You are on page 1of 2

Thiết bị đo khoảng cách

Thiết bị đo khoảng cách (DME) là một bộ tách sóng dựa vào kỹ thuật định vị vô
tuyến, kỹ thuật này đo khoảng cách bằng cách đo thời gian trễ khi truyền các tín hiệu
VHF hoặc là UHF.
Được phát triển tại Úc, nó được phát minh bởi Edward George “Taffy”Bowen
trong khi được thuê như trưởng ban vật lý vô tuyến của tổ chức nghiên cứu công nghiệp
và khoa học liên ban (thuộc khối thịnh vượng chung) (CSIRO). Một phiên bản kỹ thuật
khác của hệ thống này được phát triển bởi AWAL (“hữu hạn Úc hợp nhất không dây”)
vào đầu những năm 1950, hoạt động trên dải tần 200MHz VHF. Phiên bản nội địa trong
nước Úc này được cho là do cục liên bang về hàng không dân dụng như là DME(D) (hay
là DME nội địa) và phiên bản quốc tế sau đó được “sử dụng” bởi ICAO như là DME(i).
DME tương tự như một rada thứ cấp ngoại trừ việc hoạt động thì ngược lại. Hệ
thống này là sự phát triển sau chiến tranh(hậu chiến) của hệ thống IFF(HT xác định bạn
hay kẻ thù) trong chiến tranh TG thứ II. Để duy trì sự tương thích DME được xác định có
chức năng giống với bộ phận đo khoảng cách của TACAN.
Hoạt động:
Các máy bay sử dụng DME để xác định khoảng cách của chúng tới bộ tách sóng
ở trên đất liền bằng cách gửi và nhận các cặp xung -2 xung riêng biệt và có khoảng thời
gian xác định. Các trạm mặt đất được đồng vị trí điển hình với VORs. Một hệ thống tách
sóng mặt đất DEM điển hình dùng cho sự xác định một vật đứng yên hay đang bay sẽ có
một đỉnh xung tín hiệu nối ra là 1KW trên kênh UHF xác định.
Một DME công suất thấp cũng có thể đồng vị trí với ILS GLIDE SLOPE nơi mà
nó cung cấp chức năng xác định khoảng cách chính xác, tương tự như vậy được cung cấp
bởi ILS Marker Beacons.
Phần cứng:
Hệ thống DME bao gồm một máy phát/nhận UHF (bộ thẩm tra) trên máy bay và
một bộ nhận và phát UHF (bộ phát đáp) trên mặt đất.
Định thời:
Thời gian máy bay kiểm tra bộ tách sóng mặt đất bằng một chuỗi các cặp xung
(các tín hiệu hỏi) và sau một khoảng thời gian trễ chính xác (thường là 50µs) trạm mặt
đất trả lời bằng một chuỗi đồng nhất những cặp xung phản hồi. Máy thu DME trên máy
bay tìm kiếm các cặp xung bằng khoảng thời gian chính xác giữa chúng(X mode=
khoảng cách 12 µs), khoảng thời gian này được xác định do hình dạng tín hiệu hỏi đặc
biệt của từng máy bay riêng biệt. Bộ thẩm tra máy bay khóa với các trạm DME mặt đất
khi nó hiểu rằng dãy xung đặc biệt là dãy kiểm tra mà nó đã gửi ban đầu. khi bộ nhận bị
khóa lại nó có một cửa sổ thời gian hẹp hơn mà ở đó nó tìm kiểm những âm vọng và có
thể tiếp tục khóa.
Tính toán khoảng cách:
Một xung vô tuyến mất khoảng 12.36µs để đi hết một hải lý và phản xạ trở lại,
điều đó cũng được gọi như một radar dặm. Thời gian khác chênh lệch giữa tín hiệu hỏi và
trả lời 1 hải lý trừ đi 50µs bộ tách sóng mặt đất trễ được đo bằng thời gian của mạch tín
hiệu hỏi và được dịch sang một phép đo khoảng cách giữ các hải lý, mà sau đó sẽ hiển thị
trên buồng lái.
Công thức khoảng cách, khoảng cách = vận tôc x thời gian, nó được sử dụng ở
maysthu DME để tính toán khoảng cách đến trạm DME mặt đất. Vận tốc trong tính toán
tỷ lệ với các xung vô tuyến. Đó là tốc độ ánh sáng(3x108m/s hoặc 186mi/s). Thời gian
tính toán là(tổng cộng thời gian – 50s)/2.
Đặc tính kỹ thuật:
Một bộ phát đáp điển hình co thể cung cấp thông tin khoảng cách đến 100 máy
bay trong cùng một khoảng thời gian. Trên giới hạn này bộ phát đáp tránh việc quá tải
bằng việc giới hạn độ lợi của máy thu. Để trả lời tín hiệu hỏi yếu hơn, xa hơn thì bộ phát
đáp được bở qua để giảm tải. DME có thể được sử dụng bởi 300 người sử dụng cùng lúc.
Điều kiện kỹ thuaath của trạm DME khi nó quá tải và ko thể tiếp nhận nhiều hơn 100
máy bay thì được gọi là trạm bão hòa.
Tần số vô tuyến và dữ liệu điều chế:
Các tần số DME được kết cặp với các tần số trong vùng đẳng hướng VHF và một
bộ thẩm tra DME được thiết kể để tự động chuyển thành tần số DME tương ứng khi tần
số VOR tương ứng được lựa chọn. Một bộ thẩm tra DME trên máy bay sd các tần sớ từ
1025 đến 1150 MHZ. Bộ tách sóng DME phát trên 1 kênh trong phạm vi 962 đến 1150
MHZ và nhận trên 1 kênh tương úng giữa 962 đến 1213 MHz băng thông được chia
thành 126 kênh cho bộ thẩm tra và cho bộ trả lời. tần số trả lời và tần số thẩmm tra luôn
khác nhau là 63 MHz. Khoảng cách của tất cả các kênh này là 1 MHz với độ rộng của
phổ tín hiệu là 100KHz.
Các tài liệu tham khảo kỹ thuật với kênh x và y chỉ liên quan tới khoảng cách của
cách xung đơn trong cặp xung DME khoảng cách 12 Mcs với kênh x và 30µs với kênh y.
Các thiết bị DME tự xác định với một mã 1350 Hz ba ký tự xác định. Nếu được sắp xếp
với một VOR hoặc IRF nó sẽ có mã xác định giống như(facility) khả năng chủ. Ngaoif ra
bộ DME sẽ tự xác định nói giữa những bộ DME của …. Bộ xác đinh DME có 1350 Hz
để phân biệt nó với tong 1020 hz của VOR hoặc bộ định vị ILS.
Độ chính xác:
Độ chính xác của trạm mặt đất DME là 185 m việc hiểu rằng DME cũng cấp khoảng cách
thực từ máy bay đến bộ tách sóng DME là rất quan trong. Khoảng cách này thường được
gọi như vùng xiên và phụ thuộc dạng tam giác vào độ cao thẳng đứng với bộ tách sóng và
khoảng cách trên mặt đất tới nó.
Cho ví dụ một máy bay ở ngay trên trạm DME tại độ cao 6000ft sẽ vẫn chỉ 1,9Km trên
nối ra DME. Máy bay cách xa chính xác 1 dặm theo phương thẳng đứng. Sai số xùng
xiên hầu như phát ra tại các độ cao khi đóng trạm DME.
Những hỗ trợ định vị vô tuyến phải giữ độ chính xác xác định được quy ước bởi các tiêu
chuẩn quốc tế, FAA, ICAO, … Để đảm bảo trong trường hợp …, các tổ chức kiểm tra
máy bay kiểm tra định kỳ các thông số với những máy bay được trang bị chính xác để
hiệu chỉnh và chứng nhận độ chính xác của DME.
Thiết bị đầu cuối:
Thiết bị đầu cuối được coi như một TDME trong bản đồ hàng hải, là một DME
được thiết kế để cung cấp để đọc tại một điểm đỗ trên đường băng, bất kể vị trí vật lý của
thiết bị. Nó thường kết hợp với ILS hoặc dụng cụ đến gần khác.
Tương lai:
DME sẽ tiếp tục hoạt động và có thể mở rộng như một hệ thống sao lưu trong không gian
dựa tren các hệ thống định vị như GPS và Galieo.

You might also like