tuy nhiên, khi tính toán lợi thế
này với một trường hợp trong thực thế, lợi thế về lãi suất danh nghĩa chỉ là
một ưu thế hạn chế so với ảnh hưởng của rủi ro hoạt động và rủi ro ngoại
hối. Dưới đây là hai lý do.

Thứ nhất, thực tế là lãi suất ngắn hạn của đôla Mỹ trên thị trường Việt
Nam tương đối thấp. Vào tháng 3/2005, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng
đồng Việt Nam với khách hàng quan trọng của ngân hàng thương mại là
khoảng 10% (mức lãi suất cơ bản của NHNN là 7,8%), và lãi suất cho vay
ngắn hạn đôla Mỹ là 4-5% (LIBOR với đôla Mỹ là 2,75-3,00%). Giả sử rằng
các ngân hàng thương mại Việt Nam hưởng chênh lệch khoảng 2-3%, cũng
không dễ gì đặt ra mức lãi suất với đồng yên ở mức cạnh tranh so với lãi
suất này của đôla Mỹ.

Thời hạn cho vay tài trợ thương mại ngắn, thường từ 3-6 tháng, và trong
nhiều trường hợp như cho vay trước khi xuất hàng, khoản vay có chỉ có giá
trị khoảng 60-80% giá trị trên hóa đơn. Tuy nhiên, rủi ro ngoại hối lại phải
gánh chịu đối với toàn bộ giá trị hàng xuất. Do vậy, lợi thế kinh tế về mức
lãi suất thấp khi sử dụng đồng yên là rất bé so với toàn bộ rủi ro phải gánh
chịu.

Đảm bảo hạn mức tín dụng đồng yên có thể bổ sung cho khả năng
huy động đôla Mỹ
Đảm bảo hạn mức tín dụng đôla Mỹ rất quan trọng đối với doanh nghiệp
xuất nhập khẩu Việt Nam, nhưng để sẵn sàng đối phó với việc thiếu hụt đôla
Mỹ trên thị trường tài chính nội địa, cách làm khôn ngoan là tận dụng các
phương tiện cần thiết để tài trợ thương mại bằng euro hoặc yên. Từ quan
điểm quản lý, điều này được xem như chiến lược đa dạng tiền tệ trong quản
lý hạn mức tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Nghĩa là doanh nghiệp
đảm bảo hạn mức tín dụng thương mại với các đồng tiền khác nhau từ các
ngân hàng thương mại Việt Nam tương ứng với quốc gia của đối tác, đồng
tiền thanh toán thương mại, và ngân hàng sẽ lựa chọn dựa trên khả năng
huy động vốn và chất lượng của hệ thống các ngân hàng đối ứng nước ngoài.

Phát triển kinh doanh toàn cầu và đa dạng hóa tiền tệ


Khi bắt đầu xuất mở rộng hoạt động kinh doanh trên trường quốc tế, doanh
nghiệp Việt Nam cần thiết quản lý chiến lược các đồng tiền mạnh dựa trên
nhu cầu hoạt động và rủi ro ngoại hối. Đồng tiền được lựa chọn tùy thuộc
vào hoạt động thương mại của doanh nghiệp, nhưng do Nhật Bản là một
trong các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, yên là đồng tiền quan

Dịch bởi EMISCOM 73 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

trọng bên cạnh đôla Mỹ và euro. Thực tế này được đề cập đến trong quá
trình thu thập ý kiến.

Quan hệ giữa tín dụng do các doanh nghiệp Nhật Bản cung cấp và
tài trợ thương mại bằng đồng yên
Các thảo luận về tài trợ thương mại bằng đồng yên đến nay phần lớn vẫn
đề cập tới việc tài trợ thương mại do ngân hàng thương mại cung cấp. Tuy
nhiên, một số khoản tín dụng dành cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt
Nam được thực hiện trực tiếp giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp
Nhật Bản. Mở rộng tín dụng từ doanh nghiệp Nhật Bản sang doanh nghiệp
Việt Nam phụ thuộc vào việc doanh nghiệp Nhật Bản có phải là cổ đông
của doanh nghiệp Việt Nam hay không, và loại hợp đồng ký kết với nhau.
Khoản tín dụng mà doanh nghiệp Nhật Bản dành cho đối tác Việt Nam có
thể được phân ra như sau:

Nếu không có quan hệ nắm giữ cổ phần giữa doanh nghiệp Nhật Bản và
Việt Nam, và giao dịch đơn giản chỉ là thương mại nói chung và không dựa
trên hợp đồng dài hạn, doanh nghiệp Nhật Bản rất hiếm khi cấp tín dụng
cho đối tác Việt Nam. Thanh toán chủ yếu được thực hiện theo điều kiện
“thanh toán ngay khi nhìn thấy” trong thư tín dụng hoặc trả trước thông
qua chuyển tiền quốc tế. Mặt khác, nếu cso quan hệ chặt chẽ với doanh
nghiệp Việt Nam hoặc giao dịch (xuất khẩu từ Việt Nam và nhập khẩu từ
Nhật Bản) dựa trên hợp đồng phát triển dài hạn, rủi ro hoạt động với doanh
nghiệp Nhật Bản có xu hướng trở nên lớn hơn, trong nhiều trường hợp,
doanh nghiệp này sẽ chấp nhận rủi ro tín dụng của đối tác Việt Nam. Khi
đó, doanh nghiệp Nhật Bản đưa ra một thời hạn thanh toán cho đối tác
Việt Nam. Họ cũng cung cấp hỗ trợ tín dụng bằng việc phát hành thư bảo
lãnh khi doanh nghiệp Việt Nam vay vốn từ ngân hàng thương mại Việt Nam.

Trong trường hợp doanh nghiệp Nhật Bản hỗ trợ đối tác Việt Nam vay
vốn từ ngân hàng thương mại bằng việc gửi thư bảo lãnh tới ngân hàng cho
vay, nếu doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được thêm hạn mức tín dụng
bằng yên từ ngân hàng nhờ chuyển sang sử dụng tài trợ thương mại bằng
đồng yên. Doanh nghiệp Nhật Bản không gặp phải khó khăn gì khi chuyển
đổi đồng tiền thanh toán từ đôla Mỹ sang yên. Nếu doanh nghiệp Việt Nam
vay đôla Mỹ từ ngân hàng thương mại nhờ hỗ trợ tín dụng từ đối tác Nhật
Bản, đảm bảo hạn mức tín dụng đồng yên của họ từ ngân hàng thương mại
Việt Nam, đối tác Nhật Bản sẽ chấp nhận mức lãi suất cao hơn bởi với doanh
nghiệp Nhật Bản, rủi ro tín dụng mà họ phải hỗ trợ đối tác Việt Nam trở
nên bé hơn.
Khi doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam có quan hệ chặt chẽ, gần như
công ty mẹ và chi nhánh, rủi ro tín dụng giữa hai bên không còn là vấn đề
quan trọng bởi giao dịch của họ giống như giao dịch trong cùng một nhóm.

Dịch bởi EMISCOM 74 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.3. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG ĐỒNG YÊN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN
LIÊN QUAN

Trong trường hợp này, quyết định được ra sau khi so sánh lãi suất yên ở
Việt Nam và Nhật Bản. Do lãi suất doanh nghiệp Nhật Bản nhận được ở
Nhật Bản nói chung thấp hơn ở Việt Nam, có vẻ như vốn sẽ được huy động
ở Nhật Bản.

4.3 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và các điều
kiện liên quan
Dưới đây là danh sách các quan tâm của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt
Nam khi họ xem xét việc giới thiệu thanh toán và tài trợ thương mại bằng
đồng yên.

4.3.1 Tài trợ thương mại bằng đồng yên và hạch toán ngoại
tệ ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện, nhóm nghiên cứu đã thu thập thông tin về các
rào cản mà doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp phải khi thực hiện tài trợ
thương mại bằng đồng yên. Dưới đây là các thông tin thu nhận được từ
KPMG, Việt Nam.

Hệ thống kế toán ở Việt Nam


• Hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay tuân theo Luật Kế toán 2003, và
22 Tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam (VAS) được nêu trong luật này. Nói
chung, hệ thống kế toán Việt Nam tuân thủ các Tiêu chuẩn Kế Toán
Quốc tế trừ một số ngoại lệ.
• Từ năm 2000, các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nước
ngoài, phải tuân thủ Tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam. Đồng tiền tiêu
chuẩn sử dụng để hạch toán là đồng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu công
ty có giao dịch kinh doanh bằng đôla Mỹ vượt quá một mức nhất định,
Bộ Tài chính sẽ cho phép sử dụng đôla Mỹ làm đồng tiền tiêu chuẩn.

Giao dịch tài trợ thương mại ở Việt Nam và hệ thống hạch toán
ngoại tệ
• Tiêu chuẩn thứ 10 của VAS qui định thay đổi về tỷ giá hối đoái. Nội
dung của tiêu chuẩn này về cơ bản giống như qui định về phương pháp
hạch toán giao dịch ngoại tệ được nêu trong Tiêu chuẩn Kế toán Quốc
tế thứ 21.
• Tính toán lãi và lỗ ngoại hối liên quan tới giao dịch thương mại bằng
đồng yên chỉ phản ánh duy nhất biến động tỷ giá giữa yên Nhật Bản và
đồng Việt Nam, đồng tiền tiêu chuẩn. Các phương thức hạch toán của
Việt Nam không tác động tới việc chọn lựa đồng tiền tài trợ thương
mại.

Dịch bởi EMISCOM 75 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

• Yên nói chung là ngoại tệ đã được chấp nhận sử dụng. Theo KPMG,
Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam có lượng giao dịch bằng đồng yên
vượt quá mức nhất định có thể đăng ký sử dụng đồng yên là đồng tiền
tiêu chuẩn trong hạch toán.

4.3.2 Các thay đổi khác


Dưới đây là các thay đổi lớn có tác động tới việc giới thiệu tài trợ thương
mại bằng đồng yên trong thời gian qua.

Các khoản nợ dài hạn tồn đọng của Vietcombank đã được giải
quyết
Tồn đọng nợ dài hạn của Vietcombank, được xác định ở mục 44 của Sáng
kiến Việt-Nhật, đã được giải quyết vào tháng 12/2004. Nhờ đó, Tổ chức
Bảo hiểm Đầu tư và Xuất khẩu Nhật Bản1 , một đơn vị hành chính độc lập,
đã thay đổi chính sách của mình liên quan tới việc xem xét bảo lãnh thương
mại của Vietcombank.

Mở cửa các văn phòng ngân hàng Nhật Bản tại Việt Nam
Từ tháng 4/2004, UFJ đã mở văn phòng chi nhánh và Sumitomo Mitsui
Banking Corporation khai trương văn phòng đại diện. Như vậy, đến tháng
3/2005, tất cả bốn ngân hàng lớn của Nhật Bản đều đã mở văn phòng- ba
văn phòng chi nhánh (Bank of Tokyo-Mitsubishi, Mizuho Corporation, và
UFJ) và một văn phòng đại điện (Sumitomo Mitsui Banking Corporation)-
tại Việt Nam.

Xóa bỏ qui định liên quan tới hoạt động ngoại tệ ở nước ngoài
của các ngân hàng nước ngoài
Các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam chỉ được đầu tư ra
nước ngoài không quá 30% lượng vốn mang vào, nhưng qui định này đã
được NHNN xóa bỏ vào tháng 3/2004. Điều này cho phép nguồn yên tích
lũy được trong hệ thống tài chính Việt Nam thông qua giao dịch thương mại
bằng đồng yên được dùng để đầu tư ở nước ngoài thông qua các ngân hàng
ngoại hối.

4.4 Thông tin thu thập được trong quá trình


nghiên cứu
Tiếp theo năm trước, nghiên cứu thực nghiệm về giao dịch bằng đồn yên
trong điều kiện tài trợ thương mại Nhật Bản-Việt Nam đã được thực hiện
1
Nippon Export and Investment Insurance

Dịch bởi EMISCOM 76 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.4. THÔNG TIN THU THẬP ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

trong năm nay. Dưới đây là các thông tin quan trọng đã được thu thập. Một
số nhận xét đã được đưa ra từ năm trước nhưng được xem là quan trọng nên
tiếp tục được nhắc tới ở đây.

4.4.1 Thông tin thu thập từ các doanh nghiệp thương mại
Nhật Bản
• Đồng tiền sử dụng trong giao dịch với doanh nghiệp Việt Nam là đôla
Mỹ, và với phía Nhật Bản, sử dụng đôla Mỹ hay yên không có vấn đề
gì. Thực tế là chưa bao giờ có thử nghiệm sử dụng một đồng tiền khác
bên cạnh đôla bởi thanh toán bằng đôla quá thông dụng. Tuy nhiên,
không có vấn đề gì khi chuyển sang sử dụng đồng yên nếu phía Việt
Nam yêu cầu. (Ý kiến của doanh nghiệp thương mại A, B, và C).

• Thanh toán bằng đồng yên rất hiếm khi được thực hiện với doanh
nghiệp Việt Nam. Hiện tại, thanh toán bằng đồng yên được áp dụng
trong xuất khẩu máy móc và thiết bị từ Nhật Bản liên quan tới các
công trình xây dựng dựa trên các hợp đồng dài hạn sử dụng đồng yên.
(Doanh nghiệp thương mại A).

• Liên quan tới xuất khẩu máy móc thiết bị cho Việt Nam, trong một vài
trường hợp hàng hóa ban đầu được thanh toán bằng đôla Mỹ, các linh
kiện và dịch vụ bổ sung được thanh toán bằng yên. (Doanh nghiệp
thương mại B).

• Một số máy xây dựng được xuất khẩu cho Việt Nam bằng đồng yên.
Điều kiện thanh toán là trả trước. Các máy móc này được chuyển từ
Nhật Bản sang sau khi có xác nhận thanh toán. Chúng tôi không biết
đối tác Việt Nam đã huy động nguồn yên như thế nào để thanh toán vì
chúng tôi không tham gia vào phần tài chính . (Doanh nghiệp thương
mại A).

• Trong số các hàng xuất khẩu từ Nhật Bản, một lượng giao dịch hóa
chất lớn được thanh toán bằng yên. Điều kiện thanh toán là trả trước.
Sản phẩm hóa chất như thuốc trừ sâu được xuất từ Nhật Bản là sản
phẩm xuất khẩu chính. (Doanh nghiệp thương mại B).

• Một doanh nghiệp sản xuất hóa chất lớn của Nhật Bản giải quyết vị
thế ngoại hối bằng việc nhận đôla từ xuất khẩu và thanh toán đôla Mỹ
cho nhập khẩu ngay cả khi giao dịch với doanh nghiệp Nhật Bản, nhờ
đó, họ có thể giảm được rủi ro ngoại hối và giảm chi phí ngoại hối
cho doanh nghiệp thương mại. Trong trường hợp này, doanh nghiệp
thương mại thanh toán với nhà sản xuất hóa chất Nhật Bản bằng đôla
Mỹ do vậy, giao dịch với đối tác Việt Nam phải bằng đôla Mỹ. (Doanh
nghiệp thương mại A).

Dịch bởi EMISCOM 77 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

• Khi đàm phán giá hàng với đối tác Việt Nam, chúng tôi so sánh chi phí
tài chính giữa Việt Nam và Nhật Bản. Do quản lý tài chính được nới
lỏng hơn ở Nhật Bản, thông thường chi phí sẽ thấp hơn khi nguồn tài
chính do đối tác Nhật Bản cung cấp. (Doanh nghiệp thương mại A).

• Trong lĩnh vực may mặc, nguyên vật liệu thường do phía Nhật Bản
cung cấp và khâu sản xuất được thực hiện tại Việt Nam, do vậy, có
khả năng sử dụng đồng yên trong cả xuất khẩu và nhập khẩu với Nhật
Bản. (Doanh nghiệp thương mại A).

• Mức lãi suất do các tổ chức tài chính công như JBIC đưa ra rất hấp dẫn
các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, mức lãi suất hiện có của các
doanh nghiệp thương mại và sản xuất Nhật Bản rất thấp. Liệu lãi suất
đồng yên ở Việt Nam có đủ sức cạnh tranh? (Doanh nghiệp thương
mại A).

• Có một số trường hợp doanh nghiệp thương mại Nhật Bản bảo lãnh
cho đối tác vay vốn lưu động từ ngân hàng Nhật Bản hoạt động tại Việt
Nam. Mặc dù có sự hỗ trợ này, nếu doanh nghiệp Việt Nam không có
vị thế tài chính đủ manh, họ cũng không thể vay được từ các ngân hàng
Nhật Bản. Trong trường hợp đó, nếu ngân hàng thương mại Việt Nam
có thể cấp hạn mức tín dụng bằng đồng yên cho đối tác Việt nam dựa
trên tài sản thế chấp hoặc các yếu tố tín dụng khác, thì doanh nghiệp
thương mại Nhật Bản sẽ rất có lợi khi chuyển đồng tiền thanh toán từ
đôla Mỹ sang yên. Doanh nghiệp Nhật Bản sẵn sàng cháp nhận chi
phí tăng thêm khi chuyển từ hỗ trợ tín dụng từ phía Nhật Bản sang
nguồn nội địa khác vì rủi ro tín dụng mà đối tác Nhật Bản phải gánh
chịu trong trường hợp này giảm đi. (Doanh nghiệp thương mại A và
C).

• Với doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động và tài
chính của doanh nghiệp thương mại Nhật Bản, doanh nghiệp thương
mại gánh chịu rủi ro hoạt động rất lớn từ phía đối tác Việt Nam do vây,
chi phí tài trợ thương mại không đáng để quan tâm. (Doanh nghiệp
thương mại A).

• Về cơ bản, doanh nghiệp thương mại Nhật Bản muốn chuyển phần tài
chính trong nước sang đối tác Việt Nam. Tuy nhiên, trong nền kinh tế
đang tăng trưởng như Việt Nam, doanh nghiệp thương mại tương đối
năng nổi trong việc chấp nhận rủi ro tín dụng của Việt nam. Hạn mức
tín dụng của khu vực chính phủ hay tư nhân không được sử dụng hết.
Mặt khác, có nhiều trường hợp hạn mức tín dụng đã đạt tới mức giới
hạn ở quốc gia khác như Indonesia (Doanh nghiệp thương mại A).

• Với doanh nghiệp thương mại Nhật Bản, không có quá nhiều lợi ích
khi chuyển từ thanh toán bằng đôla Mỹ sang yên vì đôla cũng dễ dàng

Dịch bởi EMISCOM 78 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.4. THÔNG TIN THU THẬP ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

xử lý ở Tokyo. Cần có thêm khuyến khích cho doanh nghiệp thương


mại Nhật Bản. (Doanh nghiệp thương mại A và B).

• Mặc dù gần đây không nghe nói nữa, nhưng đã cso trường hợp khi
đối tác trong nước yêu cầu mở thư tín dụng nhập khẩu tại ngân hàng
thương mại quốc doanh, họ đã phải gửi môt lượng đôla tương ứng,
điều này khiến chúng tôi lo ngại khả năng thiếu đôla Mỹ trầm trọng.
(Doanh nghiệp thương mại A).

4.4.2 Ý kiến của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ngân


hàng thương mại Việt Nam
• Biến động tỷ giá yên-đồng là rất lớn so với tỷ giá đồng-đôla. Chúng
tôi muốn biết thêm về kỹ thuật phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Chúng
tôi quan tâm tới tài trợ bằng đồng yên vì lãi suất thấp. (Doanh nghiệp
nhà nước A).

• Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cung cấp sản phẩm phòng ngừa
rủi ro nếu chúng tôi chấp nhận thanh toán bằng đồng yên không? Do
chúng tôi xuất khẩu một lượng lớn sang Nhật Bản, xem xét sử dụng
đồng yên trong tương lai là quan trọng. (Doanh nghiệp nhà nước A).

• Chúng tôi xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên như một dự án phát triển
tài nguêyn thêin nhiên theo hợp đồng dài hạn với Nhật Bản. Với hợp
đồng dài hạn, chúng tôi không thể phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng
kỳ hạn thậm chí bằng đôla. Chúng tôi vay vốn của JBIC để mua thiết
bị và do chúng tôi xuất khẩu sản phẩm sang Nhật thu đôla, khoản vay
của chúng tôi từ JBIC cũng là đôla Mỹ. (Doanh nghiệp nhà nước A).

• Trong trường hợp xuất khẩu bằng euro sang châu Âu, chúng tôi vay
euro. Chúng tôi không phải phòng ngừa rủi ro ngoại hối khi xuất khẩu
bằng euro. (Doanh nghiệp nhà nước A).

• Chi phí huy động vốn bằng đôla Mỹ hiện tại chỉ dưới 5% so với mức
10-11% của đồng Việt Nam, là không quá đắt. (Doanh nghiệp nhà
nước A).

• Không có khó khăn gì trong xử lý với đôla Mỹ ở Việt Nam. Chúng tôi
có quan hệ kinh doanh với một số ngân hàng châu Âu và Mỹ ở Việt
Nam. (Doanh nghiệp nhà nước A).

• Không có chênh lệch tỷ giá đáng kể trong hợp đồng kỳ hạn đôla
Mỹ/đồng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Và do đó, không
cần thiết phải có thị trường liên ngân hàng. (Ngân hàng thương mại
quốc doanh A)

Dịch bởi EMISCOM 79 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

• Chúng tôi có vị thế nắm giữ tiền gửi đôla Mỹ, và chúng tôi có thể đáp
ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. (NHTMQD B và C). Chúng tôi
sử dụng ngân hàng nước ngoài trên thị trường quốc tế (Hồng Kông,
Singapore, . . . ) với tiền gửi liên ngân hàng. Lãi suất cho vay bằng
đôla hiện nay của chúng tôi là 4-5%. (NHTMQD B và C). Lãi suất với
các khách hàng quan trọng chỉ dưới LIBOR +2%). (NHTMQD C).

• Lãi suất cho vay đồng Việt Nam là khoảng 10-11%. Lãi suất cơ bản
của NHNN là 7,8%. Việc tăng mức lãi suất chiết khấu chính thức
trong tháng 2/2005 không ảnh hưởng tới lãi suất cho vay của tháng
3. (Doanh nghiệp nhà nước A và NHTMQD B và C).

• Euro được sử dụng nhiều hơn. Số lượng tiền gửi ngoại tệ bằng euro
tăng lên. Chúng tôi không có kinh nghiệm cho vay euro. Chúng tôi đã
chuẩn bị đưa ra hợp đồng kỳ hạn euro-đồng nhưng khách hàng của
chúng tôi không tỏ ra quan tâm. (NHTMQD C).

• Chúng tôi huy động euro bằng việc bán đôla cho ngân hàng nước
ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, đôi khi ở Hồng Kông và Singapore. Chúng tôi hiếm khi sử
dụng hạn mức tín dụng của ngân hàng nước ngoài để huy động euro.
(NHTMQD C).

• Rất nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam mua hệ thống hạch toán
ngoại hối từ một công ty Úc trong năm 2004. Gạt sang bên năng lực
thực tế như một ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối, hệ thống
của ho tương thích với các giao dịch ngoại hối với nhiều lại ngoại tệ,
và không có vấn đề gì khi xử lý với yên. Mặc dù có một vài ngoại lệ,
chúng tôi có các hợp đồng kỳ hạn ngoại hối bằng euro và yên.

• Doanh nghiệp Việt Nam thường xây dựng ngân sách bằng đôla. Nhưng
nếu euro và yên được giới thiệu, các doanh nghiệp sẽ thảo luận nhiều
hơn về tương lai phát triển của tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý
rủi ro liên quan, cũng như vai trò quản lý các rủi ro này. Nhiều doanh
nghiệp thực sự thiếu kinh nghiệm. (Chi nhánh Hà Nội của một ngân
hàng Nhật Bản).

• Chúng tôi có nhiều giao dịch với Nhật Bản. Chúng tôi hiều rằng cần
nhận thức được tầm quan trọng của việc đa dạng hóa đồng tiền trong
tương lai và quan tâm tới tài trợ thương mại bằng đông yên vì mức lãi
suất thấp. (NHTMQD C)

• Khách hàng của chúng tôi cần giao dịch bằng nhân dân tệ. Mặc dù
giao dịch tiền gửi nhân dân tệ không được phép, khách hàng vẫn muốn
giữ nhân dân tệ. (NHTMQD C).

Dịch bởi EMISCOM 80 °


c IIMA, tháng 3/2005
4.5. KẾT LUẬN

4.5 Kết luận


Doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam miễn cưỡng sử dụng yên hoặc euro
vì hai lí do sau. Thứ nhất, trong môi trường hiện tại, tỷ giá đồng-đôla được
kiểm soát ổn định và do đó, lựa chọn đôla là hợp lý và an toàn nhất. Khi
xem xét các phương thức phòng ngừa rủi ro, do tỷ giá đôla Mỹ-đồng Việt
Nam đang được điều chỉnh yếu dần trong trung hạn, nhu cầu sử dụng các
phương tiện phòng ngừa rất hạn chế ngay cả với hợp đồng ngoại hối giữa
đôla Mỹ và đồng Việt Nam. Ngoại trừ các doanh nghiệp có qui mô lớn, giao
dịch trên thị trường toàn cầu và sử dụng các đồng tiền khác ngoài đôla Mỹ,
hiếm khi có nhu cầu đủ lớn từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Thậm
chí khi có lượng giao dịch nhỏ bằng đồng yên, việc phòng ngừa rủi ro ngoại
hối cũng chỉ được giới hạn trong phạm vi kết hợp vị thế thu đồng yên về để
thanh toán bằng đồng yên. Các sản phẩm như hợp đồng kỳ hạn ngoại hối
giữa yên và đồng không được sử dụng. Trong nhiều trường hợp, không hề
có phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Thực trạng tương tự có thể nhận thấy với
giao dịch sử dụng euro, cũng đang ngày một tăng lên.

Lý do thứ hai khiến các doanh nghiệp Việt Nam không quan tâm tới
sử dụng đồng tiền khác bên cạnh đôla Mỹ là chi phí thấp của đôla Mỹ tại
Việt Nam. Do lượng đôla đổ vào Việt Nam những năm qua khá ổn định, lãi
suất cho vay bằng đôla dành cho các khách hàng quan trọng tại các ngân
hàng thương mại trong nước là LIBOR+2%. Đây là mức lãi suất rất cạnh
tranh ngay cả khi so sánh với mức lãi suất hiện có với các khoản nợ của
chính phủ Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Lãi suất tài trợ ngắn
hạn bằng đôla Mỹ rất cạnh tranh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng rong khi đôla
được các ngân hàng Việt Nam huy động trong ngắn hạn thông qua tiền gửi
đôla, có một loạt nhu cầu vay vốn dài hạn để đầu tư cho các dự án. Dễ
dàng nhận thấy khoảng cách về kỳ hạn trong vị thế đôla của các ngân hàng
thương mại Việt Nam. Đó là nhận tiền gửi ngắn hạn và cho vay dài hạn. Do
đó, không có gì đảm bảo rằng có đủ đôla để tài trợ thương mại trong tương lai.

Nhìn vào việc sử dụng ngoại tệ bên cạnh đôla Mỹ của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu Việt Nam, có một số thay đổi. Giao dịch thương mại với
châu Âu đang tăng lên và do đó euro được sử dụng nhiều hơn trong thanh
tóan thương mại và tiền gửi ngoại tệ. Khi thu thập ý kiến về việc sử dụng
tài trợ thương mại bằng đồng yên, điều này cũng được xác thực. Không có
phản đối mạnh mẽ nào từ các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp xuất
nhập khẩu khi nhóm nghiên cứu chỉ ra rủi ro của việc lệ thuộc quá nhiều
vào một đồng tiền duy nhất. Doanh nghiệp Việt Nam hiểu rằng trong tương
lai, họ cần tăng cường sử dụng đồng yên trong tài trợ thương mại không chỉ
từ quan điểm quản lý rủi ro mà còn từ góc độ nâng cao năng lực tiếp cận thị
trường.

Dịch bởi EMISCOM 81 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 4. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI BẰNG YÊN NHẬT TỪ GÓC NHÌN
CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Các điều kiện cần thiết để tạo dựng môi trường trong đó tài trợ thương
mại bằng đồng yên được xem xét nghiêm túc là gì? Thứ nhất, hệ thống tỷ giá
hối đoái được chuyển từ thả nổi có quản lý, mang chức năng gắn với đồng
đôla, sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hoạt hơn. Ví dụ như quản lý đồng Việt Nam
dựa trên rỏ tiền tệ bao gồm đôla Mỹ, euro, và yên. Thứ hai, để các doanh
nghiệp Việt Nam có năng lực tín dụng tốt hơn, có thể làm thay đổi quan hệ
với đối tác thương mại, các ngân hàng thương mại cần đưa ra nhiều lựa chọn
tài trợ thương mại hơn với nhiều đồng tiền khác nhau bên cạnh đôla Mỹ. Thứ
ba là nâng cao uy tín tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tăng
cường năng lực huy động vốn ngoại tệ từ các tổ chức tài chính nước ngoài.
Để làm được điều này, cần phát triển thị trường liên ngân hàng cho giao dịch
ngoại hối, mà tiếp đó sẽ cho ra đời các sản phẩm phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

Việc NHNN rỡ bỏ các qui định về giao dịch ngoại tệ là một trong các điều
kiện để tạo ra môi trường mới trong đó nhiều đồng tiền khác nhau được sử
dụng. Điều này nghĩa là các nghiên cứu và thảo luận về việc đưa ra tài trợ
thương mại bằng đồng yên là mục tiêu trước mắt của con đường mà Việt
Nam đang tiến vào tương lai.

Dịch bởi EMISCOM 82 °


c IIMA, tháng 3/2005
Chương 5

Vấn đề và Triển vọng

5.1 Một số kết quả của nghiên cứu và vấn đề lưu


ý trong tương lai
Thông qua nghiên cứu này, chúng tôi tin rằng các đối tác từ phía Việt Nam
lẫn Nhật Bản đạt được nhận thức chung rằng việc khuyến khích sử dụng
đồng yên Nhật cho tài trợ thương mại liên hệ chặt chẽ với quá trình cải thiện
hệ thống hạ tầng Thị trường tài chính Việt Nam trở nên quen thuộc dễ sử
dụng đối với các tác nhân tham gia giao dịch.

5.1.1 Các yêu cầu từ phía NHNN


Sau Phiên họp cuối tại NHNN, các kiến nghị và yêu cầu trình bày dưới được
đưa ra ở dạng ý kiến chưa chính thức.

• Nếu tiến hành một nghiên cứu cụ thể về trường hợp thương mại bằng
đồng đôla được chuyển sang sử dụng đồng yên, ta sẽ cần tiến hành
nhiều kiểm định khác nhau về chi phí và các yếu tố liên quan tới công
việc đó. Tiếp theo, các vấn đề thực tiễn cần nghiên cứu sẽ được nhận
dạng. Nếu đã có các nghiên cứu cùng loại về tài trợ thương mại sử
dụng đồng yên ở Thái Lan hay Malaysia, NHNN mong muốn học hỏi
từ các kinh nghiệm này.

• Thông qua nghiên cứu này, NHNN tiến tới chia sẻ nhận thức rằng việc
phát triển hệ thống hạ tầng thị trường tài chính cho thị trường hoại
ngối giao ngay và tương lai thực sự quan trọng, và việc này cũng được
bàn thảo kỹ trong quá trình làm nghiên cứu. Tiếp tục phát triển các
sản phẩm tài chính giúp phòng ngừa rủi ro ngoại hối cũng rất quan
trọng. NHNN nhận thức rõ yêu cầu xây dựng một thị trường tạo điều
hiện cho các giao dịch phòng ngừa rủi ro có thể được tiến hành hiệu
quả. NHNN cũng mong muốn yêu cầu tiếp tục nhận được hỗ trợ từ
phía Nhật Bản về vấn đề này.

83
CHƯƠNG 5. VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG

• Chỉ trao đổi thông tin qua lại rõ ràng là chưa đủ. Sau khi lấy ý kiến
đóng góp của các Vụ thuộc NHNN chịu trách nhiệm về các chính sách
liên quan, NHNN muốn nâng cấp nghiên cứu tới một mức hiện hữu
và thực tế hơn nữa.
• NHNN mong muốn các đối tác Nhật Bản đề xuất kế hoạch chi tiết cụ
thể cho nghiên cứu này trong giai đoạn kế tiếp.

5.1.2 Cơ sở của các yêu cầu này


Các yêu cầu từ NHNN dường như xuất phát từ cơ sở sau đây.

Tính duy nhất của khuôn khổ nghiên cứu


Kiến nghị và lời khuyên được đưa ra cho chính phủ Việt nam thường được
chuẩn bị và viết thành văn bản thông qua các nhà tư vấn do các tổ chức
siêu quốc gia hoặc một số nước tài trợ. Các tổ chức này thường ở Việt Nam
trong một giai đoạn nhất định. Tuy vậy, trong nghiên cứu tài trợ thương
mại sử dụng đồng yên, đội ngũ của IIMA có thể ngồi lại thảo luận với các
bên tham gia từ Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch-Đầu tư, 4 ngân
hàng thương mại quốc doanh lớn nhất, 3 ngân hàng thương mại cổ phần chủ
chốt, và một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan trọng, cùng với NHNN
trong vai trò đối tác chính. Đồng thời, từ phía Nhật Bản, đại diện của Bộ Tài
chính, JBIC, và 4 ngân hàng thương mại chủ chốt sẽ cùng tham dự với IIMA.

Cũng cần lưu ý rằng hầu hết chính các thành viên đã cùng gặp gỡ 3 lần
để bàn bạc. Điều vô giá nhận thấy là nghiên cứu không bị tiến hành theo
cách đơn phương mà thông qua một loạt các cuộc họp, trong đó nhiều bên
liên quan có thể tham gia với tư cách phía Việt Nam. Các cuộc họp này được
tổ chức dưới vai trò lãnh đạo của NHNN chính là các cơ hội duy nhất không
chỉ cho các cơ quan công quyền mà cả với các thành viên tham gia thị trường
Việt Nam và Nhật Bản.

Nếu chính các thành viên này có thể được mời trở lại mà không để mất
quá nhiều thời gian chờ, chúng ta có thể tiếp tục làm việc hiệu suất cao và
cho kết quả tốt.

Đáp ứng yêu cầu của Việt Nam


Mục tiêu của nghiên cứu là tích cực ủng hộ các nỗ lực khuyến khích tài trợ
thương mại sử dụng đồng yên. nghiên cứu này được tiếp nối từ năm tài
chính 2003, và năm nay sau khi bàn bạc với NHNN, đội ngũ IIMA đã thống
nhất nhận thức chung về phương thức tiếp tục tiến hành.

Trước nhất, khi bắt đầu nghiên cứu năm nay, IIMA đã đề xuất để nhằm
xác định được trường hợp thí điểm cho tài trợ thương mại dùng đồng yên,

Dịch bởi EMISCOM 84 °


c IIMA, tháng 3/2005
5.1. MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG
TƯƠNG LAI

một sáng kiến cho khu vực tư nhân cần được nghiên cứu và thăm dò trước
tiên. Mục tiêu việc này phù hợp với chính sách của NHNN nhằm thúc đẩy
hoạt động tài chính thương mại cho các ngân hàng. NHNN đã thúc giục các
ngân hàng thương mại Việt Nam, bất kể là ngân hàng sở hữu nhà nước hay
thương mại cổ phần, phải tiến hành hoạt động tự hoạch định nguồn một
cách độc lập thay vì lệ thuộc vào bảo lãnh hay dạng thức khác về hỗ trợ tín
dụng từ NHNN hoặc Bộ Tài chính. Chính sách này tương ứng với mục tiêu
của nghiên cứu là thúc đẩy tài trợ thương mại sử dụng đồng yên mà không
dùng đến sự can thiệp của khu vực công.

Thứ hai, nghiên cứu này cũng phù hợp với chính sách của NHNN về
cung cấp các sản phẩm phòng ngừa rủi ro bằng cách giảm bớt sự quản chế
đối với giao dịch forward ngoại hối và swap đồng tiền theo tỷ giá chéo cho
các giao dịch bằng các đồng tiền khác ngoài đôla, như đồng euro ngày càng
chảy nhiều vào nền kinh tế.

Thứ ba, khi nghiên cứu triển khai tiếp, các cơ quan chính phủ Việt Nam
ngày càng ủng hộ tích cực. Đối với nghiên cứu này chúng tôi đã kiến nghị
thành lập 3 nhóm công tác. Thống đốc NHNN đồng ý với kiến nghị này, tuy
nhiên vì khoảng thời gian ngắn gấp gáp chưa đầy 3 tháng để hoàn thành vào
tháng 3/2005, IIMA đã nhất trí xây dựng nhóm công tác phi chính thức để
tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, trong nửa sau của nghiên cứu, NHNN tiếp
tục ủng hộ IIMA tổ chức gặp gỡ với các ngân hàng Việt Nam, một số doanh
nghiệp xuất-nhập khẩu quốc doanh chủ chốt. Mặc dù các nhóm công tác
chưa chính thức thành lập, đội ngũ IIMA vẫn có thể tiến hành nghiên cứu
các thông tin cần thiết.

IIMA giữ quan điểm sau thống nhất suốt quá trình triển khai nghiên
cứu.

a. Doanh vụ thực tế nên được xem là quá trình đàm phán giữa ngân hàng
Việt Nam và ngân hàng Nhật Bản.

b. Nhiệm vụ của nghiên cứu là nhằm ủng hộ, hỗ trợ các công việc thương
thuyết, đàm phán này một cách gián tiếp.

Đối với điểm (a.) bàn ở trên, do tài trợ thương mại sử dụng đồng yên
phụ thuộc vào kết quả các quá trình đàm phán trực tiếp giữa ngân hàng
Việt Nam và ngân hàng Nhật Bản, vì thế chúng tôi sẽ không can dự vào các
doanh vụ riêng lẻ. Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng một số ngân hàng Nhật
Bản có những bản câu hỏi điều tra rất cần nhận được trả lời từ phía các ngân
hàng Việt Nam. Do đó, các ngân hàng Nhật Bản sẽ hỏi các ngân hàng Việt
Nam những chi tiết nằm trong khuôn khổ nghiên cứu hiện tại, và sau đó
tiến hành thảo luận nhằm làm rõ các điểm chưa sáng tỏ.

Dịch bởi EMISCOM 85 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 5. VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG

Đối với điểm (b.), phía Nhật Bản kiến nghị rằng ngoài việc giải thích
tính cần thiết của việc sử dụng đồng yên, chúng ta cũng cần mô tả các tập
quán thị trường và quản trị rủi ro, cũng như hỗ trợ quá trình phát triển hạ
tầng sao cho việc sử dụng đồng yên là khả thi, và yêu cầu phía Việt Nam
giải thích cũng như cho biết thêm thông tin về các mảng việc phía Nhật Bản
đang quan tâm tới. Từ đây dẫn đến việc trình bày tại Phiên họp Khai trương
của phía Việt Nam về hệ thống tài chính ở Việt Nam và vấn đề về các tài sản
nợ đọng. Chúng tôi cũng đề nghị các chuyên gia Việt Nam viết thành tài liệu
bản trình bày này, và phần lớn yêu được được đáp ứng và đã hoàn thành.
Thêm vào đó, tại Phiên họp cuối, Cục Thuế của Bộ Tài chính Việt Nam đã
mô tả chi phí ở dạng thuế phát sinh trong việc tài trợ thương mại bằng đồng
yên và NHNN trình bày về hệ thống dự trữ bắt buộc.

Rất đáng lưu ý rằng thông tin như vậy được đưa ra và giải thích một cách
cởi mở với những thành viên tham dự từ phía Nhật Bản, bao gồm cả các
ngân hàng Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam.

Khuôn khổ của nghiên cứu được xem như hệ thống mà các ngân hàng
Nhật Bản có thể sử dụng thúc đẩy hoạt động của họ tại Việt Nam. Các ngân
hàng này đã quen với việc vận hành dưới khuôn khổ của Phòng Thương mại
Nhật Bản, nhưng vị trí của họ thì lại không rõ rệt trong các tổ chức có dạng
như Hiệp hội Ngân hàng Nước ngoài. Nếu tốn tại khả năng để cả Việt Nam
lẫn Nhật Bản tăng cường hơn nữa quan hệ thương mại và đầu tư, thì điều
vô giá là loại hình khuôn khổ làm việc mới trong đó vai trò các ngân hàng
Nhật Bản được đặt xứng tầm, cần phải xuất hiện, thậm chí dù chỉ là nhất
thời. Nhiều khả năng đây là lợi ích cho cả cộng đồng kinh doanh Nhật Bản
nói chung tại Việt Nam.

Các mảng được quan tâm về Việt Nam và tiến trình thương thuyết
Trong các cuộc gặp gỡ xuất hiện nhiều câu hỏi về các điều khoản căn bản
và điều kiện của tài trợ thương mại sử dụng đồng yên, và đồng thời cũng
tồn tại nhiều lập trường khác nhau, trong khi những thành viên tham dự
như đại diện của Bộ Kế hoạch-Đầu tư và Vụ Quản lý Ngoại hối của NHNN
thường dẫn chiếu tới các điều kiện của nguồn tài trợ thương mại bằng đồng
yên. Đứng từ phía một ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam, còn có một
kiến nghị xây dựng một cơ chế tăng cường tín dụng cho DNVVN (SME) là
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan trọng nằm trong khu vực kinh tế tư
nhân để dẫn dắt họ tới việc sử dụng tài trợ thương mại bằng đồng yên.

Các thảo luận không chỉ tập trung vào tính cạnh tranh và các vấn đề tồn
tại của tài trợ thương mại sử dụng đồng yên mà còn nhấn mạnh ở mức tổng
quát hơn tính cần thiết của trình độ phát triển hạ tầng tài chính. Dường
như các bên tham gia đã đạt tới một nhận thức chung rằng ngay cả khi một

Dịch bởi EMISCOM 86 °


c IIMA, tháng 3/2005
5.1. MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG
TƯƠNG LAI

cơ cấu nguồn tài trợ thương mại bằng đồng yên được nhất trí giữa các ngân
hàng thương mại, nó cũng sẽ chưa đẩy được tình hình tiến lên đáng kể đủ
để tiếp sức cho tài trợ thương mại, trừ phi hạ tầng cơ sở của thị trường được
phát triển đều khắp hơn. Các điểm dưới đây là những mối quan tâm từ phía
Việt Nam ngày càng rõ nét hơn qua 3 buổi họp thảo luận vấn đề liên quan.

• Trên thực tế, rất khó tiến hành các giao dịch bảo đảm trên các thị
trường liên ngân hàng ở Việt Nam. Mặc dù lãi suất đã được nới lỏng
kiểm soát hành chính, môi trường tài chính tổng thể chưa đạt đến mức
độ mà NHNN có thể tự do sử dụng các cơ chế thị trường để kiểm soát
khả năng hoán chuyển tiền mặt và các lãi suất ngắn hạn thông qua các
hoạt động nghiệp vụ thị trường mở. Thị trường forward ngoại hối đã
tồn tại nhưng thị trường đối lưu 2-chiều chưa hoạt động một cách hợp
lý. Trong tình trạng này, rất khó khởi động các giao dịch bảo đảm liên
ngân hàng trong phạm vi các ngân hàng ngay tại các thị trường tiền tệ
và ngoại hối. Không tồn tại nhà môi giới giao dịch và thành viên giao
dịch trực tiếp với nhau. Mặt khác, nhìn nhận từ góc độ xem xét nguồn
tài trợ của chính các ngân hàng, một số ngân hàng thương mại dường
như chỉ trông chờ vào nguồn từ thị trường.
Năm tài khoá trước đó, 2003, IIMA đã tổ chức một hội thảo về vai trò
và các chức năng của “nhà môi giới” chưa hề tồn tại ở Việt Nam, cho
thấy một ví dụ về thị trường Nhật Bản nhằm chứng tỏ rằng nhà môi
giới là rất cần thiết để nuôi dưỡng thị trường liên ngân hàng ngoại hối
cũng như thị trường tiền tệ trong nước. Trong năm tài khoái 2004,
chúng ta lại có cơ hội tiếp tục giải thích về tính cần thiết của việc đưa
ra một uỷ ban thực hành thị trường và một số phương pháp quản trị
rủi ro cơ bản khi đối mặt với vấn đề rủi ro ngoại hối.

• Đại diện của NHNN giải thích rằng đối với hệ thống thả nổi có kiểm
soát, nghĩa là hệ thống ấn định có điều chỉnh chậm (crawling-pegged)
với đồng đôlaMỹ, vẫn có một khả năng dịch chuyển sang loại vận hành
linh hoạt hơn, nhưng trong thời kỳ hiện tại, quản trị rủi ro với đồng
đôlaMỹ là vừa đủ. Tuy nhiên, khi chúng tôi chỉ ra các mối nguy hiểm
khi đồng đôla Mỹ đang chịu áp lực ảnh hưởng của thâm hụt kép và
nếu xuất hiện xu hướng rời bỏ đồng đôlaMỹ, thì cũng có khả năng các
quốc gia Đông Á có thể rời xa hơn nữa hệ thống ấn định có điều chỉnh
dựa trên đồng đôlaMỹ, thì các chuyên gia bày tỏ sự quan tâm tới điểm
mấu chốt này.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa bắt đầu bán các sản phẩm
phòng ngừa rủi ro mới như swap và option ngoại hối cho khách hàng.
Các khách hàng trừ các doanh nghiệp lớn dường như cũng chưa có
thông tin đầy đủ và chưa chuẩn bị tốt về các phương pháp quản trị rủi
ro cũng như thực hành kế toán phù hợp.

Dịch bởi EMISCOM 87 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 5. VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG

5.1.3 Các vấn đề trong tương lai


Hạ tầng của thị trường tài chính Việt Nam vẫn cần được phát triển tiếp cho
tương lai. Để nhằm tạo ra các thị trường hiệu quả qua đó các thành viên
tham gia có thể tận dụng nhiều loại sản phẩm phòng ngừa rủi ro phong
phú một cách tích cực, hạ tầng của thị trường cần phải được phát triển theo
nhiều cách khác nhau. Mặc dù các cơ quan chính phủ có quyền lực pháp
lý, các thị trường không tự phát triển nếu những thành viên tham gia thị
trường chỉ lệ thuộc vào các cơ quan quản lý nhà nước. Quá trình hội thoại
2-chiều thực hiện qua nghiên cứu này có thể rất hữu ích cho mục tiêu này.

Trong Phiên họp Cuối, một câu hỏi được nêu lên về khía cạnh liệu một
hệ thống phỏng thủ cấu trúc đã từng được tính đến tại Việt Nam như một
tổng thể, bao gồm cả các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp xuất-nhập
khẩu nhằm hạn chế tốt nhất các rủi ro ngoại hối nếu như biến cố các đồng
tiền châu Á đột nhiên chuyển tới thả nổi hoàn toàn hoặc một rổ tiền tệ bỗng
loại bỏ vai trò của đồng đôlaMỹ. Dường như chưa có giải pháp nào được
tính đến cho tình huống có thể xảy ra này. Điều quan trọng với Việt Nam là
chuyển động trên nhiều mặt trận trước bài toán về rủi ro lãi suất và ngoại hối.

Cũng cần thiết báo cáo lại tại cuộc họp cách thức các ngân hàng Nhật
Bản dàn xếp nguồn tài trợ cho chính mình khi hoạt động ở Việt Nam và cách
thức họ giải quyết các vấn đề vấp phải. Khả năng rất lớn là cả 2 phía, Việt
Nam và Nhật Bản, có thể cùng nghiên cứu nhiều vấn đề nhằm cải thiện hệ
thống hạ tầng của các thị trường tài chính, bất kể liệu chương trình tài trợ
bằng đồng yên có khởi động trên thực tế. Đó là vì hoàn toàn có khả năng tốt
cho các bên Việt Nam và Nhật Bản cùng phối hợp nghiên cứu và đưa ra các
phương thuốc cụ thể cho nhiều vấn đề có thể phát sinh.

5.2 Triển vọng với một nghiên cứu


Một câu hỏi quan trọng cho giai đoạn khởi động nghiên cứu này là liệu
chúng ta có thể tiến đến một thoả thuận và nhận được sự hỗ trợ của các đối
tác phía Việt Nam cho nghiên cứu đẩy mạnh tài trợ cho khu vực kinh tế tư
nhân. NHNN đã ủng hộ nghiên cứu này vì đề xuất nhằm đa dạng hoá các
loại tiền tệ phù hợp với chính mà họ đang chủ trương. Tuy nhiên, ở giai
đoạn ban đầu chúng ta chưa biết chắc mức độ nhận thức hoàn chỉnh và hợp
tác có thể đạt đến từ phía các thành viên thị trường ở Việt Nam.

Chẳng hạn, như đã mô tả trong Chương 1, tại Phiên họp Khai trương,
một số ngân hàng Việt Nam cho ý kiến rằng họ cần hỗ trợ tín dụng từ khu
vực công tại Nhật Bản khi họ gặp phải tình huống khó khăn cụ thể nào đó.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở Mục 1, các kỳ vọng của phía Việt Nam không
dừng ở một yêu cầu cụ thể đó. Thông qua quá trình trao đổi thông tin, ta

Dịch bởi EMISCOM 88 °


c IIMA, tháng 3/2005
5.2. TRIỂN VỌNG VỚI MỘT NGHIÊN CỨU

còn nhận thấy có nhiều yêu cầu phía Nhật Bản đóng góp vào quá trình phát
triển của thị trường tài chính Việt Nam, và họ cũng yêu cầu có thêm một số
đề xuất. Dưới đây là một số mảng dự kiến cần nghiên cứu. Rất cần thiết có
những thảo luận với tác giả của các tư tưởng này.

5.2.1 Các vấn đề liên quan tới tài trợ thương mại
Phạm vi của nghiên cứu khả thi tài trợ thương mại bằng đồng yên khá hạn
chế, tuy vậy vẫn có khả năng xem xét lại một số trường hợp trong quá khứ
khi mà kinh doanh tiền tệ được dịch chuyển từ đồng đôlaMỹ sang đồng yên,
và nghiên cứu về cơ sở và kết cục của các quyết định này. Nghiên cứu cũng
có thể vận hành tốt trên các môi trường tài trợ tổng quát hơn mà không cần
phải hạn chế riêng với đồng yên và trên các vấn đề cần phải giải quyết của
ngân hàng, cũng như các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu.

5.2.2 Phát triển hạ tầng của thị trường tài chính


Để phân tích các vấn đề và đưa ra khuyến nghị nhằm phát triển hạ tầng thị
trường tài chính cho giao dịch ngoại hối và lãi suất, nhằm làm tăng mức độ
thanh khoản của thị trường liên ngân hàng, nhằm tạo ra tiền đề vững chắc
cho vận hành thị trường cũng như quy tắc kinh doanh hợp lệ, và nhằm bổ
sung sức mạnh các ngân hàng nước ngoài vào hệ thống thị trường tài chính
của Việt Nam.

5.2.3 Tăng cường năng lực quản lý của kiểm soát rủi ro
ngoại hối trong các ngành công nghiệp tài chính và
phi tài chính Việt Nam
Nhu cầu phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiện tại dường như chưa lớn lắm vì
Việt Nam áp dụng hệ thống thả nổi có kiểm soát trong đó nội tệ được ấn
định có điều chỉnh chậm theo đồng đôlaMỹ. Tuy nhiên, cũng tồn tại nhận
thức rằng cần có những cuộc tập dượt hướng tới một hệ thống ngoại hối linh
hoạt hơn sau khi nhận được bài học từ cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á.

5.2.4 Khuyến nghị về quá trình nới lỏng kiểm soát trên thị
trường tài chính
Vì Việt Nam hướng tới mục tiêu gia nhập WTO trong tương lai gần, quá
trình nới lỏng kiểm soát của thị trường tài chính và các giao dịch tài chính
cần được triển khai. Tuy nhiên không cần nói cũng nhận thấy được rằng
quá trình nới lỏng từng bước, theo một trình tự hợp lý và được nấc thời
gian tốt, là cực kỳ quan trọng. Dựa trên các kinh nghiệm thu được từ chính
Nhật Bản và từ các phần khác của châu Á, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
tiền tệ châu Á cuối những năm 1990, một nghiên cứu Hỗ trợ kỹ thuật có thể
giúp Việt Nam chuẩn bị một chiến lược ‘may đo’ phù hợp với thực tế của

Dịch bởi EMISCOM 89 °


c IIMA, tháng 3/2005
CHƯƠNG 5. VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG

quốc gia. Khi tiến hành việc này, rất cần đưa ra kế hoạch có thể thúc đẩy thị
trường tài chính trong nước phát triển song song với thị trường ngoại hối,
vì lý do nền kinh tế Việt Nam ngày càng hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

5.2.5 Đưa vai trò nhà môi giới vào hệ thống thị trường tiền
tệ và ngoại hối
Các thị trường liên ngân hàng Việt Nam không có hệ thống nhà môi giới, và
kinh doanh được thực hiện giữa 2 bên thông qua thoả thuận về giá trực tiếp.
Nhìn vào quy mô giao dịch hiện tại và số lượng giao dịch, có lẽ đó cũng là
cách kinh doanh hợp lý. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế tiếp tục cho thấy mức
tăng trưởng ổn định, và khối lượng, giá trị giao dịch tăng lên, thì vai trò và
chức năng của hệ thống nhà môi giới là không thể thiếu. Cần đưa ra một
đề xuất cho hệ thống môi giới, dựa trên vai trò và hoạt động của người môi
giới trên các thị trường liên ngân hàng ở các nước khác, cũng như các tiến
bộ gần đây của công nghệ môi giới như giao dịch điện tử.

Dịch bởi EMISCOM 90 °


c IIMA, tháng 3/2005
Tài liệu tham khảo

1 International Monetary Fund. Foreign currency deposits in Vietnam:


trends and policy issues in Vietnam. Sellected Issues and Statistical
Appendix, IMF Country Report No. 02/5, 2002.

2 International Monetary Fund. Reform of state-owned commercial


banksachievement and challenges in Vietnam. Selected Issues, IMF
Country Report No. 03/381, 2003.

3 Vietnam KPMG Limited. Trade settlement in foreign currencies- ac-


counting principles, implications and trends. 2005.

4 External Finance Department Vietnam Ministry of Finance. Regula-


tionon the management and utilization of official development assi-
tance. Youth Publishing House, 2004.

5 East Asia World Bank, Financial Sector and Pacific Region. Banking
sector review vietnam. 2002.

91

You might also like