You are on page 1of 27

Rèn nếp tự quản, tinh thần tự

học cho học sinh


Viết bởi Phạm Thị Thu Hà   
Thứ sáu, 18 Tháng 2 2011 08:41

LỜI CẢM ƠN

Có được bản sáng kiến kinh nghiệm này trước hết là lòng yêu nghề, tinh thần tận tâm,
tận lực, bám trường, bám lớp của bản thân. Bên cạnh đó, là sự giúp đỡ của đồng
nghiệp trong tổ khối, Hội đồng khoa học trường Tiểu học Thiện Hưng A – Bù Đốp –
Bình Phước. Sự cổ vũ động viên việc viết áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong dạy
học của phòng GD-ĐT Bù Đốp.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót. Kính mong sự
đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, Hội đồng khoa học các cấp để đề tài “Rèn nếp tự
quản, tinh thần tự học cho học sinh” đạt hiệu quả cao.

Bản thân tôi xin chân thành cảm ơn!

Thiện Hưng, ngày 20 tháng 01 năm 2011

Người thực hiện: Phạm Thị Thu Hà

I . ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

a-Lý do về mặt lý luận

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, tương
lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình
và Xã hội dành cho trẻ những điều kiện sống tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh
thần, trí tuệ, tình cảm và đạo đức của trẻ. Vâng, trẻ em ngày nay đã được tiến lên một
vị trí mới trong xã hội, các em được hưởng những điều kiện ưu tiên để sống và phát
triển nên người.

Chúng ta thấy rằng, thai nhi trong bụng mẹ tự phát triển thành em bé. Bé tự cất tiếng
khóc chào đời, tập bú, tập ăn, tập lẫy, tập bò, ê a tập nói… Bé tự học, tự phát triển
trong vòng tay thương yêu của cha mẹ. Lớn hơn một chút, bé tự học, tự rèn nào là
múa, vẽ, hát ca, làm tóan, làm văn..…dưới sự hướng dẫn của cô thầy. Như vậy, tự
học, tự rèn, tự phát triển là điều kiện cốt lõi giúp phát triển bản thân trẻ.

Trong xu thế hiện nay, phương pháp giáo dục tập trung vào vai trò người giáo viên
sang phương pháp tập trung vào vai trò của học sinh. Từ hình thức dạy học đồng loạt
sang hình thức dạy học bằng việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy tính chủ động,
tích cực, sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học mới nhằm phát huy khả năng
và kiến thức của học sinh ở mức cao nhất, ở đó các em không bị “áp đặt” phải nghe và
tiếp nhận kiến thức một cách thụ động mà các em được chủ động tự chiếm lĩnh tri thức
dưới sự tổ chức, hướng dẫn và giải thích của giáo viên. Giáo viên phải tạo được hình
thức khơi dậy ở các em lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho học sinh một động
cơ học tập, có nhu cầu học tập để tiếp thu những kiến thức mới. Khi có hứng thú học
tập thì các em tham gia hoạt động sôi nổi, hào hứng và tích cực. Hứng thú với học tập
là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc học tập của học sinh mang lại
hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán.

b-Lý do về mặt thực tiễn

Qua những năm giảng dạy thực tế, qua trao đổi với đồng nghiệp bản thân rút ra được
một số kinh nghiệm để tăng cường sự hứng thú trong học tập cho HS, giúp các em chủ
động tham gia tích cực các hoạt động học tập:

1/ Thực hiện việc đổi mới trong phương pháp giảng dạy: Giáo viên phải chủ động thực
hiện đổi mới cách giảng dạy, cách học của học sinh, đổi mới cách đánh giá học sinh
theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo từ đó sẽ có tác dụng tốt trong việc
đưa học sinh từ vai trò thụ động sang vai trò chủ động trong việc tiếp thu kiến thức bài
giảng.

2/ Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng HS tùy theo trình độ
HS, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu
quá dễ hoặc quá khó cho HS.

3/ Dạy học theo nhóm, trình độ: Một phương pháp giúp cho tất cả các HS cùng tiến bộ:

Trong giảng dạy, người giáo viên luôn chú ý, quan tâm tích cực đến việc rèn cho lớp
nếp tự quản, tinh thần tập thể để các em có tính tự giác, tích cực trong học tập và sinh
hoạt thì kết quả giáo dục sẽ tốt hơn.

Từ những suy nghĩ, trăn trở như trên bản thân tôi đã mạnh dạn nảy sinh viết sáng kiến
kinh nghiệm: “ Rèn luyện nếp tự quản, tinh thần tự học cho học sinh”.

2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

a) Đối tượng nghiên cứu

- Phương pháp giảng dạy “Rèn nếp tự quản, tinh thần tự học cho học sinh”.

- Những biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy.

b. Khách thể nghiên cứu:

Giáo viên, học sinh Khối Hai và phụ huynh học sinh.
3. Phạm vi nghiên cứu:

Giáo viên, học sinh Khối Hai, Trường Tiểu học Thiện Hưng A.

4. Mục đích nghiên cứu:

- Ở độ tuổi lên 7, các em đã có được hai năm được làm quen với tổ chức Đội Sao. Tuy
còn bỡ ngỡ nhưng các em cũng đã thấy được những hoạt động của sao đòi hỏi tính tự
giác, tinh thần tập thể cao.

Vì vậy rèn cho các em tính tự quản, tinh thần tập thể sẽ giúp cho các em có tính chủ
động, sáng tạo, mạnh dạn hơn trong học tập và tham gia các hoạt động một cách tích
cực hơn.

- Thông qua tập thể lớp kết hợp với các hoạt động của Sao, dưới sự hướng dẫn của
giáo viên giáo dục tinh thần tập thể còn có tác dụng hình thành nhân cách cho học
sinh. Giúp các em biết học tập và noi gương những hành vi tốt, những cử chỉ cao đẹp
của các bạn trong lớp mình.

5.Kế hoạch nghiên cứu:

- Tháng  9/2010:   Đăng kí đề tài.

- Tháng 10/2010:  Xây dựng đề cương; mẫu công cụ nghiên cứu.

- Tháng 11/2010:  Tài liệu xây dựng cơ sở lý luận đề tài;

Khảo sát thực trạng đề tài.

- Tháng 12/2010:   Phân tích, xử lí số liệu ( Học kì 1). Viết và hoàn thành đề tài.

Nộp đề tài.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.Nghiên cứu thực trạng

- Trong lớp đầu năm có 32HS/13: 27/9 HS thực hiện đầy đủ, 5/4 HS chưa thực hiện
đầy đủ, 2/2 HS khuyết tật.

- Trước tình hình lớp có nhiều khó khăn:

+ Học sinh trong lớp còn hay chửi thề, nói tục, đánh nhau…

+ Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn: Nhà nghèo, ở với ông bà do cha mẹ mất
sớm nên ảnh hưởng đến việc học hành của các em…

+ Còn phần lớn các em trong lớp có bố mẹ xuất thân từ thành phần buôn bán nhỏ,
trình độ văn hoá thấp không có khả năng kèm cặp con cái ở nhà.

+ Chưa tự giác trong học tập, còn nói chuyện riêng nhiều, hay quên sách vở, bỏ bài
không chịu làm…

+ Trong lớp học chưa tự quản lớp tốt, còn ồn dẫn tới chất lượng học tập không cao.

+ Chưa trau dồi kiến thức, chưa nêu cao trách nhiệm học tập, phẩm chất đạo đức của
các em; chưa gương mẫu, yêu thương đối xữ công bằng; đoàn kết với các bạn trong
lớp, trong tập thể chưa cao.

+ Một số em khuyết tật hạn chế giờ thể dục nên sức khỏe còn yếu.

+ Công tác phối hợp với Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí
Minh chưa cao, chưa chặt chẽ.

+ Tinh thần đoàn kết, giúp bạn bè khuyết tật và có hoàn cảnh khó khăn chưa có.

+ Góp phần bảo vệ và phát huy truyền thống của lớp, của trường; an toàn giao thông
chưa mạnh dạn.

Bản thân nhận thấy các em rất thiếu thốn, thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Chính
vì vậy chỉ có tập thể lớp mới có thể lôi cuốn hấp dẫn và cuốn hút các em vào những
công việc chung của lớp, của Đội, Sao. Các em được sống trong tình gắn bó, yêu
thương của bạn bè, nên xây dựng được tập thể lớp tốt vừa giúp các em rèn luyện đạo
đức mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Do đó tập
thể lớp là sân chơi hấp dẫn nhất của các em.

2. Các giải pháp:

Trong những năm qua tình hình thực hiện công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường
của chúng tôi rất tốt. Có chăng là những hành vi nghịch ngợm của trẻ thơ mà ở bất cứ
nhà trường tiểu học nào cũng có thể xảy ra như: Trèo cây, leo bàn học, đánh nhau,
trêu chọc bạn, vẽ bậy lên tường …Tuy nhiên tính tự quản ở một số lớp đặc biệt là khối
1, khối 2 chưa cao; hiện tượng nói chuyện trong giờ học, chưa biết tự giác chào khách,
chưa tự giác trong học tập vẫn còn xảy ra. Chính những hiện tượng đó, bản thân luôn
chú ý và tìm ra một số biện pháp khắc phục cụ thể như sau:

2.1/ Giáo viên tiến hành phân nhóm đối tượng học sinh:

Giáo viên cần thực hiện thường xuyên công tác phân loại học sinh, đặc biệt vào đầu
năm học giáo viên khảo sát chất lượng của học sinh 2 môn Toán, Tiếng Việt. Tuy
nhiên, đầu năm chưa chắc đã thực hiện được khách quan tính chính xác trình độ của
từng em, vì vậy trong năm học giáo viên vừa dạy vừa theo dõi cũng như tham khảo
giáo viên lớp dưới để đưa ra kết luận chính xác và khoanh nhóm đối tượng để đề ra
phương pháp dạy học thích hợp cho từng nhóm đã phân loại.
Ví dụ : Trong môn Tiếng Việt

* Phân nhóm đối tượng:

Nhóm học sinh đọc thông, viết thạo (học sinh giỏi, khá)

Nhóm học sinh không đọc được

Nhóm học sinh vừa đọc vừa đánh vần

Nhóm học sinh viết còn yếu (sai chính tả nhiều)

- Đối với nhóm học sinh không đọc được:

Trong giờ tập đọc giáo viên phải giúp học sinh mở SGK tìm bài đọc. Khi giáo viên hoặc
bạn đọc các em phải chú ý lắng nghe, nhìn dò theo từng mặt chữ (đếm theo). Đây là
một phương pháp theo hình thức ghi nhớ máy móc nhưng bắt buộc các em phải thực
hiện. Thỉnh thoảng giáo viên hỏi các em bạn mình đã đọc đến chữ gì (nghe-nhắc lại)
các em phải chỉ đúng và đọc lại. Tuy chỉ là học vẹt nhưng cũng tạo nên nề nếp học tập
và phần nào giúp các em khi có điều kiện được giáo viên hoặc cha mẹ hướng dẫn
thêm sẽ tiếp thu dễ dàng.

- Đối với nhóm học sinh vừa đọc vừa đánh vần:

Nhóm này tuy có phần hơn nhóm không đọc được nhưng vẫn là gánh nặng cho giáo
viên, khi lên lớp giáo viên phải yêu cầu các em phải dò theo khi giáo viên hoặc bạn
đang đọc. Ngồi ra phải khuyến khích các em đọc câu, đoạn ngắn. Giáo viên phải theo
dõi, gợi ý, hướng dẫn học sinh cách đánh vần. Ví dụ : đ - uôi - đuôi: Đánh vần trong
phần đầu vần trước, các tiếng còn lại tương tự như vậy sẽ nhanh hơn. Để cùng một lúc
hướng dẫn, giúp đỡ được nhiều em. Song song đó giáo viên sắp xếp các em giỏi, khá
ngồi gần các em này để các em có thể hướng dẫn bạn đọc được dễ dàng hơn.

- Đối với nhóm học sinh viết còn yếu (đọc được nhưng viết còn sai chính tả)

Giáo viên cần tranh thủ sự giáo dục của gia đình bằng cách hướng dẫn đọc cho các
em nghe - viết các vần, từ, câu vào vở và xem trước bài viết ở nhà, đọc và gạch chân
những từ các em cảm thấy khó viết, dễ sai và luyện viết trước vào vở nháp. Khi lên lớp
giáo viên sẽ lưu ý cho các em một số từ khó khác, hướng dẫn, phân tích âm, vần, phân
biệt nghĩa của từ. Trước khi viết vào vở, giáo viên đọc cho học sinh viết vào bảng con
trước. Nếu từ nào HS không biết thì giáo viên đánh vần để học sinh nghe, viết. Viết
xong giáo viên chấm điểm, chữa lỗi cho học sinh.

- Đối với nhóm học sinh đọc thông viết thạo:

Giáo viên chủ yếu hướng dẫn, tổ chức cho các em tự học. Nếu các em đã đọc tốt rồi
thì khuyến khích các em đọc diễn cảm hơn. Qua đọc, các em tự rút ra ý nghĩa của từng
câu, đoạn, bài. Các em là những học sinh đắc lực giúp giáo viên rèn các em yếu kém.
Những học sinh viết chữ đúng, đẹp, đúng chính tả khi giáo viên cho các em làm thư kí
nhóm, viết mẫu trên bảng con, bảng lớp cho cả lớp xem. Ngồi giờ học, có điều kiện thì
giáo viên cho các em trang trí lớp, viết bài mẫu. Đó cũng là phương pháp giúp các em
tự thể hiện những mặt tích cực của bản thân.

- Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà: Mặc dù không giảng dạy tất cả các môn cho các
em (dạy chuyên sâu) nhưng bản thân vẫn theo sát bài học ở lớp của các em để hướng
dẫn học sinh tự học ở nhà. Việc chuẩn bị tốt bài ở nhà sẽ làm cho trẻ hứng thú, năng
động, tự tin và tích cực trong các tiết học ở lớp.

- Học bài cũ: Bản thân thường chỉ rõ cho học sinh kiến thức cơ bản thông qua các hoạt
động giảng dạy, thảo luận nhóm rút ra nội dung cần nhớ, về nhà trao đổi ý kiến với mọi
người về một vấn đề đang thắc mắc để các em dễ dàng ghi nhớ có suy nghĩ, tránh học
vẹt, học mà chẳng hiểu gì.

Chính vì thế mà phải cùng nhau kết hợp xử lý thì các em mới trở thành người con
ngoan trò giỏi được.

2.2/ Giáo viên cần thường xuyên cải tiến nội dung và các hình thức tổ chức dạy
học trong mỗi tiết học như:

- Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách
phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong học tập.

- Tổ chức các trò chơi học tập, cải tiến các bài tập trong SGK thành trò chơi, câu đố
hay giải ô chữ để thu hút sự chú ý ở học sinh,... để các em được học mà chơi, chơi mà
học.

Ví dụ : Trò chơi " Tìm bạn cho tôi": Mỗi đội có 20 tấm thẻ bằng bìa, trên đó ghi những
phép tính toán học. Trong đó có các phép tính có giá trị bằng nhau. Cách chơi: Chia
lớp thành các đội, mỗi đội từ 4-6 em. Trong khoảng thời gian là 5 phút các đội phải tìm
được các cặp đôi phép tính có kết quả bằng nhau. Đội nhanh nhất, đúng nhất là đội
chiến thắng.

Giáo viên thay hình thức tính nhẩm trong các dạng toán +, -, x, : thành trò chơi thi đua
tiếp sức giữa các tổ, hay trò chơi, “câu cá”

- Thay hỏi đáp tìm từ ngữ trong một chủ đề: Tìm từ có tiếng "học" giáo viên cho chơi trò
chơi " Tổ ong "; chú ong mang tiếng học, ... học sinh cầm thẻ tổ ong viết từ tìm được
gắn xung quanh chú ong, ... thay cho hỏi đáp, ít học sinh được tham gia, động não.

2.3/Sử dụng phối hợp bài tập trắc nghiệm giúp tiết học thêm phong phú, sinh
động.

Ví dụ: Thay vì cứ lặp đi lặp lại việc giải toán có lời văn, thỉnh thoảng giáo viên thay đổi
hình thức trắc nghiệm: Một bình hoa có 3 bông hoa. Vậy 5 bình có tất cả số bông hoa
là :

a. 8 bông hoa                 b. 12 bông hoa                  c. 15 bông hoa

HS sẽ chọn chữ cái đặt trước kết quả đúng nhất

2.4/ Giáo viên có thể sử dụng phương tiện dạy học "Ứng dụng công nghệ thông
tin", thiết kế giáo án điện tử để nâng cao hiệu quả giảng dạy, học sinh tiếp thu
bài tốt.

Ví dụ : Môn TNXH, luyện từ và câu...giáo viên sử dụng những đoạn phim hình ảnh thật,
tiếng động, âm nhạc...để minh hoạ các nội dung có liên quan trong bài mà học sinh khó
được quan sát một cách thực tế, các em sẽ rất hứng thú và ghi nhớ bài lâu hơn.

2.5/ Môi trường học tập cũng là một yếu tố quan trọng giúp phát huy tính tích
cực của học sinh, cụ thể trong lớp học.

Bốn bức tường đơn điệu của lớp học được giáo viên và học sinh tận dụng để hổ trợ
cho việc học:

Ví dụ: Trưng bày “ Sản phẩm của em”: Các sản phẩm đẹp do các em làm ra sau khi
học thủ công, mĩ thuật, … được trang trí trên tường để học sinh trong lớp cùng xem,
học tập lẫn nhau, kích thích học sinh phấn đấu hoàn thiện làm đẹp sản phẩm của mình
để được biểu dương trước lớp. Hay là:

+ Góc văn thơ: Tôi chọn những học sinh viết chữ đẹp viết một số bài thơ, đoạn văn hay
đã học trong tuần hoặc các bài sưu tầm trên báo,... dán lên, để tất cả học sinh cùng
đọc nhằm kích thích sự yêu mến văn thơ, yêu thích viết chữ đẹp cho các em.

+ Góc toán học: Là nơi trưng bày những bài giải Toán, những bài tìm thành phần chưa
biết, các bảng cộng trừ... với các nội dung theo chương trình đang học để khi vui chơi,
lúc rảnh rỗi các em nhìn vào, lâu dần sẽ khắc sâu vào trí nhớ.

+ Góc TNXH: Là một tập tranh vẽ các loài thú, loài chim... giúp các em biết thêm về các
con vật, giúp các em miêu tả khi làm TLV hay vẽ về con vật trong môn Mỹ thuật, xé dán
con vật trong môn Thủ công.

+ Góc thi đua: Nơi gắn cờ biểu dương tổ chăm  ngoan, giữ vệ sinh tốt, tích cực phát
biểu.... giúp học sinh phấn khởi học tập tốt, chấp hành tốt nội qui nhà trường, lớp học.

+ Cạnh đó còn có góc biểu dương bạn học tốt, chăm ngoan: Nơi này ghi tên những học
sinh giỏi, chăm ngoan để làm gương và là niềm vui cho các em. Đồng thời để khuyến
khích học sinh khác phấn đấu noi theo.

+ Học sinh đóng góp truyện, sách báo... để xây dựng thư viện mini cho lớp để trau dồi
kỹ năng đọc, giúp học sinh thư giãn.

Để lớp học luôn phong phú cần thường xuyên thay đổi nội dung cho phù hợp với chủ
điểm học sinh đang học, khuyến khích các em làm các sản phẩm sáng tạo hơn để
trang trí cho các bạn cùng học tập. Thật sự học sinh rất hứng thú, phấn đấu hồn thiện
để sản phẩm của mình được dán lên lớp.

2.6/ Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, học tập ngoài  trời

Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, học tập ngoài trời sẽ giúp học
sinh có điều kiện tiếp xúc môi trường xung quanh, có cơ hội để giao lưu, học hỏi lẫn
nhau. Qua đó rèn luyện tính nhanh nhẹn, sự tự tin, bản lĩnh. Đây là phẩm chất rất cần
thiết của con người trong thời đại mới.

2.7/Giáo viên cần quan tâm đến đối tượng học sinh, phát huy khả năng, sở
trường của các em. Giáo viên cần có sự đối xử công bằng và bình đẳng, khen
chê hợp lý mang tính giáo dục cao, tránh hình thức xử phạt học sinh.

Mỗi học sinh đều có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, khả năng tiếp thu kiến
thức cũng khác nhau. Chính vì vậy, giáo viên cần quan tâm đến các em để từ đó có
những biện pháp, cách thức khác nhau trong giảng dạy nhằm giúp các em đạt được
kết quả tốt hơn trong học tập. Mặt khác sự đối xử công bằng và bình đẵng của giáo
viên đối với học sinh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó học sinh sẽ tin tưởng vào sự
đánh giá, nhận xét của giáo viên và xem giáo viên là người chuẩn mực đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, học sinh tiểu học là lứa tuổi chưa có sự phát triển rõ rệt về tâm sinh lý
cho nên tránh sự mắng nhiếc, xử phạt nặng làm ảnh hưởng đến tâm lý của các em.

2.8/ Giáo dục đạo đức “Rèn nếp tự quản, tinh thần tự học cho học sinh” qua hoạt
động Đội TNTP HCM trong nhà trường :

Hiện nay phong trào Đội, Sao trong nhà trường có vai trò quan trọng trong việc giáo
dục học sinh. Đồng thời cũng chính ở môi trường này tạo cho các em vững vàng hơn,
tự tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống .

+ Sơ kết các hoạt động trong tuần của học sinh: Nề nếp đi học đúng giờ, chuyên cần
nghỉ có giấy phép của cha mẹ đến giáo viên chủ nhiệm và BGH nhà trường, thực hiện
công tác trực nhật vệ sinh trường lớp, công tác thi đua lớp, xử lý các hành vi đạo đức
vi phạm của các em tuỳ theo mức độ mà có biện pháp xử lý cho phù hợp (tránh thái
quá làm mất danh dự thì không nên trừ trường hợp vi phạm nặng). Phải nói rằng học
sinh rất sợ khi được mời lên dưới cờ khiển trách, tâm lý các em cũng biết xấu hổ khi bị
phê bình. Từ đó hình thức sinh hoạt dưới cờ hàng tuần được duy trì rất tốt. Ngoài
những nội dung trên hàng tuần đ/c phụ trách Đội có những nội dung nêu gương người
tốt việc tốt, biểu dương các thành tích của các em đạt được trong học tập cũng như
trong phong trào, rồi tuyên truyền chủ điểm các ngày lễ lớn, các hội thi, các cuộc vận
động …cũng đạt hiệu quả cao.

+ Phát động mô hình vườn hoa học tốt trong các lớp, tạo cho học sinh cùng nhau thi
đua gặt hái kết quả nhiều hơn, hành vi xấu cũng giảm đi nhiều hơn.

+ Mô hình phát thanh măng non cũng được duy trì và có nội dung gắn bó với các
gương, các mẫu hành vi tốt để tuyên truyền đồng thời cũng lấy gương xấu để các em
biết phân biệt và ứng xử tốt hơn.

2.9/ Phát động phong trào kể chuyện theo sách Đạo Đức ở cơ sở

- Nhằm để khắc sâu những chuẩn mực hành vi đạo đức, góp phần hình thành ở học
sinh ý thức đạo đức từ đó định hướng cho các em thực hiện và bước đầu thực hiện
một số hành vi đạo đức. Loại hình này rất sinh động hấp dẫn học sinh tham gia phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em gây cho các em có những xúc cảm đạo đức
mạnh mẽ và giúp cho học sinh hình thành được những biểu tượng về hành vi đạo đức.

- Giáo dục: Không nói dối, phải sống trung thực để rồi không phải hối hận và day dứt,
kết quả của hành vi ấy là cuối cùng phải chuyển trường để  các bạn không trêu ghẹo.

Giáo dục: Lòng nhân ái của con người, có trái tim không thờ ơ trước những cảnh đời
xót xa …Đó là lời của người Thầy đầu tiên của tôi đóchính là Mẹ của tôi …..

+ Giới thiệu truyện cho các bạn nhỏ tham khảo hàng ngày trên Thư viện để các em tìm
đọc, tham khảo.

+ Cho học sinh của lớp tham gia kể chuyện đạo đức cấp trường, qua hội thi này giúp
các em được nghe nhiều mẫu chuyện có tính giáo dục đạo đức rất cao và biết phân
biệt, biết nhận xét, biết hành vi xấu, hành vi tốt, để các em bổ sung và tự điều chỉnh
hành vi của bản thân ngay .

2.10/ Kết hợp: Gia đình – Nhà trường – Xã hội

- Sự giáo dục “Rèn nếp tự quản, tinh thần tự học cho học sinh” có thành công hay
không cũng phải dựa vào mối quan hệ mật thiết này. Sự phối hợp tương đồng của Nhà
trường – Gia đình – Xã hội sẽ tạo cho chúng ta có một giải pháp tốt hơn để rèn luyện
giáo dục các em. Nó góp phần hình thành ở học sinh những hành vi và thói quen đạo
đức rất quan trọng của nhân cách người công dân, người lao động có khả năng hòa
nhập tích cực vào cuộc sống của cộng đồng xã hội.

- Kết hợp với gia đình: Thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh, yêu cầu bố trí giờ
tự học cho  học sinh tiểu học ở nhà, góc học tập của trẻ cần cách biệt với không gian
sinh hoạt ồn ào của gia đình. Các ngày nghỉ như chủ nhật, ngày lễ không buộc trẻ phải
tự học, kết hợp cho trẻ vui chơi.

2.11/ Định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: Học mọi nơi, học mọi
lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung.

Học mọi nơi: Lê- nin đã từng nói: “Học, học, học nữa, học mãi”; học là học kiến thức,
học cách suy nghĩ tìm ra kiến thức, học ở nhà, ở lớp, ở câu lạc bộ, ở thư viện, ở nơi
nghỉ hè…
Học mọi lúc: Nếu học sinh đã biết học “mọi nơi” thì các em cũng sẽ biết học mọi lúc,
tận dụng lúc rảnh rỗi: Học vào lúc đi du lịch, học trên đường đi chơi, học khi đang hóng
mát…Buổi sáng khi đi tập thể dục, các em có thể quan sát vị trí mọc của mặt trời ở
chân trời phía Đông từ đó tập xác định các hướng Tây- Nam- Bắc, các em cũng có thể
liên hệ đến sự chuyển động của mặt trời trong một ngày. Khi nhà trường tổ chức các
hoạt động ngoại khóa, lúc các em ngồi trên xe đi đến nơi tham quan, giáo viên cũng có
thể giúp các em học cách tính vận tốc của xe bằng cách dựa vào các  cột cây số trên
đường và chiếc đồng hồ; các em thực hiện một trò chơi thú vị  là đếm các cột cây số 
và so với đồng hồ để rồi các em phát hiện ra rằng cứ một kilômet xe chạy mất 1phút
30giây, vậy vận tốc của xe là 40km/giờ. Hoặc lúc ăn xong một viên kẹo sữa, các em
cũng có thể ôn lại từ vựng “milk candy” được viết bằng tiếng Anh trên tờ giấy gói viên
kẹo…..

Học mọi người: Học người thật, việc thật, người tốt, việc tốt, người xưa trong lịch sử,
nhân vật trong truyện… Khi đọc truyện “Vua máy tính Bin Ghết” ( truyện đọc lớp 4), yêu
thích và khâm phục vua máy  tính Bin Ghết - nhà phát minh, nhà kinh doanh, một trong
những người giàu có nhất hành tinh, học sinh học được ở nhân vật Bin Ghết tinh thần
say mê học tập, làm việc; đam mê đọc sách từ khi còn rất bé; ý chí quyết tâm cao…

Học bằng mọi cách: Giáo viên cần giúp cho học sinh thoát khỏi lối học thụ động, đơn
giản là đến lớp nghe giảng, về nhà làm bài, học thuộc bài…Kiên trì giúp học sinh có
thói quen tự đọc sách báo, hứng thú tra từ điển, học qua radio, qua tivi, qua các
phương tiện nghe nhìn, qua các trang web, qua các câu hỏi thông minh….. Phải bằng
mọi cách tự mình tìm ra kiến thức, khám phá cái mới, cái chưa biết bằng hành động và
suy nghĩ của chính mình.

Tóm lại: Học sinh cần rèn luyện cho bản thân tinh thần tự học, kĩ năng tự học. Các em
không chỉ thực hiện việc tự học ở cấp Tiểu học hay Trung học mà việc tự học cần phải
được rèn luyện suốt đời, rèn luyện đến mức nhuần nhuyễn thì mới có thể cập nhật
được tri thức và “nên người” ở thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.

III. KẾT LUẬN

1. Kết quả đạt được

BẢNG THỐNG KÊ TÌNH HÌNH HẠNH KIỂM HỌC SINH

Năm học 2008 – 2009

Lớp TSHS/Nữ THĐĐ Tỉ lệ % CTHĐĐ Tỉ lệ %

2A1 32/13 30/11 93,8 2/2 6.2


2A2 31/12 30/11 96.8 1/1 3.2

2A3 32/13 30/11 93.8 2/2 6.2

Cộng 95/38 90/33 94.7 5/5 5.3

Năm học 2009– 2010

Lớp TSHS/Nữ THĐĐ Tỉ lệ % CTHĐĐ Tỉ lệ %

2A1 32/13 31/12 96.9 1/0 3.1

2A2 31/12 30/11 96.8 1/1 3.2

2A3 32/13 31/12 96.9 1/1 3.1

Cộng 95/38 92/35 96.8 3/5 3.2

Giữa học kì I: 2010– 2011.

Lớp TSHS/Nữ THĐĐ Tỉ lệ % CTHĐĐ Tỉ lệ %

2A1 32/13 32/13 100 0 0

2A2 31/12 31/12 100 0 0

2A3 32/13 32/13 100 0 0

Cộng 95/38 90/33 100 0 0

2/ Bài học kinh nghiệm

Động cơ học tập là yếu tố quan trọng, thúc đẩy, kích thích người học chủ động học tập.
Vì vậy yếu tố chính chi phối, thúc đầy người học tích cực, chủ động học tập là mục đích
của việc học tập. Do đó, giáo viên tạo động cơ học tập cho HS là một việc làm vô cùng
có ý nghĩa, cần được quan tâm đúng mức và thường xuyên. Trên đây là một số biện
pháp tôi đã làm trong thời gian qua và thấy có hiệu quả trong việc giúp HS học tập tích
cực, phấn khởi. Tôi rất mong nhận được sự ủng hộ đóng góp ý kiến để đề tài này ngày
càng hoàn thiện. Tôi mong muốn sẽ được đồng nghiệp đóng góp thêm những kỹ thuật
mới. Điều tôi mong muốn nhất là những kỹ thuật này phù hợp với thực tế giảng dạy ở
các nhà trường và sẽ trở thành công việc quen thuộc của mỗi giáo viên.

Một số biện pháp đổi mới công tác dạy


và phụ đạo học sinh yếu

Viết bởi Nguyễn Thị Quang Trinh   

Thứ sáu, 18 Tháng 2 2011 08:35

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức
là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.

Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực
cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi,
khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên
không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng
phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng
học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.

Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh
trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối
đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả
năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Cần
xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những
biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào
những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao
đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.

Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo
viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là
khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp
phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học
hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.

Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách
nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc
phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ
số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu
học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu sát của ngành, chính
quyền địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh và
đặc biệt là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô trường Tiểu học Thiện Hưng A
thì nhà trường luôn là một trong những trường đứng đầu trong toàn huyện về chất
lượng giáo dục, công tác PCGDTH-XMC và PCTHCS ở địa phương đã đạt chuẩn và
duy trì tốt.

Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ  học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng,
là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục
vươn xa trên con đường học vấn của mình.

Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới
công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 5A3 nói riêng
và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A nói chung.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

2.1 Mục đích

Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí
lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc,
quan tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham
thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học
sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu
hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà
trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm
công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm
cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những
biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này.

2.2 Nhiệm vụ
Khảo sát tình hình học yếu của học sinh khối 5 hiện nay.

Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra
những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.

Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có) nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

3.1 Đối tượng

Giáo viên và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A về việc giúp đỡ các em là
học sinh yếu.

3.2 Thời gian

Từ ngày 10/9/2010  đến 30/9/2010: Lập đề cương.

Từ ngày 1/10/2010 đến 30/11/2010: Nghiên cứu và áp dụng thử trong khối.

Từ ngày 1/12/2010 đến 15/12/2010: Áp dụng rộng rãi trong toàn khối.

Từ ngày 15/12/2010 đến 30/12/2010: Cùng tập thể giáo viên trong khối, trường rút ra
bài học kinh nghiệm và hoàn tất đề tài.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG:

1.1 Thuận lợi

Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của
các em tương đối cao.

Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn
học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu  giảm bớt phần nào
khó khăn trong học tập.

Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh
đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà
trường.

Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung
chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài
học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
1.2 Khó khăn

Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng
cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi
dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau.

Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một  môn học xếp loại yếu khi
điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Tiếng
Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì
của thầy và trò rất cao.

Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ
ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít
quan tâm đến việc học tiếng Việt.

Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục:

Đội ngũ giáo viên

Cơ sở vật chất

Chất lượng đầu vào

Trường chúng tôi luôn đứng trước khó khăn về cơ sở vật chất và chất lượng đầu vào.
Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ
cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.

Thực tế, trong lớp 5A3 mà bản thân chủ nhiệm, phần lớn các em nhà ở xa trường, nhà
em Nhung cách trường đến 9 km, nhà em Điểu Thị Oanh nhà cách trường đến 10 km,
ngày ngày em phải đi về 4 lượt 40 km. Nhà xa, chưa có điện, mỗi buổi tối em phải học
bài bên ngọn đèn dầu, thậm chí Oanh nói: “ Có những hôm hết dầu, con phải ngồi học
bên bếp lửa cô ạ!”.

Bên cạnh đó, địa bàn xã Thiện Hưng là nơi tâp trung nhiều thành phần dân tộc sinh
sống, nhiều gia đình từ miền Bắc, Miền Trung, …đến định cư xây dựng kinh tế mới.
Với đặc thù như vậy nên học sinh trường Tiểu học Thiện Hưng A thuộc rất nhiều vùng
miền khác nhau. Vì vậy, có một số học sinh thuộc con em gia đình đồng bào dân tộc
STiêng, một số học sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu
sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình,  một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của
con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.

2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HỌC SINH YẾU:

2.1 Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên
nhân học sinh yếu có thể là do:

Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh
yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về
nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường.
Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em
chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau
đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.

Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Ở một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người thì ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em
phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò,….

Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với chương
trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là
chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.

2.2 Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học
sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò
giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên
phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây
không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt
mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng
đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức.     Qua quá trình công tác bản thân
nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng
học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích
thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn
cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng
học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích
những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học
sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học
sinh yếu ở hai môn công cụ: Toán và Tiếng Việt.

3. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

3.1 Những biện pháp chung:

3.1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:

Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an
toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của
bản thân mình.

Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng
hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên
mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.

Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví
dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà
em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu
thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ
người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…

3.1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh

Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có
của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của
từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp
thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…

Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các
chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng
này.

Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo
điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học
bài: Giải toán về tỉ số phần trăm (Toán–lớp 5 ), đối với các em học sinh yếu thì các em
chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “Biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số”  là đạt yêu
cầu rồi.

Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em
được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của
mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn
thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.

Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp
giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi
trong một tuần. Tuy nhiên,          việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui
chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.

3.1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:

Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong
học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên
nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá
tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.

Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và
nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng
ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm
cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia
đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò
ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao.
Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng
mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí
phấn đấu vươn lên.

3.1.4 Kèm cặp học sinh yếu:

Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là
bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 5A 3 mà bản thân chủ nhiệm, sau khi thi
khảo sát chất lượng đầu năm thì có 3 học sinh yếu và bản thân đã lên kế hoạch phụ
đạo cho các em.

Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến
những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu
hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…

DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP …

 
Con ông
TIẾNGVIỆT TOÁN Nơi ở Chủ
(bà)
ST động
Họ và tên
T gặp
Đọc Viết yếu Không biết Tính     phụ
yếu tính yếu huynh
trao
đổi về
1               việc
học
2               của
học
sinh,
…               cùng
với
phụ
huynh tìm biện pháp khắc phục.

3.2 Những biện pháp cụ thể:

3.2.1 Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc
phục:

+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như em
Điểu Đức Trọng lớp 5A3, em Hồ Viết Đức, Lương Duy Dư lớp 5A4. Nguyên nhân đọc
yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các
dấu câu (em Trọng), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những từ có vần
khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó,
khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế.

+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường
cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ,
không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng nên dẫn đến.

+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.

+ Tập làm văn:

Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết.
Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em
gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông
qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.

v    Biện pháp:

+ Tập đọc:

Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:

Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi
các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện
đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh
thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút.

Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét
đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó,
thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để
xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra
biện pháp giúp đỡ.

Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc
vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của
mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về
sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi
các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.

Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện  đọc trôi chảy thông
qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và
hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài
đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.

+ Chính tả:

Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:

Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết
khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết
một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết
vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên
phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.

Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ
tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả.

Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,
giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể
cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.

Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp
nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.

+ Luyện từ và câu:

Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.

Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các
em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.

+ Tập làm văn:

Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn.

Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.

Học sinh tự viết lại.

Cần tạo điều kiện  để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích.
Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.

Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành
những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn
cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.

Ví dụ:
Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )

Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức   “ Lễ hội trăng rằm”, tất
cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó.

Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm
xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.

3.2.2Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục

Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Điểu Thị Huyền thì hầu như là không biết tính khi
học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu
biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng
chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân
số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt).

Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ không nắm
được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà
đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân.

Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em
hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ,
giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực
hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối
với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên
vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc
sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh
thực hiện.

Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài
tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có
các chữ số thuộc cùng một hàng.

Ví dụ: 125 +217

Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.

Ví dụ: 56 +1024

Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc
từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên cũng phải
yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy ngăn cách
giữa phần nguyên và phần thập phân thì mới tính toán chính xác được.

Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân
các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong
bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép
tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng.

Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo
cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải
toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và
không biết tính hoặc tính thiếu chính xác.

Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:

Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ
đơn giản.

Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và
trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con
số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn
vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời.

Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.

Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.

Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.

Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường
trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.

Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước
bài mới.

Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động
viên kịp thời.

v         Tóm lại:

Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu
dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy
học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của
tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm
kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.

Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân
luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết,
học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội.
Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công
tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các
em ngày một được nâng cao.
 

PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ

1. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ:

Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện
cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải
pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học
sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế
của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới
để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho  vào  việc đổi mới
dạy và phụ đạo học sinh yếu các khối 4, 5 đạt hiệu quả.

Theo dõi bảng số liệu trong hai năm học của học sinh khối 5, ta               sẽ thấy sự tiến
bộ vượt bậc của các em :

NĂM HỌC TỔNG SỐ HS SỐ HỌC SINH YẾU


KHỐI 5

Số lượng Tỉ lệ

2008 - 2009 136 9 66%

2009 - 2010 85 2 24%

Ñaëc bieät trong naêm hoïc naøy, sau khi aùp duïng saùng kieán kinh nghieäm thì việc
phụ đạo học sinh yếu trong khối, trong lớp 5A 3 bản thân mình chủ nhiệm đến thời điểm
này đạt kết quả rất cao:

NĂM HỌC TỔNG SỐ HS SỐ HỌC SINH YẾU


KHỐI 5

Số lượng Tỉ lệ

2010 – 2011(CKI) 108 1 0,9%

 
 

SỐ HỌC SINH YẾU


TỔNG SỐ HS
NĂM HỌC
LỚP 5A3
Số lượng Tỉ lệ

2010 – 2011(CKI) 27 0 0%

2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học
sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:

Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương
pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.

Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với
chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.

Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong
trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ
nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với
các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng
lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.

Học sinh lớp 5 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình
phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an
tâm học tập.

Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh
với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc
chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả
năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực
của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến
với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta:

“ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành.

3. KẾT LUẬN:

Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ
để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm
thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy.
Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về
mình.

Bản thân xin kết thúc bằng hai câu chuyện sau:

Bản thân muốn giới thiệu đến đồng nghiêp một cuốn sách hay “Bách khoa toàn thư về
những học trò lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và
Picasso…được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ
từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng
họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Câu chuyện trên là một
thông điệp mà bản thân muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy cô,
những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần
chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.

Lớp 5A3 mà bản thân chủ nhiệm có một em học sinh năng lực học còn chậm vì em hay
bị bệnh động kinh hành hạ. Một lần tỉnh dậy sau cơn động kinh, em liền nói: “Cô ơi,
mấy bạn của con đâu rồi? Con xuống lớp học tiếp nghe cô.”, bản thân chợt hiểu thêm
về niềm vui thích của em khi đến trường. Hãy chia sẻ những kinh nghiệm giúp đỡ học
sinh yếu của các thầy cô với chúng tôi, để chúng ta cùng giảm bớt những khó khăn
trong học tập cho các em và giúp các em vươn xa hơn trên con đường học vấn của
mình.

Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm
“Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của
bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết
thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.

Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết
chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi xin
chân thành cảm ơn.

Thiện Hưng, ngày 30  tháng 12 năm 2010

Người viết

Nguyễn Thị Quang Trinh

Giáo viên  khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A

TRAO ĐỔI VỀ CÁCH VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC TIÊN TIẾN

T5, 10 Tháng 12 2009 02:03

I- Khái niệm về SKKN giáo dục tiên tiến


-       Sáng kiến kinh nghiệm giáo dục tiên tiến (SKKN) là kết quả lao động sáng tạo của cán bộ, giáo viên, nhân viên
trong ngành Giáo dục. Thực tế trong nhiều năm cho thấy, SKKN có tác dụng thúc đẩy tiến bộ khoa học giáo dục và
mang lại hiệu quả cao trong hoạt động quản lý, hoạt động giáo dục và đào tạo trong các nhà trường. Đẩy mạnh hoạt
động tổng kết, đúc rút SKKN tiên tiến và phổ biến áp dụng sẽ tạo nên động lực góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện và thực hiện thành công các mục tiêu đổi mới của ngành trong giai đoạn hiện nay.
-       Sáng kiến kinh nghiệm giáo dục tiên tiến là một cụm từ kép, có thể hiểu cụm từ này như sau:
1- Sáng kiến
-       Sáng kiến là tạo ra, tìm ra, xây dựng nên một ý kiến, một ý tưởng, một giải pháp mớivề một đối tượng, một hoạt
động nào đó.
-       Theo từ điển Tiếng Việt "Sáng kiến là ý kiến mới có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn".
2- Kinh nghiệm
-       Kinh nghiệm là một tổng thể tri thức, kỹ năng, kỹ xảo có nguồn gốc thực tiễn, được lĩnh hội và tích luỹ trong qúa
trình hoạt động giao tiếp của chủ thể.
-       Kinh nghiệm phải được xem xét như là toàn bộ thực tiễn xã hội của con người bao gồm tác động qua lại giữa
chủ thể và hoàn cảnh khách quan bên ngoài và kết quả của tác động qua lại đó.
-       Kinh nghiệm là cái có thực, được chủ thể tích luỹ được trong quá trình trải nghiệm, nó là những gì tốt nhất trong
những gì đã kinh qua.
3- Sáng kiến kinh nghiệm giáo dục tiên tiến
-       SKKN GD tiên tiến là những kinh nghiệm thành công ở mức độ cao. Đó là những hoạt động GD- ĐT được tổ
chức tối ưu, cho kết quả giáo dục cao và bền vững, ít hao phí sức lực, tiền của, thời gian của cán bộ, giáo viên, học
sinh.
-       SKKN GD tiên tiến là tổng thể những tri thức, kỹ năng , kỹ xảo mà cán bộ, giáo viên tích luỹ được trong thực
tiễn, là cơ sở của nghệ thuật giáo dục, là cơ sở quan trọng của lý luận giáo dục.
-       Tổng kết SKKN kinh nghiệm GD tiên tiến là một phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, từ phân tích thực
tiễn mà đúc rút ra kết luận kinh nghiệm.
II- Cách viết SKKN
SKKN có thể viết theo cấu trúc sau:
1- Đặt vấn đề (hoặc mở đầu, tổng quan, một số vấn đề chung)
-       Cơ sở khoa học  của vấn đề nghiên cứu:
+       Cơ sở lý luận.
+       Cơ sở thực tiễn
-       Mục đích SKKN .
-       Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
-       Kế hoạch nghiên cứu.
2- Nội dung SKKN
-       Nội dung lý luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm.
-       Thực trạng vấn đề nghiên cứu( cách làm cũ).
-       Mô tả (có đối chiếu, phân tích, so sánh với cách làm cũ)  các giải pháp (hoặc các biện pháp, ứng dụng, đổi mới
…) mà tác giả đã thực hiện, đã sử dụng nhằm làm cho công việc có chất lượng, hiệu quả cao hơn- Đây là phần
trọng tâm của SKKN. (Tuỳ theo đặc điểm từng SKKN mà thực trạng vấn đề nghiên cứu và mô tả giải pháp có thể viết
riêng hoặc có thể kết hợp làm một).
-       Kết quả thực hiện bắt buộc phải có, nên dùng bảng tổng hợp kết quả, số liệu minh hoạ, đối chiếu, so sánh….
3- Kết luận và khuyến nghị
-       Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về SKKN (nội dung, ý nghĩa, hiệu quả…).
-       Các đề xuất và khuyến nghị.
4- Tài liệu tham khảo (nếu có)
Ghi chú: Cấu trúc trên chỉ là 1 trong những cách trình bầy, nếu cán bộ, giáo viên viết theo các cách khác mà vẫn
đảm bảo được các tiêu chí đánh giá thì vẫn cho điểm tối đa.
III- Biểu điểm chấm SKKN
Chấm SKKN theo 4 tiêu chí:
1- Tính sáng tạo (5 điểm) gồm nội dung sau:
- Nội dung đề tài nhằm giải quyết đến những v/đ đổi mới hiện nay.
- Tính mới của SKKN (được xét theo góc độ tương đối).
2- Tính hiệu quả (5 điểm) gồm nội dung sau:
- Thể hiện cách làm tối ưu;
- Cho kết quả cao và bền vững, ít hao phí công sức, tiền của, thời gian ...
3- Tính khoa học và sư phạm (5 điểm) gồm nội dung sau:
- Nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức, quản lý… đề cập trong SKKN phải phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục hiện nay, phù hợp với khoa học giáo dục và các chuyên ngành khoa học khác.
- Không được trái với những nguyên lý, phương châm sư phạm...
4- Tính ứng dụng, phổ biến (5 điểm) gồm nội dung sau:
- Dễ ứng dụng.
- Dễ phổ biến: Trình bầy vấn đề logic (viết gọn, rõ các bước thực hiện, có phân tích, đối chiếu, so sánh).
IV- Nội dung đúc rút, tổng kết SKKN giáo dục tiên tiến trong năm học 2008- 2009
Trọng tâm hoạt động SKKN năm học 2008- 2009 tập trung vào phổ biến, áp dụng và nâng cao chất lượng SKKN.
Thực hiện "Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lý tài chính và triển khai phong trào xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"; nội dung nghiên cứu SKKN giáo dục tiên tiến cần tập trung  nghiên
cứu sâu vào những lĩnh vực đổi mới như:
-         Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, triển khai các mặt hoạt động trong nhà trường.
-         Đổi mới hoạt động tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, giáo viên ở đơn
vị.
-         Đổi mới thực hiện tổ chức hoạt động các phòng học bộ môn, phòng thiết bị và đồ dùng dạy học, phòng thí
nghiệm; xây dựng cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động thư viện, cơ sở thực hành, thực tập.
-         Đổi mới trong triển khai, bồi dưỡng giáo viên thực hiện giảng dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới.
-         Đổi mới trong tổ chức học 2 buổi/ngày, tổ chức bán trú trong nhà trường.
-         Đổi mới nội dung, phương pháp tổ chức, cách thức quản lý các hoạt động tập thể trong và ngoài giờ lên lớp.
-         Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn, phương pháp  kiểm tra, đánh giá cho điểm học sinh phù
hợp yêu cầu đổi mới của ngành và đáp ứng  với yêu cầu xã hội.
-         Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp, tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động đoàn thể.
-         Đổi mới việc ứng dụng thành tựu khoa học tiên tiến, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
quản lý và giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các lĩnh vực hoạt động; kinh nghiệm xây dựng các phần
mềm tin học, giáo án điện tử.
-         Đổi mới phương pháp sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm và thiết bị dạy học hiện đại vào giảng dạy.
 
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC
 
 Trên đây là một cách viết sáng kiến kinh nghiệm, hy vọng tài liệu này phần nào đó định hướng cho CB - GV cách
thức viết SKKN. Chúc thành công.

You might also like