Professional Documents
Culture Documents
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Đã là một nhà đầu tư chắc hẳn ai cũng muốn đồng vốn
mình bỏ ra được sử dụng một cách tốt nhất và thu về nhiều lợi nhuận
nhất. Có rất nhiều cách để thực hiện điều đó, một trong số đó là đầu tư
vào lĩnh vực chứng khoán.
Trên thế giới sự ra đời của thị trường chứng khoán- nơi
mua bán, trao đổi chứng khoán xuất hiện từ khá sớm với chức năng cơ
bản là huy động những nguốn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư và tái
đầu tư thu lợi nhuận, đồng thời đem lại cho người đầu tư vào thị trường
này một khoản lợi nhuận đầy “hứa hẹn”. Chính vì thế, đầu tư chứng
khoán dần trở thành trào lưu của các nhà đầu tư, ai cũng có thể tham
gia với hi vọng “ một đồng bỏ ra sẽ thu lại mười đồng”.
“ Lợi ích càng nhiều thì rủi ro càng lớn”, bên cạnh viễn
cảnh đầy " màu hồng" cho các nhà đầu tư thì đầu tư chứng khoán cũng
luôn tiềm ẩn trong nó sự rủi ro, đặc biệt với những nhà đầu tư nhỏ, lẻ.
Chính vì lí do đó mà em chọn đề tài: “ Phương pháp giảm
thiểu rủi ro trong đầu tư chứng khoán” làm đề tài nghiên cứu, không
với tham vọng có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong đầu tư chứng
khoán, chỉ hi vọng đề tài sẽ tạo cho nhà đầu tư một cái nhìn khách quan
nhất về rủi ro trong đầu tư chứng khoán và những lời khuyên để hạn
chế những rủi ro trong lĩnh vực này.
Phụ lục
a) Chứng khoán là gì? Là những hàng hóa trên thị trường
chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, các chứng chỉ quỹ đầu tư và
một số loại khác, như quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp
đồng quyền chọn.
b) Cổ phiếu là gì? Là chứng từ xác nhận quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu với tài sản hoặc vốn của một
công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phiếu sẽ trở thành cổ đông của công
ty cổ phần đó.
c) Trái phiếu là gì? Là một loại chứng khoán xác định
nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái
phiếu. Người sở hữu trái phiếu sẽ thành trái chủ, tức chủ nợ của tổ chức
phát hành
d) Chứng chỉ quỹ là gì? Là loại chứng khoán xác nhận
quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của đại chúng.
Chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư
chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là “ chơi chứng khoán”
e) Chứng khoán phái sinh là gì? Là những công cụ được
phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu,
nhằm mục tiêu phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
.1.2 Khái niệm thị trường chứng khoán:
Là nơi mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng
khoán nhằm mục đích kiếm lời
Thị trường chứng khoán tập chung
Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
Một vài chức năng chính của thị trường chứng khoán:
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tê
Cung cấp mơi trường đầu tư cho công chúng
Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Tạo môi trường cho Chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô.
Phân loại:
• Thị trường sơ cấp
• Thị trường thứ cấp
Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán:
Nguyên tắc cạnh tranh
Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc công khai
Nguyên tắc trung gian
Nguyên tắc tập trung
rt = (Pt - P0 + Ct)/P0
rt: tỷ suất sinh lợi mong đợi trong suốt kỳ t
Pt: giá của chứng khoán trong kỳ t
P0: giá của chứng khoán trong kỳ 0
Ct: lưu lượng tiền mặt nhận được của chứng khoán từ t0 đến t1
3.2. Phương sai và độ lệch chuẩn:
Là một phương cách đo lường rủi ro chính xác nếu các giá trị tỷ
suất sinh lợi tuân theo quy luật phân phối chuẩn.
Một trong hai phương pháp phương sai hay độ lệch chuẩn có
thể sử dụng thay thế nhau vì mục đích thuận tiện trong sử dụng.
Khi độ lệch chuẩn có cùng đơn vị với tỷ suất sinh lợi thì việc sử
dụng độ lệch chuẩn có nhiều thuận lợi hơn.
Nói chung khi sử dụng phương sai và độ lệch chuẩn điều các nhà
đầu tư có thể tìm thấy đó là sự dao động,
Pt - P0 + Ct
chênh lệch của giá trị hiện tại so với giá trị
r=
trung bình trong một thời kì, trong lĩnh vực
P0
chứng khoán có thể là giá thị trường tại thời
điểm hiện tại so với giá thị trường trung bình trong một thời kì, từ
đó nhận định được biên độ giao động của giá cả, cũng như tác động
của rủi ro đến giá chứng khoán, từ đó đưa ra quyết định có mạo
hiểm đầu tư vào loại chứng khoán đó hay không.
Phương sai: ( rm) = giá trị mong đợi ( rm - rmtb )
Với rm là giá trị tỷ suất sinh lời thực tế
rmtb là giá trị tỷ suất sinh lời kỳ vọng của nhà đầu tư.
Công thức chung:
Vậy hệ số beta có ý nghĩa gì đối với việc định lượng rủi ro trong
đầu tư chứng khoán?
Xét một ví dụ đơn giản, nếu hệ số beta của HAP bằng 1,2 (β =
1,2) cho biết rằng lợi nhuận cổ phiếu cá biệt của HAP biến động
bằng 1,2 lần lợi nhuận thị trường, điều này có nghĩa nếu nền kinh tế
biến động tốt thì lợi nhuận cổ phiếu HAP tăng nhanh hơn lợi nhuận
thị trường, nhưng khi nền kinh tế xấu thì lợi nhuận cổ phiếu HAP
giảm nhanh hơn lợi nhuận thị trường. Ở đây β được định nghĩa là hệ
số đo lường sự biến động của lợi nhuận. Cho nên β được xem như hệ
số đo lường rủi ro trong đầu tư chứng khoán, do đó lợi nhuận kỳ
vọng của một loại chứng khoán có quan hệ dương với hệ số β của nó.
Mặt khác, hệ số beta cũng được viết lại bằng cách khác, đó là
quan hệ tỷ lệ giữa rủi ro của vốn chủ sở hữu so với rủi ro thị trường.
Lợi nhuận của chứng khoán có quan hệ cùng chiều với rủi ro
đầu tư chúng khoán, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, nghĩa là
nhà đầu tư kỳ vọng chứng khoán có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng
cao và ngược lại.
Như vậy, giữa lợi nhuận và rủi ro đầu tư chứng khoán có quan
hệ với nhau như thế nào? Vấn đề này được giải thích như sau: Giả sử có
một khoản tiền cần đầu tư: một phần đầu tư vào cổ phiếu để kiếm lời và
phải chấp nhận rủi ro, một phần đầu tư vào trái phiếu chính phủ có
mức sinh lời thấp hơn nhưng không có rủi ro. Việc đầu tư vào 2 loại
chứng khoán này nhằm phân tán rủi ro.
Như vậy, từ phương trình (*) ta có thể kết luận: khi hệ β số càng
cao thì suất sinh lời của vốn chủ sỏ hữu càng cao và vì vậy cũng mang
nhiều rủi ro hơn.
Để thấy rõ hơn kết luận này ta lấy ví dụ minh hoạ như sau:
Giả sử công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà (HHC) thuộc nhóm
ngành bánh kẹo có β = 1,6
Công ty cổ phần bảo hiểm AAA (AAA) thuộc nhóm ngành bảo
hiểm có β = 0,6
Lãi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam năm 2009 kì hạn 2 năm
(rF) là 9%/năm
Lãi suất thị trường (rM) là 12%/năm. Khi đó suất sinh lời của
các công ty sẽ là:
HHC = 9% + 1,6*( 12% - 9%) = 13,8%
AAA = 9% + 0,6*( 12% - 9%) = 10,8%
Xét các trường hợp khi lãi suất thay đổi:
TRƯỜNG HỢP 1:
Khi lãi suất thị trường tăng 20% tức là rM = 12%*( 1 + 0,2)=
14,4%, suất sinh lời của hai công ty sẽ là :
HHC = 9% + 1,6*( 14,4% - 9%) =17,64%
AAA = 9% + 0,6*(14,4% - 9%) = 12,24%
TRƯỜNG HỢP 2:
Khi lãi suất thị trường giảm 20% tức là rM = 12%*( 1 -
0,2)=9,6%,, suất sinh lời của hai công ty sẽ là:
HHC = 9% + 1,6*( 9,6% - 9%) = 9,96%
AAA = 9% + 0,6*( 9,6% - 9%) = 9,36%
Như vậy khi lãi suất thị trường tăng lên sẽ làm cho tốc độ tăng
suất sinh lời của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà nhanh hơn, nhưng
khi lãi suất thị trường giảm cũng làm cho suất sinh lời của công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Hà giảm nhanh hơn.
Như vậy chúng ta đã biết cách tính toán xác định rui ro của cổ
phiếu dựa vào hệ số beta, tuy nhiên beta này lấy ở đâu và được tính như
thế nào???
Chúng ta xét đến khía cạnh rủi ro hệ thống, để tìm hiểu về beta.
Như ta đã biết rủi ro phi hệ thống sẽ được giảm thiểu bằng cách đa
dạng hóa danh mục đầu tư, tuy nhiên mỗi ngành, mỗi nghề, mỗi công ty
lại có những đặc điểm riêng vì thế việc lượng hóa rủi ro phi hệ thống
thành một công thức là không thể, Do vậy người ta chỉ có thể làm điều
này với rủi ro hệ thống dựa trên cơ sở chung là sự biến động tỷ suất lợi
nhuận của từng cổ phiếu so với sự biến động tỷ suất lợi nhuận của toàn
bộ thị trường. Và như thế hệ khái niệm hệ số beta đã ra đời để thực hiện
nhiệm vụ đo lường rủi ro và có khả năng so sánh giữa các doanh nghiệp
khác nhau.
Rủi ro hệ thống của mỗi cổ phiếu được xem như tỷ phần đóng
góp rủi ro của từng cổ phiếu vào rủi ro của toàn bộ thị trường. Chúng
ta sẽ xem xét lại công thức tính phương sai của danh mục thị truờng -
được đơn giản hoá chỉ bao gồm 2 cổ phiếu A và B - và đuợc biểu diễn
duới dạng ma trận như sau:
Trong ma trận này, dòng đầu tiên chính là sự đóng góp rủi ro
của chứng khoán A vào danh mục thị trường. Điều này cũng tương tự
cho chứng khoán B. Và phần đóng góp náy được viết lại như sau:
Ta có thể chứng minh hiệp phương sai bình quân chính là hiệp
phương sai giữa tỷ suất lợi nhuận của chứng khoán A và tỷ suất lợi
nhuận của thị trường như sau:
Như vậy tỷ phần đóng góp rủi ro của cổ phiếu A vào danh mục
thị trường được thể hiện như sau:
Như vậy, mức độ đóng góp rủi ro của một chứng khoán vào rủi
ro danh mục thị trường phụ thuộc vào phần thứ nhất là tỷ trọng của
nó trên thị trường và phần thứ hai là sự tác động của chứng khoán
vào danh mục thị trường. Phần thứ hai được định nghĩa là hệ số beta
của chứng khoán. khi đó:
Ta nhận thấy beta so sánh sự đồng biến động của chứng khoán
và thị trường với sự biến động riêng biệt của thị trường. Hệ số này
càng lớn chứng tỏ sự biến động của chứng khoán càng lớn so với sự
biến động của thị trường.
Beta được xác định với đầu vào là các tỷ suất lợi nhuận, mà tỷ
suất này được tính toán dựa trên các mức giá của cổ phiếu theo thời
gian. Hoá ra xét về mặt toán học beta chỉ là một công cụ đo lường
khả năng biến động giá của các cổ phiếu so với sự biến động của chỉ
số thị trường. như vậy tại sao nói beta là một đại diện cho rủi ro của
doanh nghiệp. Tất nhiên chỉ có thể giải thích vấn đề này bằng EMH
(Efficient Market Hyppothesis - Giả thuyết thị trường hiệu quả),
theo thuyết này giá cả chứng khoán sẽ phản ánh tất cả mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Và như vậy beta đo lường rủi ro trong sự thay đổi
mức giá của cổ phiếu, cũng chính là đo lường rủi ro của doanh
nghiệp.
Trên thế giới, các thị trường tài chính phát triển được xem như
là thị trường hiệu quả. Hệ số beta ở các thị trường này là một thước
đo hiệu quả của rủi ro hệ thống.
Tuy nhiên cũng theo EMH thì đối với thị trường chứng khoán
Việt Nam thì hệ số beta không được chú ý lắm, đơn giản là bởi:
Thứ nhất đó là mức giá, EMH cho rằng mức giá phản ánh
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng ở Việt Nam mức giá chỉ thể
hiện một phần mà thôi, phần lớn là do sự tác động từ cung cầu của
các nhà đầu cơ. Do vậy beta được tính từ các mức giá này không thể
nói lên rủi ro của doanh nghiệp.
Thứ hai đó là danh mục thị trường. Hiện nay ở Việt Nam
có hai chỉ số chính là VN-Index và Hastc-Index. hai chỉ số này chưa
đủ sức để tạo nên một danh mục thị trường, dựa trên hai phương
diện. Một là danh mục này chưa có đầy đủ các lĩnh vực ngành nghề
trong nền kinh tế. Hai là trong từng lĩnh vực không bao gồm các
doanh nghiệp đại diện cho lĩnh vực đó. Chính vì vậy sự biến động
của danh mục chưa đánh giá chính xác sự biến động của nền kinh tế.
Vậy beta có tác dụng gì không? Câu trả lời là có, mặc dù hiện tại
do thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều điều bất câp, nhưng
trong tương lai nó sẽ phát triển, do đó hệ số beta vẫn là một hệ số
quan trọng trong việc xác định rủi ro và ra quyết định đầu tư trong
tương lai, còn hiện tại hệ số beta có thể được sử dụng như một chỉ
báo trong phân tích kỹ thuật, theo đó khi beta bắt đầu vượt qua mốc
1, ta sẽ quan sát chỉ số VN-Index, nếu nó có dấu hiệu tăng lên thì sẽ
là thời điểm nên mua vào, vì giá chứng khoán sẽ gia tăng theo sự gia
tăng của chỉ số. ngược lại nếu chỉ số giảm thì nên bán ra vì giá chứng
khoán sẽ giảm theo sự giảm của chỉ số.( hệ số beta của các công ty,
các ngành có thể tham khảo tại webside: www.cophieu68.com)
3.4. Mô hình CAMP:
Đây là một mô hình mô tả mối tương quan giữa rủi ro và thu
nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các chứng khoán có mức độ
rủi ro cao.
Công thức tính toán như sau:
Giá trị chứng khoán = Tỷ lệ phi rủi ro + Tỷ lệ rủi ro của CK x (Thu
nhập kỳ vọng - Tỷ lệ phi rủi ro)
Trong đó:
* Risk free rate (rf): tỉ lệ phi rủi ro
* Beta of the security: tỉ lệ rủi ro của chứng khoán
* Expected market return (rm): thu nhập kì vọng.
Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà
đầu tư khi tiến hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì
cũng được bù đắp lại theo hai cách: giá trị tiền tệ theo thời gian và
rủi ro.
Giá trị tiền tệ theo thời gian thể hiện thông qua tỉ lệ phi rủi ro
(rf) trong công thức và khi dùng tiền để đầu tư vào bất cứ hoạt động
nào thì nhà đầu tư sẽ được hưởng sự bù đắp này. Phần còn lại trong
công thức thể hiện tỉ lệ rủi ro và tính toán các khoản khác mà nhà
đầu tư được hưởng vì đã chấp nhận một tỉ lệ rủi ro cao hơn. Khoản
bù đắp này được tính toán thông qua tỉ lệ rủi ro (beta) được sử dụng
để so sánh thu nhập từ tài sản so với thu nhập thị trường kì vọng qua
một khoảng thời gian (expected market return over a period of time)
và với mức đền bù rủi ro thị trường (market premium)_(Rm-rf).
Mô hình định giá tài sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng
của một loại chứng khoán hay danh mục đầu tư sẽ ngang bằng với
mức trên các chứng khoán phi rủi ro cộng thêm khoản lợi tức bù rủi
ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không đạt mức thu nhập tối thiểu yêu
cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến hành đầu tư. Các đường SML
của thị trường chứng khoán sẽ thể hiện kết quả của CAPM đối với
các mức rủi ro khác nhau (betas).
Sử dụng mô hình CAPM cùng các giả định, chúng ta có thể ước
tính được thu nhập kì vọng trên một cổ phiếu.Ví dụ: giả sử rằng tỉ lệ
phi rủi ro là 3%, tỉ lệ rủi ro là 2%, thu nhập thị trường kì vọng qua
thời gian là 10%, khi đó thu nhập kì vọng trên cổ phiếu là (3%
+2(10%-3%)) = 17%
Trên đây là một vài phương pháp định lượng để đánh giá mức
độ của rủi ro khi nhà đầu tư tham gia đầu tư chứng khoán, tất nhiên
ngoài những phương pháp trên để xác định mức độ rủi ro khi tham
gia đầu tư chứng khoán nhất là với cổ phiếu, các nhà đầu tư chuyên
nghiệp, có chuyên môn, kiến thức luôn xem xét rất nhiều chỉ số, rất
nhiều thông tin như các chỉ tiêu về ROA, ROE, P/E, EPS…Mục đích
tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty có cổ phiếu phát hành, từ
đó giảm thiểu rủi ro khi quyết định đầu tư chứng khoán.
Tuy nhiên với những nghiên cứu thực nghiệm, cho thấy rủi ro
của một danh mục phải nhỏ hơn bình quân rủi ro theo tỷ trọng của
từng cổ phiếu, chứ không phải là một dấu bằng giữa hai vế. Để giải
thích điểm khác biệt này, ta xem lại công thức tính phương sai của
một danh mục - bao gồm hai cổ phiếu A và B - như sau:
Trong công thức (2), phương sai của một danh mục bằng bình
quân rủi ro theo tỷ trọng của từng cổ phiếu trừ cho một phần rủi ro
được giảm thiểu. Đó chính là lợi ích của đa dạng hoá. Khái quát danh
mục ban đầu lên thành danh mục thị trường, thỉ phần lợi ích của đa
dạng hoá được viết thành công thức như sau:
Như vậy nguyên nhân của việc giảm thiểu rủi ro khi đa dạng
hoá chính là sự tác động qua lại giữa các chứng khoán. Hay nói cách
khác đó là mức độ tương quan giữa các chứng khoán (ri,j). hệ số này
mang giá trị trong khoảng (-1;1), do đó lợi ích từ đa dạng hoá luôn luôn
là một số dương và khi tương quan giữa các chứng khoán càng nhỏ thì
lợi ích của đa dạng hoá càng cao.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 10 năm thành lập và phát triển, giờ đây nói
đến đầu tư chứng khoán đã không còn là thuật ngữ quá mới mẻ đối với
các nhà đầu tư cũng như những người làm trong lĩnh vực kinh tế tại
Việt Nam, thị trường chứng khoán Việt tuy còn ở giai đoạn sơ khai, là
một thị trường trẻ nhưng đã có những dấu ấn của riêng mình trên
trường quốc tế, được đánh giá là một trong hai thị trường mới sôi động
nhất thế giới. Đến với đầu tư chứng khoán không chỉ đơn thuần đem lại
cho nhà đầu tư khả năng thu được những lợi nhuận “ trong mơ” mà
bên cạnh đó giúp nhà đầu tư sử dụng nguồn vốn của mình một cách
hiệu quả nhất. “ Lợi ích nhiều thì rủi ro lớn” bên cạnh các khoản lợi
nhuận mà nhà đầu tư có thể được nhận thì nhà đầu tư cũng phải đối
mặt với rất nhiều những rủi ro mà nguyên nhân có thể là do khách
quan hoặc chủ quan mang lại. Đề tài nghiên cứu: “ Phương pháp giảm
thiểu rủi ro trong đầu tư chứng khoán” được nhóm em làm với mục
đích đưa ra cái nhìn khách quan nhất, chân thực nhất về việc nhận định
rủi ro và đưa ra một số ý kiến đề xuất để giảm thiểu những rủi ro đó. Đề
tài được nghiên cứu dựa vào nhận thức chủ quan của cá nhân do đó
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong đây sẽ là đề tài bổ ích
với những ai có niềm đam mê với việc đầu tư chứng khoán.