You are on page 1of 4

BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA DỰ THẢO 7

LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

1. Bố cục của dự thảo Luật


Dự thảo gồm 5 chương với 60 điều được bố cục như sau:
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 14).
- Chương II: Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm (từ Điều 15 đến Điều 21).
- Chương III: Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm (từ Điều 22 đến Điều 52).
Mục 1: Quy định chung về thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm (từ Điều 22
đến Điều 37).
Mục 2: Quy định riêng về thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm
đăng ký giao dịch bảo đảm (từ Điều 38 đến Điều 42).
Mục 3: Quy định riêng về thủ tục đăng ký cầm cố, thế chấp tàu bay (từ Điều
43 đến Điều 45).
Mục 4: Quy định riêng về thủ tục đăng ký thế chấp tàu biển (từ Điều 46 đến
Điều 48).
Mục 5: Quy định riêng về thủ tục đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm (từ
Điều 49 đến Điều 52).
- Chương IV: Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm (từ Điều 53 đến Điều
58).
- Chương V: Điều khoản thi hành (Điều 59 và Điều 60).
2. Nội dung chủ yếu của dự thảo Luật
a) Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Xuất phát từ quan điểm xây dựng Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm thành Luật
chung trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo
đảm, dự thảo quy định về nguyên tắc đăng ký, giá trị pháp lý của việc đăng ký giao
dịch bảo đảm; các trường hợp đăng ký, thẩm quyền và thủ tục đăng ký, cung cấp
thông tin về giao dịch bảo đảm; tổ chức, hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm và quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Dự thảo quy định chung về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với mọi loại tài
sản, trong đó có tàu bay, tàu biển, các động sản khác, quyền sử dụng đất, quyền sử
dụng rừng, quyền sử dụng mặt nước biển để nuôi trồng thuỷ sản và tài sản gắn liền
với đất, đồng thời có các quy định cụ thể về thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng tàu bay, tàu biển và các động sản khác. Riêng thủ tục cụ thể về đăng ký giao
dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sử dụng mặt
nước biển để nuôi trồng thuỷ sản và tài sản gắn liền với đất được quy định tại Dự
án Luật Đăng ký bất động sản.
b) Về đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 4)
Dự thảo Luật quy định rõ đối tượng đăng ký và phân biệt các trường hợp
phải đăng ký (khoản 1 Điều 4) và các trường hợp đăng ký khi có yêu cầu (khoản 2
Điều 4) trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Đất
đai, Luật Nhà ở, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký
giao dịch bảo đảm và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm.
Đồng thời, xuất phát từ nhu cầu minh bạch, công khai hóa tình trạng pháp lý
của các tài sản là động sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
giao dịch nhằm tạo điều kiện thúc đẩy giao dịch dân sự, kinh tế phát triển, dự thảo
mở rộng phạm vi các giao dịch được đăng ký theo yêu cầu bao gồm: bán có thoả
thuận chuộc lại hoặc bán hàng thông qua đại lý đối với tài sản là động sản.

c) Về nguyên tắc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm
(Điều 5)
Dự thảo quy định việc đăng ký, cung cấp thông tin phải được thực hiện kịp
thời, chính xác và theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và thông tin về giao
dịch bảo đảm được cung cấp cho mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu. Các
nguyên tắc này áp dụng đối với mọi trường hợp đăng ký và cung cấp thông tin về
giao dịch bảo đảm và được cụ thể hóa trong các quy định về thủ tục đăng ký và
cung cấp thông tin, trách nhiệm của cơ quan đăng ký, người thực hiện đăng ký và
người yêu cầu đăng ký.
d) Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 7)
Nhằm phân biệt giữa giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm với
giá trị pháp lý của hợp đồng được các bên giao kết, trên cơ sở tôn trọng quyền tự
định đoạt của cá nhân, tổ chức trong giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại, dự
thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm quy định giá trị pháp lý của việc đăng ký
trên cơ sở cụ thể hóa khoản 3 Điều 323, Điều 325 Bộ luật dân sự, theo đó việc
đăng ký giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba và là căn cứ để
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán. Ngoài ra, dự thảo không quy định đăng ký là
điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực.
Từ đó, việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển, quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất không còn là điều kiện để các giao dịch này có
hiệu lực như quy định tại khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm
2005, khoản 3 Điều 29 của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Điều
148 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai. Các

2
quy định này sẽ hết hiệu lực khi Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm có hiệu lực
(khoản 2 Điều 60 dự thảo).
đ) Nội dung quản lý nhà nước về đăng ký và trách nhiệm quản lý nhà
nước (Điều 13 và Điều 14)
Dự thảo quy định nội dung quản lý nhà nước và trách nhiệm của Bộ Tư
pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thống nhất quản lý nhà nước về đăng ký
giao dịch bảo đảm, đồng thời quy định các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan
trong việc phối hợp quản lý và trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý
đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương, trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước và cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong việc xây dựng Hệ thống dữ
liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm.
e) Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 15)
Dự thảo quy định về các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó và người thực hiện đăng ký trên cơ sở kế
thừa các quy định về tổ chức trong các văn bản pháp luật hiện hành như Điều 16
Nghị định số 49/2006/NĐ-CP ngày 18/5/2006 của Chính phủ về đăng ký và mua,
bán tàu biển, Điều 5 Nghị định số 70/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính phủ
về đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền đối với tàu bay dân dụng, điểm a khoản
1 Điều 8 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP.
Đồng thời, dự thảo Luật quy định cơ quan đăng ký bất động sản được quy
định trong Luật Đăng ký bất động sản có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng sản xuất là rừng trồng, quyền
sử dụng mặt nước biển để nuôi trồng thuỷ sản, vườn cây lâu năm, công trình xây
dựng, nhằm thống nhất pháp luật và không gây xáo trộn về tổ chức, bộ máy của
các cơ quan đăng ký hiện có.
Nhìn chung, các quy định của chương này đã đáp ứng yêu cầu về cải cách hệ
thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tư cách là bộ máy dịch vụ hành
chính công thông qua việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng
cơ quan đăng ký cũng như trách nhiệm của các cơ quan này và trách nhiệm của
người thực hiện đăng ký trong quá trình đăng ký và cung cấp thông tin theo thẩm
quyền.
g) Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm (Chương III)
Dự thảo quy định chung về thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm từ đăng ký
lần đầu, đăng ký thay đổi, đăng ký gia hạn, sửa chữa sai sót đến chấm dứt đăng ký,
trong đó làm rõ người yêu cầu đăng ký cần kê khai và nộp đơn, hồ sơ đăng ký và
nghiệp vụ của người thực hiện đăng ký. Đồng thời, dự thảo quy định cụ thể về thủ
tục đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản, bao gồm cả tàu bay, tàu biển.
Ngoài ra, dự thảo thể chế hóa chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin vào
dịch vụ công, trong đó quy định một số vấn đề chung về thủ tục đăng ký trực tuyến

3
phù hợp với Luật Giao dịch điện tử; Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định cụ
thể về vấn đề này. Nhìn chung, các quy định về thủ tục đã đảm bảo công khai,
minh bạch, đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện cho người yêu cầu đăng ký.
h) Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm (Chương IV)
Dự thảo quy định quyền tìm hiểu thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, các phương thức tra cứu, tìm hiểu thông tin và nội dung thông tin được cung
cấp, nhằm cụ thể hoá nguyên tắc công khai, minh bạch các thông tin về giao dịch
bảo đảm.

You might also like