You are on page 1of 6

Các đề xuất để phát triển thị trường chứng khoán

Qua 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã ngày càng đóng vai trò quan
trọng cho nền kinh tế thông qua việc huy động vốn từ nhà đầu tư trong và ngoài
nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và quản trị công ty của doanh nghiệp,
đóng góp tích cực cho công tác cổ phần hóa….

Hiện tại, quy mô TTCK Việt Nam rất nhỏ và yếu ớt, nguyên nhân chủ yếu là
tại Việt Nam đầu cơ nhiều hơn đầu tư. Hơn nữa, lãi suất ở Việt Nam thuộc hạng
cao nhất thế giới, trong khi niềm tin của dân chúng vào đồng nội tệ quá yếu, khiến
chi phí đầu vào của hầu hết các ngành bị đẩy lên rất cao. Ngoài ra, ở Việt Nam,
tình trạng bội chi ngân sách gia tăng, trong khi chúng ta lại thiếu sự giám sát dòng
chảy đồng tiền, khiến hiệu quả đầu tư rất thấp.

Vì thế để cho TTCK phát triển ổn định, cần tìm biện pháp để ổn định kinh tế vĩ
mô, nâng cao nội lực của nền kinh tế. Cụ thể, cần tinh giảm biên chế, thắt chặt chi
tiêu công, hạn chế đầu tư dàn trải, kém hiệu quả để giảm bội chi ngân sách; minh
bạch hóa thị trường bất động sản; giảm lãi suất để giảm chi phí đầu vào cho DN và
bơm vốn vào sản xuất - kinh doanh. Có như vậy mới nâng cao được năng lực cạnh
tranh của các DN trong nước, giúp nhà đầu tư yên tâm và ổn định tâm lý khi bỏ
vốn tham gia TTCK.

1.1. Nhóm giải pháp kinh tế vĩ mô

Một trong những chính sách tác động mạnh đến TTCK đó là chính sách tài khóa
(CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT). Đối với CSTT, trong đó đặc biệt nhấn mạnh
việc điều hành CSTT. Với việc điều hành CSTT theo hướng nới lỏng hoặc thắt
chặt đều tác động không nhỏ đến tính thanh khoản trên TTCK. Chỉ với một biện
pháp của Ngân hàng Nhà nước nhằm chấn chỉnh công tác tín dụng của hệ thống
ngân hàng, ngay lập tức khối lượng cổ phiếu giao dịch cả hai sàn và giá cả của
chúng đều giảm mạnh.TTCK về bản chất có sự liên hệ mật thiết với thị trường tiền
tệ, với thị trường bất động sản và các ngành kinh tế khác, cùng với các chính sách
vĩ mô của Nhà nước.Vì vậy việc đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp là việc
rất cần thiết để phát triển thị trường chứng khoán.

Phối hợp CSTT với CSTK trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt
Nam. Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định tiền tệ, còn mục tiêu của CSTK là
đạt đến một chính sách ngân sách minh bạch, tạo sự ổn định sản lượng, cải thiện
phân bổ nguồn lực và kiểm soát ảnh hưởng của phân phối. Hai chính sách này có
mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn nhau và tác động đến nền kinh tế và hệ thống
thị trường tài chính. Nếu quản lý tài khoá yếu kém, sẽ tăng kỳ vọng lạm phát, có
thể làm tăng lãi suất và cung tiền, điều này ảnh hưởng lớn đến việc vay nợ của
Chính phủ trên TTCK. Ngược lại, lạm phát và lãi suất tăng cao, không những làm
giảm nguồn thu cho Chính phủ, mà còn làm cho giá chứng khoán biến động mạnh
theo xu hướng giảm, làm nản lòng nhà đầu tư trên thị trường do tính thanh khoản
của thị trường bị ảnh hưởng. Vì vậy rất cần một sự nhận thức đúng và đầy đủ về
mối quan hệ giữa hai chính sách, nhằm tăng cường sự kết nối và giảm sung đột
giữa chúng để cùng đạt được mục tiêu đặt ra.

- Về vấn đề lãi suất: Có các giải pháp xử lý cung cầu về vốn nhằm làm cho lãi suất
ổn định lại, không để lãi suất tăng cao hơn. Lãi suất tăng cao cũng tác động đến
lạm phát (chi phí đẩy), đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng (kinh nghiệm
khủng hoảng tài chính châu Á cho thấy nếu lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến chỉ có các
tín dụng rủi ro mới tiếp cận được) làm giá chứng khoán giảm và làm cho di chuyển
tiền tệ giữa các khối kinh doanh trở nên phức tạp, khó kiểm soát hơn.

- Xử lý vấn đề thanh khoản của các NHTM để đảm bảo an toàn cho ngân hàng kết
hợp với xử lý vấn đề nợ đọng cho vay chứng khoán và bất động sản trong các
NHTM để tránh đổ vỡ cả hệ thống ngân hàng.

 - NHNN rà soát lại tổng mức vay tiền gửi ngoại tệ và nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ;
kết hợp với Bộ Tài chính rà soát lại tổng mức đầu tư gián tiếp nước ngoài. Trên cơ
sở tổng mức dự trữ ngoại hối, có sự đánh giá lại khả năng chống đỡ của nền kinh tế
nếu có sự đảo chiều.

- NHNN xem xét cơ chế báo cáo giao dịch đối với nhà ĐTNN mua cổ phần trong
các NHTM dưới mức 5% thay cho cơ chế xin phép NHNN, đặc biệt là các NHTM
tham gia vào hệ thống giao dịch cổ phiếu đại chúng trên TTGDCK Hà Nội, vì thực
chất cơ chế giám sát này gần như cơ chế giám sát của các ngân hàng đã niêm yết
trên SGDCK/TTGDCK.

1.2. Các giải pháp trên TTCK :

Ta phải chú ý thực hiện đồng bộ các biện pháp để sự phát triển bền vững,
ổn định TTCK Việt Nam tránh tình trạng phát triển ảo quá nóng năm 2007 tại
TTCK VN tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư và cả nền kinh tế.

Thứ nhất, Tiếp tục tái cấu trúc TTCK một cách sâu, rộng theo hướng minh
bạch, đồng bộ và thống nhất phù hợp với chuẩn mực quốc tế. (Nguyên tắc tái cấu
trúc phải đảm bảo sự ổn định của hệ thống, theo đó xây dựng và vận hành có hiệu
quả hệ thống thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, TTCK, thị trường tín dụng,
TTTP Chính phủ…), thực hiện các chuẩn mực tốt nhất trong quản trị công ty,
chuẩn mực kế toán và công bố thông tin.)

Thực hiện trên cơ sở chuyển đổi mô hình của các TTGDCK, SGDCK,
TTLKCK sang mô hình doanh nghiệp để tăng cường tính độc lập, tự chủ tài chính.
Tổ chức triển khai thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm
yết theo mô hình thị trường OTC; Xây dựng thị trường TPCP chuyên biệt, tập
trung tại TTGDCK Hà Nội theo cơ chế giao dịch từ xa và có sự tham gia tích cực
của các tổ chức kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp (NHTM; tổ chức bảo hiểm...).
Ngoài ra cũng nên:

- Phân định rõ từng thị trường để quản lý chúng: thị trường cổ phiếu: nơi niêm yết
cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn; thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ; thị
trường UpCoM; thị trường OTC; thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ phái
sinh. Hoàn thiện thị trường giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết
(UpCoM) để khắc phục ngay những quan ngại về tính thanh khoản của thị trường
này.

- Thực hiện chuyển đổi sở hữu của SGDCK và Trung tâm lưu ký chứng khoán từ
Công ty TNHH Nhà nước một thành viên sang công ty cổ phần, trong đó Nhà nước
vẫn nắm giữ cổ phần chi phối (trên 51%). Cho phép đại diện Công ty chứng khoán
(CTCK), Tổ chức niêm yết, một số chuyên gia kinh tế tham gia vào Hội đồng quản
trị của SGDCK. Khi đó SGDCK là công ty cổ phần đại chúng, hoạt động sẽ năng
động và minh bạch vì mục tiêu phát triển lành mạnh của TTCK.

- Đối với các CTCK cũng cần thực hiện tái cấu trúc theo hướng nâng cao yêu cầu
về vốn điều lệ tối thiểu, yêu cầu về cơ sở vật chất, năng lực quản trị công ty và
nguồn nhân lực, song song với việc thực hiện sát nhập, mua lại… để giảm bớt về
số lượng CTCK, hướng một số CTCK lớn phát triển thành Tập đoàn, cũng như các
nhà tạo lập thị trường. Hiện nay trên TTCK Việt Nam có 105 CTCK, xét về thị
phần môi giới cổ phiếu cho khối nhà đầu tư nước ngoài, thì 10 CTCK đứng đầu đã
chiếm tới 95,18%, nếu xét thị phần môi giới cho khối nhà đầu tư trong nước, thì 10
CTCK đứng đầu đã chiếm 48,18%(6). Như vậy rõ ràng thị phần cho 95 CTCK còn
lại là quá nhỏ, trong đó có một số công ty vốn điều lệ rất thấp, hiệu quả kinh doanh
chủ yếu là hoạt động tự doanh. Vì vậy, để thị trường hoạt động có hiệu quả cũng
rất cần sắp xếp các CTCK có qui mô quá nhỏ, năng lực tài chính yếu này.

- Phát triển một số tổ chức tạo lập thị trường. Ở một số nước, nhà tạo lập thị trường
thường là các NHTM, CTCK, công ty bảo hiểm, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí, công ty tài
chính… Đây là những tổ chức có năng lực tài chính mạnh, kinh doanh chuyên
nghiệp, có khả năng liên kết cao. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, không phải tất cả
các tổ chức đều có thể trở thành nhà tạo lập thị trường. Vì vậy, trước mắt lựa chọn
một số NHTM, CTCK lớn đáp ứng các điều kiện qui định thực hiện chức năng nhà
tạo lập thị trường. Sự năng động và minh bạch của thị trường phụ thuộc không nhỏ
vào hoạt động của các nhà tạo lập thị trường.

Thứ hai, tạo hàng hoá có chất lượng tốt cho thị trường.

Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá để tạo hàng hoá có chất lượng cao cho TTCK. Tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (trong và ngoài nước) mua cổ phiếu của
các doanh nghiệp Việt Nam theo phương thức thoả thuận, hoặc đấu giá giữa các
nhà đầu tư chiến lược với nhau, để cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất
lượng quản trị doanh nghiệp. Thực tế tại một số NHTM cổ phần đã có yếu tố nước
ngoài cho thấy, khi có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ 20%, các
NHTM Việt nam đã nhanh chóng xoá đi những yếu kém về năng lực tài chính,
trình độ công nghệ, cùng chia sẻ vì lợi ích của cả hai bên. Vì vậy, để cải thiện một
bước về năng lực tài chính của các NHTM cũng như các doanh nghiệp sau cổ phần
hóa, để tăng tính hấp dẫn về cổ phiếu của các loại hình doanh nghiệp này, trong đó
có cổ phiếu của các NHTM, Chính phủ có thể đưa mức sở hữu của các tổ chức
nước ngoài đối với các NHTM tối đa lên 30%.

Thứ ba, Xử lý cầu Đầu Tư Nước Ngoài:

Giữ tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam như hiện nay (49%).
Tuy nhiên, cần nghiên cứu tháo gỡ các thủ tục hành chính (ví dụ như tháo gỡ quy
định các ngân hàng nước ngoài mua cổ phiếu các NHTM chưa niêm yết phải xin
phép NHNN) để tạo ra sức cầu đối với khối các ngân hàng, từ đó tác động chung
đến tâm lý thị trường.

Thứ tư, Điều chỉnh biên độ giá cổ phiếu: xem xét điều chỉnh biên độ hợp lý để cải
thiện tính thanh khoản nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định của thị trường, tránh gây
sốc. Trong điều kiện kinh tế vĩ mô còn khó khăn, tâm lý và lòng tin nhà đầu tư
chưa cao, thì việc mở biên độ sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy việc điều chỉnh
biên độ cần dựa trên diễn biến của thị trường và theo hướng nới lỏng dần.

Thứ năm, Xây dựng cơ chế can thiệp thị trường từ SCIC để phát huy hiệu quả,
giải pháp này mang tính hỗ trợ và không nên coi là biện pháp bình ổn thị trường.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu xem xét thành lập Quỹ bình ổn thị trường với sự tham
gia của Nhà nước và các thành viên thị trường.
Thứ sáu, Đẩy mạnh việc kiểm tra, thanh tra để xử lý các vi phạm trên thị trường,
đặc biệt là các vi phạm về chào bán chứng khoán ra công chúng; vi phạm về công
bố thông tin,rò rỉ thông tin và các vi phạm liên quan đến giao dịch thao túng thị
trường.

Sự rò rỉ thông tin bất luận từ khâu nào đều được coi là tệ hại và nguyên nhân cơ
bản để tin đồn có “đất” lộng hành chính từ sự rò rỉ thông tin. Vậy, có khắc phục
được tình trạng này không? Đây là việc làm không đơn giản, nhưng không phải
không hạn chế được vấn nạn này, cần thực hiện đồng loạt các bp nhỏ sau:

+Rà soát lại thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin và áp
dụng thống nhất cho việc công bố thông tin trên thị trường; tăng cường kiểm tra,
giám sát, xử lý nghiêm khắc việc công bố thông tin chậm, công bố thông tin không
chính xác, để rò rỉ thông tin bất luận là tổ chức hay cá nhân.

+xử lý nghiêm khắc các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng phương tiện
truyền thông (báo, chí, trang tin…) đưa thông tin sai lệch, hoặc làm méo mó tin,
hoặc thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc.

+tiếp tục yêu cầu các công ty đại chúng đăng ký trên thị trường UpCoM bằng các
quy định và chế tài cụ thể (đối với các công ty chưa thực hiện đăng ký khi có đủ
điều kiện)

+Về phía cơ quan quản lý nhà nước cần có thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc
điều hành các chính sách kinh tế – tài chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi
người dân biết, hiểu đúng và chấp hành nghiêm túc

+Thu hẹp hoạt động của thị trường tự do bằng cách yêu cầu các công ty đại chúng
giao dịch trên thị trường tự do phải tuân thủ các yêu cầu về kiểm toán, công bố
thông tin, quản trị công ty như các doanh nghiệp đã niêm yết. Điều này vừa giúp
giảm thiểu rủi ro trong thanh toán, vừa làm cho các giao dịch này được công khai,
dễ kiểm soát, từng bước thu hút vào thị trường có tổ chức.

Thứ bẩy, hoàn thiện các văn bản pháp lý, cơ chế chính sách cho sự phát triển của
TTCK. Xem xét sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán theo hướng mở rộng phạm vi
điều chỉnh của luật cho phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế; ban hành các
văn bản hướng dẫn về một số nghiệp vụ chứng khoán như giao dịch bán khống,
vay và cho vay chứng khoán, giao dịch phái sinh; giao dịch chuyển nhượng của cổ
đông sáng lập…Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, cầu tiêu dùng trong dân cư
giảm mạnh, đi đôi với gói giải pháp kích cầu trung và dài hạn đến năm 2011, cần
xem xét chính sách thuế để đảm bảo sự phát triển bền vững của TTCK.
THAM KHẢO:

www.SAGA.vn Tạp chí Chứng khoán (15/07/2008)

http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/09/091207.html

http://www.tapchiketoan.com/tin-tuc/tin-tuc-chung-khoan/de-thi-truong-chung-
khoan-phat-trien-ben.html
http://vietbao.vn/Kinh-te/Dinh-huong-phat-trien-TTCK-giai-doan-
20102020/55264450/91/

You might also like