Vượt qua thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
Cập nhật lúc 11:23, Thứ hai, 17/01/2011 (GMT+7)
Trong ba năm từ năm 2008 đến năm 2010, Việt Nam đã rất thành công trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đưa nền kinh tế nước ta vượt qua những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, hồi phục tăng trưởng tốt so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong dài hạn, nền kinh tế đang bộc lộ rõ nét những yếu kém, mà chúng ta phải nhận diện và có quyết sách gắn nhiệm vụ trước mắt với mục tiêu trung - dài hạn. Năm 2010: Phục hồi tăng trưởng, ổn định vĩ mô Thật vậy, bước vào năm 2010, sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới đã chuyển sang giai đoạn đầu hồi phục, tuy yếu ớt và còn nhiều bất ổn, thêm vào đó cuộc khủng hoảng nợ công của một số nước Nam Âu tạo thêm sự lo lắng về một cuộc 'suy thoái kép' trong năm nay và đầu năm sau. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế nước ta từ cuối năm 2009 xuất hiện nguy cơ tái lạm phát cao, một phần do hệ quả tất yếu của 'gói kích thích kinh tế' thực hiện trong năm 2009 và sâu xa hơn là do những hạn chế bên trong của cơ cấu kinh tế; những trở ngại từ những 'điểm nghẽn' trong việc hấp thụ có hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Bước vào năm 2010, nền kinh tế nước ta đứng trước hai mục tiêu dường như mâu thuẫn phải giải quyết cùng lúc: vừa kiềm chế lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng. Ðảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy phục hồi tăng trưởng một cách hợp lý và tiếp tục bảo đảm an sinh xã hội. Nhìn chung, việc thực hiện các giải pháp kinh tế - tài chính trong năm 2010 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6 của Quốc hội và Nghị quyết số 18 ngày 6-4-2010 của Chính phủ là phù hợp. Và thực tế trong cả năm 2010 đã minh chứng điều đó. Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế-xã hội năm 2010 đã đạt được, tuy mục tiêu kiềm chế lạm phát có gặp khó khăn do biến động trong những tháng cuối năm. Có thể nói, trong ba năm qua, đặc biệt là năm 2010, Chính phủ đã sử dụng khá linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài chính - tiền tệ để ngăn chặn tốc độ suy giảm tăng trưởng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính - tín dụng; kiềm chế được tốc độ lạm phát cao; bảo đảm an sinh xã hội. Tuy hiện nay nền kinh tế đang phải vượt qua những khó khăn trước mắt như áp lực tăng chỉ số giá cả trong những tháng cuối năm, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ - VND, lãi suất cao, doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn..., nhưng về tổng thể, nền kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng khá; sức mua của thị trường trong nước, xuất khẩu (kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 19%), tổng đầu tư xã hội... đều tăng cao. Những chỉ báo này cho thấy, niềm tin của thị trường đối với tình hình kinh tế vẫn được duy trì và triển vọng của thời kỳ 'hậu suy giảm' vẫn sáng sủa. Có thể nói, những khó khăn trước mắt của nền kinh tế vẫn chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên nhân sâu xa từ cơ cấu kinh tế kéo dài trong nhiều năm qua; trong đó nổi bật bốn vấn đề. Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế đang yếu trong cuộc chạy đua toàn cầu: Chúng ta kéo dài quá lâu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào sự tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia công hàng xuất khẩu..., thể hiện qua các chỉ báo như: hệ số ICOR, tỷ trọng GTGT/GTSX, cơ cấu hàng xuất khẩu, năng suất lao động, tổng yếu tố của tăng trưởng... Trong quan hệ với nền kinh tế toàn cầu và trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta vẫn nằm ở vị trí của nhóm 30% các nền kinh tế có sức cạnh tranh thấp. Do đó, nếu chỉ nhìn ngày hôm qua của mình, thì rõ ràng bộ mặt kinh tế - xã hội nước ta có những tiến bộ rõ rệt (dĩ nhiên vẫn còn nhiều mặt thụt lùi như môi trường; xâm hại tài nguyên; trật tự đô thị; kỷ cương xã hội...), nhưng nếu nhìn ra thế giới, trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thì chúng ta đang tụt hậu xa hơn trên nhiều mặt. Thứ hai, căn bệnh nhập siêu là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây bất ổn vĩ mô. Một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, nhưng sau 20 năm vẫn trong tình trạng nhập siêu ngày càng tăng; sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều dựa vào nhập khẩu, gia công công đoạn cuối cùng để tiêu dùng trong nước. Nếu căn cứ vào cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa và bảng cân đối tài khoản vãng lai (xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ). Có thể nhận ra rằng, nền kinh tế nước ta thực chất là nền kinh tế tiêu thụ bán thành phẩm và thành phẩm của nước ngoài. Ðể bù đắp cho cân đối tài khoản vốn cho nền kinh tế mang nặng tính chất tiêu thụ như trên, chúng ta dựa vào các nguồn ngoại tệ bấp bênh như FDI, ODA, kiều hối, xuất khẩu lao động... Thứ ba, đầu tư công thiếu hiệu quả cùng với bội chi ngân sách ngày càng nặng: Tình trạng bội chi ngân sách ngày càng lớn, đầu tư công thiếu đồng bộ và không tuân thủ nguyên tắc chi phí cơ hội đã góp phần tăng nhanh hệ số ICOR. Trong 10 năm qua, để thúc đẩy tăng GDP, khu vực đầu tư công (bao gồm đầu tư ngân sách nhà nước và DNNN) tăng nhanh, thu hút một khối lượng tín dụng khá lớn; trong đó một phần bội chi ngân sách dựa vào tín dụng và phát hành. Ngay cả trái phiếu của Chính phủ cũng dựa chủ yếu vào ngân hàng thương mại, phần huy động trực tiếp từ công chúng chiếm tỷ trọng nhỏ. Một khối lượng tiền khá lớn đưa vào khu vực này, nhưng do tiến độ đầu tư kéo dài, thiếu đồng bộ nên không tạo ra được khối lượng tài sản tương ứng, kéo chậm vòng quay của đồng tiền, gây bất ổn vĩ mô, nhưng chưa được đánh giá đầy đủ. Thứ tư, nền kinh tế đối mặt với bẫy 'tự do hóa thương mại' toàn cầu: Ðiều kiện cam kết để gia nhập WTO của Việt Nam vào thời điểm năm 2006, người ta gọi là WTO cộng, vì chúng ta chấp nhận mở cửa thị trường với những điều kiện bất lợi hơn so với các nước phát triển gia nhập trước đó như cắt giảm hàng rào thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ, thị trường đầu tư, sở hữu trí tuệ... Việc chấp nhận những điều kiện bất lợi hơn để có thể gia nhập sân chơi này là quyết định khó khăn, nhưng hoàn toàn đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp CNH, HÐH nền kinh tế, khi mà toàn cầu hóa đang là xu hướng khách quan của thế giới bước vào thế kỷ 21 và cũng là thời đại của kinh tế tri thức. Tuy nhiên, vấn đề đáng nói ở đây là chúng ta làm gì để vượt qua những bất lợi đó trước và sau khi gia nhập WTO? Tạo thuận lợi thu hút dòng vốn nước ngoài thì nền kinh tế không hấp thụ nổi (hiện tượng thừa vốn diễn ra ngay trong năm 2007 - năm đầu gia nhập WTO); cắt giảm hàng rào thuế quan, xóa bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế thì nhập siêu tăng nhanh; các chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ sản xuất nông nghiệp mà khuôn khổ WTO cho phép, thì không mang lại kết quả rõ rệt. Tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc tăng vọt, mà chưa có giải pháp nào để kiềm chế. Với lộ trình cắt giảm thuế và mở cửa thị trường dịch vụ trong vài năm tới, nhất là từ sau năm 2015 khi thực hiện đầy đủ Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, thách thức càng nghiêm trọng hơn. Việc nền kinh tế rơi dần vào 'bẫy tự do hóa thương mại' không còn là nguy cơ, mà bắt đầu là hiện thực. Năm 2011: hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững Dự báo chung của thế giới, năm 2011 kinh tế sẽ phục hồi khá hơn năm 2010, nhưng chưa phải là thời kỳ hồi phục mạnh mẽ và dư chấn của cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn tác động đến ba nền kinh tế lớn: Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ. Tuy khu vực châu Á vẫn dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, nhưng thị trường lớn của nước ta vẫn nằm ở các nền kinh tế phục hồi chậm nêu trên, nên năm 2011 chưa phải là thời kỳ tăng tốc đối với nền kinh tế Việt Nam. Quan điểm là nên xây dựng mục tiêu tăng trưởng hợp lý và ưu tiên vẫn là phục vụ cho các mục tiêu trung-dài hạn của nền kinh tế, được đề ra trong kế hoạch 2011-2015 và chiến lược 10 năm 2011-2020. Từ cách nhận diện trên, có thể thấy Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 chỉ là sự khởi đầu của Kế hoạch năm năm 2011-2015 với mục tiêu trọng tâm là chất lượng tăng trưởng. Ðó phải là từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng để khắc phục những yếu kém nêu trên thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế cần hướng đến mục tiêu dài hạn, tạo niềm tin cho thị trường (việc thay đổi nhanh chóng chính sách trong hai năm qua chỉ là điều bất đắc dĩ, nếu kéo dài tình trạng này sẽ làm giảm niềm tin của nhà đầu tư và không thể hướng họ đầu tư dài hạn). Do đó, về mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2011, như Nghị quyết kỳ họp thứ 8 của Quốc hội đã xác định mục tiêu tăng GDP năm 2011 chỉ khoảng 7- 7,5%.; kiểm soát chỉ số CPI dưới 7%. Nếu chính sách kinh tế tạo được niềm tin cho thị trường, thì tốc độ tăng trưởng nêu trên rất dễ dàng đạt được (quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ, nên số tuyệt đối cũng rất nhỏ - chỉ khoảng 7-8 tỷ USD). Năm 2011 phải tiếp tục kiềm chế CPI, nhưng cũng không thể sử dụng các chính sách công cụ để kéo xuống quá thấp, mà chủ động duy trì một mức lạm phát hợp lý để kích thích kinh tế; mức hợp lý là khoảng 7% (thấp hơn mức tăng GDP). Năm 2011 nên tập trung cơ cấu lại đầu tư công theo hướng ưu tiên cho việc đầu tư đồng bộ các công trình giao thông; nhất là ở các vùng kinh tế trọng điểm; do đó, vẫn phải duy trì bội chi ngân sách cho đầu tư nhưng nên chỉ ở mức hơn 5% GDP. Có chính sách để các địa phương có điều kiện tự huy động vốn đầu tư, mà ngân sách quốc gia không phải bội chi. Cần triển khai có hiệu quả chính sách đối tác công tư (PPP) trong đầu tư để phát huy nguồn 'vốn mồi' của ngân sách, mà Chính phủ vừa ban hành. Trong thương mại, cần tập trung các biện pháp 'phòng vệ' để giảm nhập siêu hàng tiêu dùng, có chỉ tiêu giảm nhập siêu (dưới 18% kim ngạch xuất khẩu). Triển khai có hiệu quả Quỹ Bảo lãnh tín dụng để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn đầu tư; thực hiện chính sách lãi suất huy động và cho vay, bảo đảm lãi suất dương không quá 2%. Duy trì tỷ giá hợp lý, không để VND tăng hoặc giảm giá so với USD dựa trên sức mua của VND trên thị trường nội địa. Khai thông hai thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bằng các công cụ tài chính như thuế, tín dụng, định chế đầu tư... Tóm lại, năm 2011 là năm chuẩn bị điều kiện để tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 2011- 2015 là nâng cao chất lượng tăng trưởng. Các chính sách kinh tế - tài chính trong giai đoạn này cần hướng vào mục tiêu trên nhằm tạo điều kiện phát triển bền vững trong dài hạn.