You are on page 1of 9

CỤC ĐĂNG KÝ QUỐC GIA

GIAO DỊCH BẢO ĐẢM Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2008

GIỚI THIỆU NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN


CỦA DỰ THẢO 3 LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO


ĐẢM
Với mục đích bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn
vốn trong hoạt động tín dụng, thương mại và bảo đảm an toàn pháp lý cho các
bên tham gia giao dịch, trong năm năm qua (2002 – 2007), thiết chế về đăng ký
giao dịch bảo đảm đã hình thành và ngày một khẳng định vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Khung pháp lý về công tác giao dịch bảo đảm cơ bản đã được xây dựng và
từng bước hoàn thiện. Những vấn đề về đăng ký giao dịch bảo đảm đã được thể
chế hóa tương đối đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ những văn
bản có hiệu lực pháp lý cao như Bộ luật dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật Đất đai,
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam đến những văn bản có hiệu lực pháp lý
thấp hơn như Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về
đăng ký giao dịch bảo đảm, các Thông tư và Thông tư liên tịch do các Bộ liên
quan ban hành hướng dẫn công tác đăng ký giao dịch bảo đảm trong từng lĩnh
vực cụ thể. Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhanh chóng ra đời và
bước đầu được kiện toàn về tổ chức, cán bộ. Hoạt động đăng ký đang được triển
khai ngày càng rộng khắp trên các lĩnh vực (bao gồm cả động sản, bất động sản)
và tại tất cả các địa phương trong cả nước. Trình tự, thủ tục đăng ký ngày một
được cải cách, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Số lượng giao dịch
bảo đảm được đăng ký không ngừng gia tăng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, những báo cáo đánh giá, tổng kết
hoạt động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta cho thấy vẫn còn
những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là:
1.1. Các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn phân
tán trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên dẫn đến sự chồng chéo, thậm
chí mâu thuẫn trong một số quy định;
1.2. Đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm còn hạn chế, bao gồm việc thế
chấp, cầm cố tài sản và một số giao dịch khác được quy định tại những văn bản
hướng dẫn.
a) Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm không đăng ký
các giao dịch tương tự giao dịch bảo đảm khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức, ví
dụ: cầm giữ tài sản, thỏa thuận hạn chế quyền dùng tài sản để thế chấp, cầm cố,
cho dù các giao dịch đó có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ, chuyển giao

1
hàng để mua bán thông qua đại lý, trong khi cá nhân, tổ chức có nhu cầu đăng
ký và tìm hiểu thông tin.
b) Không bảo đảm xác định đầy đủ thứ tự các quyền ưu tiên thanh toán
của các chủ nợ trong các giao dịch khác có liên quan đến tài sản bảo đảm.
1.3. Hạn chế về phương thức đăng ký
Hiện nay, các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm đều dựa trên phương
thức đăng ký, cung cấp thông tin bằng giấy. Phương thức này có một số hạn chế
như sau:
- Thời gian hoàn thành việc đăng ký giao dịch bảo đảm cũng như tra cứu
thông tin về giao dịch bảo đảm bị kéo dài, gây tốn kém cho các bên liên quan.
- Có khoảng trống thông tin về giao dịch bảo đảm từ thời điểm nhận đơn
đến thời điểm đơn được ghi nhận trong Sổ Đăng ký hoặc trong Hệ thống dữ liệu
về giao dịch bảo đảm. Từ đó, có thể gây rủi ro cho người yêu cầu cung cấp
thông tin trong khoảng thời gian giải quyết đơn. Chính vì vậy, ở Bang
Caliphonia của Hoa Kỳ (là nơi thực hiện việc đăng ký bằng giấy), chủ nợ
thường phải lấy thông tin hai lần đối với một giao dịch bảo đảm.
- Có thể phát sinh sai sót trong việc nhập dữ liệu từ đơn yêu cầu đăng ký
vào Sổ Đăng ký hoặc Hệ thống dữ liệu về giao dịch bảo đảm.
- Chi phí liên quan đến việc đăng ký, gửi đơn đăng ký cũng gia tăng, nếu
địa điểm đăng ký ở xa.
1.4. Các quy định về tiêu chuẩn, chức danh của đội ngũ cán bộ làm công
tác đăng ký giao dịch bảo đảm hiện vẫn chưa được thống nhất và ban hành, dẫn
đến tình trạng công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại một số cơ quan đăng ký
vẫn phải do cán bộ kiêm nhiệm thực hiện, cán bộ đăng ký không được đào tạo
chuyên sâu và toàn diện về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, ảnh hưởng đến
chất lượng của công tác đăng ký giao dịch bảo đảm.
1.5. Hệ thống pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam, về cơ
bản đã phù hợp và tiếp cận được với những chuẩn mực của pháp luật hiện đại về
đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện như: đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm, thứ tự ưu tiên
khi xử lý tài sản bảo đảm, hồ sơ, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, quản lý nhà
nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Từ đó, việc xây dựng Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm là cần thiết nhằm
khắc phục các hạn chế nêu trên và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho cá nhân và tổ chức trong quá
trình đăng ký và tìm hiểu thông tin về giao dịch bảo đảm và đáp ứng yêu cầu của
việc hội nhập kinh tế quốc tế.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT ĐĂNG
KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

2
Việc xây dựng dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm dựa trên những
quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Dự án Luật phải thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp, cải cách hành
chính trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho
công chúng dễ dàng tiếp cận với hệ thống các cơ quan đăng ký và được cung
cấp đầy đủ các thông tin cần thiết để xem xét, quyết định trước khi giao kết các
giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại.
2. Dự án Luật phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất,
đồng bộ với hệ thống pháp luật Việt Nam, kế thừa và pháp điển hóa các quy
định hiện hành đã và đang phát huy có hiệu quả trong thực tiễn.
3. Tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước có hệ thống pháp luật
về đăng ký giao dịch bảo đảm phát triển đạt trình độ cao, đồng thời, cũng phải
có tính khả thi và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
4. Nội dung của dự thảo phải đáp ứng yêu cầu công khai hoá và minh
bạch các giao dịch bảo đảm. Mở rộng phạm vi các trường hợp đăng ký giao dịch
bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, để tăng cường an toàn pháp lý cho các giao dịch
và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của các chủ thể tham gia các giao dịch
dân sự, kinh doanh, thương mại.
5. Từng bước đổi mới về tổ chức các cơ quan đăng ký, hướng tới mục tiêu
đăng ký tập trung, nối mạng và tin học hoá.
6. Thống nhất quy trình đăng ký các loại giao dịch bảo đảm, đồng thời chú
trọng tới các điểm đặc thù đối với việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; bảo đảm các nguyên tắc: Đơn giản, thuận
tiện, khoa học và chính xác trong quy trình đăng ký, cung cấp thông tin; công
khai hoá các giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm cho mọi cá nhân, tổ chức
có nhu cầu tìm hiểu; xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán.
III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO DỰ THẢO LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO
DỊCH BẢO ĐẢM
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, dự án Pháp lệnh về Đăng ký giao dịch
bảo đảm được đưa vào Chương trình chuẩn bị của Chương trình xây dựng Luật,
Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI (theo Nghị quyết số 12/2002/QH11
ngày 16/12/2002). Căn cứ vào Nghị quyết số 222/2003/NQ-UBTVQH11 ngày
10/02/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI về việc thực
hiện Nghị quyết số 222/2003/NQ-UBTVQH11 nói trên, Bộ Tư pháp được Chính
phủ giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng dự án Pháp lệnh
về Đăng ký giao dịch bảo đảm.
Nhằm triển khai công tác xây dựng dự án Pháp lệnh này, Bộ Tư pháp đã
tiến hành thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự thảo Pháp lệnh về Đăng ký
giao dịch bảo đảm. Thành viên của Ban soạn thảo, Tổ Biên tập gồm có đại diện
của các Bộ, ngành có liên quan đến công tác đăng ký giao dịch bảo đảm như Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông

3
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy sản, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ
Nội vụ, Ngân hàng Nhà nước.
Từ khi thành lập đến năm 2007 (năm chấm dứt nhiệm kỳ của Quốc hội
khóa XI), Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Pháp lệnh đã thực hiện được những
công việc sau:
(1). Soạn thảo dự thảo Pháp lệnh về Đăng ký giao dịch bảo đảm. Đến cuối
năm 2007, Ban soạn thảo và Tổ biên tập đã xây dựng và chỉnh lý được tám (08)
dự thảo Pháp lệnh;
(2). Tổ chức các cuộc Tọa đàm, Hội thảo tại nhiều tỉnh, thành phố nhằm
lấy ý kiến của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác
đăng ký giao dịch bảo đảm, các chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực
đăng ký giao dịch bảo đảm trên phạm vi cả nước, các chế định tài chính trong
nước và quốc tế;
(3). Tổ chức khảo sát thực trạng đăng ký giao dịch bảo đảm và nhu cầu
hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại những tỉnh, thành phố lớn
có hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm phát triển và những tỉnh, huyện nằm
trên những địa bàn kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, thuộc vùng sâu, vùng xa;
(4). Tổ chức rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về đăng ký
giao dịch bảo đảm; tổ chức nghiên cứu và khảo sát trực tiếp một số nước có hệ
thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm phát triển tại các khu vực Bắc
Mỹ, Châu Âu cũng như những nước nằm trong khu vực có trình độ phát triển
tương đồng với Việt Nam.
Sau khi kết thúc nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XI và chuyển sang nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XII, ngày 21/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị
quyết số 11/2007/NQ-QH12 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của
Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII và năm 2008. Theo Nghị quyết này, việc xây dựng
dự án Pháp lệnh về Đăng ký giao dịch bảo đảm trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XI đã được chuyển sang việc xây dựng dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm.
Dự án Luật này nằm chương trình chính thức của Quốc hội, dự kiến sẽ được
trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ tư của Quốc hội khóa XII (dự kiến
tháng 10 năm 2008).
IV. BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO
LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm gồm 5 chương, 64 điều, với bố
cục và những nội dung cơ bản sau đây:
1. Chương I. Những quy định chung
Chương này có 7 điều, quy định các vấn đề chung về đăng ký giao dịch
bảo đảm, bao gồm những nội dung chủ yếu: phạm vi điều chỉnh của Luật Đăng
ký giao dịch bảo đảm, đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm, giá trị pháp lý của
việc đăng ký, nội dung quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm và trách
nhiệm quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

4
Về cơ bản, những quy định trong dự thảo được pháp điển hóa từ những
quy định hiện hành. Bên cạnh đó, có những quy định mới mang tính cải cách
nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm theo những quan
điểm chỉ đạo đã đề ra. Trong đó, nổi bật là những vấn đề sau đây:
1.1. Phạm vi điều chỉnh của Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm
Theo Điều 1 dự thảo thì Luật này quy định về trình tự, thủ tục đăng ký
giao dịch bảo đảm và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; quy định về
thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, bao gồm cả đăng ký giao
dịch bảo đảm đối với động sản, tàu bay, tàu biển, quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất.
1.2. Đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 3 của dự thảo Luật)
Dự thảo quy định đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm là những trường
hợp sau đây:
a) Các giao dịch bảo đảm gồm có việc thế chấp, cầm cố tài sản là động
sản, bất động sản;
b) Cho thuê động sản có thời hạn thuê từ một năm trở lên;
c) Cho thuê tài chính;
d) Mua trả chậm, trả dần có bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản là động
sản;
đ) Bán có thoả thuận chuộc hoặc bán hàng thông qua đại lý đối với tài sản
là động sản;
e) Chuyển nhượng quyền đòi nợ;
g) Giao dịch khác nhằm chuyển giao quyền chiếm giữ động sản do pháp
luật quy định.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng pháp điển hoá các quy định hiện hành về các
trường hợp bắt buộc phải đăng ký, cụ thể là:
a) Thế chấp quyền sử dụng đất;
b) Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng;
c) Thế chấp vườn cây lâu năm;
d) Thế chấp tàu bay, tàu biển;
đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định.
1.3. Trách nhiệm quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 7
của dự thảo Luật)
Để tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, dự thảo Luật đã xác định
rõ trách nhiệm của từng cơ quan (Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) trong việc giúp Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.
5
2. Chương II. Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản
Chương này có 29 điều, bao gồm các quy định về nguyên tắc đăng ký
giao dịch bảo đảm, thời hạn có hiệu lực của đăng ký, phương thức yêu cầu đăng
ký, cung cấp thông tin, các trường hợp từ chối đăng ký, trình tự, thủ tục đăng ký
giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển và các động sản khác... Để bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và giúp
người dân dễ dàng tiếp cận với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này,
dự thảo Luật đã quy định trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động
sản nói chung và tàu bay, tàu biển nói riêng.
Những vấn đề cơ bản, thể hiện quan điểm chỉ đạo được quy định tại
Chương này bao gồm:
2.1. Nguyên tắc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 8 của dự thảo
Luật)
Cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới, đối với động sản không phải là
tàu bay, tàu biển thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm đều thực hiện đăng ký dựa
trên nguyên tắc “nộp thông báo”, chứ không phải là “đăng ký hồ sơ”. Theo đó,
người yêu cầu đăng ký sẽ kê khai những thông tin cơ bản nhất về giao dịch bảo
đảm theo mẫu đơn đã chuẩn hóa. Do vậy, dự Luật quy định như sau:
- Việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản, trừ các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này, được thực hiện trên cơ sở nội dung kê khai trong
đơn của người yêu cầu đăng ký. Các nội dung kê khai trong đơn yêu cầu đăng
ký phải chính xác, đầy đủ, trung thực.
- Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển được thực hiện
trên cơ sở kiểm tra hồ sơ yêu cầu đăng ký và đối chiếu với thông tin được lưu
giữ tại cơ quan đăng ký.
2.2. Phương thức yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm
Ngoài các phương thức yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm hiện hành là:
nộp trực tiếp, gửi qua đường bưu điện và đăng ký qua fax, dự thảo Luật đã quy
định về phương thức yêu cầu đăng ký hiện đang được nhiều nước có hệ thống
đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại áp đụng là: Gửi đơn qua mạng theo hình
thức thông điệp dữ liệu điện tử. Theo đó, đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo
đảm bằng động sản, trừ tàu bay, tàu biển, được nộp theo một trong các phương
thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại cơ quan đăng ký;
b) Gửi đơn qua đường bưu điện;
c) Gửi đơn qua fax. Việc gửi đơn qua fax chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá
nhân là khách hàng thường xuyên của cơ quan đăng ký;
d) Gửi đơn qua mạng theo hình thức thông điệp dữ liệu điện tử.
2.3. Thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 13 dự thảo Luật)

6
Đối với trường hợp giao dịch bảo đảm bằng động sản không phải là tàu
bay, tàu biển thì dự thảo quy định thời điểm đăng ký là thời điểm các thông tin
về quyền được bảo đảm có thể tra cứu được. Lý do của quy định này vì một
trong những mục tiêu cơ bản của việc đăng ký giao dịch bảo đảm là công khai
hoá thông tin. Chỉ sau khi công khai hóa thông tin, việc đăng ký giao dịch bảo
đảm mới hoàn tất mục đích cơ bản của mình và thông tin về giao dịch bảo đảm
mới có thể được tra cứu để người thứ ba biết về quyền được bảo đảm.
Trong khi đó, phù hợp với nguyên tắc đăng ký hiện đang được áp dụng
đối với tàu bay, tàu biển thì dự thảo Luật quy định: “Thời điểm đăng ký các giao
dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển là thời điểm thông tin về giao dịch bảo
đảm được ghi vào Sổ Đăng bạ tàu bay Việt Nam, Sổ Đăng ký tàu biển quốc gia
Việt Nam”. Quy định này phù hợp với Bộ luật hàng hải Việt Nam và Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam.
2.4. Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 16, Điều 29 và Điều 33
của dự thảo Luật)
Pháp điển hoá các quy định hiện hành, dự Luật đã quy định về thẩm
quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (tàu bay, tàu biển
và các động sản khác không phải là tàu bay, tàu biển). Quy định này không dẫn
đến những thay đổi lớn về mô hình, tổ chức của hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm bằng động sản, cụ thể như sau:
- Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản là Trung tâm Đăng
ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư
pháp, trừ trường hợp tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển.
- Cơ quan đăng ký tàu biển khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam thực
hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu biển đã đăng ký vào Sổ đăng ký
tàu biển quốc gia.
- Cục Hàng không Việt Nam thuộc Bộ Giao thông Vận tải thực hiện việc
đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay.
2.5. Trình tự, thủ tục đăng ký (các điều tại Mục 2, Mục 3, Mục 4 và Mục 5
Chương II của dự thảo Luật này)
Dự thảo Luật đã pháp điển hóa những quy định của pháp luật hiện hành về
trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản. Đây là những quy
định đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đánh giá cao về tính hiệu quả và phù hợp
với quá khứ, hiện tại và tương lai đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, dự thảo
Luật sửa đổi quy định hiện hành về hồ sơ đăng ký theo hướng người yêu cầu
đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản không phải là tàu bay, tàu biển chỉ
cần nộp một văn bản duy nhất là đơn yêu cầu đăng ký. Việc sửa đổi này phù hợp
với nguyên tắc đăng ký thông báo và thông lệ của các nước. Đối với giao dịch
bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển thì dự thảo Luật đã quy định phù hợp với pháp
luật về hàng không, pháp luật về hàng hải Việt Nam và thông lệ quốc tế.

7
Bên cạnh quy định về trình tự, thủ tục đăng ký đối với đơn giấy, dự thảo
Luật cũng quy định về trình tự, thủ tục đăng ký trực tuyến qua mạng điện tử
nhằm tạo cơ sở cho các quy định hướng dẫn chi tiết việc đăng ký bằng phương
thức này.
3. Chương III. Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất
Chương này có 16 điều, quy định về nguyên tắc đăng ký, thời hạn có hiệu
lực của việc đăng ký, thời điểm đăng ký, trình tự, thủ tục thực hiện việc đăng
ký... Những vấn đề cơ bản, thể hiện quan điểm chỉ đạo được quy định tại
Chương này bao gồm:
3.1. Nguyên tắc thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất
(Điều 37 của dự thảo Luật)
Việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được
thực hiện sau khi đã kiểm tra, đối chiếu nội dung yêu cầu đăng ký, hồ sơ yêu cầu
đăng ký và thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký.
3.2. Phương thức yêu cầu đăng ký (Điều 40 của dự thảo Luật)
Người yêu cầu đăng ký có quyền nộp đơn yêu cầu đăng ký tại bất cứ thời
điểm nào trong thời hạn từ ngày giao dịch được ký kết đến trước ngày chấm dứt
giao dịch đó.
Việc yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
được thực hiện theo một trong các phương thức sau đây:
- Nộp đơn trực tiếp tại cơ quan đăng ký;
- Gửi đơn dưới hình thức gửi bảo đảm đến cơ quan đăng ký;
- Các phương thức khác, nếu pháp luật có quy định.
3.3. Thời điểm có hiệu lực của việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất,
tài sản gắn liền với đất (Điều 43 của dự thảo Luật)
Một trong những mục tiêu cơ bản của việc đăng ký giao dịch bảo đảm là
công khai hoá thông tin. Chỉ sau khi công khai hóa thông tin, việc đăng ký giao
dịch bảo đảm mới hoàn tất mục đích cơ bản của mình và thông tin về giao dịch
bảo đảm mới có thể được tra cứu để người thứ ba biết về quyền được bảo đảm.
Với ý nghĩa đó, dự thảo Luật đã quy định: “Thời điểm đăng ký thế chấp quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là thời điểm thông tin về giao dịch bảo đảm
được nhập vào Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm, hồ sơ địa chính hoặc Sổ
đăng ký giao dịch bảo đảm”.
3.4. Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất (mục 2, mục 3 và mục 4 của dự thảo Luật)
Dự thảo Luật quy định về hồ sơ, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng
đất, tài sản gắn liền với đất theo 3 trường hợp, đó là: thế chấp quyền sử dụng
đất, thế chấp tài sản gắn liền với đất và thế chấp đồng thời cả quyền sử dụng đất

8
và tài sản gắn liền với đất. Với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, dự thảo
Luật đã quy định trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản nhưng vẫn bảo đảm mục tiêu
quản lý nhà nước về bất động sản.
4. Chương IV. Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm
Chương này 10 điều, bao gồm các quy định về quyền tìm hiểu thông tin
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, các phương thức tiếp cận thông tin, thẩm
quyền và nguyên tắc cung cấp thông tin, nội dung thông tin được cung cấp và
tính chính thức của Hệ thống dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm và Sổ đăng
ký giao dịch bảo đảm.
5. Chương V. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 2 điều, quy định về hiệu lực của Luật và bãi bỏ quy định
tại Điều 130 Luật Đất đai năm 2003.
Trên đây những nội dung cơ bản của dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo
đảm.

You might also like