You are on page 1of 22

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU.…………………………………………………………………….3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….3
2. Mục đích nghiên cứu đề tài……………………………………………….4
3. Nhiêm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài…………………………………..4
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….4
5. Kết cấu đề tài……………………………………………………………...5
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………..6
Chương I: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng…………………..6
I. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1930-1935……………….7
1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………..7
2. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị trong thời kỳ cao
trào cách mạng 1930-1931…………….8
3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, vừa lãnh đạo xây
dựng lực lượng chính trị 1932-
1935……………………………………………………………….13
II. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939.........16
1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………16
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng trong thời kỳ vận động dân chủ 1936-
1939………………………………………….18
Chương II: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền
1939-1945……………………………………21
I. Hoàn cảnh lịch sử………………………….…………………………..21
II. Chủ trương của Đảng trước tình hình mới…………………………...22
III. Đảng xây dựng lực lượng cách mạng………………………….…….24
IV. Kết quả trong Cách mạng tháng Tám 1945…………………………28
Chương III: Kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng………………...32
1. Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, sát đúng để tập hợp quần chúng, xây dựng
lực lượng cách mạng……………………32
2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của các tầng lớp
và các giai cấp…………………………...34
3. Kết hợp đúng đắn xây dựng lực lượng và lực lượng vũ trang……….36
4. Xây dựng và bố trí lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn và thành
thị………………………………………………………………38
5. Gắn xây dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng cố, phát triển lực
lượng………………………………………………40
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………...42
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................44

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh một điều rằng: để đánh
thắng được kẻ thù xâm lược, giành lại nền độc lập cho tổ quốc và cuộc sống tự do, hoà bình cho nhân dân, thì
ngoài sức mạnh tinh thần (lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc, yêu chuộng hoà bình…) không thôi thì không thể
đánh thắng được kẻ thù xâm lược. Điều đó đã được lịch sử chứng minh bằng sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa
Hai Bà Trưng (năm 40-43) và cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248)… chống quân xâm lược phương bắc. Nên để đánh
thắng được kẻ thù xâm lược thì ngoài sức mạnh tinh thần cần có sức mạnh lực lượng quần chúng nhân dân. Nếu
kết hợp được sức mạnh của hai yếu tố đó, thì chúng ta có thể đánh bại được bất kỳ kẻ thù xâm lược hung mạnh
nào, điều đó được chứng minh bằng sự thắng lợi của quân và dân nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống
Mông - Nguyên thế kỷ XIII, khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng quân Minh thế kỷ XV và cuộc đánh đuổi quân xâm
lược nhà Thanh và Xiêm của Quang Trung (Nguyễn Huệ) thế kỷ XVIII.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà hầu hết các dân tộc ở Châu Á, Phi, Mỹ la tinh đều nằm dưới
sự thống trị và bóc lột của các nước đế quốc chủ nghĩa. Trong đó Việt Nam nằm dưới sự thống trị và bóc lột của
thực dân Pháp. Kể từ khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta từ 1858, đã có rất nhiều phong trào yêu nước theo
khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra nhưng đều thất bại. Bởi vì các phong trào yêu nước đó đều
không có đường lối cách mạng đúng đắn và phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Từ bài học kinh
nghiệm ấy và nhận ra được tầm quan trọng sức mạnh của quần chúng nhân dân tức là sức mạnh của lực lượng
cách mạnh đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, thì ngay khi mới ra đời năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã chú trọng đến công tác xây dựng và phát triển lực lượng
cách mạng. Chính điều này là một trong những sự chuẩn bị và là nhân tố quan trọng cho thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám 1945, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Vì vậy
để hiểu rõ hơn và làm sáng tỏ hơn quá trình xây dựng lực lượng cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930-1945), là
điều rất cần thiết đối với mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với những nhà nghiên cứu lịch sử Đảng . để từ đó thấy rõ
hơn tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng đối với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám
1945. Đồng thời rút ra những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng cách mạng trong giai đoạn về sau. Chính vì
điều đó mà em tập trung nghiên cứu đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ hơn về công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng
trong giai đoạn 1930-1945. Giúp cho người nghiên cứu cũng như người đọc có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, đánh
giá đúng hơn về công tác xây dựng lực lượng cách mạng và về thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám 1945. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn cách mạng sau.
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi nghiên cứu của một bài tiểu luận, trên cơ sở xác định mục đích, nhiệm vụ của đề tài, thì đề
tại tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Đường lối, chủ trương của Đảng,xây dựng lực
lượng chính trị,xây dựng lực lượng vũ trang.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với việc thu thập và sử lý những tài liệu này giúp người nghiên
cứu có cái nhìn tổng quát và đúng đắn hơn về vấn đề nghiên cứu.

2
NỘI DUNG

Chương I: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng 1930-1939

Vận dụng học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và lực lượng vũ trang vào điều kiện cụ thể nước ta,
đồng thời kế thừa tư tưởng quân sự trong truyền thống đánh giặc cứu nước của nhân dân ta, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trong nhân dân cách
mạng. Người cho rằng: bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang; với hai hình
thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Lực lượng chính trị theo người là lực lượng là
lực lượng đông đảo của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, là lực lượng cơ bản, là nền tảng của cách
mạng và là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, là nguồn tiếp sức vô tận cho phát triển
quân đội nhân dân. Do đó, muốn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, phải xây dựng lực lượng
chính trị vững mạnh. Người khẳng định: muốn có quân đội vũ trang, trước hết phải có quân đội tuyên truyền vân
động, đội quân chình trị, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông, ngày càng mạnh. Phải
có quần chúng giác ngộ chính trị, tự nguyện vác sung thì mới thắng lợi được. Trên đây là đôi nét của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng và đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt trong đường lối xây
dựng lực lượng cách mạng của Đảng.
Kể từ khi thức dân Pháp nổ súng tiến hành xâm lược nước ta từ giữa thế kỷ XIX, biến nước ta từ một
nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông
dân) với địa chủ phong kiến. Kể từ đó đã có rất nhiều phong trào yêu nước nổ ra nhằm đánh đuổi thực dân Pháp
để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc nhưng đều thất bại. Vì các phong trào yêu nước đó đều không có đường
lối cách mạng đúng đắn và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc.
Để giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này cần có một tổ chức cách mạng
có khả năng đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và xu thế của thời đại. Với sự
chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Cùng lúc đó thì mặt trận dân tộc thống nhất cũng ra đời và trong suốt quá trình cách mạng, việc xây dựng lực
lượng tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất là bộ phận hữu cơ trong đường lối chiến lược của Đảng.

I. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1930-1935
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 nổ ra trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, tàn phá
nền kinh tế các nước này, đẩy lùi sản xuất về nửa thế kỷ XIX. Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng
khủng hoảng lên vai nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa nhân
dân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc địa và nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa
các nước đế quốc với nhau trở nên gay gắt.
Trong lúc này, Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội
và văn hoá và quốc phòng. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao
động các nước tư bản vùng lên đấu tranh.

3
b. Tình hình trong nước
Ở Đông Dương trong đó có Việt Nam, thực dân Pháp chống đỡ những tai hoạ của cuộc khủng hoảng
bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân. Công nhân và nông dân là những nạn nhân trực tíêp và chịu nhiều tai
hoạ nhất, Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, nông dân bị bần cùng, nạn đói xảy ra trầm trọng. hang vạn
người phải rời bỏ làng xã, thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa thải hang loạt, nhiều
nhà tư sản dân tộc và tư sản nhỏ không tránh khỏi sa sút và phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân với thực dân Pháp
và tay sai ngày càng gay gắt.
Giữa lúc đó thì Đảng Cộng sản Việt nam ra đời lãnh trách nhiệm thúc đẩy phong trào quần chúng phát
triển thành cao trào cả nước.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị trong cao trào cách
mạng 1930-1931
Mùa xuân năm 1930, từ ngày 6/1 đến 7/2 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở Cửu Long (Hương
Cảng- Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương cộng sản
Đảng và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng và hai đại biểu nước ngoài. Hội nghị đã nhất trí thành lập một
Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3/2/1930)1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cao trào cách mạng 1930-1931 đã hình thành trên thực tế khối liên
minh công nông, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Đảng ra đời, thì công tác xây dựng lực lượng cách mạng đã được chú trong xây dựng từng
bước. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 1930, Đảng đã chỉ ra sự phát triển của cách mạng Việt Nam
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế chung của thời đại và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng trong nhân dân, mở ra khả năng lớn để tập hợp và và thống nhất các lực lượng yêu nước trong nhân dân.
Cương lĩnh đã chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, mở đường cho đất nước
tiến lên xã hội cộng sản, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”2. Trong đó nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc tự do cho toàn thể đồng
bào.
Cương lĩnh đã vạch ra những nguyên tắc chiến lược, sách lược nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh
của Đảng.
Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm sao cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng… thu phục được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”3.
Ở Việt Nam lúc này giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất chiếm 90% dân số, nhưng đời sống lại
rất khổ cực do bị đế quốc và phong kiến áp bức nặng nề, nên trong cách mạng giải phóng dân tộc này họ là lực
lượng tích cực nhất chống đế quốc và phong kiến. Mặc dù vậy, nhưng giai cấp nông dân lại không thể lãnh đạo
được cách mạng vì họ không đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nào, không có hệ tư tưởng và vị trí chính
trị độc lập. Vì vậy, trong cuộc cách mạng này họ chỉ có thể đi theo giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thì giai cấp nông dân mới được giải phóng nên Đảng phải thu phục cho được nông dân đi
theo mình, thì mới xây dựng được đội quân chính trị đông đảo được.

1
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm
thành lập Đảng.
2
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 2.
3
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.

4
Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914), xuất
thân chủ yếu từ nông dân, nên giữa công nhân và nông dân có mối quan hệ khăng khít tự nhiên. Để tăng thêm
sức mạnh của mình, giai cấp công nhân phải biết dựa vào sức mạnh của giai cấp nông dân, người bạn đồng minh
tin cậy, có tinh thần cách mạng và lực lượng to lớn. Ngược lại giai cấp nông dân chỉ có thể phát huy được sức
mạnh của mình nếu như liên minh với giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong cuộc cách mạng này công nông là lực lượng chủ yếu trong đội quân đông đảo quần chúng cách
mạng. Vì vậy, muốn xây dựng được một đội quân chính trị đông đảo hung mạnh thì Đảng cần thắt chặt được mối
quan hệ giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, để thực hiện được các nhiệm vụ và mục tiêu của cách
mạng.
Trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc giai cấp, Đảng có nhận định đúng đắn nhằm củng cố và mở rộng
hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác
định giải quyết vấn đề ruộng đất ở Việt Nam chỉ là: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công
chia cho dân cày nghèo”4; “quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách
mạng An Nam chia cho dân nghèo”5. đảng chỉ rõ, bọn địa chủ phản cách mạng là bọ địa chủ giàu ôm chân đế
quốc, có quyền lợi gắn liền với quyền lợi của đế quốc. Đó là đối tượng cách mạng cần đánh đổ. “Còn đối với
bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới
làm cho học đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ”6.
Còn đối với giai cấp tiểu tư sản, trí thức, học sinh phải kéo họ vào phe vô sản giai cấp, vì họ có tinh thần
yêu nước, rất hăng hái cách mạng và nhạy cảm với thời cuộc.
Còn giai cấp tư sản thì ngay từ khi mới ra đời đã phân hoá làm hai bộ phận: tư sản mại bản có quyền lợi
gắn chặt với với đế quốc Pháp, là kẻ thù của dân tộc. Còn tư sản dân tộc do bị đế quốc và tư sản mại bản chèn
ép nên họ có tinh thần dân tộc. Đảng phải biết lợi dụng họ hoặc ít ra làm cho họ trung lập, dần dần kéo họ về
phía vô sản để chống kẻ thù chung. Đây là một sách lược hết sức đúng đắn của đảng để huy động sức mạnh dân
tộc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, đảng đã đề ra chủ trương hợp lý để liên minh các giai cấp , tầng lớp nhằm thực
hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc. Mặc dù vậy, đảng cũng chỉ rõ: “trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thoả
hiệp”7.
Chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng đã thu hút đông đảo các tầng lớp tham gia cách mạng, dấy
lên một cao trào đấu tranh chưa từng có mà đỉnh cao là cao trào với sự ra đời của Xô Viết Nghệ -Tĩnh. Trong cao
trào, khí thế của quần chúng công nông lên cao đã lôi cuốn phú nông, nhiều địa chủ vừa và nhỏ ở các “làng đỏ”
gia nhập các hội; lôi cuốn các tầng lớp nhân dân từ miền xuôi đến miền ngược, từ Bắc đến Nam, các dân tộc
thiểu số và đa số.

Cũng qua cao trào, giúp đảng nhìn nhận và đánh giá đúng năng lực phản đế cuả các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội như giai cấp địa chủ, tư sản mại bản và giai cấp tiểu tư sản.
Từ ngày 14-30/10/1930 Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng họp tại Hương Cảng, do
đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã nhận thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của cuộc vận động, tập hợp lực

4
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 3.
5
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 16.
6
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.
7
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.

5
lượng quần chúng. Án nghị quyết và vấn đề phản đế được hội nghị thông qua nhận định: Ở Đông Dương có
nhiều lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải liên hiệp lại thành một phong trào cách mạng thống nhất để đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa mưu giải phóng cho xứ Đông Dương. Phê phán những nhận thức sai, xem nhẹ các “đoàn
thể phản đế”. Từ nhận định đó, nghị quyết chỉ rõ: “Việc tổ chức phản đế là một nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thế
mà từ trước đến giờ, không có một cái kế hoạch cho xác đáng để tổ chức hội ấy”.
Mục đích của Hội phản đế là đoàn kết các lực lượng phản đế để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, mưu việc
hoàn toàn độc lập cho các xứ Đông Dương và bênh vực phong trào giải phóng thuộc địa và bán thuộc địa. Làm
cho Hội ấy có tính chất quần chúng, hoạt động công khai, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh hang ngày của
công nông.
Nghị quyết về vấn đề phản đế của Đảng tại Hội gnhị trung ương tháng 10/1930, những phác hoạ cụ thể
đầu tiên về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất nhằm tập hợp lực lượng toàn dân trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc cho nên không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. “Luận cương chính trị” đánh giá các giai cấp, tầng
lớp có một số quan điểm khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Luận cương chính trị khẳng định vai
trò cách mạng của công nông, coi công nông là động lực chính của cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc
phải diễn ra với sức mạnh của chính khối liên minh công nông. Còn các giai cấp, tầng lớp khác, Đảng có nhận
thức, đánh giá khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Còn đối với tư bản thương mại, tư bản công nghiệp, khi phong trào quần chúng nổi lên cao thì bọn này
sẽ theo đế quốc. Còn tiểu tư sản có nhiều hạng: thủ công nghiệp đối với phong trào cách mạng vô sản, hang này
cũng có ác cảm… rất do dự. Bọn thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức, tiểu tư sản, học sinh… đại
biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư sản bản xứ.
Về nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền: là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng
đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Như vậy, Luận cương đã nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, không thấy
được kẻ thù cần tập trung đánh đổ là thực dân Pháp, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu.
Với nhận thức trên “Luận cương tháng 10” chỉ bó hẹp lượng cách mạng trong phạm vi công nông, còn
các giai cấp, tầng lớp khác, bị đẩy ra xa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, Đảng đã không phát huy
được mọi nhân tốc dân tộc dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc, phong kiến để giành lại độc lập,
tự do.
Những quan niệm của Đảng trong “Luận cương tháng 10” và án nghị quyết xuất phát từ nhận thức chưa
chính xác, giáo điều do không hiểu biết đầy đủ về tình hình, đặc điểm giai cấp, xã hội, chưa đánh giá hết động
lực to lớn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam… của một số lãnh đạo Đảng, nhất là do ảnh hưởng tả của Quốc tế
cộng sản lúc đó.
Thực tiễn sinh động của cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là chất liệu được phản
ánh trong chỉ thị của Ban thường vụ trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh ngày
18/11/1930.
Chỉ thị nhắc lại những quan điểm đúng đắn của chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt: cách mạng tư
sản dân quyền ở Đông Dương đã phân tích rõ giai cấp công nhân không đồng minh với nông dân thì không đánh
đổ được đế quốc Pháp. Mặt khác, không tổ chức được toàn dân lại thành lựclượng thật, thật kín thì cuộc cách
mạng khó mà thành công.

6
Trên cơ sở nhận thức trên, thường vụ trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận phản đế đồng
minh “hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc… cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét
đế quốc Pháp.
Hội nghị Trung ương tháng 3/1931 đã phê phán những sai lầm như cưỡng bức dân chúng đi đấu tranh
trong khi họ chưa được giác ngộ. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ tiếp tục phát triển các tổ chức nông hội, công hội
đỏ… để thu hút quần chúng nhưng lại không đề cập phải rtanh thủ các tầng lớp khác như địa chủ, phú nông… có
tinh thần dân tộc chống đế quốc, phong kiến.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã góp phần hình thành trên thực tế khối liên minh công nông, phong
trào của các tầng lớp nhân dân. Đó chính là nền tảng cho sự ra đời của mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương.
3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, vừa lãnh đạo xây
dựng lực lượng chính trị (1932-1935)
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao. Sauk hi Xô viết Nghệ Tĩnh ra đời, đế quốc
Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp hòng dập tắt phong trào cáchmạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Hàng chục vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã bị bắt và giết hại. Các cơ quan lãnh đạo của
Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toà án của thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét
xử những người cách mạng.
Đi đôi với khủng bố, tàn sát, thực dân Pháp tìm cách lừa bịp, mị dân: tăng số đại biểu người Việt ở các viện
dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ở Hội đông quản hạt Nam Kỳ và các hội đồng thành phố, đề ra cải cách giáo
dục, cho địa chủ lớn và tư sản mại bản một số quyền lợi.
Sự khủng bố và lừa bịp của thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu
nước từ bỏ con đường cách mạng, rất nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân vẫn nổ ra.
Các đảng viên cộng sản trong nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), Kham Lớn (Sài Gòn), Hải Phòng, Côn Đảo, Kon
Tum… đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh đạo đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện đời sống
và tổ chức học tập, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.
“Biến được cái rủi thành cái may, các đồng chí đã lợi dụng được những ngày tháng ở tù để hội họp và học
tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù… nó rèn luyện
cho người cách mạng càng them cứng rắn mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”8.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức Đảng ở Cao Bằng, Hải Phòng, Nam Định… đã
bám chắc quần chúng để hoạt động. Các đồng chí vượt tù đã tích cực tham gia khôi phục các tổ chức Đảng, lãnh
đạo quần chúng đấu tranh.
Năm 1932 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số đồng chí cán bộ chủ chốt
tổ chức ban lãnh đạo trung ương Đảng. Tháng 6/1932, ban lãnh đạo trung ương đã ra bản chương trình hành
động củ Đảng Cộng sản Đông Dương được Quốc tế cộng sản công nhận. Chương trình hành động của Đảng đặt
vấn đề phải lợi dụng hết thảy các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, nửa hợp pháp, gấp rút tổ chức quần
chúng đấu tranh bằng nhiều hình thứuc khác nhau. Chương trình cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về kinh tế-
chính trị- xã hội cho mỗi giai cấp, tầng lớp, các tổ chứ đoàn thể nhằm đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thân
hàng ngày, từng bước tiến tới dẫn dắt quần chúng tiến tới đấu tranh đòi những yêu cầu cao hơn.
Từ thực tiễn cách mạng những năm qua, đã giúp đảng nhìn nhận, đánh giá đúng các giai cấp, tầng lớp nhân
dân. Tư sản mại bản và đại địa chủ là những kẻ tôi tớ trung thành của đế quốc, đó là đối tượng cần đánh đổ. Tư
8
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, NxbCTQG, HN, 2000, trang 3-4.

7
sản dân tộc, địa chủ nhỏ bị chèn ép có tinh thần chống đế quốc. Giai cấp tư sản hoang mang, dao động, nhưng họ
luôn có tinh thần yêu nước. Nếu được động viên giáo dục, tổ chức họ sẽ hăng hái tham gia cách mạng.
Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng được thành lập, các xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ được lập
lại. Nhiều cơ sở Đảng được phục hồi, hệ thống tổ chức Đảng được khôi phục. Phong trào quần chúng lại được
tiép tục vươn lên.
Tháng 3/1935, đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Macao (Trung Quốc) đã nhận định sức mạnh của Đảng
là dựa trên uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng. Đại hội nhấn mạnh công tác tranh thủ rộng rãi quần
chúng là nhiệm vụ quan trọng nhất. Đại hội đã thông qua nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh
lính, thanh niên, phụ nữ… Điều đó chứng tỏ đảng tiếp tục chú ý xây dựng lực lượng cách mạng, lấy đó làm cơ
sở để đảng khôi phục và phát triển,chuẩn bị phát động phong trào đấu tranh mới.
Đại hội đã ra quyết định thành lập tổ chức phản đế liên minh. Đay là tổ chức tập hợp tất cả các lực lượng
phản đế ở Đông Dương, bao gồm tất cà những đảng phái, đoàn thẻ, tổ chức, lớp, nhóm có tính chất cách mạng
kể cả những phần tử lẻ tẻ, với những hình thức và biện pháp đấu tranh phong phú.
Đối với các đảng pháỉ cải lương, phản động thì tổ chức mặt tận phản đế bên dưới với các đoàn thể của tiểu
tư sản có thể thống nhất bên dưới, vừa thống nhất bên trên.
Trong khi thành lập được Mặt trận thống nhất phản đế, Đảng phải đưa ra khẩu hiệu tối thiểu, đề ra những
sang kiến lãnh đạo mặt trận,với những chủ trương trên cho thấy đường lối của Đảng về thành lâpk phản đế liên
minh đã có sự linh hoạt, mềm dẻo hơn.
Đảng đã chủ trương liên minh với tất cả các Đảng cải lương, những phần tử phản cách mạng lẻ tẻ để tăng
cường lực lượng phản đế. Điều đó cho thấy Đảng đã có bước tiến mới trong việc xây dựng lực lượng cách mạng.
Từ Hội phản đế đồng minh (1930) đến tổ chức phản đế liên minh (1935) được hình thành cả hai tổ chức đó
đều đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh trong cả nước và là
sự chuẩn bị lực lượng cách mạng cần thiết cho cách mạng tháng tám sau này.

II. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ của một cuộc khủng hoảng kinh tế mới
làm mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa them sâu sắc. Các nước đế quốc Đức, Italia, Nhật Bản thiết
lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ 1935 tiến hành xâm lược một số nước. Mâu
thuẫn giữa phát xít Đức, Italia, Nhật Bản và Anh, Pháp, Mỹ trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
đối với Liên Xô cũng rất sâu sắc, phong trào đầu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.
Tháng 7/1935, đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản được triệu tập tại Matxcơva. Đoàn đại biểu của
đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí lê Hồng Phong dẫn đầu đến tham dự đại hội.
Đại hội xác định ke thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế
quốc nói chúng mà là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh
chống lại toàn bộ chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ,
hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần phải thành lập mặt trận thống nhất của giai cấp công
nhân và thiết lập mặt trận thống nhất rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải
thiện đời sống.

8
Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản Pháp làm lòng cốt đã
giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4/1936, thành lập chính phủ phái tả gồm những người thuộc đảng Xã
hội và Đảng cấp tiến. đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của mặt trận nhân dân Pháp nêu ra việc thả tù chính
trị, cử các phải đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là ở Đông Dương, thi hành một số cải cách cho giới lao
động.
b. Tình hình trong nước
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và cuộc khủng bố trắng kéo dài sau cao trào 1930-
1931 cùng với những thủ đoạn vơ vét, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp
nhân dân, kể cả những tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng của nhân dân lúc này là đòi
quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình.
Trong khi đó bọn cầm quyền ở Đông Dương đã phát xít hoá bộ máy chính quyền, chúng ra sức bóp
nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, kéo dài chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho nhân dân ta bao gồm nhiều giai cấp, tuy có quyền lợi khác nhau, càng thêm
căm thù bè lũ thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt về quyền lợi dân sinh
dân chủ, trừ một nhòm tư sản mại bản chỉ cam tâm làm tôi tớ cho bọn cướp nước. Vì thế, yêu cầu cải cách và cải
thiện đời sống nhân dân là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi giai cấp và tầng lớp xã hội, kể cả bộ phận lớp trên.
Lúc này cơ sở đảng và cơ sở quần chúng đã được khôi phục và dựa trên trận địa cách mạng cơ bản được
tạo ra khá vững chắc trong thời kỳ 1932-1935. đây là một yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển của
cách mạng thành một cao trào mới.
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng trong thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939
Trước tình hình thế giới và trong nước như vậy, thì tháng 7/1936, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng
họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp
tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới.
Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập cho dân
tộc và ruộng đất cho dân cày, song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Hội nghi quyết định thành lập Mặt trận dân
chủ thống nhất nhân dân phản đế phối hợp với Đảng cộng sản và nhân dân lao động chống phát xít, phản động
thuộc địa, đông thời nêu ra khẩu hiệu ủng hộ chính phủ Pháp nhằm đòi thực hiệnc các yêu cầu dân chủ cho nhân
dân Đông Dương.
Hội nghị chủ trương hình thức bí mật sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm
thực hiện quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đầu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các
hình thứuc tổ chức và đấu tranh công khai hợp pháp. Đảng cần củng cố tổ chức bí mật của Đảng.
Hội nghị tháng 7/1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể
trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa
vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và
trên thế giới. Đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh
giành quyền lợi hang ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì nền độc lập và tự do. Nghị quyết hội
nghị đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc lập,
sang tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước.

9
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ những năm 1936, khẳng định chủ trương đúng đắn
của Đảng ta trong việc tập hợp rộng rãi lực lượng chi9nhs trị, nên đội quân chính trị của Đảng ngày càng đựoc
củng cố và mở rộng rãi hơn.
Hàng ngàn cuộc đấu tranh của lực lượng chính trị do Đảng lãnh đạo, đã nổ ra với những hình thức phong
phú, bí mật, công khai, nửa công khai với hình thức đấu tranh linh hoạt qđòi quyền dân sinh dân chủ, tự do, hoà
bình như: đấu tranh đòi thả tù chính trị, tự do báo chí, văn hoá, lợi dụng dân biểu, Hội đồng quản hạt. hình thức
đấu tranh lôi kéo được nhiều trí thức học sinh. Đỉnh cao là những cuộc đấu tranh này là cuộc mít tinh của hai vạn
người tại quảng trường đấu xảo Hà Nội kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1/5/1938. Trong thực tiễn đấu tranh Đảng
đã tập hợp được một đội quân chính trị rộng lớn.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, một bộ phận đảng viên có tư tưởng tả, đưa ra những yêu cầu quá cao đối với
các giai cấp, tầng lớp nhân dân khi họ muốn tham gia mặt trận, đề ra khẩu hiệu quá cao trong đấu tranh quần
chúng, cùng với nó lại có những Đảng viên có tư tưởng hữu khuynh, họ đề cao hình thức đấu tranh côgn khai
hợp pháp, ít chú ý đến những cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân, mà chỉ chú ý đến những tầng
lớp bên trên. Chính hai tư tưởng này đã ngăn cản phong trào cách mạng đi lên.
Tháng 8/1938, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng họp, xác định nhiệm vụ trung tâm là thành lập mặt
trận dân chủ Đông Dương, đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ,
các tầng lớp tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị nhắc nhở đấu tranh chống khuynh hướng
tả đưa khẩu hiệu quá cao, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và chống khuynh hướng
hữu coi thường phong trào đấu tranh của công nông, thiết kiên quyết chống bọn Tờ-rớt-kit. Thông qua tác phẩm
“Tự chỉ trích” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ, cho thấy những kinh nghiệm thành công trong việc xây dựng và
tập hợp lực lượng.
Tổng kết hoạt động của mặt trận dân chủ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu lên mấy bài học kinh nghiệm: Mặt
trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phái tán thành cải cách, nhưng không thể liên hiệp được với
các đảng phái phản động, vừa liên minh bên trên, vừa liên minh bên dưới, phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều với
kẻ thù nguy hiểm ít, cô lập bọn phản động, tranh thủ người tiến bộ và lưng chừng, tranh thủ đông đảo quần
chúng trong các đảng phái cải lương, liên minh với giai cấp tư sản, phải vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, Mặt trận
dân chủ đoàn kết được đông đảo quần chúng, đòi những quyền tự do tư sản, chống phát xít nhưng không phải
duy trì mãi chế độ tự do tư sản mà để tiến lên chế độ tự do cao hơn.
Nhờ chính sách đúng, lại có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp đấu tranh linh hoạt, Đảng đã
động viên hàng triệu quần chúng vào mặt trận đấu tranh, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, thợ thủ công,
người buôn bán nhỏ, hình thành đội quân chình trị rộng lớn, thực sự là bước phát triển mới trong xây dựng lực
lượng cách mạng, là một trong những thành quả nổi bật của cao trào cách mạng 1936-1939. Đó là bước tiến mới
trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về xây dựng lực lượng cách mạng. Khuyết điểm của Đảng là lãnh
đạo không sát, nhiều nơi cán bộ phạm vào bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa với thắng lợi bộ phận mà sao
lãng việc củng cố công tác bí mật.
Mặc dù còn nhiều thiết sót nhưng những thắng lợi dành được trong cuộc vận đông dân chủ 1936-1939.
Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dặn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính
trị, tổ chức và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm mới.

10
Chương II: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền
1939-1945

I. Hoàn cảnh lịch sử


1. Tình hình thế giới
Ngày 1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Quân Đức tiến công
sang phía Tây trước, đến đầu 1941, đã chiếm đựoc hầu hết các nước Tây Âu và Đông Âu tư bản chủ nghĩa. Nhật
Bản mở rộng chiếm đóng Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam Á.
Ngày 22/6/1941, Đức bất ngờ tiến công Liên Xô. Ngày 8/12/1941, Nhật bản bất ngờ tấn công trân châu
cảng ở Quần đảo Ha Oai (Mỹ), chiến tranh lan sang châu Á- Thái Bình Dương. Từ khi phát xít Đức tấn công
sang Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô
làm trụ cột với lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
2. Tình hình trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta. Chính phủ phản động thực
dân Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng sản và tiến bộ ở trong nứoc và ở thuộc địa.
Ở Đông Dương thực dân Pháp điên cuồng tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần
chúgn do Đảng lãnh đạo. Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Đông chí
Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9/1939. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam, tù đày. Hàng vạn thanh niên bị
bắt lính để đưa sang Pháp.
Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc phòng, kiểm soát trực tiếp,
gắt gao sản xuất và phân phối, sản xuất và nhập khẩu. Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản,
tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của đế
quốc Pháp.

II. Chủ trương của Đảng trước tình hình mới


1. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939
Trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước. Tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp Hội
nghị tại bà Điểm (Gia Định), gồm các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Nguyễn Thị Minh Khai… Hội nghị
nhấn mạnh “giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương”, “Cách mệnh phản đế và
điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền… Các nguyên tắc ấy không bao giờ thay đổi được,
nhưng nó phải được ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh
là đánh đổ đế quốc”9.
Dựa trên sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ấy. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất
của giai cấp địa chủ, chỉ đề ra chính sách chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội lại quyền lợi dân tộc chia cho dân cày; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô Viết công
nông binh bằng khẩu hiệu thành lập chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận dân tộc
phản đế Đông Dương. Lực lượng chính của cách mạng là công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết với tiểu tư sản
thành thi và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ, do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Như vậy trước những biến động trên thế giới và trong nước, Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến

9
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, NxbCTQG, HN, 2000, trang 58.

11
lược cách mạng phù hợp với tình hình thực tế để tập hợp quần chúng vào mặt trận thống nhất phản đế Đông
Dương nhằm thựuc hiện các mục tiêu cách mạng.
2. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1940
Tháng 11/1940, Hội nghị trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị khẳng định sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược mà hội nghị trung ương tháng 11/1939 đề ra đúng đắn. Hội nghị xác định kẻ thù chính
của cách mạng lúc này là phát xít Pháp- Nhật.
Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn- đơn vị tập trung đầu tiên của
lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo. Hội nghị quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì chưa
đủ điều kiện (nhưng do liên lạc khó khăn, quyết định của trung ương không kịp truyền đi kịp, nên cuộc khởi
nghĩa vẫn nổ ra). Với những chủ trương trên của Hội nghị trung ương Đảng, về cơ bản lực lượng vũ trang đã
được hình thành nằm dưới sự lãnh đạo của đảng. đây là bước chuẩn bị quan trọng cho việc xây dựng lực lượng
vũ trang tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi sau này.
3. Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941
Sau khi về nước ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng). Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước,
hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.
Hội nghị khẳng định tính đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị
trung ương tháng 11/1939, tập trung chĩa mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời
nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh
đuổi đế quốc Pháp- Nhật, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Hội nghị quyết
định thay tên các Hội phản đế thành hội cứu quốc. Thành lập Mặt trận Việt nam độc lập đồng minh (Việt Minh)
thay cho mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào và Cam Pu Chia.
Hội nghị xác định hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là
nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân.
Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc
và đề ra chủ trương sáng tạo nhằm thực hiện các mục tiêu ấy. Cùng với nghị quyết Hội nghị trung ương tháng
11/1939 có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.

III. Đảng xây dựng lực lượng cách mạnh


1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Ngày 28/1/1941, tại cột mốc 108 đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trở về tổ quốc sau 30 năm buôn ba tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã chọn pác Bó (Cao Bằng) là nơi dừng chân đầu tiên sau khi trở về
lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Chính pác Bó (Cao Bằng) là nơi Nguyễn Ái Quốc đã triệu
tập Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941. Đây là hội nghị có ý nghĩa quan trọng đối với thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám 1945 sau này.
Cuối năm 1941, khi chính thức chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, Người
nói: “căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước,
lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải tiến về Thái
Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc vơi toàn quốc được, có nối phong trào với Thái Nguyên thì khi
phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn có thể thủ”.

12
Cùng với căn cứ địa Cao Bằng, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn 1940, thì căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ Nhai cũng
được thành lập. đây là cơ sở có rất nhiều đội du kích đựơc thành lập hoạt động, theo chủ trương của Đảng từ sau
thất bại của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.
Thực hiện chỉ thi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 4/6/1945, tổng bộ Việt Minh triệu tập hội nghị cán bộ và
tuyên bố chính thức thành lập khu giải phóng gồm 2 căn cứ lớn nằm trên 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn
Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang) và một số vùng thuộc ngoại tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên
bái. Trong khu giải phóng, các uỷ ban nhân dân do dân cử được hình thành, tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn
của mặt trận Việt Minh.
Khu giải phóng với một triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau thực sự là “hình ảnh thu nhỏ của nước
Việt Nam mới”, cùng với các hệ thống chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế tổng
tiến công giành chính quyền tháng Tám 1945.
2. Xây dựng lực lượng chính trị
Để tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng chính trị tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quỳên
1945. Ngay từ Hội nghị trung ương đảng tháng 11/1939, Đảng đã nhận định nhiệm vụ chấn chỉnh các tổ chức
quần chúng và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương để liên hiệp tất cả các dân
tộc ở Đông Dương, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, đánh đổ đế
quốc Pháp, vua chúa bản xứ và bọn tay sai đế quốc.
Với chủ trương trên, cho thấy Đảng đã vận dụng khéo léo 2 nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là
chống đế quốc và chống phong kiến để thực hiện nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng, là đánh đổ đế quốc. Đảng
cho rằng phải “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc lam tối cao, tất cả mọi vấn đề của
cách mệnh, cả vấn đề điện địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết ” 10. Việc xây dựng lực lượng
cach mạng đươc tập hơp trong một tổ chức mặt trận mới thích hợp hơn. Lực lượng chính của măt trận là công,
nông, trung, tiểu địa chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Chủ trương về xây dựng và phát triển lực lượng chính trị được đề ra từ hội nghị trung ương tháng 11 – 1939
của Đảng, tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện ở hội nghị trung ương tháng 5 – 1941. Sau khi nhận định tình
hình, hội nghị khẳng định “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi đươc
độc lập,tự do cho toàn thể dân tộc,thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của đại bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”11.
Trên tình thần đó, hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), bao
gồm các tổ chưc quần chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm: liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không
phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc
giải phóng dân tộc và sinh tồn. Ngay khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã thông qua 10 chính sách lớn mà tinh thần
cơ bản là ích nước, lợi nhà. Những chủ trương và chính sách đó phù hợp vốimị tầng lớp nhân dân nên đã thu hút
đươc ngày càng nhiều các giai cấp, tầng lớp yêu nước đánh thức được tinh thần dân tộc trong nhân dân.
Tháng 2 – 1943, Ban thường vụ trung ương Đảng họp bàn việc mở rộng Măt trận dân tộc thống nhất, chuẩn
bị tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhận định phong trào việt minh đã phát triển ở nông thôn , mền núi nhưng phong
trào ở đô thị còn yếu, phong trào công nhân chưa mạnh đồng thời còn yếu ớt. Từ nhận định đó phong trào đề ra
biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng khắp, đặc biệt chú trọng công tác vận động. Đồng

10
văn kiện Đảng toàn tập: tập 6,NXBCTQG,HN.2000,Tr.539
11
văn kiện Đảng toàn tập: tập7,NxbCTQG,HN.2000.Tr.113

13
thời phải mở rộng phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh, trí thức nhằm làm cho cuộc khởi nghĩa mang
tính chất toàn dân.
Quán triệt tinh thần đó, từ năm 1943 đến 1945, phong trào việt minh phát triển mạnh trong công nhân, nông
dân nghèo, phong trào học sinh, sinh vên, trí thức ở thành phố cũng bắt đầu phát triển. đảng đã đẩy mạnh tuyên
truyền đường lới cứu nước, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến đấu tranh cách mạng.
Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, thành lập hội văn hóa cứu quốc Việt Nam và
tháng 6 – 1941, Đảng dân chủ Việt Nam ra đời , đã thu hút các nhà trí thức, tư sản dân tộc, các nhà hoạt động
văn hoá, thanh niên công chức,… khi ra đời các tổ chức này đều tham gia Mặt trận Việt Minh. Cùng với đó
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội pháp và tranh thủ cả những ngoại
kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít chủ yếu là người pháp thuộc phái kháng chiến và hoa kiều chống
Nhật.
Lực lượng chính trị được Đảng dày công xây dựng từ năm 1930 đã từng bước phát triển và ngày càng
trưởng thành vững mạnh. Đó là cơ sở để Đảng từng bước xây dựng lực lượng vũ trang. Như chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: Muốn có đội quân vũ trang phải có đội quân tuyền vận động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc
này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Như ở nước ta nếu muốn đánh Pháp - Nhật thì ai
vác súng? Ai là người tự nguyện vác súng? Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện thì mới thắng
được.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang
Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng rất coi trọng công tác xây dựng lực lượng vũ
trang. Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941, khẳng định: cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương
hiện nay phải được giải quyết bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang
từ thấp đến cao, như các đội tự vệ cứu quốc, các tổ chức du kích cứu quốc và các đội du kích.
Cùng với các cuộc đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi, thì ở một số địa phương đã diễn ra những cuộc khởi
nghĩa vũ trang. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940). Đó chính
là tiếng súng báo hiệu khới nghĩa vũ trang nhân dân đã hình thành. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ
trương của Đảng một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang xây dựng thành các đội du kích, hoạt
động ở căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ Nhai, về sau dược thống nhất thành cứu quốc quân.
Ngày 22/12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập “đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” hoạt động
theo phương châm: “chính trị trọng hơn quân sự, dựa vào dân và vận động toàn dân kháng chiến”: lực lượng vũ
trang ra đời đã đánh thắng liên tiếp hai trận Phay Khắt, Nà Ngần (Cao Bằng).Tỉnh Cao Bằng thực sự la mũi nhọn
chiến đấu, hỗ trợ đắc lực các lực lượng chính trị, kết hợp đấu tranh chính trị vơi quân sự, xây dựng cơ sở cách
mạng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào trong cả nước. Sau cuộc nổi dậy của anh em tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ
(Quảng Ngãi), chiếm binh đồn giặc, thành lập chính quyền cách mạng, thì đội du kích Ba Tơ cũng được thành
lập.
Công tác xây dựng lưc lượng vũ trang tiếp tục được phát triển và hoàn thiện, ngàu 15/4/1945, Hội nghị Quân
sự cách mạng Bắc Kỳ họp. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng
quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự vá chính trị; đề
ra nhiệm vụ cần kíp tiếp tục phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cư địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc
tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.

14
Như vậy, với những chủ trương đúng đắn của mình, trong giai đoạn này Đảng đã xây dựng được một đội
quân chính trị hùng hậu và một lực lượng vũ trang mạnh để khi thời cơ đến là phất động tổng khởi nghĩa giành
chính quyền.
IV. Kết quả trong cách mạng tháng Tám 1945
Chiến tranh thế giới đã đi đến những ngày cuối cùng. Ở châu Âu, phát xít Đức đã bị tiêu diệt hoàn toàn và
buộc phải đầu hàng không điều kiện (5/1945). Ơ châu Á quân Nhật cũng đã đầu hàng Đồng Minh không điều
kiện (8/1945). Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, chính phủ bù nhìn tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực
độ. Đây là thời cơ ngàn năm có một để nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng, đứng lên đánh đổ bọn phát xít
Nhật giành lại nến độc lập, tự do cho tổ quốc.
Trước tình hình thế giới biến chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, từ ngày 13/8 đến 15/8, Hội nghị toàn
quốc của đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, Đảng chủ
trương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương.
Hội nghị cử ra uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách: đề ra đường lối đối nội và đối
ngoại trong tình hình mới và kiện toàn Ban chấp hành trung ương. Đêm 13/8, uỷ ban toàn quốc ra lệnh tổng khởi
nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Từ ngày 14/8,
các đơn vị giải phóng đã liên tiếp hạ nhiều đồn địch của Nhật tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18/8, quân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá,
Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa đã giành được chính quyền ở tỉnh lỵ .
Ngày 17/8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Mặt Trận
Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh của chính phủ bù nhìn ở nhà hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân
dân ta, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thắng lợi của tổng khởi nghĩa 19/8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tai
sai Nhật ở khắp nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền,
nhất là ở Huế và Sài Gòn.
Ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ trung kỳ và tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000 nhân dân thành phố Huế và
các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở của triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng
bằng hình thức thoái vị. Chiều 30/8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc Mít tinh hàng vạn người tham gia, vua Bảo
Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng,. Đại diện chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa
tuyên bố bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.
Ngay khi được tin tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, nhân
dân Sài Gòn đã nổi dậy giành chính quyền ngày 25/8.
Ở Côn đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền
làm chủ trên đảo.
Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày ( từ 14 đến 28/8 ), cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công hoàn toàn. Lần đầu
tiên trong lịch sử dân tộc, chính quyền cả nước thực sự thuộc về tay nhân dân ta.
Ngày 2/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn của gần 1 triệu người tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế
giới sự ra đời của nươc Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá “toàn thể dân

15
tộc Việt Nam quyết quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập
ấy”13.Kể từ đó ngày 2/9 trở thành ngày quốc khánh của nước ta.
Chương III: Kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng
1. Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thề sát đúng đề tập hợp quần chúng, xây dựng lực
lượng cách mạng
Từ khi ra đời, Đảng đã xác định trong Cương lĩnh của mình con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam: trước làm cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
được kết hợp một cách khǎng khít, nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Phương
hướng và mục tiêu cơ bản đó đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng thiết tha nhất của toàn dân tộc, trước hết là công
nhân, nông dân và nhân dân lao động. Đường lối chiến lược đúng là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp lực lượng.
Nhưng cách mạng muốn thắng lợi, muốn đạt tới mục tiêu chiến lược phải có sự chỉ đạo chiến lược đúng. Kinh
nghiệm cho thấy, đề ra mục tiêu chiến lược và kiên định mục tiêu chiến lược đó đã khó, thì việc đề ra mục tiêu
trước mắt sát hợp với từng thời kỳ, kết hợp đúng đắn mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài còn khó khǎn,
phức tạp hơn. ở đây, có thể phạm sai lầm "hữu khuynh" hoặc "tả khuynh". Nóng vội, chủ quan hay do dự, bảo
thủ cũng dễ bị tổn thất. Phải kết hợp nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, phải có quan điểm lịch sử cụ thể
mới xác định được mục tiêu trước mắt sát đúng và do đó mới tập hợp và xây dựng được lực lượng cách mạng
đồng đảo, vững mạnh. Đồng chí Đỗ Mười, Tổng bí thư đã nói: "Trong việc xác định mục tiêu, tuy có chú ý tính
toàn diện, nhưng cần tập trung vào những trọng điểm và thể hiện tính khả thi, không đề ra cao quá, vì sẽ không
có khả nǎng thực hiện, gây nghi ngờ trong quần chúng, cũng không hạ thấp vì sẽ kìm hãm phong trào cách mạng
của nhân dân. Phải đặc biệt tính toán các giải pháp, phương tiện để thực hiện mục tiêu". Thực tiễn lịch sử chứng
tỏ, Đảng ta từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhận thức và giải
quyết ngày càng đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Quá trình đó
đồng thời là quá trình giác ngộ, tổ chức quần chúng và xây dựng lực lượng cách mạng. Luận cương chính trị
tháng l0-1930 xác định đúng nhiệm vụ chiến lược và lực lượng cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở nước
ta, nhưng chưa xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, cho nên chưa đánh
giá đúng vai trò, lực lượng của giai cấp trí thức tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Do đó đã hạn chế việc tập hợp lực
lượng cách mạng. Trong cách mạng 1936-1939, Đảng xác định mục tiêu trước mắt đáp ứng yêu cầu, nguyện
vọng của nhấn dân, vì thế đã thu hút được đồng đảo quần chúng tham gia đấu tranh. Bên cạnh công nhân, nông
dân trước sau vẫn là nòng cốt của cách mạng, Đảng còn thu hút được đồng đảo các tầng lớp các giai cấp, các dân
tộc, kể cả các đảng phái cải lương, các cá nhân tiên tiến thuộc tầng lớp trên, tán thành đấu tranh cho dân sinh,
dân chủ. Trên thực tế đã hình thành đội quân chính trị quần chúng rộng lớn. Trong thời kỳ 1940-1945, Đảng
nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo kết hợp một cách khéo léo giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến, coi nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống
đế quốc và được rải ra thực hiện từng bước. Đảng chỉ rõ: "trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi bộ phận của giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được". Trong
giai đoạn hiện tại nếu không đánh đuổi được Nhật -- Pháp thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu
muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được". Tập trung mũi nhọn đấu tranh đánh đổ đế
quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai, thực hiện mục tiêu chủ yếu là giải phóng dân tộc, song Đảng không
1

16
quên nhấn mạnh, cách mạng vẫn mang tính chất dân tộc dân chủ, nghĩa là không được tách rời hai nhiệm vụ
chiến lược mà phải coi đánh đổ đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến là nhiệm vụ khǎng khít, vấn đề dân tộc
và vấn đề dân chủ không thể tách rời. Nhưng, không tiến hành song song nhất loạt ngang nhau. Tập trung giải
quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc không phải là Đảng thủ tiêu vấn đề đấu tranh giai cấp và bỏ nhiệm vụ điền
địa, cũng không phải lùi một bước mà chỉ bước một bước ngắn hơn, để có sức mà bước một bước dài hơn. Đảng
chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất mà thay bằng khẩu hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp
và của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, tức là chưa đánh vào toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến. Đây
là một chủ trương khôn khéo, nhằm tập trung lực lượng giải quyết nhiệm vụ chủ yếu Chủ trương đó nhằm tạo ra
sức mạnh to lớn, tập hợp đồng đảo các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đồng thời củng cố khối liên minh
công nông thêm vững chắc.
2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của các tầng lớp, giai
cấp
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tổ chức.
Đảng hiểu rằng, sức mạnh của cách mạng bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng, mà sức mạnh của quần chúng
phải là hành động tự giác có tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền
mới thành công". Chỉ thị về công tác to chức của Ban chấp hành trung ương Đảng (ngày 1-2-1941) chỉ rõ: "Biết
tổ chức thì dù bọn phátxít quỷ quyệt, tàn nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức tức là có thêm cán
bộ, có vũ khí có tài chính, có chiến đấu lực, tất cả những điều kiện cần thiết cho cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng". Ở mỗi thời kỳ lịch sử, do mục tiêu đấu tranh, trình độ quần chúng, đối tượng cách mạng, lực lượng đối
sánh, đặc điểm thời cuộc mà có những hình thức tổ chức thích hợp. Thời kỳ 1936-1939, Đảng chủ trương: phải
rất linh hoạt, khôn khéo trong việc tổ chức quần chúng, không cứng nhắc, không nhất thiết các tổ chức quần
chúng đều phải mang một màu sắc, đều phải nhuộm màu đỏ như công hội đỏ, hội cứu tế đỏ mà có thể lấy những
cái tên đơn sơ, cốt sao tập hợp được đồng đảo quần chúng vào các tổ chức cách mạng. Đảng quyết định lấy tên
Thanh niên phản đế đoàn thay Thanh niên cộng sản đoàn, lập Hội cứu tế bình dân thay Hội cứu tế đỏ, lấy tên
Công hội thay Công hội đỏ và lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ Đảng và quần chúng sáng tạo ra các hình thức
tổ chức phổ thông gắn liền với đời sống sinh hoạt bình thường hàng ngày như hội cấy, hội gặt, hội lợp nhà, hội
hiếu hỉ, phường đi sǎn, hội hát kịch v.v.. Những hình thức tổ chức "biến tướng" đó thích hợp với nhân dân ta ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến, mọi quyền tự do dân chủ bị kẻ thù bóp nghẹt và nhất là nhân dân vừa trải
qua một thời kỳ bị kẻ thù đàn áp đẫm máu. Do đó, nhiều hình thức tổ chức vừa làm, sát hợp với quần chúng, nên
đã lôi kéo được đồng đảo quần chúng tham gia vào các phong trào đấu tranh công khai, bán công khai, rầm rộ,
sôi nổi hiếm thấy dưới thời Pháp thống trị và hiếm có ở một nước thuộc địa. Việc tổ chức quần chúng phải có
nhiều hình thức thích hợp với từng giai cấp, tâng lớp nhân dân và từng lứa tuổi. Thông thường, quần chúng có ba
loại: tiên tiến, trung bình, chậm tiến, lại còn có sự khác biệt về giai cấp, tôn giáo, dân tộc, lứa tuổi, giới tính,
nghề nghiệp ... Cho nên, ngoài các đoàn thể cứu quốc, Đảng còn tổ chức nhiều đoàn thể đơn sơ, không điều lệ,
công khai hoặc nửa công khai để thu hút đông đảo dân chúng. Trong khi tổ chức đảng hết sức chặt chẽ, thì tổ
chức quần chúng phải hết sức rộng rãi, nhẹ nhàng, thậm chí có khi không thành hình thức tổ chức; phải biết tận
dụng mọi khả nǎng hợp pháp, nửa hợp pháp, dù là đơn sơ, nhỏ hẹp. Phải biết nắm lấy mọi hoạt động của xã hội,
kể cả các tổ chức do thực dân Pháp lập ra, các hoạt động vǎn hoá, kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày của quân
chúng để tập hợp quần chúng đồng đảo và che giấu tổ chức không hợp pháp. Từ cuộc đấu tranh đòi các quyền
dân sinh, dân chủ cụ thể hàng ngày mà tập hợp quần chúng, từng bước đưa quần chúng tham gia phong trào cách
mạng. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm,

17
Đảng lại có những hình thức tổ chức mới cao hơn. Để khích lệ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, các
đoàn thể quần chúng đều có tên chung "cứu quốc" như Thanh niên cứu, quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc, v.v.. Tìm tòi, chọn lựa các hình thức tổ chức vừa tầm, thích hợp với quần chúng, đồng
thời còn phải phù hợp với hoàn cảnh khách quan, mới có khả nǎng thu hút đông đảo quần chúng đấu tranh cho
mục tiêu đã định. Trong những nǎm 1930-1935, hình thức mặt trận mà Đảng lựa chọn là Hội phản đế đồng minh.
Thời kỳ 1936-1939 là Mặt trận dân chủ. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tân thứ tám (tháng 5-1941)
quyết định một hình thức mặt trận mới thay Mặt trận dân chủ, đó là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt
Minh. Mặt trận Việt Minh được thành lập theo chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Lúc này,
Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể trước mắt không còn là đấu tranh đòi những quyền lợi dân sinh, dân chủ đơn
sơ, mà là chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc
lập dân tộc. Vì nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là
đoàn kết, thống nhất đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian. Mặt trận dân chủ rõ ràng không còn thích hợp với
mục tiêu đấu tranh trong thời kỳ mới, cần có một hình thức mặt trận phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, nhằm
liên kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu-nghèo, già-trẻ, gái-trai, không phân biệt tôn
giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn. Mặt trận Việt Minh đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chung của toàn dân tộc, là cơ sở quyết
định quy tụ cả cộng động dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất, đánh đổ ách thống trị của phátxít Nhật -
Pháp và bọn tay sai.
3. Kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã khẳng định, cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng
phương pháp cách mạng bạo lực, lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang cách mạng.
Chủ tịch Hô Chí Minh nói: "Muốn có đội quân võ trang phải có đội quân tuyên truyền, vận động, đội quân chính
trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Như ở ta muốn đánh Pháp -
Nhật thì ai vác súng? Ai là người tự nguyện, tự giác vác súng? Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự
nguyện vác súng thì mới thắng được" Thực tiễn cuộc vận động giải phóng dân tộc cho thấy bắt đầu từ xây dựng
lực lượng chính trị, trên cơ sở lực lượng chính trị mà xây dựng lực lượng vũ trang. Khi nhiệm vụ giải phóng dân
tộc đặt lên hàng đầu, yêu cầu phải đẩy cuộc đấu tranh lên hình thức cao để hỗ trợ cho công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng, từ các đoàn thể, các tổ chức chính trị quản chúng, đã hình thành các đội tự vệ chiến đấu, các tổ
du kích chiến đấu, hình thức sơ khai của lực lượng vũ trang. Các đội tự vệ công nông đầu tiên trong phong trào
Xô viết Nghệ Tĩnh, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, du kích Ba Tơ... đều từ lực
lượng chính trị của quần chúng, từ nhân dân được giác ngộ, có tổ chức mà ra. Trong xây dựng lực lượng, Đảng
coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhưng không tuyệt đối hoá vai trò của nó, không đặt vấn đề xây dựng lực
lượng vũ trang lớn ngay từ đầu mà trước hết xây dựng lực lượng chính trị, kết hợp đúng đắn xây dựng lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang đáp ứng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thời kỳ 1939-1945, trước nguy cơ phátxít
và chiến tranh xâm lược của phátxít Nhật, Pháp, để chuẩn bị đón thời cơ, Đảng lấy việc xây dựng lực lượng
chính trị quần chúng làm cơ bản. Thông qua các phong trào đấu tranh của quần chúng, các đoàn thể và mặt trận,
một lực lượng chính trị quần chúng đồng đảo đã hình thành, đồng thời trên cơ sở đó mà từng bước xây dựng các
lực lượng vũ trang cách mạng. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ sáu (tháng 11-1939) chủ trương
thành lập các đội tự vệ chiến đấu: "Đội tự vệ phải to rộng, đủ dũng cảm và điềm tĩnh, khôn khéo và hy sinh bảo
vệ quần chúng". Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ bảy (tháng 11-1940) chỉ rõ: "Mặt trận phải

18
trực tiếp võ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mạng quân". Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng lần thứ tám (tháng 5-1941) chủ trương mở rộng các tổ chức cứu quốc và thành lập những tiểu tổ du
kích chiến đấu. Cuối nǎm 1941, đồng chí Nguyễn ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang Cao Bằng để
thúc đẩy việc xây dựng cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 12-1944, Đảng
chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam
sau này. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời trên cơ sở những đội du kích nhỏ hoạt động từ trước ở
Cao Bằng, Lạng Sơn. Mặc dù hình thức là đội quân vũ trang, hoạt động tác chiến, nhưng Đảng chỉ rõ phương
châm và nhiệm vụ hoạt động của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là chính trị trọng hơn quân sự, tuyên
truyền trọng hơn tác chiến. Sau ngày đảo chính Nhật - Pháp, Đảng cho rằng tình thế lúc này đã đặt nhiệm vụ
quân sự lên trên và cần kíp, do đó quyết định phát triển lực lượng vũ trang và thống nhất Việt Nam cứu quốc
quân với Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân. Khi tiến lên khởi nghĩa từng
phần, đi đôi với việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, Đảng đã nhanh chóng phát triển lực
lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng, thúc đẩy mạnh mẽ cao trào cách mạng trong cả
nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng Tám nǎm 1945, trong lúc lực lượng vũ trang nhân dân còn
non trẻ, Đảng đã huy động được một lực lượng chính trị quần chúng lớn mạnh, bao gồm hàng triệu hội viên cứu
quốc và hàng chục triệu đồng bào dưới khẩu hiệu hành động của Mặt trận Việt Minh, tạo thành lực lượng chủ
yếu quyết định thắng lợi của tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Cách mạng Tháng Tám thành công là do biết kết
hợp chật chẽ lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó lực
lượng chính trị và đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng giữ vai trò chủ yếu. Kết hợp đấu tranh chính trị
và đấu tranh vũ trang đã tạo ra ưu thế áp đảo quân thù, giành thắng lợi nhanh, gọn trong Cách mạng Tháng Tám
nǎm 1945.
4. Xây dựng và bố trí lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn và thành thị
Đảng ta sớm nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của các địa bàn chiến lược, coi trọng cả nông
thôn và thành thị, chú ý xây dựng lực lượng ở cả nông thôn và thành thị. Trong đấu tranh cách mạng, nhất là
trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, vấn đề xây dựng lực lượng, bố trí lực lượng trên các địa bàn, kết hợp
phong tràn đấu tranh của nông dân ở nông thôn với phong trào của công nhân, trí thức, học sinh, thợ thủ công và
buôn bán nhỏ ở thành thị để tiến hành khởi nghĩa toàn dân, kịp thời cơ thuận lợi là một vấn đề quan trọng. Trong
đường lối cũng như chỉ đạo thực tiễn phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã giải quyết tốt vấn đề xây dựng và bố trí
lực lượng bảo đảm cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Đảng hiểu rằng, nông thôn đồng bằng là nơi tiếp
giáp với thành thị, hơn 90% dân số là nông dân sống chủ yếu ở đây. Do bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề, nông dân rất tha thiết với nền độc lập của đất nước và có ruộng đất cấy cày. Đây là nơi bộ máy thống trị
của địch yếu hoặc tương đối yếu và có nhiều sơ hở. Khởi nghĩa của ta là khởi nghĩa toàn dân, việc tổ chức lực
lượng và phát động nhân dân đồng bằng đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
quan trọng. Thành thị là nơi tập trung giai cấp công nhân, giàu tinh thần cách mạng, có đồng đảo nhân dân lao
động, học sinh, trí thức tiến bộ là những tầng lớp có tinh thần yêu nước cao. Thành thị là trung tâm chính trị,
quân sự, kinh tế, vǎn hoá, là nơi tập trung các cơ quan đầu não và bộ máy thống trị của địch. Đảng nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, đặc biệt là công tác vận động công nhân và
trí thức. Nếu không chú trọng công tác trên đây thì khởi nghĩa khó nổ ra ở trung tâm đầu não của quân thù và do
đó không làm cho chúng bị tê liệt. Không xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị thì cuộc khởi nghĩa khó
phát triển lên thành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc Từ cuối nǎm 1939, tuy chuyển trọng tâm
công tác về nông thôn, Đảng vẫn không xem nhẹ công tác ở thành thị. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung

19
ương lần thứ tám (tháng 5-1941) nêu rõ: "Muốn có một lực lượng toàn quốc đủ sức phát động và bảo đảm cho
một cuộc khởi nghĩa thắng lợi thì đi đôi với việc mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có, phải chú
trọng mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền" Từ đó, công tác vận động cách
mạng ở thành thị ngày càng được tǎng cường, đặc biệt trong công nhân và trí thức. Nghị quyết Ban thường vụ
trung ương Đảng (tháng 2-1943) chỉ rõ: "Không làm cho thợ thuyền tích cực tham gia khởi nghĩa thì: Cuộc khởi
nghĩa khó nổ ra ở những nơi huyết mạch của quân thù (thành phố, vùng mỏ, đồn điền, đường vận tải cốt yếu), do
đó quân thù không bị tê liệt. - Cuộc khởi nghĩa có tính chất địa phương, eo hẹp, không lan rộng ra toàn xứ cho
tới toàn quốc, như thế quân thù có thể tập trung lực lượng vào một vài nơi đàn áp quân khởi nghĩa". Chính nhờ
ra sức xây dựng cơ sở, lực lượng và cǎn cứ địa ở nông thôn, đồng thời chú trọng xây dựng cơ sở và lực lượng ở
thành thị, nên khi thời cơ đến, Đảng đã phát động được toàn dân ở cả thành thị và nông thôn cùng nổi dậy, nhanh
chóng giành được chính quyền trên cả nước trong những ngày tháng Tám nǎm 1945.
5. Gắn xây dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng cố, phát triển lực lượng
Trong điều kiện ban đầu, Đảng còn ít kinh nghiệm, lực lượng đảng viên còn mỏng, quần chúng chưa
được tổ chức chặt chẽ, rộng khắp đã vội đẩy phong trào lên quá mức, bộc lộ lực lượng thì cách mạng không
tránh khỏi tổn thất. Phải xây dựng lực lượng đến mức nhất định thì tiến hành đấu tranh mới có kết quả. . Đảng và
lãnh thụ Nguyễn ái Quốc đánh giá cao tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh trong cao
trào 1930-1931, nhưng cũng đã dự đoán chính quyền Xôviết sẽ không duy trì được lâu vì lực lượng còn non yếu,
chưa đều khắp, vũ trang bạo động trong một vài địa phương là quá sớm. Đồng chí Nguyễn ái Quốc chỉ rõ nhiệm
vụ trước mắt của Đảng và phong trào nông dân nước ta là: "Tập hợp, tồ chức trung, bần nông và kích động họ
đấu tranh giành lấy chủ quyền của nhân dân, chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương".
Phải lựa chọn cho phong trào quần chúng những hình thức đấu tranh phù hợp với điều kiện và khả nâng lực
lượng cách mạng cho phép. Vừa tổ chức vừa đấu tranh, đấu tranh để rèn luyện, củng cố tổ chức là hai mặt thống
nhất của quá trình xây dựng, phát triển lực lượng, tổ chức quần chúng đấu tranh. Nhấn mạnh mặt tổ chức, coi
nhẹ mặt đấu tranh và ngược lại, hoặc tách rời nhau đều là sai lầm. Trong xây dựng lực lượng và tiến hành đấu
tranh có lúc, có nơi Đảng mắc sai lầm "hữu" hoặc "tả" cả hai khuynh hướng đó đều có hại cho phong trào. Đấu
tranh nhưng vẫn bảo tồn, gìn giữ được lực lượng, tránh tổn thất, tiêu hao lực lượng, mà lại đạt kết quả cao. Trong
khi xây dựng lực lượng, không được thủ tiêu đấu tranh, Đảng phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh mạnh mẽ,
nhưng chủ yếu là để tập dượt quần chúng, chuẩn bị cho khởi nghĩa, giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi
và bản đảm thành công.
KẾT LUẬN

Sau 15 năm kể từ khi Đảng ra đời 1930, cùng với đường lối lãnh đạo đúng đắn, là sự chuẩn bị công phu
về mọi mặt của Đảng. Trong đó sự chuẩn bị về lực lượng cách mạng là một trong những yếu tố quan trọng nhất,
làm nên thắng lơi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Nó đã đập tan hai xiếng xích nô lệ của thực dân
Pháp kéo dài hơn 80 năm nay và của phát xít Nhật, đồng thời nó còn lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế hàng
mấy nghìn năm nay. Với thắng lơị của cách mạng tháng tám 1945, nước ta từ một nứơc thuộc địa đã trở thành
một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành dân tộc độc lập, tự do,
làm chủ nước nhà. Đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc ta, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.

20
Xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đồng thời với một lúc kết hợp cả hai nguồn lực này
để phát triển sức mạnh tổng hợp của kháng chiến lâu dài. Vấn đề đặt ra là Đảng đã khéo léo sử dụng hai lực
lượng này phù hợp với tình hình cụ thể từng lúc, từng nơi. Theo Đảng, bạo lực cách mạng không chỉ dựa vào lực
lượng vũ trang và không chỉ có hình thức duy nhất là đấu tranh vũ trang, mà phải nhất thiết có lực lượng chính
trị. Hai lực lượng này cùng với hai hình thức đấu tranh này không tách rời nhau, mà chúng có quan hệ gắn bó
hữu cơ với nhau. Trong quá trình chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, hai lực lượng cách mạng này
đã góp một phần to lớn và đóng vai trò quyết định đưa đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
Từ kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng trong giai đoạn 1930-1945 của Đảng. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay là trọng tâm, thì đối với
công việc nâng cao chất lượng xây dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công
tác chính trị, giữa vững và tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân
đội, bảo đảm cho quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng
chiến đấu trung thành và tin cậy cảu Đảng, của nhà nước xã hội chủ nghĩa. bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ tổ quốc và nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng
trong lịch sử của Đảng. Từ đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị, khẳng
định vai trò lãnh đạo cảu đảng đối với quân đội, vị trí vai trò công tác đảng, công tác chính trị quân đội nhân dân
Việt Nam. Từ đó xây dựng quân đội ta ngày càng mạnh, đủ sức bảo vệ vững chắc đất nước trong thời kỳ phát
triển và hội nhập quốc tế ngày nay.

21
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đảng toàn tập: tập2, Nxb.CTQG, HN,2002


2. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam: Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn,NxbCTQG,HN,2008
3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh - thượng tướng PGS Nguyễn Hữu
An
4. Đảng cộng sản việt Nam chặng đường qua hai thế kỷ - NxbCTQG
5. Lịch sử Đảng cộng sản việt Nam - viện lịch sử Đảng, NxbCTQG
6. Hồ Chí minh toàn tập: tập3,Nxb.CTQG,HN,2000
7. Văn kiện Đảng toàn tập: tập 6 và tập 7, Nxb.CTQG,HN,2000

22

You might also like