You are on page 1of 11

Nhóm thảo luận 6:

1. Mạc Thị Lê Dung (NT)


2. Cát Thị Thúy
3. Bùi Thị Thái
4. Trần Thị Thủy
5. Chu Minh Huệ
6. Nguyễn Thị Thu Hà
7. Nguyễn Thu Hường
8. Phạm Thị Chuyền

Đề tài 13:


Sự khác biệt trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Trọng
tài thương mại và giải quyết tại Tòa án nhân dân

Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã
chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế
không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế,
mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ
phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các thành viên của công ty…

Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông
qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là
hệ thống Toà án được sử dụng phổ biến hơn, đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ
tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.

Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi Toà
kinh tế Hà Nội trong năm 2007 phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có khoảng 300 vụ án
kinh tế và Toà kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án các loại, trong
đó có 1.000 vụ án kinh tế, thì VIAC cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ (1). Tính trung bình
mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0, 25 vụ một năm, trong khi mỗi thẩm phán Toà kinh
tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm và mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh xử trên 50 vụ một năm.

Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh,
thương mại và lao động, thì Toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý được 80.773
vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên Toà án nhân dân tối cao. Những con số này
ngoài việc cho thấy sự phổ biến việc xử lý các tranh chấp bằng Toà án còn cho thấy phần
nào sự quá tải của hệ thống Toà án (2).

Các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các bên nước ngoài vẫn tiếp tục được
xét xử chủ yếu bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (119 vụ), Hiệp
hội Trọng tài Mỹ (621 vụ); Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Quốc
tế ICC (599 vụ); Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế Trung Quốc (1.118 vụ);
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (448 vụ)(3).

Từ thực tế trên, ta hãy đi tìm hiểu những điểm khác biệt giữa giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài hay tại tòa án để có thể trả lời cho câu hỏi: khi nào thì dung trọng tài
thương mại, khi nào thì dung tòa án để giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, nhanh
gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho DN?

1. Khái niệm:
- Là hình thức giải quyết trong tranh chấp kinh doanh do các bên tự nguyện lựa chọn,
trong đó bên thứ 3 trung gian( trọng tài viên)sau khi nghe các bên trinh bày sẽ ra phán
quyết có tính bắt buộc với các bên tranh chấp
- Là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước,
nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành

2. Tổ chức:
- Trung tâm Trọng tài thương mại không phải cơ quan của Nhà nước mà là tổ chức phi
chính phủ, hoạt động ko có tính chất lợi nhuận
- Tòa án : là một bộ phận của cơ quan Nhà nước, hoạt động độc lập.

3. Luật điều chỉnh:


- Luật trọng tài thương mại 2010
- Bộ luật tố tụng dân sự 2004

4. Phạm vi giải quyết tranh chấp

- Trọng tài:

+ Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

+ Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

+ Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
- Tòa án nhân dân:
Tranh chấp dân sự,hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (dân
sự theo nghĩa rộng

5. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp

- Trọng tài:

+ 1. Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.

+ 2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.

+ 3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

+ 4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.

+ 5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.

- Tòa án:
+ Nguyên tắc tự định đoạt
+ Cung cấp chứng cứ và chứng minh
+ Bình đẳng trước pháp luật:Các đương sự đều có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trong tố tụng dân sự, tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình(điều 8 BLTTDS 2004)
+ Hòa giải

Giống nhau:
- tự định đoạt: Quan hệ dân sự nói chung,qh kinh doanh thương mại nói riêng là những
qh đc hình thành trên cơ sở tự do xác lập, tự chịu trách nhiệm của các bên. Do đó khi giải
quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.Khi phát sinh tranh chấp
từ hoạt động kinh doanh thương mại, các chủ thể có quyền quyết định cách thức giải
quyết tranh chấp, các cơ quan đc giao giải quyết tranh chấp chỉ đc giải quyết nếu đc yêu
cầu. Trong điều 5 BLTTDS , trong quá trình giải quyết tại tòa án, các đơn sự có quyền
chấm dứt thay đổi yêu cầu của mình hoặc tự thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện mà
ko trái với pháp luật và đạo đức xã hội
- bình đẳng trước pháp luất:

6. Trình tự giải quyết tranh chấp


- Thỏa thuận trọng tài

Nộp đơn kiện


Thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài do các bên tự thành lập
Phiên họp giải quyết tranh chấp
Phán quyết trọng tài và vấn đề hủy phán quyết trọng tài
Thi hành phán quyết trọng tài
- Khởi kiện và thụ lí vụ án
Chuẩn bị xét xử
Phiên tòa sơ thẩm
Thủ tục phúc thẩm
Thủ tục xem xét lại đối với bản án,quyết định đã có hiệu lực pháp luật

So sánh:
- Trọng tài: phải có thỏa thuận trọng tài(điều 16 đến điều 19), còn tòa án thì chỉ cần
đương sự nộp đơn kiện, khởi kiện

Bổ sung thêm: Thỏa thuận trọng tài là điều kiện tiên quyết để trọng tài có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp. Vì thế theo điều 43 khoản 1: Trước khi xem xét nội dung vụ
tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa
thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình.
Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng
tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định
rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định
đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.

- Tòa án nào là nơi thụ lí vụ án đc quy định điều 33 đến điều 38 BLTTDS 2004: thẩm
quyền của tòa án các cấp, còn việc thàh lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài do
các bên tự thành lập
- Khi trọng tài và Tòa án phán quyết lần đầu, nếu đương sự ko thỏa mãn, để huỷ quyết
định trọng tài thì phải thuộc một trong các trường hợp trong điều 68 LTTTM 2010, còn
đối với tòa án , nếu bạn ko hài lòng với phán quyết thì có thể tiến hành làm thủ tục phúc
thẩm….

7. Thi hành bản án (giống nhau)

- Điều 65. Tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài

Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài.

Điều 66. Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài

1. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định
tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu
cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

- Cơ quan thi hành án dân sự các cấp

8. Tính hiệu lực(giống nhau)

Trước đây có nhiều DN ngộ nhận rằng, phán quyết trọng tài không có hiệu lực
và rằng, việc đưa vụ việc ra trọng tài là để cho vui vẻ, thậm chí coi phán quyết
trọng tài như tờ giấy lộn.

Đây không phải lỗi tại DN mà lỗi tại quá trình xây dựng pháp luật của
Việt Nam. Chính điều đó ghi một dấu ấn rất xấu trong tiềm thức của các DN khi họ cho
rằng, phán quyết của trọng tài không có hiệu lực. Tuy nhiên, kể từ Pháp lệnh
Trọng tài năm 2003 và Luật Trọng tài Thương mại 2010, thì phán quyết trọng tài
là chung thẩm, tức là có hiệu lực như phán quyết của tòa án. “Với việc ban hành
Pháp lệnh Trọng tài và Luật Trọng tài Thương mại, Nhà nước đã đặt niềm tin vào
các định chế ngoài xã hội, đặt dấu bằng giữa các tổ chức ngoài xã hội với tòa án. Một
bản án nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và một bản án nhân danh
công lý của chính những người do các bên liên quan chỉ định đều có hiệu lực
ngang nhau”

9. Tính chung thẩm


- Hầu hết các phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp luật ngay ko thể bị kháng cáo giải
quyết lại trừ trường hợp chúng có thể bị khước từ tại tòa án chỉ vì một vài lí do

- Phán quyết của tòa án khó tránh khỏi bị kháng án ( trong trình tự giải quyết tranh chấp
bằng tòa án)

Quyết định giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài phải được các bên thi
hành nhanh chóng, trong thời hạn 30 ngày. Quá hạn đó, bên được thi hành có quyền làm
đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh, nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của
bên phải thi hành quyết định trọng tài;

Đây là điểm khác biệt trong trình tự giải quyết: trong khi tòa án xử thì phải 2- 3
lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giảm đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại,
khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác như Viện kiểm sát…

Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính
chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương
sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có
một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn
thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng
đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên
ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên
nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho
các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt
Nam.

Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh
những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là quyết
định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là chung thẩm,
nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào
không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh tế theo thủ tục giải
quyết các vụ án.

 Tốc độ:

- Trọng tài thì nhanh hơn tranh tụng tại tòa án quốc gia. Trọng tài có thể tiến hành rất
nhanh( vài tuần hoặc vài tháng nếu các bên muốn như vậy)

- Tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài.Các bên có thể rơi vào một loạt sự kháng án kéo
dài và tốn kém

Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên không
thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn phải giải
quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.

Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án cũng
làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ví dụ như
giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể
kéo dài hàng năm trời.

10. Tính duy nhất

Khi có trọng tài thì loại trừ việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án. “Nếu các
bên đã đưa điều khoản giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì không thể đưa vụ kiện ra
tòa nếu đó đơn thuần là ý muốn của một bên. Nếu các bên muốn giải quyết bằng tòa án
thì phải thỏa thuận sửa đổi điều khoản đó, giống như sửa đổi bất kỳ điều khoản nào
trong hợp đồng. Khi đã lựa chọn trọng tài thì tòa án không có thẩm quyền nếu chỉ có
một bên muốn đưa vụ việc ra tòa án, trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được. Điều đó cũng nghĩa là chỉ được phép chọn một phương thức giải
quyết tranh chấp là trọng tài hoặc tòa án chứ không thể một lúc lựa chọn cả hai.

Tuy nhiên theo điều 43 LTTTM 2010 có:


3. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm
trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có
tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng
tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

4. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên
trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh
chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không
thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

11. Tính linh hoạt

- Với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm
phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất
cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời
gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.

- Khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về thủ tục, thời gian,
địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó.

12. Tính trung lập

- Các bên có thể bình đẳng về nơi xét xử trọng tài (tại một nc trung lập); ngôn ngữ
sử dụng, quy tắc tó tụng, quốc tịch của trọng tài viên và đại diện pháp lí.

- Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ sử dụng ngôn ngữ và áp dụng
quy tắc tố tụng của nước họ và thường cùng quốc tịch với một bên.

13. Phạm vi thi hành (sự công nhận của quốc tế)

- Nếu tranh chấp liên quan đến yếu tố nước ngoài, phán quyết của trọng tài có
phạm vi thi hành ở trên 150 quốc gia – những nơi tham gia công ước New York mà Việt
Nam cũng là thành viên năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài.

- Còn nếu đưa ra tòa án thì còn phụ thuộc vào việc Việt Nam có ký hiệp định
tương trợ tư pháp với nước mà bị đơn có trụ sở hoặc tài sản hay không. Hiện Việt Nam
mới chỉ ký hiệp định tương trợ tư pháp với trên 10 quốc gia, nhưng chưa ký với đối
tác thương mại lớn nào cả. Cho nên việc đưa đơn kiện ở Việt Nam để lấy phán quyết
của tòa án Việt Nam mà được công nhận và thi hành ở nước ngoài là rất khó.
Thường rất khó có sự công nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án đc công nhận tại
một nước khác thường do áp dụng một hiệp định song phương hoặc theo các quy tắc rất
nghiêm ngặt. Có một số ngoại lệ khu vực như các nc thuộc OHADA và Liên minh châu
Âu

Chính vì vậy trong những vụ tranh chấp thương mại mang yếu tố nước ngoài, các
bên thường sử dụng trọng tài

14. Tính bí mật: là một trong những nguyên tắc giải quyết tranh chấp của TTTM

- Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Các phiên xét
xử trọng tài ko đc tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận đc phán quyết

Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ
kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều
kiện cạnh tranh.

Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ
tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc công chúng) - điều
mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là
có liên quan đến các bí mật và phát minh thương mại.

Các điều khoản về tính bí mật trong hợp đồng phải đc giữ vững trong thủ tục
trọng tài.Nhất là trong tranh chấp về sở hữu trí tuệ, các điều khoản bổ sung về tính bí mật
có thể đc soạn thảo bởi 2 bên(dưới dạng điều khoản hợp đồng) hoặc các trọng tài
viên( dưới dạng một trình tự thủ tục hoặc trong điều khoản dẫn chiếu)

- Các phiên xét xử tại tòa cũng như các phán quyết là công khai (tuyên bố trước
bàn dân thiên hạ), ví dụ như chương trình tòa tuyên án

When: Do đó khi xảy ra tranh chấp đến sở hữu trí tuệ, người ta thường dung trọng tài

15. Duy trì đc mối quan hệ đối tác


- Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu
dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh
doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.

Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất
đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là
những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối
với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho
bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.

16. Năng lực chuyên môn và sự kế tục của các cá nhân

- Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng
tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng. Hoạt
động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban trọng tài) xét xử vụ kiện đã
được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. m… Khi giải quyết
bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn
(4) phù hợp với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính
xác trong giải quyết tranh chấp. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo
suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có
lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán,
trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.

- Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm phán được chỉ định
giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc
biệt các ngành có đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo
hiểm…Trong những vụ kiện kéo dài, có nhiều thẩm phán khác nhau trong một vụ kiện

Hơn nữa, điều kiện để trở thành trọng tài viên khá đơn giản như: Có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự, Có trình độ đại học và đã qua
thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên…còn để trở thành thẩm phán thì khá
phức tạp

17. Chi phí


Trang 294 sách giáo trình, tìm cụ thể bảng phí của 1 Trung tâm trọng tài ở VN và bảng
phí của tòa án

18. Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi chính phủ,
nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các mặt sau:

-Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài: Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội
đồng trọng tài quy định tại Điều 43 của Luật này về việc không có thỏa thuận trọng tài,
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài , trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
quyết định của Hội đồng trọng tài, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm
quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài. Bên khiếu nại phải đồng thời
thông báo việc khiếu nại cho Hội đồng trọng tài.
- Thành lập hội đồng trọng tài vụ việc)Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn
nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo
cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không
thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn và các bên không có thoả
thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn;(điều 41)

- Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi
Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong
trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc
nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên,
của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một
Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.(điều 42)

- Trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện
pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể
gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài
liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp
(điều 46 LTTTM 2010)

- Trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà
không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản
trở cho việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có
thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng
tài (điều 47)

- ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:

+Điều 53. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời

1. Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có
nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền
yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. , nhằm: bảo toàn chứng
cứ trong trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản
tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm
thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
phong toả tài khoản tại ngân hàng.

+ Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp
dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau
đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội
đồng trọng tài phải từ chối.(khoản 3 điều 49)
khác nhau : giáo trình trang 293 mục các biện pháp tạm thời

-xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài(điều 68):

- công nhận và thi hành quyết định trọng tài.(xem xét đơn đăng kí phán quyết trọng
tài)Điều 62)

*Kết luận: Có rất nhiều lý do để các bên có thể lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp
(GQTC) bằng Trọng tài thương mại mà không muốn đưa vụ việc ra Tòa án sau khi không
thể giải quyết bằng việc thương lượng, hòa giải.

So với phương thức giải quyết bằng Trọng tài, việc đưa vụ việc ra Tòa án thực sự là giải
pháp cuối cùng, như các cụ ta thường nói “vô phúc đáo tụng đình” mà các bên phải cân
nhắc khi biết những phức tạp thực tế từ việc GQTC tại Tòa án; như là thủ tục kéo dài với
nhiều cấp xét xử, sự công khai trong quá trình xét xử công khai và tốn rất nhiều thời gian
và tiền bạc cho các bên. Đồng thời khi đó, quan hệ giao thương giữa các đối tác khó có
thể gắn kết lại như lúc ban đầu.

Trong khi đó, với việc Chính phủ từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý và sự tác động
của cơ chế kinh tế thị trường đến các Trung tâm Trọng tài (TTTT), về lý thuyết sẽ mang
lại các thuận lợi đó là: GQTC nhanh chóng, chính xác, ítảnh hưởng đến bí mật và uy tín
kinh doanh, chi phí thấp hơn Tòa án và việc không đại diện cho quyền lực tư pháp nên rất
thích hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, việc GQTC bằng Trọng tài thương mại tại Việt Nam tính đến thời điểm hiện
tại vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế, mà thể hiện là 7 TTTT tại Việt Nam đang loay hoay
tìm lối đi riêng hoặc trông chờ cào sự thay đổi trong cơ chế pháp lý.

*Hạn chế TTTM ở VN

- là hạn chế trong chính quy định về phạm vi áp dụng của phương thức, như đã trình bày
tại phần 1 – Phạm vi GQTC của Trọng tài chỉ trong lĩnh vực tranh chấp thương mại. Cho
dù khái niệm của lĩnh vực này theo quy định của pháp luật Việt Nam là khá rộng nhưng
phần nào đây cũng có thể xem là hạn chế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

You might also like