You are on page 1of 11

CÁC TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM

NAM CAO(1915-1951)
1. Sự nghiệp văn học (30 dòng)
            a. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra trong 1 gia đình nông dân
làng Đại Hoàng, tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn có vị trí hàng đầu trong nền văn học Việt Nam
thế kỷ XX,  là một trong những đại diện xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực phê
phán trước 1945. Nam Cao cũng là cây bút tiêu biểu của chặng đầu nền văn học mới sau cách
mạng.
            b. Sự nghiệp Vhọc của Nam Cao trải dài trên 2 thời kỳ, trước và sau CMT 8.
            - Trước CMT8: sáng tác của N.Cao tập trung vào 2 đề tài chính: cuộc sống người trí thức
tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương.
            + Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản nghèo, đáng chú ý là các truyện ngắn:"Những
truyện không muốn viết"; "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua nhà", "Nước mắt", "Cười"...và tiểu
thuyết "Sống mòn"(1944). Trong khi mô tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của
những nhà văn nghèo, những "Giáo khổ trường tư", học sinh thất nghiệp...Nam Cao đã làm
nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa XH to lớn. Đó là tấn bi
kịch dai dẳng của người trí thức, những người có ý thức sâu sắc về giá trị đời sống và nhân
phẩm, muốn sống có hoài bão, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh XH làm cho "chết
mòn", phải sống" đời thừa"
            + Ở  đề tài về người nông dân, đáng chú ý nhất là các truyện:"Chí Phèo", "Trẻ con không
được ăn thịt chó"," Một bữa no"," Lão Hạc"," Một đám cưới", "Lang Rận"...ở đề tài này, Nam
Cao thường nhắc đến những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu bị ức hiếp, bị lưu manh
hoá ...Nhà văn đã kết án sâu sắc cái Xã hội tàn bạo làm huỷ diệt cả nhân tính của những con
người lương thiện. Ở một số TP, Nam Cao đã thể hiện niềm xúc động trước bản chất đẹp đẽ,
cao quí trong tâm hồn họ (L.Hạc)
            - Sau CMT8, Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến, truyện ngắn "Đôi mắt"
(1948) "Nhật ký ở rừng" (1948) và tập bút kí "Chuyện biên giới" (1950) của ông thuộc vào
những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn học mới sau CM còn rất non trẻ khi đó.
            - Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy tư và đằm thắm yêu
thương. Nam Cao là cây bút bậc thầy, ông xứng đáng được coi là một nhà văn lớn giàu sức
sáng tạo của văn học VN.
2.  Tuyên ngôn nghệ thuật của NCao
            +Truyện ngắn "Trăng sáng" (1943): "Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng
lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than"
            +Truyện ngắn"Đời thừa (1943)
            + Một tác phẩm" thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc:
" Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca
tụng tình thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn".
            + Nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo và lương tâm người cầm bút "Văn chương
không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương
chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những cái gì chưa có"
            - Văn chương đòi hỏi phải có lương tâm của người cầm bút: "Sự cẩu thả trong bất cứ
nghề gì cũng là bất lương rồi. Nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.
            - Trong tác phẩm "Đôi mắt" (1948) NC đã nêu 1 quan điểm của mình: "Vẫn giữ đôi mắt
ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán
nản".
3. Phong cách nghệ thuật: NC có phong cách NT độc đáo.
- Đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần - con người bên trong của con người.
- Biệt tài phát hiện, miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.
- Rất thành công trong ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm.
- Kết cấu truyện chặt chẽ.
- Cốt truyện đơn giản, rất đời thường nhưng lại đặt ra những vấn đề quan trọng, sâu xa, có ý
nghĩa triết lí sâu sắc.
- Giọng điệu lời văn: lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm, yêu thương.
- Ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, gắn với lời ăn tiếng nói của quần chúng.
•v     NGUYỄN TUÂN
1-Con người:
            NgTuân (1910-1987) sinh ra trong 1 gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn, NTuân cầm
bút từ khoảng đầu những năm30, nhưng đến 1938 mới nổi tiếng với các tác phẩm "Một
chuyến đi", "Vang bóng một thời".
   Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước, tinh thần dtộc. Ở NT, ý thức cá nhân phát
triển rất cao. Ông viết văn trước hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. NT còn là con
người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu những môn nghệ thuật khác:
hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Nguyễn Tuân là một nhà văn thực sự biết quý trọng
nghề nghiệp của mình.
2- Phong cách nthuật của NT
            - NT có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông quan niệm đã là văn thì
trước hết phải có một phong cách độc đáo, viết không giống ai, từ chủ đề, nhân vật, kết
cấu,đến cách đặt câu dùng từ....
            - Trong phong cách nghệ thuật của NT có chất tài hoa, tài tử. Chất tài hoa này được thể
hiện rất rõ khi ông đề cao những con người tài hoa, những người biết trân trọng cái tài, cái
đẹp. NT luôn tiếp cận cảnh vật, sự việc và con người ở phương diện thẩm mỹ.
            - Tính uyên bác thể hiện trong văn của NT: Đọc văn của NT, người đọc luôn được cung
cấp những tri thức phong phú về văn hoá trên những lĩnh vực: Văn học, nghệ thuật, lịch sử,
địa lý, hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh...
            -NT học theo"Chủ nghĩa xê dịch", ông luôn thèm khát những điều mới lạ. Ông không
thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách phi
thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt.
            NT có phong cách tự do, "ngông", phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Điều
này đã khiến NT tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
            -Phong cách của NT có sự thay đổi trước và sau CMT8.
3- Những nét chính về sự nghiệp vhọc của NT
   Trong hơn nửa thế kỷ cầm bút, NT đã để lại một sự nghiệp vhọc lớn.
            -Trước CMT8 các tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:
            + Một là về "Chủ nghĩa xê dịch" : nghĩa là ghi lại những cảnh thnhiên, xhội, những cảm
nghĩ tài hoa độc đáo của nhà văn trên đường"xê dịch" khắp đất nước mình"một chuyến đi","
thiếu quê hương"
            + Hai là đề tài "Vang bóng một thời", ấy là thời phkiến đã qua, những dư âm còn vọng
lại. Ông viết về những phong tục đẹp, những thú chơi tinh tế, tao nhã của người xưa (tphẩm
tiêu biểu "Vang bóng một thời")
            + Ba là đề tài "Đời sống truỵ lạc": Viết về tình trạng khủng hoảng tinh thần của một
nhvật "tôi" hoang mang bế tắc, tìm cách thoát ly trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện
(tphẩm" Chiếc lư đồng mắt cua")
à Giá trị của tphẩm viết về ba đề tài trên là những trang viết đầy tài hoa và thấm nhuần lòng
yêu nước, viết về phong cách thiên nhiên và những vùng đất khác nhau trên quê hương
mình, viết về những thú chơi tao nhã thể hiện một khía cạnh của nền vhoá cổ truyền của dtộc
và về những con người tài hoa, nghĩa sĩ và tài năng nhân cách kết hợp với nhau.
            - Sau CMT8, NT hăng hái dùng ngòi bút của mình phục vụ hai cuộc khchiến chống Pháp
và chống Mỹ và công cuộc xdựng đất nước. Ông stác hàng loạt tphẩm, bút ký, tuỳ bút có gitrị
nghệ thuật (tác phẩm tiêu biểu: "Sông đà"," Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi") giá trị của những tác
phẩm này là ở những trang viết đầy tự hào, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và lao động.
Qua những trang viết ấy, người ta thấy dân tộc Việt Nam không chỉ cần cù, dũng cảm, có
chính nghĩa mà còn rất mực tài hoa.
            - NT có đóng góp rất lớn đối với lịch sử văn học dân tộc. Thể bút ký, tuỳ bút, tuỳ bút văn
học đạt trình độ nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến
cho văn xuôi VN một phong cách viết đặc biệt tài hoa và độc đáo.
•v     NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH(1890-1969)
•1.      Con người:
NAQ-HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là người anh hùng giải phóng dân tộc VN, đồng thời
người cũng là một nhà văn hoá lớn.
  HCM tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, trong thời kì đầu hđộng CM mang tên NAQ,
sinh ngày 19.5.1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
Năm1911, HCM ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng. Tháng 1.1919, Người đưa
bản Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự do đến Hội nghị Véc xai (Pháp).
Năm 1920, Người dự Đại hội Tua và là một trong những thành viên đầu tiên tham gia sáng
lập ĐCS Pháp. HCM đã tham gia thành lập nhiều tổ chức CM như: VNTNCMĐCH (1925), Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông (1925) và chủ toạ hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng
Sản ở trong nước tại Hương Cảng, thành lập ĐCS VN (3.2.1930). Tháng 2.1941, Người về
nước hoạt động và thành lập Mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo phong trào CM ở trong
nước giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám.1945. Sau hơn 30 năm, trải qua
nhiều năm tháng hoạt động cách mạng, ngày 2/9/1945 HCM đã đọc bản "TNĐL" tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước VNDCCH. Sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
6.1.1946, Người được bầu làm Chủ tịch nước VNDCCH. Từ đó Người luôn đảm nhiệm những
chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong 2 cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Người qua đời ngày 2.9.1969, để
lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân tộc VN và nhân dân thế giới.
Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của CTHCM, tổ chức giáo dục, khoa học và
văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn người là "Anh hùng giải phóng dân
tộc VN, nhà văn hoá lớn". HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trong sự nghiệp CM to lớn đó,
Người đã để lại 1 di sản đặc biệt cho dân tộc, đó là một sự nghiệp văn chương đồ sộ.
2. Những nét lớn về sự nghiệp văn học của HCM.
  Trong sự nghiệp lớn lao của HCM có một di sản đbiệt để lại cho dtộc, đó là sự nghiệp vhọc.
Người đã để lại cho nhdân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc, phong phú, đa
dạng về thể loại và đặc sắc về phcách sáng tác. Do đkiện hđộng cmạng những năm ở nước
ngoài nên các tphẩm của NAQ-HCM được viết bằng tiếng pháp, hán văn và tiếng Việt, có thể
tìm hiểu sự nghiệp vhọc của Người chủ yếu trên 3 lĩnh vực.
a. Văn chính luận.
            - Những tác phẩm văn chính luận của HCM được viết ra chủ yếu với mục đích đấu tranh
chính trị nhằm tiến công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ CM qua những
chặng đường lịch sử.
            - Từ những năm 20 của thế kỷ XX, các bài văn chính luận với bút danh NAQ đăng trên
các báo"Người cùng khổ" (leparia), nhân đạo(Lhumanité), "Đời sống thợ thuyền" (la vie
ouvriere) đã tác động và ảnh hưởng lớn đến quần chúng Pháp và nhân dân những nước
thuộc địa, kêu gọi thức tỉnh những người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại trong mặt trận đấu
tranh chung. Một trong những tác phẩm lớn đã kết tinh và hội tụ lại tinh thần trên là "Bản án
chế độ thực dân Pháp".
            - Năm 1945 "Tuyên ngôn độc lập" là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao,
phản ánh khát vọng độc lập, tự do và cuộc đấu tranh kiên cường bền bỉ của dân tộc đã giành
được thắng lợi. Đây là áng văn chính luận hùng hồn tuyên bố quyền độc lập của dân tộc VN
trước nhân dân trong nước và thế giới. "TNĐL" là tác phẩm chính luận có giá trị pháp lý, giá
trị lịch sử, giá trị nhân bản và giá trị nghệ thuật cao.
            - "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến"(1946) và " không có gì quí hơn độc lập tự
do"(1966) là những áng văn chính luận hào hùng, tha thiết làm rung động hàng triệu trái tim
yêu nước. Những tác phẩm ấy nói lên các vấn đề thời sự cấp bách của dân tộc, thể hiện sâu
sắc tiếng gọi của non sông, đất nước trong những giờ phút thử thách đặc biệt.
            - Trong những năm tháng cuối đời, Ngươì viết bản"Di chúc" thiêng liêng và chan chứa
tình cảm. Bản "Di chúc" là lời căn dặn thiết tha, chân tình với đồng bào, đồng chí, vừa mang
tính chiến lược trong hướng phát triển của đất nước, vừa thấm đượm tình yêu thương con
người.
b.Truyện và ký.
            Khoảng từ năm 1922-1925 NAQ có viết một số truyện ngắn và ký bằng tiếng Pháp đặc
sắc, sáng tạo và hiện đại. Các truyện ngắn thường dựa trên một sự kiện, một câu truyện có
thật , từ đó Người biết vận dụng, hư cấu để thực hiện dụng ý nghệ thuật của mình .
            - Một số tphẩm tiêu biểu là: Pari(1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Đồng tâm
nhất trí(1922); "Vi hành"(1923); "Những trò lố hay là Va ren Phan Bội Châu "(1925)
            - Truyện ngắn của NAQ cô động, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo. Mỗi truyện đều có
tư tưởng riêng hẫp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý, kín đáo chất trí tuệ toả trong hình tượng
và phong cách giàu tính hiện đại.
c. Thơ ca:
            - Đây là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của HCM.
  Với gần 250 bài thơ có giá trị được tuyển chọn và in trong các tập"NKTT"(134 bài),
"ThơHCM"(86 bài-1967) và"Thơ chữ Hán HCM" (86 bài,1990), HCM đã có những đóng góp
quan trọng cho nền thơ ca VN hiện đại .
            - Tiêu biểu nhất là "NKTT"được viết trong thgian Người bị giam cầm ở nhà tù Quốc dân
Đảng tại Quảng Tây-Trung Quốc từ 29.8.1942 đến10.9.1943. Tập thơ "NKTT" trước hết là
cuốn nhật ký bằng thơ phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của những chiến sĩ cách
mạng, đồng thời tố cáo bộ mặt đen tối và nhem nhuốc của chế độ nhà tù cũng như của XH
Trung Quốc thời Tưởng giới Thạch tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo, luôn hướng về
những người lao động, những bthơ trong "NKTT" biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của
những chsĩ csản, chứa đựng những bức hoạ nhân sinh, đạo lý, thể hiện ý chí vượt lên gian
khổ để vươn tới tự do. Các bthơ trong "NKTT" vừa đậm đà mầu sắc cổ điển, vừa thể hiện
được tinh thần thời đại.
            - Ngoài tập "NKTT" HCM còn viết những bài thơ chữ tình độc đáo và những bài thơ mộc
mạc, giản dị, để tuyên truyền đường lối CM (Pắc bó hùng vĩ, Tức cảnh Pắc bó, bài ca du kích,
ca sợi chỉ...). Đi vào cuộc khchiến chống thdân Pháp, Người đã biểu lộ những nỗi lo lắng về
vận mệnh của non sông, tcảm thiết tha, gắn bó với cảnh sắc thnhiên đất nước (cảnh khuya, đi
thuyền trên sông đáy, cảnh rừng Việt Bắc) những ca ngợi sức mạnh của quân và dân ta trong
cuộc khchiến và niềm vui thắng lợi (rằm tháng giêng, lên núi,tin thắng trận, đêm thu...)
            - Tập "thơ chữ Hán HCM" tập hợp 36 bài thơ chữ Hán viết trong những thời điểm với
những đề tài (thu dạ, Nguyên tiêu, Tặng bùi công, Nhị vật, thất cửu...)
3. Phong cách nghệ thuật HCM:
  Phong cách nghệ thuật của NAQ-HCM là một phong cách vừa nhất quán, vừa đa dạng. Tính
nhất quán thể hiện rõ nhất ở nguyên tắc sáng tác, ở lối viết giản dị ngắn gọn mà linh hoạt,
biến hoá, ở khả năng kết hợp nhuần nhị yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ở khuynh hướng
vận động luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai của tư tưởng và hình tượng nghệ
thuật. Tính đa dạng phong phú được thể hiện ở bút pháp, nội dung, kết cấu, ngôn từ, thủ
pháp nghệ thuật...Ngay trong cùng một đề tài, thậm chí cùng một tác phẩm, tính đa dạng và
phong phú cũng được thể hiện rõ nét.
   Những tác phẩm của NAQuốc-HCM có phong cách đa dạng và thống nhất kết hợp sâu sắc và
nhuần nhị mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa
truyền thống và hiện đại. Dù sáng tác bằng thể loại nào, tác phẩm của Người cũng đều có
phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.
            - Văn chính luận của NAQ-HCM biểu lộ tư duy sắc sảo giầu trí thức văn hoá, gắn lý luận
với thực tiễn, vận dụng hiệu quả những phương thức biểu hiện.
            - Trong truyện và ký, ngòi bút NAQ rất chủ động và sáng tạo khi là lối kể chân thực tạo
không khí gần gũi, có khi là giọng điệu châm biến sắc sảo thâm thuý và tinh tế. Chất trí tuệ và
tính hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn của NAQ.
            - Thơ ca HCM cũng có phong cách đa dạng. Những bài cổ thi hàm súc uyên thâm, đạt
chuẩn mực cao về nghệ thuật, những bài thơ hiện đại được Người vận dụng qua những thể
loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
            à Nhìn chung, nội dung và hình thức nghệ thuật trong sáng tác của NAQ-HCM luôn vận
động linh hoạt theo mục đích sáng tác, đối tượng tác động và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể...
            4. Quan điểm sáng tác HCM:
            - Sinh thời Chủ Tịch HCM không nhận mình là nhà văn nhà thơ và chỉ là người bạn của
văn nghệ, người yêu văn nghệ, nhưng rồi chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu
cầu, môi trường XH và thiên nhiên gợi cảnh, cùng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nhạy
cảm, Người đã viết được rất nhiều áng văn chính luận hào hùng, những truyện ngắn đặc sắc
và hàng trăm bài thơ rất hay. Người có ý thức và am hiểu sâu sắc qui luật và đặc trưng của
hoạt động văn nghệ, từ phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện điều đó
trước hết được biểu hiện trực tiếp trong quan điểm sáng tác văn chương của người.
            + Là nhà CM vĩ đại lại rất yêu văn nghệ, HCM xem văn nghệ là một hđộng tinh thần
phphú và phvụ có hiệu quả cho sự nghiệp CM, nhà văn là chsĩ trên mặt trận vhoá tư tưởng
tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ" cảm tưởng đọc"Thiên gia thi"
 "Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp-Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi,sông-Nay ở trong
thơ nên có thép-Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
  Chất" thép " ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng, là cảm hứng đấu
tranh XH tích cực. Quan điểm của HCM là sự tiếp thu kế thừa quan điểm dùng văn chương
làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng
vô sản.
            + HCM đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương: trong thời
đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ Người nêu kinh nghiệm
chung cho hoạt động báo trí và văn chương. Trước khi cầm bút người xắc định rõ. viết cho
ai?( Đối tượng). Viết để làm gì (mục đích) viết cái gì ( nội dung) và viết như thế nào?( hình
thức).
    Người chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ các khía cạnh trên liên
quan đên nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.
            + HCM luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thực, phát biểu trong
buổi khai mạc phòng triển lãm hội hoạ trong năm đầu sau cách mạng. Người uốn nắn một
hướng đi" chất mơ mộng nhiều quá, và cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít" người yêu cầu
văn nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật , hùng hồn" những đề tài phong phú của hiện
thực cách mạng, phải chú ý nêu gương" người tốt việc tốt" uốn nắn và phê bình cái xấu bởi
tính chân thực chính là cái gốc của văn chương xưa và nay.
            - Nhà văn cũng phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kỳ, xa lạ, nặng nề.
Hình thức của tác phẩm trong sáng hấp dẫn, ngôn ngữ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng
của tiếng Việt. Theo Người tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tọc
của nhân dân và được nhân dân ưa thích.
•v     TỐ HỮU
1. Những nét chính về cuộc đời của Tố Hữu:
            + Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành sinh 4/10/1920 quê ở Phù Lai, xã Quảng
Thọ huyện Quảng Điền tỉnh Thừa thiên Huế ông sinh ra trong một giđình nhà nho nghèo. Từ
nhỏ Tố Hữu đã học và tập làm thơ.
            - THữu giác ngộ CM trong thời kỳ mặt trận dân chủ, trở thành ngừơi lđạo đoàn thanh
niên dchủ ở Huế. 8/1945, THữu là chủ tịch uỷ ban khnghĩa ở Huế.
            - Sau CMT8 cho đến 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong các cơ
quan lđạo của Đảng, Nhà nước.
            -Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chật chẽ, sự nghiệp
thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp CM. Ông được
Nhà nước phong tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật ( Đợt một 1996)
2. Con đường thơ của Tố Hữu gắn liền với chặng đường CM dtộc
            +Tố Hữu đã đạt được những thành tựu trong chặng đường sáng tác. Ông đã nhận được
giải thưởng văn học lớn:  Giải nhất giải thưởng văn học hội văn nghệ VN 1954-1955 ( Tập
Việt Bắc); Giải thưởng văn học ASEAN (1996); Giải thưởng HCM về văn học-nghệ thuật ( đợt
một 1996);
            + Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng, nên các chặng đường thơ
cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh ấy.
            a. Tập thơ "từ ấy"(1937-1946) là chặng đường đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là
mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người
thanh niên cách mạng trong một giai đoạn  lịch sử sôi động.
   Tập thơ gồm ba phần( tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động của Tố
Hữu)
            -"Máu lửa": ca ngợi lý tưởng và kêu gọi quần chúng bị áp bức đứng lên đtranh.
            - "Xiềng xích": ghi lại những cuộc đtranh gay go của những người chiến sĩ cách mạng
trong nhà tù thdân. Thể hiện sự trưởng thành vững vàng của người thanh niên cách mạng
qua thử thách bộc lộ một tâm hồn yêu đời tha thiết.
            -"Giải phóng" : Thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi cách mạng thành công.
            b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc kháng chiến, con người
kháng chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của quân và dân, lòng anh dũng . Sự trưởng
thành của nhân dân dưới sự lãnh đạo 
 
b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc kháng chiến, con người kháng
chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của quân và dân, lòng anh dũng . Sự trưởng thành
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ dã đưa cuộc kháng chiến đến ngày thắng
lợi (cá nước, lên Tây bắc, Việt bắc, Bầm ơi, Lượm...)
            c. Tập thơ "gió lộng"( 1955-1961): Là tiếng hát ca ngợi cuộc sống mới XHCN ở miền
bắcvà bộc lộ tình cảm tha thiết với miền nam, đồng thời thể hiện ý chí thống nhất đất nước,
tình cảm qutế vô sản với các dân tộc anh em trong niềm vui, THữu không quên nhớ về quá
khứ để thấm thía những khổ đau của ông cha ( mùa thu tới, ba mươi năm đời ta có Đảng, quê
mẹ...).
            d. Tập thơ " Ra trận"(1962-1971) và " Máu và hoa"( 1972-1977).
Là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải phóng miền nam,
thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất con người Việt nam , đồng thời là
khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc Nam một nhà, non sông liền một dải. (Còn
tiếp)

Tác gia Xuân Diệu


I. Tiểu sử, sự nghiệp văn chương.

1. Tiểu sử.

Xuân Diệu (1916 – 1985) còn có bút danh là Trảo Nha, tên khai sinh là Ngô
Xuân Diệu. Ông thân sinh Xuân Diệu là một nhà nho, quê ở làng Trảo Nha
(nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; mẹ thi sĩ quê ở Gò Bồi,
xã Tùng Giản, huỵên Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân Diệu lớn lên ở Quy
Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ
Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là
thành viên của Tự lực văn đoàn. Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh từ
trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông hăng say hoạt động trong lĩnh
vực văn hoá nghệ thuật. Cả cuộc đời ông gắn bó với nền văn học dân tộc.
Ông là uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III. Năm
1983,Xuân Diệu được bầu là viện sĩ thông tấn Viện Hàn Lâm nghệ thuật
cộng hoà dân chủ Đức.

Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông
đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc
mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ
thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và của tuổi
trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời mãnh liệt. Từ sau cách
mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống rất giàu tính thời
sự. Ông cổ vũ và hăng hái thể nghiệm khuynh hướng tăng cường chất
hiện thực trong thơ. Xuân Diệu hấp dẫn bởi một phong cách nghệ thuật
độc đáo với ba đặc điểm chính:

-Một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm trước sự vận động của thời gian.
-Một trái tim luôn hướng đến mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu nơi trần thế bằng
niềm yêu đời, yêu sống cuồng nhiệt, sôi nổi.

-Một nghệ sĩ học tập nhiều ở cấu trúc thơ Tây Phương hoàn thiện thơ trữ
tình điệu nói để hiện đại hoá thơ Việt.

Xuân Diệu là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có
đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một
nhà văn hoá lớn. Ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật (1996).

II. Sự nghiệp văn học

Suốt nửa thế kỷ lao động nghệ thuật, Xuân Diệu đã có những đóng góp
lớn lao cho sự nghiệp văn học nước nhà, được khẳng định trên nhiều
phương diện: nhà thơ, nhà văn, người viết tiểu luận, phê bình và là nhà
dịch thuật… ở cả hai chặng đường trước và sau cách mạng tháng Tám,
Xuân Diệu đều có cống hiến to lớn cho nền văn học hiện đại Việt Nam.
Ông xứng đáng được coi là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn.

Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn, tiêu biểu là các tập thơ: Thơ
thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mũi cà Mau –
Cầm tay (1962), Hai đợt sóng (1967), Tôi giấu đôi mắt (1970), Thanh ca
(1982); Các tập văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945); các
tập tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học: Những bước đường tư tưởng
của tôi (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, hai tập (1981, 1982), Công
việc làm thơ (1984)…
Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của Xuân Diệu chủ yếu trên hai lĩnh
vực: Thơ, văn ở hai giai đọan: trước và sau cách mạng tháng Tám.

1. Thơ (trước và sau cách mạng tháng Tám).

Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới và ông
được đánh giá là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh)
với những tác phẩm: Thơ thơ, Gửi hương cho gió.

Chủ đề chính của thơ Xuân Diệu trước cách mạng là:

-Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm với đời và tình yêu cuộc
sống.

-Nỗi cô đơn rợn ngợp của cá thể trước không gian mênh mông, thời gian
xa thẳm.

-Một khát vọng tình yêu mạnh mẽ, cuồng nhiệt và cũng là nỗi đau của một
trái tim yêu đắm say mà không được đền đáp.

Sau cách mạng, Xuân Diệu đã có một sự đổi mới trong tâm hồn và trong
thơ. Từ một nhà thơ lãng mạn bậc nhất của phong trào Thơ mới, ông trở
thành nhà thơ cách mạng. Tình cảm yêu nước và trách nhiệm công dân đã
chắp cánh cho hồn thơ Xuân Diệu. Ông say sưa viết về Tổ quốc, Đảng,
chủ tịch Hồ Chí Minh và công cuộc xây dựng, đấu tranh thống nhất nước
nhà… thơ Xuân Diệu sau cách mạng đã mở rộng diện phản ánh và đề tài
viết về cuộc sống mới. Thành tựu thơ ca của Xuân Diệu sau cách mạng
được thể hiện ở các tập thơ: Riêng chung (1960), Mũi cà Mau – Cầm tay
(1962). Hai đợt sóng (1967), Hồn tôi đôi cánh (1976)…
Về thơ tình của Xuân Diệu ở kỳ này dường như đã bớt đi những cảm xúc
nồng nàn, đắm say, cuồng nhiệt nhưng lại bổ sung thêm những phẩm chất
mới làm cho thơ trở nên dịu nhẹ nhàng hơn nhưng không làm mất đi
“giọng thơ đặc trưng”.

2. Văn.

Xuân Diệu không chỉ sáng tác thơ mà còn viết nhiều tác phẩm văn xuôi.
Các sáng tác văn xuôi trước Cách mạng của Xuân Diệu được viết theo bút
pháp lãng mạn và có lúc nghiêng về chủ nghĩa hiện thực (truyện ngắn Toả
Nhị Kiều, Cái hoả lò).

Sau cách mạng tháng Tám, với niềm say mê cuộc sống mới, Xuân Diệu đã
viết nhiều hơn, viết khoẻ hơn và ở nhiều thể loại khác nhau. Ngoài truyện
ngắn, tuỳ bút ông còn nghiên cứu phê bình văn học, giới thiệu và dịch thơ.
Ông đã viết 5 tập bút ký, 16 tập nghiên cứu phê bình văn học. ông đã để lại
những tập tiêu luận phê bình có giá trị Tiếng thơ , Phê bình giới thiệu thơ ,
dao có mài mới sắc.

III. Kết luận:

Có thể thấy, ở lĩnh vực nào, Xuân Diệu cũng có sự đóng góp to lớn cho sự
phát triển của văn học hiện đại Việt Nam. Ông còn là tấm gương tiêu biểu
cho sự say mê lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc. Đóng góp của
ông cho tiến trình phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam được bộc
lộ một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực khác nhau và đều đặn ở mỗi giai
đoạn lịch sử.

You might also like