You are on page 1of 20

Quản trị rủi ro của nhà đầu tư cá nhân trong đầu tư chứng khoán

Giới thiệu:
Lời mở đầu:

Xã hội hiện nay đang ngày càng phát triển,mọi người đã có “của ăn của để”,và họ nảy
sinh tâm lý muốn cho “ của để” ngay càng sinh sôi,họ đầu tư vào rất nhiều các lĩnh vực
nhằm thu lợi nhuân như : bất động sản,tài chính,kinh doanh các dịch vụ,hàng hóa… trong
đó phải kể tới thị trường chứng khoán,đây được coi như sân chơi của 1 thế hệ hiện đại,1
nền kinh tế tri thức.

Tới với sân chơi này,có rất nhiều đối tượng tham gia,nhưng cơ bản,bao gồm nhà đầu tư
cá nhân,và tổ chức. Trong bài tiểu luận này chúng tôi nhắm tới đối tượng nhà đầu tư cá
nhân,vì họ chiếm tỉ trọng đầu tư khá lớn trong thị trường chứng khoán,song song với quá
trình đầu tư là những rủi ro đến từ nhiều phía. Cõ lẽ rủi ro lớn nhất chính là trình độ
chuyên môn về chứng khoán,về tài chính va các lĩnh vực có liên quan. Điều này thì
không thể phủ nhận được,nếu 1 người không có 1 chút kiến thức gì về chứng khoán thì
xác suất thất bại là rất cao, rủi ro là rất lớn. Điều này thật không khó để suy đoán. Chúng
tôi có đọc 1 bài viết của tác giả Văn Nam trên báo chungkhoan24 về trình độ của nhà đầu
tư Việt Nam

Theo tác giả :

Giai đoạn 2000-2005: đây tạm coi là giai đoạn hình thành thị trường chứng khoán,với sự
góp mặt của dân có kiến thức về tài chính,tuy nhiên số lượng ít,chỉ khoảng hơn 20.000 tài
khoản cá nhân.

Từ giai đoạn 2005 tới nay : tạm gọi là giai đoạn khởi động của thị trường chứng
khoán,với sự tham gia của tầng lớp trẻ và “ lướt sóng” nhiều hơn. Trong những đối tượng
này, số lượng người có kiến thức về tài chính thì nhiều hơn, trẻ hơn, nhưng lại ít kinh
nghiệm hơn, bồng bột, hiếu thắng hơn. Hơn nữa họ tham gia vào đúng lúc thời điểm thị
trường đang trên đà tăng trưởng mạnh, nên 1 số lớn đã thành công nhờ sự may mắn. Hầu
hết sự đầu tư của họ mang tính “cờ bạc”,họ thích “lướt sóng” và nó cũng tăng lên theo sự
tự tin. Số nhà đầu tư còn lại thi đầu tư theo cảm tính,hay “ai bảo gì mua nấy”.

Với trình độ như vậy thì khi tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán,họ sẽ gặp rất
nhiều rủi ro. Những rủi ro này, tự họ có thể kiểm soát được bằng cách tự bồi dưỡng cho
mình những kiến thức chuyên môn cần thiết,tham dự những khóa học phân tích chứng
khoán…

Thế nên điều chúng tôi quan tâm là : những rủi ro tới từ bên ngoài mà họ không thể kiểm
soát được. Làm sao để quản trị nó???...
Bài tiểu luận của chúng tôi hi vọng sẽ đem lại cho nhà đầu tư cá nhân những cái nhìn
đầy đủ hơn về những “góc khuất” trên “sân chơi” thị trường chứng khoán,và đề tài cũng
là 1 công cụ đắc lực để nhà đầu tư quản trị tốt rủi ro và mạnh dạn đầu tư hơn nữa với sự
thành công rực rỡ.

Bố cục: 3 phần

1. Cơ sở lý luận

2. Cơ sở thực tế (thực trạng)

3. Giải pháp và kiến nghị

Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các tài liệu thu thập được từ Internet,sách báo,giáo
trình,các đề tài đã từng nghiên cứu,từ đó đúc rút ra những quan điểm riêng của nhóm.

Phạm vi nghiên cứu :

- Thời gian: từ 2005-nay

- Địa điểm : thị trường chứng khoán Việt Nam

- Nội dung: rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Đối tượng nghiên cứu: nhà đầu tư cá nhân

Cơ sở lý luận:

Cơ sở lý thuyết:

1.1. Chứng khoán và đầu tư chứng khoán

1.1.1. Chứng khoán là gì:


Chứng khoán: là hàng hoá trên thị trường chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu và một số loại khác như quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp đồng
quyền lựa chọn, chứng chỉ quỹ đầu tư.
- Cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng từ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Khi sở hữu cổ
phiếu, bạn sẽ trở thành cổ đông của công ty đó.

- Trái phiếu : Là một loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc
và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu, đảm bảo một
sự chi trả lợi tức định kỳ hoặc hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm
đáo hạn. Khi mua trái phiếu, bạn trở thành chủ nợ của tổ chức phát hành – còn gọi là
bên vay (có thể là chính phủ, chính quyền địa phương hoặc các công ty).

1.1.2. Đầu tư chứng khoán

1.1.2.1 Khái niệm : Đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính. Trong
hoạt động này, NĐT bỏ tiền để mua chứng khoán (bao gồm cổ phiếu, trái phiếu…).
Giá trị của chứng khoán phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền được bao
hàm trong mỗi loại chứng khoán, hay phụ thuộc vào năng lực tài chính của nhà phát
hành. Đồng thời, giá chứng khoán phụ thuộc vào quan hệ cung cầu chứng khoán trên
thị trường. Đầu tư chứng khoán giúp NĐT có thể thu được lợi nhuận từ phần lợi tức
được chia và phần tăng giá chứng khoán trên thị trường. Mặt khác, NĐT có thể được
hưởng quyền quản lý, quyền kiểm soát doanh nghiệp từ việc nắm giữ cổ phiếu.

1.1.2.2 Các hình thức đầu tư CK : theo mục đích đầu tư, hoạt động đầu tư có 4
loại là Đầu tư ngân quỹ; Đầu tư hưởng lợi; Đầu tư phòng vệ; và Đầu tư nắm quyền
kiểm soát.

Đầu tư ngân quỹ


Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi các tổ chức kinh tế và NĐT
lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự trữ, các tổ chức
kinh tế và NĐT lớn thường phải nắm giữ một lượng tiền khá lớn. Tuy nhiên, tiền
không phải là tài sản sinh lời, nên các đối tượng này thường có xu hướng tăng cường
đầu tư vào các tài sản sinh lời, giảm dự trữ tiền, do vậy tiềm ẩn khả năng phá sản lớn
do khả năng thanh toán kém. Để khắc phục điều này, các nhà quản trị tài chính thường
đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền như tín
phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng… Bên cạnh khả năng sinh lời, các chứng khoán
này có vai trò như là các dự trữ thứ cấp khi nhu cầu thanh toán chi trả phát sinh.

Đầu tư hưởng lợi


Khác với đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán, hoạt động đầu tư hưởng
lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư có thể có được từ lợi tức,
từ tài sản đầu tư như cổ tức hàng năm, hay từ lợi tức của trái phiếu. Bên cạnh đó, NĐT
có thể thu được chênh lệch giá chứng khoán và các quyền lợi khác nếu có. Hoạt động
đầu tư hưởng lợi gồm kinh doanh chênh lệch giá, hoạt động đầu cơ, kinh doanh giảm
giá, tạo lập thị trường.

Đầu tư phòng vệ
Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn, song cũng hàm chứa rủi ro rất
cao. Vì vậy, công cụ phòng vệ xuất hiện ngày càng nhiều nhằm giúp NĐT phòng tránh
rủi ro, như: hợp đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…, các công cụ
này được sử dụng cho cả nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá, nghiệp vụ đầu tư và
nghiệp vụ phòng vệ.

Đầu tư nắm quyền kiểm soát


Cổ phiếu cho phép chủ sở hữu có quyền kiểm soát công ty phát hành thông qua quyền
nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHCĐ. Số lượng cổ phiếu nắm giữ
thường quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của NĐT. Một số NĐT lớn, thường
là NĐT tổ chức như doanh nghiệp hoặc ngân hàng lớn thường thực hiện hoạt động đầu
tư nắm quyền kiểm soát.
Một hình thái khác của đầu tư nắm quyền kiểm soát phát triển trong những năm gần
đây là hoạt động đầu tư mạo hiểm. Một số tổ chức đầu tư lớn tìm kiếm cơ hội đầu tư
từ các công ty chưa phát triển, đặc biệt yếu kém về công nghệ quản lý. Thông qua nắm
quyền kiểm soát, họ thực hiện tái cấu trúc công ty, thay đổi quản lý, công nghệ, từ đó
nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện hình ảnh trong công chúng đầu tư và sẽ thực
hiện bán cổ phiếu trên thị trường tập trung hoặc thị trường OTC khi cổ phiếu tăng giá.

1.2.2. Phân loại rủi ro chứng khoán


1.2.2.1. Rủi ro hệ thống
Ảnh hưởng đến giá của tất cả các loại chứng khoán. Những thay đổi về kinh tế, chính trị,
xã hội và những yếu tố tạo ra rủi ro hệ thống.

Rủi ro thị trường

Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập
của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thế rất khác nhau nhưng phụ
thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay
về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi trong mức sinh lời đối với phần lớn
các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và
gọi là rủi ro thị trường.

Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với những sự
kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các
công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị
giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như
các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.

Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị
trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng
của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sự sút giảm
đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng
rút vốn. Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ
rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.

Chúng ta đã nói nhiều về tác động tiêu cực, tuy nhiên vẫn có thể có hiệu tượng mua vào
rất nhiều khi có những sự kiện bất thường xẩy ra, lúc đó giá cả chứng khoán sẽ tăng lên.

Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong
tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung.

Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ,
khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, đó là
các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại
chứng khoán không rủi ro chứng khoán Chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay
vốn của các loại chứng khoán có rủi ro chứng khoán công ty.

Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không rủi ro. Lãi suất của trái phiếu
Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay đổi
trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ
trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu rủi ro nhất.

Lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng thay đổi theo cung cầu trên thị trường. Ví dụ, khi ngân
sách thâm hụt thì Chính phủ sẽ phát hành thêm chứng khoán đế bù đắp, như vậy sẽ làm
tăng mức cung chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư tiềm năng sẽ chỉ mua các trái
phiếu này nếu lãi suất cao hơn lãi suất các loại chứng khoán đang được lưu hành. Nếu giả
sử, lãi suất trái phiếu chính phủ tăng từ 12 lên 12,5% thì những người đang nắm giữ trái
phiếu có lãi suất 12% sẽ bị thiệt hại do giá chứng khoán giảm xuống. Vì lãi suất đã cố
định là 12% ngay từ lúc phát hành nên những người nắm giữ chứng khoán chỉ có thể bán
được nếu họ chịu giảm giá xuống tới mức đảm bảo cho lãi suất đáo hạn của những trái
phiếu này đạt được mức 12,5%. Do lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng, nó sẽ trở nên hấp
dẫn hơn và các loại chứng khoán khác sẽ bị kém hấp dẫn đi. Hệ quả là, những người mua
trái phiếu sẽ mua trái phiếu Chính phủ thay vì trái phiếu công ty, và do vậy lãi suất trái
phiếu công ty cũng phải tăng lên. Lãi suất trái phiếu công ty tăng sẽ dẫn đến giá của các
loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi giảm xuống như một phản ứng dây chuyền.

Như vậy, ta thấy có một cơ cấu hợp lý về lãi suất do các loại công cụ có liên hệ với nhau.
Sự tăng lên của lãi suất chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Hệ quả trực tiếp
của việc tăng lãi suất chuẩn là giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống. Tương
tự, lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của các loại chứng khoán tăng lên.

Ngoài hệ quả trực tiếp đối với giá chứng khoán, lãi suất chuẩn còn có ảnh hưởng gián tiếp
đến giá cổ phiếu thường. Thứ nhất, lãi suất chuẩn tăng hay giảm sẽ làm cho các giao dịch
ký quỹ kém hấp dẫn đi hay hấp dẫn hơn. Thí dụ, khi lãi suất tăng sẽ làm giá cổ phiếu
giảm vì các nhà đầu cơ bằng hình thức vay mua ký quỹ cảm thấy việc mua bán kém hấp
dẫn hơn.

Thứ hai, rất nhiều công ty kinh doanh chủ yếu bằng vốn đi vay. Nhiều công ty khác, ví dụ
các tổ chức tài chính, tham gia vào các hoạt động cho vay khi lãi suất tăng, các công ty
vay nợ nhiều sẽ phải trích từ thu nhập của mình nhiều hơn để trả lãi, dẫn đến sự sút giảm
thu nhập, cổ tức và giá cổ phiếu. Việc tăng lãi suất lại mang đến thu nhập cao hơn cho
những người cho vay do nguồn thu chính của họ là lãi thu được từ các khoản cho vay. Đối
với những công ty này thu nhập tăng lại làm cho cổ tức và giá cổ phiếu của nó tăng.

Rủi ro sức mua

Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là những biến cố về số tiền thu
được hiện nay của nhà đầu tư. Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu
được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư.

Nếu chúng ta coi khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, ta có thể thấy rằng khi một
người mua cổ phiếu, anh ta đã bỏ mất cơ hội mua hàng hoá hay dịch vụ trong thời gian sở
hữu cổ phiếu đó. Nếu, trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hoá dịch
vụ tăng, các nhà đầu tư đã bị mất một phần sức mua. Giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng gọi
là lạm phát, giá cả hàng hoá giảm gọi là giảm phát. Cả lạm phát và giảm phát đều liên
quan đến khái niệm rủi ro sức mua.

Nói chung, rủi ro sức mua thị trường đi kèm với lạm phát, hiện tượng giảm phát ở các
nước hiếm khi xảy ra. Nguyên nhân chính của lạm phát là do giá thành sản phẩm và nhu
cầu về hàng hoá, dịch vụ tăng so với mức cung.

Lạm phát tăng là do nhu cầu tăng lên khi nền kinh tế có nhiều công ăn việc làm hơn.
Tại lúc này, mức cung không tăng kịp cho đến khi sản xuất được mở rộng. Với nhu cầu
nhiều lên, các loại hàng hoá và dịch vụ sẽ phải được phân bổ theo một mức giá nào đó
tăng lên mà làm cho cung cầu cân bằng tại đó.

Lạm phát do tăng giá thành phẩm: Giá nguyên vật liệu và tiền công tăng lên, các nhà
sản xuất cố gắng bù đắp lại bằng cách tăng giá cả hàng hoá. Trong một môi trường kinh tế
có nhiều công ăn việc làm, tiền công được trả cao thì giá cả hàng hoá sẽ tăng, ngược lại
giá cả hàng hoá tăng cũng đòi hỏi tiền công tăng lên, chu trình này cứ lặp đi lặp lại.

Ta đã nói rủi ro sức mua thường đi kèm với sự thay đổi giá hàng hoá, dịch vụ thì câu hỏi
đặt ra là sự thay đổi giá những hàng hoá cụ thể nào sẽ được coi là thước đo tính lạm phát.
Thức đo thông dụng nhất sử dụng để xác định mức thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ là
chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chỉ số này sử dụng một số loại hàng hoá và dịch vụ để tính
toán, gồm thức ăn, đồ dùng và rất nhiều các loại dịch vụ, từ y tế đến tiền học để tính toán.

Các nhà đầu tư cần tính kèm cả lạm phát vào thu nhập kỳ vòng để bù đắp rủi ro sức mua,
mức này được đo bằng % biến động giá. Nếu như chỉ số hàng tiêu dùng là 100 vào đầu
năm và cuối năm là 103 thì ta nói lạm phát là 3%. Nếu từ năm thứ 2 đến năm thứ 3, chỉ số
biến động từ 103 lên 109 thì tỷ lệ lạm phát sẽ vào khoảng 5,8% [1 09-103/103].

Sự cần thiết phải điều chỉnh thu nhập kỳ vọng theo những biến động giá cả có thể chứng
minh bằng ví dụ đơn giản sau. Giả sử bạn vay 100 đồng ngày hôm nay và hứa trả 105
đồng vào cuối năm, lãi suất là 5%. Tuy nhiên nếu giá cả trong năm tăng lên tới 6%, khi đó
105 đồng nhận được vào cuối năm sẽ chỉ có sức mua bằng khoảng 98 đồng so với đầu
năm. Như vậy, bạn phải cộng thêm tỷ lệ lạm phát vào lãi suất, tức là 11% để cuối năm
bạn nhận được lãi suất thực là 5%.

Cũng giống như lãi suất có ảnh hưởng đến giá của tất cả các loại chứng khoán, sự thay
đổi sức mua cũng làm ảnh hưởng đến chúng. Nếu chỉ số giá hàng tiêu dùng vào khoảng
8% hàng năm và năm sau dự kiến là 9% thì mức thu nhập đối với chứng khoán cũng đòi
hỏi phải tăng lên. Điều đó sẽ tác động đến giá của các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
và cổ phiếu công ty.

1.2.2.2. Rủi ro phi hệ thống


Do các yếu tố như khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công hay những yếu tố khác
gắn với những thay đổi trong thu nhập của một công ty gây ra. Các yếu tố rủi ro không hệ
thống thường độc lập với các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn bộ thị trường nói chung. Do
những rủi ro này thường ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải được xem xét cho
từng công ty một cách riêng biệt.

Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống là những công ty mà doanh số, lợi
nhuận và giá chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến trên
thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ bản và
khai khoáng, những ngành có định phí lớn thì chịu ảnh hưởng nhiều của các loại rủi ro
này. Trong các ngành công nghiệp, người ta thấy những ngành liên quan đến sản xuất ô tô
chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, đó là những ngành: thép, cao su, kính,. ..

Các công ty trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, định phí bé thường có rủi ro không hệ
thống cao hơn. Ví dụ như những công ty cung cấp nhu yếu phẩm như điện thoại, năng
lượng, dệt, thực phẩm. Doanh số, lợi nhuận và giá cả cổ phiếu của những công ty này
không phụ thuộc nhiều vào các diễn biến kinh tế hay tình hình chung của thị trường
chứng khoán.

Rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống lại có thể chia nhỏ thành các rủi ro khác nhau.
Rủi ro hệ thống đối với trái phiếu nói chung thường được xác định là rủi ro về lãi suất; đối
với cổ phiếu gọi là rủi ro thị trường. Đối với chứng khoán nói chung, có thể có thêm rủi ro
về sức mua. Có thể chia rủi ro không hệ thống thành rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.

Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền với một công ty hay một
ngành công nghiệp cụ thể nào đó, ngoài những rủi ro gắn liền với toàn bộ thị trường.
Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu
tố khác là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Do những
yếu tố này chỉ ảnh hưởng tới một ngành hay một công ty cụ thể nên chúng phải được xem
xét cho từng công ty.

Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể là do 1 môi trường
của hoạt động kinh doanh và 2 tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể
gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Ở đây, chúng ta sẽ chỉ ra những khía cạnh
chung về rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.

Rủi ro kinh doanh

Rủi ro kinh doanh là do tình trạng hoạt động của công ty, khi có những thay đổi trong tình
trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức. Nói cách khác, nếu lợi nhuận
dự kiến tăng 10% hàng năm trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu
như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so với lợi nhuận nằm trong khoảng 11-
9%. Mức độ thay đổi so với xu hướng dự kiến được coi là rủi ro kinh doanh.

Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên ngoài và nội tại. Rủi ro kinh
doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có
một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả
hoạt động.
Trong phạm vi rộng hơn, rủi ro kinh doanh bên ngoài là những trường hợp xảy ra nằm
ngoài sự kiểm soát của công ty và làm ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của công ty.
Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh
doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân
sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. .., và có lẽ yếu
tố quan trọng nhất là chu kỳ kinh doanh. Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô
tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại
có xu hướng đi ngược lại nhà cửa. Dân số cũng có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông
qua những thay đổi về lứa tuổi, giới tính, sự phân bố theo địa dư. Các chính sách chính trị
cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh
hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn. Nếu giá trị của đồng tiền
càng cao thì những người mua trả góp sẽ hoãn mua và các chính quyền địa phương sẽ
không bán trái phiếu để tài trợ cho các dự án cấp nước.

Tình hình kinh tế chung cũng có ảnh hưởng đến mức thu nhập chung. Đây là tác động bên
ngoài hay gọi là rủi ro. Nhưng, đứng tại giác độ rủi ro nội tại, công ty có thể điều chỉnh
chu kỳ kinh doanh như thế nào? Nếu chúng ta tách chi phí hoạt động ra làm chi phí bất
biến và chi phí khả biến, chúng ta sẽ thấy rằng khi thu nhập thay đổi, nếu chi phí bất biến
chiếm một phần quan trọng trong tổng chi phí, công ty sẽ rất khó cắt giảm chi phí khi
kinh tế suy thoái và nó cũng rất chậm chạp trong việc đáp ứng nhu cầu vào lúc kinh tế
tăng trưởng. Những công ty như vậy có rủi ro nội tại lớn do khả năng đáp ứng không
nhanh những thay đổi trong tình hình kinh doanh. Mặt khác, nếu tổng thu nhập là từ một
loạt các loạt sản phẩm, chúng ta thấy rõ ràng là các sản phẩm sẽ không bị biến động theo
cùng một chu kỳ kinh doanh, không bị biến động cùng mức độ và cùng thời gian. Trong
phạm vi này, rủi ro nội tại được giảm xuống do sự trải rộng về sản phẩm hay loại sản
phẩm.

Phạm vi của những thay đổi lên xuống trong tổng thu nhập dẫn đến sự thay đổi trong lợi
nhuận có thể được gọi là rủi ro nội tại. Nếu có một sự sụt giảm trong thu nhập từ một loại
sản phẩm có thể được bù đắp bằng một loại sản phẩm khác, làm cho tổng thu nhập không
thay đổi thì có thể coi là công ty đã sử dụng việc đa dạng hoá sản phẩm để bảo vệ mình
chống lại rủi ro kinh doanh. Sự sút giảm về thu nhập có thể giảm thiểu trong tác động vào
lợi nhuận thông qua sự cắt giảm chi phí và sản xuất.

Rủi ro tài chính

Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ cho hoạt động của mình. Người ta
thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất
hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và
vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán cho công ty trước khi kinh doanh cổ
tức cho cổ phiếu thường nên nó có tác động lớn đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có
thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không
vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.

Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu thường. Cụ thể là,
việc sử dụng hệ số đòn bẩy tỷ lệ vay nợ có 3 hệ quả quan trọng đối với những người nắm
giữ cổ phiếu thường, đó là 1 làm tăng mức biến động trong thu nhập của họ, 2 ảnh hưởng
đến dự kiến của họ về thu nhập, và 3 làm tăng rủi ro của họ.

Giả sử chúng ta có hai công ty có hoạt động kinh doanh như nhau, chỉ khác nhau về cơ
cấu vốn: Công ty C, nguồn vốn hoàn toàn từ 1 triệu cổ phiếu thường, bán với giá 20
đôla/1cổ phiếu. Công ty khác, công ty D, có nguồn một nửa là từ cổ phiếu thường
500.000 cổ phiếu, bán với giá 20 đô la/ cổ phiếu và một nửa là từ vay nợ 10 triệu USD
với lãi vay là 5%. Như vậy, tài sản có của mỗi công ty là 20 triệu USD, dự kiến sẽ có lợi
nhuận 1 triệu USD, hay là 5% trên tổng tài sản. Chúng ta giả sử rằng không có thuế thu
nhập công ty.

Thu nhập 1 triệu USD có thể dễ dàng chuyển đổi sang thu nhập cho mỗi cổ phiếu. Công
ty C sẽ có lãi 1 đô la/1 cổ phiếu. Công ty D phải trả lãi 500.000 đô la 10 triệu x 5% và
phần còn lại chia cho cổ phiếu cũng được lãi 1 đô la/1cổ phiếu. Tại điểm này, cả hai công
ty đều có mức thu nhập trên cổ phiếu là 1 đô la. Như vậy ta không thấy có hệ quả của việc
vay nợ đối với thu nhập của cổ đông.

Với tất cả các rủi ro nêu trên,chúng tôi xin đưa ra mô hình quản trị rủi ro theo lý thuyết
như sau:

Bước 1: Nhận dạng rủi ro


Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực
tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro.
Cách làm rõ bản chất của rủi ro là:
- Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro, ví dụ yếu tố lãi suất,
lạm phát, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế...
- Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi ro, ví dụ việc Ngân hàng Trung
ương tăng lãi sẽ suất tác động đến giá cả CK như thế nào?
- Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân tích có phụ thuộc vào biến cố nào
khác hay không, chẳng hạn công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không được tín
nhiệm của khách hàng...
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro
Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác
định ở trên. Cụ thể, dùng một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty được
gì và mất gì.

Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro


Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý
rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải cân
nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra
để thực hiện nó hay không.

Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro
Để quản lý rủi ro có hai chiến lược:

- Thứ nhất: Dựa vào một tổ chức tài chính chuyên nghiệp, thuê họ thiết kế một giải pháp
quản lý rủi ro cụ thể, thích hợp với chiến lược quản lý của công ty.
- Thứ hai: Tự công ty đứng ra thực hiện phòng chống rủi ro bằng cách sử dụng các công
cụ CK phái sinh như chứng quyền, chứng khế, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng
tương lai... đồng thời xây dựng một đội ngũ nhân viên của công ty có khả năng lập và
thực hiện hàng rào chống rủi ro. Vấn đề này đòi hỏi nhân viên công ty vừa phải thiết kế
đúng lại vừa phải thực hiện tốt chương trình phòng chống rủi ro bởi quản lý rủi ro cần
phải được theo dõi thường xuyên và điều chỉnh kịp thời với sự biến đổi của thời gian.

Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp


Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rui ro. Trong
bước này nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ trên
thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn,
swap... làm công cụ phòng chống rủi ro, công cụ này có ưu điểm là có tính thanh khoan
cao và có hiệu quả về giá. Tuy nhiên, công cụ này không linh động, không khắc phục
được rủi ro cố hữu mà chi phí theo dõi lại khá tốn kém.

Cơ sở thực tế:

Sau khi xem xét thị trường chứng khoán Việt Nam,chúng tôi nhận thấy rằng,với nhà đầu
tư cá nhân,họ chủ yếu phải đối mặt với các rủi ro sau:

1. Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư


Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể do chứng
khoán đó khó và thậm chí không thể bán được hoặc không được phép bán hay chuyển
nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Hàng hóa thông thường không thể bán được phần nhiều
do: chất lượng và tiện ích của hàng hóa không đáp ứng nhu cầu; không phù hợp với “gu”
của người mua; cung vượt quá cầu; có hàng hóa khác thay thế tương đương, thậm chí có
sức hấp dẫn hơn. Đối với chứng khoán, tính thanh khoản của nó thấp do một số nguyên
nhân sau:
- Tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành chứng khoán
không tốt. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do nào đó, chứng
khoán mà họ đã mua là của một công ty, tổ chức có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh
và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra
của công ty, tổ chức đó không đảm bảo hiệu quả vững chắc. Rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ
là tối đa khi công ty, tổ chức phát hành chứng khoán bị phá sản hoặc đơn giản là lặng lẽ
“biến mất” trên thương trường sau những “pha” “tự đánh bóng” khá chuyên nghiệp, giật
gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà đầu tư.
Trên thị trường chứng khoán hiện nay, vẫn đang tiếp tục diễn ra tình trạng công khai và
nô nức đấu giá mua cổ phiếu của cả những công ty trên thực tế đã bị phá sản vì trình trạng
tài chính âm, không thể trả nợ, hoặc của những công ty, quỹ đầu tư thậm chí mới có quyết
định thành lập, chưa hề triển khai hoạt động trên thực tế…
- Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư. Nhà đầu tư chứng khoán có thể chịu
rủi ro từ việc “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà
không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể
khiến nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến tính thanh khoản thấp của các chứng khoán này,
nhất là khi họ cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào nơi
khác có lãi hơn, an toàn hơn…
- Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị trường. Ngay cả những chứng
khoán tốt nhất có sức hấp dẫn nhất, “hot” nhất thuộc dạng “blue-chip” cũng có thể không
giữ vững được vị thế của mình một cách ổn định, lâu dài trước sự cạnh tranh và biến động
tới chóng mặt của thị trường trong xu thế toàn cầu hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải hứng chịu cả hai dạng thiệt hại “khấu hao
hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán mà họ
nắm giữ.
2. Rủi ro từ thông tin chứng khoán và thị trường
Ra đời cách đây trên 200 năm, bất chấp những thăng trầm của các ngành, nghề, sản phẩm
kinh doanh khác, kinh doanh chứng khoán ngày càng trở thành một bộ phận không thể
thiếu được của nền kinh tế hiện đại với đặc trưng cơ bản là kinh tế thông tin. Hiếm có
hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại gắn bó mật thiết, thậm chí
phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác các thông tin có liên
quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Pha chút hóm hỉnh, khôi hài, nhưng không phải không có lý khi có người đã phác họa
chân dung nhà đầu tư chứng khoán: luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp phần
vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng nhưng cũng dễ nhẹ dạ, cả tin; tinh khôn và nhạy
cảm; quen biết nhiều, nhưng không kết thân với ai trong làng chứng khoán (!). Trong số
họ, ai là người nắm được nhiều, nhanh, chính xác thông tin, người đó sẽ dễ dàng chiến
thắng và chiếm thế thượng phong, giảm thiểu những rủi ro “chết người” do mù mờ thông
tin. Khả năng lắng nghe, phân tích đọc “vị” các “chiêu thức” và cả nghệ thuật “tung tin
đồn”, gây nhiễu trên thị trường chứng khoán của cả các “đại gia” hoặc “đại bợm” kinh
doanh chứng khoán, hay của bản thân các công ty, tổ chức phát hành chứng khoán, là biện
pháp đặc hiệu để nhà đầu tư tự bảo vệ mình, tránh những cạm bẫy và rủi ro gắn với các
loại thông tin “mờ ảo” trên thị trường đặc thù này.
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc
lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị
cắt xén không đầy đủ, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ
phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn
giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó… đều có thể trở thành đầu mối trực
tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
3. Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của các sàn, trung tâm giao dịch và
công ty chứng khoán
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới trong
kinh doanh chứng khoán, nên các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải chịu những rủi ro
liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức
trung gian này, điển hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô
giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức.
- Hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh
đã đặt mua hàng bán trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới
bất lợi trên thị trường cho họ, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định
này. Khớp lệnh định kỳ cũng có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung –
cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo
kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn, trung tâm và công ty chứng khoán. Tuy vậy, việc
khớp lệnh định kỳ có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt
sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử lý hết trong phiên giao dịch
gần nhất mà họ tham dự.
- Khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua – bán chứng khoán
ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ
như kiểu khớp lệnh định kỳ. Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu
tiên luôn dành cho các lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn.
Trường hợp các lệnh mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh
nhập vào hệ thống giao dịch trước. Việc tổ chức khớp lệnh liên tục cho phép các nhà đầu
tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua – bán nhiều hơn,
nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường chứng
khoán.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc khớp lệnh liên tục có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư
theo 2 cách: hoặc rủi ro vì lệnh mua – bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với
các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã
đặt (thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh khi khớp lệnh định kỳ thường chỉ khớp được
khoảng 60% số lệnh đã được nhập vào hệ thống); hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua – bán
bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao
(khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt. Sở dĩ có sự rủi ro này là
vì trong quy trình khớp lệnh liên tục sử dụng loại “lệnh thị trường” – gọi tắt là MP. Lệnh
này có nghĩa là lệnh mua tại mức giá thấp nhất (sàn) hoặc lệnh bán tại mức giá cao nhất
(trần) trên thị trường. Nếu sau khi so khớp lệnh theo nguyên tắc trên mà khối lượng đặt
lệnh của lệnh MP vẫn chưa thực hiện hết, thì MP sẽ được xem là lệnh bán tại mức giá
thấp hơn tiếp theo hiện hành trên thị trường. Do thực hiện nguyên tắc ưu tiên khi khớp
lệnh là: bán ở mức giá thấp, mua ở mức giá cao, nên thiệt hại cho nhà đầu tư đặt lệnh bán
sẽ càng lớn nếu giá bán được ngày một giảm trong quá trình khớp lệnh này vì lệnh mua sẽ
khớp số lượng bán với bất kỳ giá nào cho đến khi đủ số lượng. Khi đó, nhà đầu tư dễ bị
lâm vào tình trạng mua vào ở giá trần và bán ra ở giá sàn.
Trong khớp lệnh liên tục, hiệu lực lệnh của nhà đầu tư trong nước được tính từ khi lệnh
được nhập vào hệ thống cho đến khi kết thúc ngày giao dịch, hoặc bị hủy bỏ. Riêng đối
với nhà đầu tư nước ngoài, nếu lệnh mua nhập vào hệ thống không được khớp, hoặc chỉ
được khớp một phần vào thời điểm, thì sẽ bị hủy, sau đó nhà đầu tư muốn mua thì phải
tiếp tục đặt lệnh trở lại.
Các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán còn có thể phải đối diện với các rủi ro
gắn với sự điều chỉnh quy định về số lượng giao dịch cổ phiếu thực hiện, cụ thể từ mức 10
cổ phiếu trước đây, đã nâng lên tối thiểu 100 cổ phiếu mỗi lô giao dịch trong quá trình
khớp lệnh liên tục ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các rủi ro đối với nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ có
thể gồm:
- Không thể xé nhỏ các khoản đầu tư như trước, vì đã “bỏ hết trứng vào một giỏ”.
- Không có cơ hội mua các hàng – chứng khoán tốt vì chúng chỉ được giao dịch theo lô
lớn.
- Chịu thiệt hại do phải là người “bán lẻ”, “mua lẻ” với giá thấp hơn (tới 10%) so với các
nhà đầu tư có số lượng cổ phiếu đủ lô quy định, trong khi đó họ cũng không có cơ hội
mua lẻ thêm cổ phiếu (giả sử đã có 90) để làm tròn 100 cổ phiếu cho đủ lô theo quy định.
- Chịu nhiều cảnh phân biệt đối xử khác khi thụ hưởng các dịch vụ chứng khoán nếu vẫn
muốn là người trực tiếp đầu tư, không muốn thông qua các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ tín
thác và các công ty chứng khoán…
4. Rủi ro từ các chấn động thị trường trong và ngoài nước
Các nhà đầu tư chứng khoán (nhất là các nhà đầu tư nhỏ, lẻ) có thể phải gánh chịu nhiều
rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông, đầy cảm tính và xúc cảm,
làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự “đánh bóng”,
thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của một số nhà đầu tư chuyên
nghiệp có tiềm lực tài chính và sức mạnh khác đủ tạo nên động thái thăng, trầm của thị
trường để trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài (cuộc khủng hoảng tài chính – tiền lệ
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX ở châu Á là một thí dụ điển hình).
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn chịu các rủi ro liên quan đến động thái chính sách của Chính
phủ, chẳng hạn như: chính sách 2 giá trong phát hành cổ phiếu (giảm giá từ 20-40% cho
các nhà đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu);
những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty cổ
phần của các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất – nhập
khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương – đa phương v.v..
Từ những rủi ro đó,chúng tôi xin đưa ra biện pháp quản trị

Giải pháp:

Đối với các rủi ro hệ thống

Trong quá trình giao dịch, trao đổi mua bán các loại chứng khoán thì các NDT luôn phải
đối mặt với những rủi ro hệ thống do tác động của cung cầu, do những nguyên nhân
khách quan ( thiên tai, dịch bệnh, lạm phát…) hay những nguyên nhân chủ quan ( sự kỳ
vọng của chính phủ, các NDT; các chính sách của nhà nước; không tìm hiểu kỹ thông tin,
đầu cơ hay những tin đồn…) . Những rủi ro này dẫn đến sự tăng hay giảm giá của các mã
chứng khoán giao dịch trên thị trường, sự dư thừa hay khan hiếm nguồn cung, gây ảnh
hưởng đến kế hoạch đầu tư của NDT, đến lợi nhuận kỳ vọng mà các chứng khoán mang
lại, gây thiệt hại lớn về tài chính cho các NDT…

Nhằm quản trị những rủi ro hệ thống trên theo mong đợi của NDT, các NDT phải trang bị
cho mình tầm nhìn xa trông rộng, óc phán đoán nhạy bén, chính xác, tỉnh táo trước những
tin đồn. Bên cạnh đó các NDT chứng khoán có thể sử dụng một số loại hợp đồng như :
hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn. Mỗi loại hợp đồng lại có
những ưu nhược điểm riêng và tùy theo điều kiện tài chính hay kỳ vọng, khả năng phán
đoán của từng nhà đầu tư mà có thể lựa chọn những loại hợp đồng cho phù hợp vì bản
thân những hợp đồng này cũng đã ẩn chứa rất nhiều rủi ro.

Hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn đều cho phép NDT mua, bán một lượng nhất
định hàng hóa, tài sản ở một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá ở tại thời
điểm thỏa thuận hợp đồng, giúp NDT chủ động hơn trước những biến động thay đổi trên
thị trường. Trong đó hợp đồng tương lai thì được chuẩn hóa và được giao dịch liên tục
trên sàn giao dịch, có mô giới nên giảm thiểu được rủi ro về thông tin, cho phép hai bên ra
khỏi vị thế hợp đồng nên có thể giảm thiểu rủi ro thanh khoản cho NDT, tuy nhiên NDT
phải ký quỹ để tránh rủi ro NDT bỏ trốn, không thực hiện hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn thì
ngược lại.

Hợp đồng quyền chọn cho phép người mua có quyền nhưng không phải nghĩa vụ được
mua hoặc bán một số lượng xác định các đơn vị tài sản tại hay trước một thời điểm trong
tương lai. Hợp đồng quyền chọn giúp NDT đối phó được với những diễn biến phức tạp
của giá các loại chứng khoán trên thị trường. VD như khi giá chứng khoán trên thị trường
lớn hơn giá chứng khoán thỏa thuận trong hợp đồng thì NDT nên thực hiện quyền chọn
mua để được mua chứng khoán với giá rẻ và bán ra thị trường với giá đắt. ngược lại khi
giá chứng khoán trên thị trường nhỏ hơn giá chứng khoán thỏa thuận trong hợp đồng thì
NDT nên thực hiện quyền chọn bán để bán được chứng khoán với giá cao hơn giá thị
trường, từ đó thu về những khoản lời lớn và giảm thiểu lỗ.

Giải pháp quản trị rủi ro phi hệ thống

Như đã nói ở phần trên, rủi ro phi hệ thống bao gồm rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh.
Đây là rủi ro từ phía các công ty cổ phần, khi rủi ro này xảy ra, lợi nhuận của công ty sẽ
giảm sút kéo theo sự sụt giảm của giá chứng khoán trên thị trường.

Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào thị trường chứng khoán nên chú ý hai biện pháp
sau để phòng tránh hai rủi ro trên:

• Đa dạng hóa danh mục đầu tư.


• Phân tích chứng khoán.
Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Đa dạng hóa danh mục đầu tư là việc bỏ vốn đầu tư vào
các chứng khoán có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau
trên thị trường, xây dựng lên một cơ cấu tài sản hợp lý để có thể phân tán rủi ro hay hạn
chế tối đa rủi ro đầu tư. Lý do là rất hiếm có trường hợp tất cả các ngành cùng đi lên hay
đi xuống với cùng một tốc độ và một thời kỳ.

Các hình thức đa dạng hóa danh mục đầu tư:

• Đa dạng hóa tổ chức phát hành


• Đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh của tổ chức phát hành
• Đa dạng hóa khu vực địa lý…
Tuy nhiên, khi thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, nhà đầu tư cần lưu ý:

• Xác định thời gian mình có để có thể xác định số lượng danh mục đầu tư. Việc xây
dựng một danh mục quá nhiều trong khi quỹ thời gian của nhà đầu tư hạn hẹp, nhà
đầu tư không thể theo dõi hết diễn biến của các loại chứng khoán để đưa ra quyết
định đúng đắn.
• Xác định khả năng tài chính của mình. Những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ nên
chỉ tập trung vào ít loại cổ phiếu để giúp vòng quay vốn hiệu quả hơn.
• Đa dạng hóa danh mục đầu tư không thể đưa rủi ro đầu tư chứng khoán về con số
không, do nhà đầu tư còn phải đối mặt với rủi ro hệ thống, tác động đến toàn bộ
chứng khoán(như khủng hoảng kinh tế). Do đó, nhà đầu tư cần kết hợp với phân
tích tình hình kinh tế và phân tích ngành.
• Cuối cùng, nhiều nhà đầu tư nghĩ rằng mức độ rủi ro sẽ tỷ lệ nghịch với số loại cổ
phiếu trong doanh mục đầu tư, tức là danh mục đầu tư càng rộng thì rủi ro phi hệ
thống càng giảm. Thực tế, nếu mở rộng danh mục đầu tư quá rộng, lợi nhuận nhà
đầu tư thu được sẽ không lớn nếu như trong danh mục tồn tại nhiều chứng khoán
không tốt. Do đó, nhà đầu tư nên sáng suốt lựa chọn chứng khoán vào danh mục
đầu tư của mình.

Giải pháp thứ hai là phân tích chứng khoán. Phân tích chứng khoán gồm 2 phần:

• Phân tích cơ bản


• Phân tích kỹ thuật
Phân tích cơ bản nhà đầu tư sẽ đi vào phân tích tình hình vĩ mô - TTCK, phân tích
ngành, phân tích tình hình hoạt động của công ty.

Phân tích vĩ mô và TTCK:

Những sự kiện như chiến tranh, biến động chính trị hay hệ thống pháp luật trong
hoặc ngoài nước có thể tạo ra những thay đổi về môi trường kinh doanh, làm tăng thêm sự
bất ổn định về thu nhập mong đợi và làm cho người đầu tư quan tâm hơn đến khoản tiền
bù đắp rủi ro.

Tình hình chính trị: Như thay đổi Chính phủ và các hoạt động chính trị, sử đổi
các chính sách kinh tế, chỉ tiêu ngân sách quốc phòng, các cuộc tổng tuyển cử, sự kiểm
soát cảu Chính phủ thắt chặt hay nới lỏng đối với các ngành nghề trong nền kinh tế.

Môi trường pháp luật: Các cơ quan Chính phủ tác động đến TTCK bằng hệ
thống luật pháp. Chẳng hạn Luật chống độc quyền thường làm giảm giá chứng khoán của
các công ty bị điều chỉnh bởi nó. Luật thâu tóm sáp nhập công ty có thể gây tác động tiêu
cực hay tích cực đến một nhóm công ty.

Điều kiện kinh tế: Quyết định rủi ro chung của thị trường gọi là rủi ro hệ thống.
Chính sách tài chính – ngân sách và chính tiền tệ của Chính phủ có ảnh hưởng đến toàn
bộ nền kinh tế của một nước. Các điều kiện về kinh tế do các chính sách này tác động sẽ
ảnh hưởng tới tất cả các ngành và các công ty trong nền kinh tế.

Phân tích ngành:

Các ngành có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi kinh tế trong chu
kỳ kinh doanh. Các ngành sản xuất theo chu kỳ như thép và ô tô sẽ có lợi hơn trong giai
đoạn kinh tế tăng trường. Nhưng họ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong giai đoạn kinh tế
suy thoái.

Ngược lại những ngành bán lẻ thực phẩm sẽ không bị sụt giảm nhiều trong chu kỳ
suy thoái kinh tế nhưng cũng không có sự tăng trưởng mạnh torng giai đoạn kinh tế phát
triển.

Triển vọng của một ngành trong môi trường kinh doanh quyết định kết quả mà mỗi
công ty có thể có được.

Phân tích ngành nên được tiến hành trước khi phân tích công ty.

• Tại một thời điểm nhất định nào đó, lợi suất thu nhập của ngành sẽ khác nhau,
do đó nếu phân tích ngành thì bạn sẽ chọn được những ngành có lợi suất cao để
đầu tư.
• Ngay trong một ngành thì lợi suất thu nhập cũng không ổn định. Một ngành
hoạt động tốt tại một thời điểm nào đó thì không có nghĩa nó sẽ hoạt động tốt
trong tương lai. Vì vậy phải luôn theo dõi động thái hoạt động ngành để tìm cơ
hội đầu tư và rút vốn đầu tư đúng lúc.
• Vào cùng một thời điểm, các ngành khác nhau sẽ có mức rủi ro khác nhau, do
đó cần đánh giá rủi ro của ngành để xác định mức lợi suất đầu tư tương xưng
cần phải có.
• Rủi ro của mỗi ngành có sự biến động không nhiều theo thời gian, do vậy có
thể phân tích mức rủi ro từng ngành trong quá khứ để dự đoán rủi ro của nó
trong tương lai.

Phân tích tình hình tài chính của các công ty cổ phần niêm yết trên TTCK, dựa
vào các báo cáo tài chính của công ty như: Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo thu nhập,
bảng lưu chuyển tiền tệ, bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Từ đó, thiết lập các hệ số tài
chính để thấy được những mặt mạnh và yếu trong hoạt động tài chính của công ty, qua đó
cũng thấy được xu hướng và tiềm năng phát triển của công ty.
Một trong những giá trị sử dụng quan trọng của các báo cáo tài chính là xác định
hiệu quả quản lý chi phí và khả năng sinh lời của một công ty. Điều này có thể thực hiện
được bằng cách so sánh báo cáo thu nhập của một công ty nhất định với báo cáo thu nhập
của ngành hay của một công ty làm ăn tốt nhất trong ngành.

Các báo cáo thu nhập cũng có thể cho bạn biết lợi nhuận của công ty chịu ảnh
hưởng do thay đổi trong chi phí cố định như tiền lãi, khấu hao cũng như những chi phí cố
định ảnh hưởng như thế nào. Các bảng tổng kết tài sản giúp các nhà quản lý của công ty
xem liệu mức tài sản có và một tài sản nhất định nào đó cáo được sử dụng một cách hiệu
quả hay không. Ta hãy lấy ví dụ về một công ty có mức hàng trong kho lớn hơn mức
thông thường đối với một công ty cùng ngành. Điều này có thể chỉ ra rằng công ty có quá
nhiều hàng dữ trự và đang phải chịu các chi phí bảo quản quá mức. Việc phân tích bảng
tổng kết tài sản có thể cho thấy tài sản cố định ròng của công ty là quá cao so với mức
doanh thu mà nó tạo ra. Điều này có nghĩa là, công ty này sử dụng tài sản của mình không
hiệu quả. Ngoài ra, công ty có thể phải gánh chịu quá nhiều nghĩa vụ tài chính và vì vậy
dễ dẫn đến khả năng mất thanh toán.

Phân tích kỹ thuật

Phân tích kỹ thuật là phương pháp dự đoán sự biến động giá cả chứng khoán và
các xu hướng của thị trường trong tương lai trên cơ sở nghiên cứu các dữ kiện của thị
trường trong quá khứ như giá cả và khối lượng giao dịch của các chứng khoán.

Điểm khác biệt về phương pháp luận chủ yếu của phân tích kỹ thuật so với phân
tích cơ bản là, trong khi các nhà phân tích theo trường phái phân tích cơ bản sử dụng các
dữ kiện kinh tế thường tách rời với thị trường thì nhà phân tích kỹ thuật tin rằng, sử dụng
các dữ liệu từ chính bản thân thị thường là cách phân tích tốt nhất bởi vì thị trường là nơi
dự đoán tốt nhất cho chính mình.

Cũng khác với phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật đề cập đến cái thực xảy ra hơn
là cái sẽ xảy ra trên thị trường. Thông qua các dữ liệu thu thập được từ việc nghiên cứu
biến động của giá cả và khối lượng giao dịch của các chứng khoán, nhà phân tích kỹ thuật
sẽ tạo ra các biểu đồ và sử dụng các biểu đồ này như là một công cụ chủ yếu để xác định
xu hướng của thị trường trong quá khứ; dự đoán xu hướng hoạt động của thị trường trong
tương lai. Như vậy, phân tích kỹ thuật là một nghệ thuật hoặc một kỹ năng chủ quan mà
thành công của nó phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm của nhà phân tích.

You might also like