You are on page 1of 29

KHOA ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG - ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

*****************

TIỂU LUẬN

KHÁI QUÁT VỀ ADSL

Hà Nội, 4/1/2005
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Mục lục

I. Cơ sở về DSL.................................................................2
1. Sự phát triển của công nghệ viễn thông và sự ra đời của
ADSL.................................................................................3
2. Những ưu điểm của ADSL..............................................4
II. ADSL............................................................................5
1. Định nghĩa và mô hình tham chiếu................................5
2.Truyền dẫn ADSL...........................................................6
3. Nhiễu trong ADSL..........................................................9
4. Băng thông ADSL........................................................13
5. Điều chế......................................................................15
6. FEC - Forward Error Control .......................................18
7.Tiêu chuẩn ANSI T1.143...............................................19
8. Hướng phát triển và ứng dụng của ADSL....................21
III. ADSL và các công nghệ truyền dẫn khác...................24
1. ATM over ADSL............................................................24
2. TCP over ADSL............................................................27

I. Cơ sở về DSL
Công nghệ đường dây thuê bao số DSL thực hiện truyền thông tin
số qua đường dây điện thoại. Đường dây điện thoại với những giới hạn
cố hữu giờ đây truyền được tín hiệu với tốc độ hàng triệu bit trên một

-2-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

giây. Sở dĩ điều này thực hiện được là nhờ áp dụng các kỹ thuật truyền
số liệu phức tạp, đó là sự bù đắp các suy giảm truyền dẫn trên đường
dây điện thoại. Kỹ thuật truyền dẫn số sử dụng các thuật toán phức
tạp mà ngày nay có thể trở thành hiện thực là nhờ các bộ vi xử lý tốc
độ cao dựa trên các mạch tích hợp.
Kỹ thuật DSL đã tạo ra một bước ngoặt mới cho việc sử dụng đường
dây điện thoại . Đường dây điện thoại trước đây chỉ sử dụng để truyền
một kênh điện thoại băng tần 3,4kHz, giờ đây có thể truyền gần 100
kênh thoại số nén hoặc một kênh video có chất lượng tương đương
truyền hình quảng bá. Kỹ thuật truyền dẫn số tốc độ cao qua đôi dây
điện thoại yêu cầu phải có các bộ xử lý số tiên tiến để khắc phục sự
suy giảm tín hiệu, nhiễu xuyên âm từ các đôi dây khác trong cùng một
cáp, sự phản xạ tín hiệu, nhiễu tần số và nhiễu xung.

1. Sự phát triển của công nghệ viễn thông và sự ra đời của


ADSL
Trong vài thập niên vừa qua, khoa học kỹ thuật có nhiều thay đổi,
đặc biệt là sự phát triển ngoài dự đoán của công nghệ viễn thông.
Trước kia, chúng ta mất 2 đến 5 ngày chờ đợi một bức thư đến được
đích và khi máy fax xuất hiện, khoảng thời gian đó được rút ngắn lại
trong vòng 24 h. Và bây giờ, với thư điện tử, quãng thời gian đó được
rút ngắn lại xuống chỉ còn vài phút hoặc ngắn hơn tùy theo yêu cầu.
Và mỗi khi sử dụng Internet để tìm thông tin, việc phải chờ đợi quá
một phút để mở đựơc 1 trang web là khó có thể chấp nhận được. Tất
cả điều đó đều chỉ ra rằng, chúng ra sẽ không thoả mãn chỉ đến khi
viễn thông đạt đựơc tốc độ làm việc trong thời gian thực.
Từ khi điện thoại ra đời, chúng ta đã có thể nói chuyện với nhau
như khi nói chuyện trực tiếp. Và bây giờ, chính vì lẽ đó mà chúng ta
mong muốn mọi dịch vụ viễn thông được truyền trên cáp đồng cũng
phải đạt được tốc độ như vậy.

-3-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Công nghệ hiện đại đã cố gắng giải quyết vấn đề đó và một vài giải
pháp dựa trên cáp đồng để tăng tốc độ truyền đã được áp dụng, tuy
nhiên điều cần thiết ở đây là sự đầu tư vào hạ tầng cở sở của mạng
truyền thông.
Công nghệ ADSL (đường truyền thuê bao số bất đối xứng), đã xuất
hiện vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, hứa hẹn một khả năng
cung cấp tốc độ như yêu cầu dựa trên hệ thống điện thoại công cộng
sử dụng cáp đồng mà không cần thay đổi bất cứ thành phần nào trong
hạ tầng cơ sở.
Sau những cuộc thử nghiệm trên khắp thế giới, công nghệ ADSL đã
chứng tỏ khả năng truyền tải hiệu quả và nhanh chóng các dịch vụ
multimedia băng rộng trên cáp đồng. Với các ưu điểm vượt trội, ADSL
đã nhanh chóng trở thành một công nghệ tiên tiến hàng đầu trên thế
giới và đang dần đựơc áp dụng vào thực tiễn. Với ADSL, hơn 750 triệu
thuê bao điện thoại trên toàn thế giới sẽ có cơ hội sử dụng các dịch vụ
với tốc độ truy cập cao và đó mới chỉ là khúc dạo đầu của một kỷ
nguyên mới trong công nghệ truyền thông.

2. Những ưu điểm của ADSL


Chúng ta hãy xem qua một vài ưu điểm vượt trội khiến cho ADSL
được sử dụng rộng rãi trên thế giới
- Tốc độ : Bất cứ ai đã từng đợi để download hoặc truy nhập Internet
với tốc độ 28.8 kbps bằng modem quay số sẽ dễ dàng hình dung
được điều gì sẽ xảy ra một khi tốc độ tăng lên tới 300 lần. Với tốc
độ 8 Mbps ở đường xuống và 1 Mbps ở đường lên, ADSL là lý tưởng
để đáp ứng các yêu cầu truy cập Internet và những ứng dụng cần
đường truyền tốc độ cao.
- Tính linh hoạt: Trong quá trình phát triển của ADSL đã nảy sinh
những hướng phát triển khác nhau nhưng một điểm chung của
chúng là đều sử dụng những phương pháp mã hoá phức tạp để

-4-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

nhằm tận dụng tối đa khả năng truyền của cáp đồng bởi lẽ việc
truyền thoại chỉ chiếm có 1% khả năng đó. Và trong những hướng
phát triển đề phù hợp với các điều kiện khách quan, ADSL vẫn luôn
được chú ý đến bởi tốc độ và khả năng cho phép truyền các ứng
dụng multimedia tương tác mới đòi hỏi nhiều về dải thông.
- Sự phát triển quan hệ đối tác: Với sự phát triển mạnh mẽ của
ADSL, hoạt động trao đổi giữa các nhà cung cấp thiết bị đã tăng lên
đáng kể. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 60 nhà cung cấp
thiết bị bán dẫn và các thiết bị khác có liên quan đến xDSL. Đa số
các nhà sản xuất thiết bị viễn thông đều liên kết với các công ty nhỏ
hơn đang phát triển hệ thống DSL ở các khu vực khác nhau trên thế
giới. Những quan hệ đối tác như trên cho phép những nhà cung cấp
tăng tốc phát triển sản phẩm, đồng thời có thể hợp nhất những hệ
thống xDSL phát triển bởi những công ty nhỏ hơn dựa trên những
mạng chuyển mạch ATM tốc độ cao.

II. ADSL

1. Định nghĩa và mô hình tham chiếu


Đường dây thuê bao số không đối xứng ADSL là kỹ thuật truyền
dẫn mạch vòng nội hạt đồng thời truyền tải trên cùng một đôi dây các
dịch vụ sau:
- Tốc độ bit thu (về phía người sử dụng) lên gần 9Mb
V phát (về phía mạng)
- Tốc độ bit
Mạch vòng nội
đạt tốc độ 1 Mb
U-C hạt bằng đôi U-R T
dây xoắn
- Mạng ATU-C
Dịch vụ điện thoại phổ thông ATU-R Đầu cuối
băng rộng người sử
Cho đến 9Mbps dụng
Bộ tách Bộ tách
Cho đến 1Mbps
LPF LPF
POTS-C Thoại tương tự POTS-R
-5-

Tổng đài Điện thoại Phía khách


điện thoại
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Tốc độ truyền về phía khách hàng lớn hơn nhiều lần truyền từ
khách hàng đi, do đó có thuật ngữ bất đối xứng. Thoại được truyền ở
tần số trong băng cơ sở kêt hợp với truyền dữ liệu thông băng qua bộ
lọc thông thấp (bộ tách). Ngoài bộ tách, ADSL bao gồm một đơn vị
truyền dẫn ADSL ở phía thiết bị trung tâm (ATU – C), một mạch vòng,
và một đơn vị truyền dẫn ADSL xa (ATU – R).

2.Truyền dẫn ADSL


Khái niệm ADSL có hai phần cơ bản: (1) xuyên âm đầu gần giảm do
có tốc độ bit phát và giải tần thấp hơn nhiều tốc độ bit thu và (2)
truyền tải đồng thời POTS và dữ liệu bằng cách truyền dữ liệu trong
dải băng tần trên băng tần thoại. Truyền dẫn 2 hướng tốc độ nhiều
Mbps không dùng trên phần lớn các đường dây điện thoại do hiệu ứng
kết hợp của suy giảm mạchMức
Mức tín hiệu
vòng và xuyên âm. Như chỉ ra ở hình dưới
tín hiệu
nhận được
đây, năng lượng tín hiệu nhận được giảm đi tương ứng với tần số và
nhiễu xuyên âm nhận được tăng theo tần số. Do đố truyền dẫn hai
hướng không thể thực hiện được ở những tần số mà nhiễu xuyên âm
lấn át tín hiệu nhận Mức nhiễu xuyên
âm nhận được

Tần số

Giới hạn
- 6cho
- truyền
dẫn 2 hướng

Hình vẽ: Truyền dẫn hai hướng bị giới hạn ở tần số thấp
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

ADSL thực hiện truyền dẫn hai hướng tại những nơi có thể: dưới tần số
cắt hai hướng. Tần số cao không thích hợp cho truyền dẫn hai hướng
được sử dụng cho truyền dẫn một hướng. Điều này cho phép tốc độ
thu vượt xa tốc độ có thể ở truyền dẫn hai hướng.
Nhiều hệ thống ADSL sử dụng kỹ thuật truyền dẫn ghép kênh theo
tần số, kỹ thuật này đặt truyền dẫn phát ở dải tần số tách khỏi dải tần
số thu để tránh tự xuyên âm. Dải tần bảo vệ là cần thiết để giúp cho
các bộ lọc ngăn tạp âm POST can nhiễu vào truyền dẫn số.

Mức truyền
Băng phát
Băng POTS tốc độ thấp

Băng phát
tốc độ cao

Băng
bảo vệ

Tần sô

-7-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Một số hệ thống ADSL sử dụng kỹ thuật truyền dẫn triệt tiếng vọng
ECHO, nơi dải tần phát được đặt trong dải tần thu. Bằng cách chồng
dải tần, tổng băng tần truyền có thể giảm. Tuy nhiên ECHO khó tránh
đựơc tự xuyên âm và khi thực hiện cần có xử lý số phức tạp hơn.

Mức truyền
Băng phát
Băng POTS tốc độ thấp

Băng phát
tốc độ cao

Băng
bảo vệ

Tần sô
Do không có tự xuyên âm ở đầu cuối CO nên việc ghép kênh phân
chia theo tần số FDM khiến ADSL làm việc tốt hơn nhiều so với phương
pháp triệt tiếng vọng ECHO. Tuy nhiên dải thông thu của ADSL cho
phép làm việc theo hướng thu đối với các mạch vòng là lớn hơn.
Hoạt động của DSL đối xứng ban đầu bị hạn chế bởi tự xuyên âm
đầu gần (self-NEXT) ADSL khắc phục được self-NEXT ở đầu cuối khác
hàng đơn giản bằng cách giảm nguồn được NEXT. Bằng cách giảm tốc
độ bit phát, kênh phát có thể đặt vị trí để xuyên âm vào truyền dẫn
thu là ít nhất. Đối với ADSL, sự thu nhận của kênh phát đựơc xếp đặt
dễ dàng hơn bằng cách đặt nó ở tần số thấp hơn nơi mà suy hao mạch
vòng là thấp và nhiễu xuyên âm cũng thấp hơn.
Hệ thống ADSL ứng dụng kỹ thuật truyền dẫn tiên tiến để nâng cao
hoạt động. Điều chế và sắp đặt tần số của tín hiệu phát được tự làm
thích ứng để đạt được mức hoạt động tối ưu từ các đặc tính liên quan
tới đường dây thuê bao sử dụng. Mã Trellis được sử dụng để giảm hiệu
ứng nhiễu băng tần rộng trạng thái ổn định. Các bộ cân bằng có khả

-8-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

năng thích nghi chống lại nhiễu băng hẹp, ví dụ như nhiễu tần số phát
thanh (RFI). Mã điều khiển lỗi hướng đi và cài xen (interleaving) ngăn
chặn nhiễu xung. Cài xen chống lại lỗi xuất hiện đột ngột bằng cách
thay đổi các khối dữ liệu, vì thế mà sự xuất hiện đột ngột lỗi kéo dài
dẫn đến có một số ít lỗi trong một khối dữ liệu (có thể sửa được) thay
vì một lượng lỗi lớn xảy ra trong một khối (không thể sửa được). Với
độ sâu cài xem 20ms sẽ chống lại nhiễu đột biến có khoảng thời gian
là 500μs, nhưng mức cài xen này gây ra trễ truyền bổ sung mà có thể
làm chậm lại băng thông của các gói tin phúc đáp trước khi dữ liệu tiếp
theo được truyền.

3. Nhiễu trong ADSL


Những đường dây điện thoại DSL là cáp xoắn được bó lại thành
những cáp lớn. Dây cáp xoắn về cơ bản được sử dụng để tối giản sự
giao thoa của những tín hiệu từ cáp này sang cáp khác gây ra bởi sự
bức xạ hoặc sự ghép bằng điện dung. Tuy nhiên, sự ghép đôi giữa các
tín hiệu để giảm nhiễu chỉ có thể đạt tới một giới hạn nhất định. Nếu
vượt quá giới hạn này, nhiễu tổng cộng trên từng dây sẽ khiến cho
chất lượng thông tin trên đó bị suy hao đáng kể. Và như vậy, nếu
truyền tín hiệu một cách cân đối trên nhiều đôi dây trong một cáp, tốc
độ và chiều dài của tuyến sẽ bị giới hạn trong một khoảng hẹp.
Sở dĩ như vậy là do nhiễu trên đường dây thuê bao số, mà phổ biến
nhất là 2 loại nhiễu xuyên âm thường thấy trong DSL: NEXT – xuyên
âm đầu gần và FEXT – xuyên âm đầu xa.
- Xuyên âm đầu gần NEXT là loại xuyên âm xảy ra từ các tín hiệu đi
theo hướng ngược lại trên đôi dây xoắn hoặc là từ bộ phát đi tới bộ
thu đầu cuối gần
- Xuyên âm đầu xa FEXT có từ tín hiệu đi theo cùng một hướng trên 2
đôi dây xoắn hoặc từ bộ phát tới bộ thu đầu xa.

-9-
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

H1 (f, x) (H1−d,f)x
Thu đầu gần Thu đầu xa

Cặp 1
FEXT
NEXT
X 21 (f )
Cặp 2

Phát xuyên âm H2 (f, x)

x
d

Minh hoạ xuyên âm

Xuyên âm có thể là nguồn nhiễu ảnh hưởng lớn trên đôi dây xoắn
và thường gây giảm tính năng hoạt động của DSL khi nó không được
loại bỏ. Trong mô hình cáp dưới đây minh hoạ sự cảm ứng giữa hai dây
trong một đôi dây xoắn và giữa hai đôi dây khác nhau.

E13
Đôi 1 Đôi 2
Dây1 M13 Dây3

M14 M23

E23
E14

E24
Đôi 1 M24 Đôi 2
Dây2 Dây4
Có điện cảm tương hỗ M giữa các đoạn của dây và có điện dung E
Mô hình phân bố liên hệ giữa các đôi dây xoắn
giữa bản thân các dây. Trong cáp đôi dây xoắn có điều khiển, người ta
mong rằng điện cảm và điện dung tương hỗ có thể điều chỉnh được bởi
độ xoắn do đó các đoạn xung quanh của đôi dây xoắn có cực đảo dấu
và do vậy loại bỏ được tín hiệu cảm ứng. Tuy nhiên độ xoắn khong
phải là hoàn hảo và giá trị của điện cảm, điện dung không được duy trì
suốt chiều dài của đôi dây xoắn. Hơn nữa, sự thay đổi điện cảm và
điện dung tương hỗ theo tần số thậm chí còn cao hơn sự biến đổi các
tham số đặc trưng cho tín hiệu kim loại (từ thuê bao đến tổng đài) dọc

- 10 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

theo đôi dây xoắn R(Ω/km), L(H/km), C(F/km), G(S/km) . Tuy nhiên,
người ta cho rằng tín hiệu kim loại từ một đôi dây ảnh hưởng sang đôi
dây đang xét là không đổi theo chiều dài (khi ta giả thiết là các tham
số RLCG là không đổi trên một đơn vị chiều dài). Sau đó, hàm cảm
ứng (phụ thuộc vào tần số) X21(f ) giữa sự thay đổi điện áp trên dây 2
và dây 1 có thể tìm được qua lý thuyết mạng hai cửa tổng quát khi
biết tất cả các tham số M và E. Tương tự như vậy, ta cũng có thể tìm
được hàm xuyên âm theo đơn vị chiều dài từ đôi dây 1 sang đôi dây 2
(và cũng như vậy cho mỗi đôi trong cáp lên các đôi dây khác).
Cả NEXT và FEXT đều có hàm nhiễu theo thời gian ở bộ thu tuân
theo quy luật phân bố Gaussian.
Ngoài NEXT và FEXT, ADSL còn chịu ảnh hưởng của các loại nhiễu
khác, ví dụ như nhiễu vô tuyến, nhiễu xung, can nhiễu giữa các loại
DSL với nhau hoặc tự can nhiễu.
Nhiễu vô tuyến: là phần còn lại của tín hiệu vô tuyến trên đường
dây điện thoại, đặc biệt là của AM quảng bá và của các nhà khai thác
không chuyên (HAM)
Tín hiệu tần số vô tuyến ảnh hưởng lên đôi dây điện thoại, đặc biệt
là dây trần. Các đường dây điện thoại làm từ đồng tạo thành anten thu
sóng điện từ dẫn tới dòng điện tích cảm ứng so với đất. Điện áp chung
cho đôi dây xoắn là một trong hai dây so với đất, thông thường hai
điện áp này là giống nhau vì hai dây trong đôi dây xoắn giống nhau.
Đường dây điện thoại cân bằng cao cho thấy sự suy giảm lớn trong tín
hiệu RF biến thiên trên đôi dây so với tín hiệu chung. Tuy nhiên, sự cân
bằng sẽ giảm đi khi tần số tăng lên, và ở tần số của DSL nói chung, từ
560kHz tới 30MHz, hệ thống DSL có thể chồng lên băng tần sóng vô
tuyến và sẽ thu nhận đựợc mức nào đó của nhiễu vô tuyến dọc theo
các tín hiệu DSL biến thiên trên cùng một đôi dây điện thoại. Dạng
nhiễu DSL này gọi là RF vào.

- 11 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Một dạng nhiễu vô tuyến khác chính là sự xâm nhập của AM quảng
bá. Giao thoa vô tuyến AM xuất pháp từ trạm phát vô tuyến liên thục
có độ rộng băng thông 10 kHz từ 560kHz tới 1.6MHz, do đó ảnh hưởng
đến tín hiệu thu ADSL. Nhiều trạm vô tuyến AM có thể cùng một lúc
hoạt động trong thành phố và ảnh hưởng lên đường dây điện thoại.
Các trạm phát vô tuyến AM có thể phát quảng bá ở mức công suất lên
tới 50000W và có thể phát tới công suất lớn nhất vào buổi tối. Tín hiệu
AM có nhiễu khoảng từ -80dBm/Hz đến -120dBm/Hz. Mức AM xâm
nhập có thể ngang hoặc trên mức xuyên âm và mức nhiễu nền của
ADSL, vì thế không thể bỏ qua khi thiết kế. Tuy nhiên tín hiệu vô tuyến
AM không đủ lớn để làm boã hoà đầu cuối analog của các bộ thu ADSL
Nhiễu xung: là nhiễu xuyên âm không ổn định từ các trường điện từ
tạm thời gần đường dây điện thoại. Những ví dụ về bộ phát xung rất
đa dạng, ví dụ như sự đóng ngắt motor, điện áp điều khiển thang máy,
sự rung chuông của máy điện thoại trong cùng một bó cáp. Mỗi hiệu
ứng này là tạm thời và gây ra nhiễu xâm nhập vào các đường dây điện
thoại qua cùng một cơ chế cơ bản như nhiễu RF, nhưng thường ở tần
số thấp hơn nhiều.
Điện áp cảm ứng kim loại thường là vài mV, nhưng cũng có thể cao
tới 100mV. Các điện áp như vậy dường như là nhỏ, nhưng sự suy giảm
lớn ở tần số cao trên đôi dây xoắn có nghĩa là ở thiết bị thu xung có
thể là rất lớn so với mức tín hiệu DSL nhận được. Các điện áp ở chế độ
này phổ biến gây ra bởi xung có thể gấp 10 lần về biên độ. Các xung
thông thường kéo dài từ hàng chục đến hàng trăm lần micro giây
những cũng có thể kéo dài tới 3ms.
Tự can nhiễu : Tự xuyên âm là xuyên âm vào một dịch vụ cùng hoạt
động trong ADSL. Đây là điều cần chú ý đến khi các nhà cung cấp dịch
vụ muốn cung cấp một dịch vụ nào đó trên phạm vi rộng. Tuy nhiên
với đặc tính bất đối xứng của mình, ADSL không có tự xuyên âm. Điều

- 12 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

này cho phép tín hiệu thu chạy ở tốc độ lớn hơn nhiều so với truyền
dẫn đối xứng trong điều kiện tương đương.

4. Băng thông ADSL


Đúng như tên gọi, ADSL truyền những dòng dữ liệu không đối xứng,
đường xuống (tới người thuê bao) chiếm nhiều dải thông hơn so với
đường (từ người thuê bao đến nhà cung cấp dịch vụ).
Lý do để giải thích cho sự không cân đối một cách tự nhiên của quá
trình truyền là do nhu cầu thực tế của người sử dụng. Đối với một
đường truyền tốc độ cao, rất nhiều ứng dụng được dùng, ví dụ như
xem video trực tuyến, mua bán, chơi game, truy cập Internet, truy cập
mạng LAN từ xa v..v nên cần tốc độ đường xuống (tới người sử dụng)
phải cao. Ngược lại, yêu cầu về băng thông đường lên lại hoàn toàn
thấp hơn nhiều và do đó, có sự bất đối xứng giữa đường lên và đường
xuống về mặt băng thông.
Các lớp truyền tải khác nhau của ADSL là 2M-1, 2M-2, 2M-3,
trong đó 2M-1 có tốc độ cao nhất nhưng có cự ly truyền ngắn nhất.
Khả năng truyền tải của ADSL trên đường xuống cơ bản là từ
2,048 Mbps tới 6.144Mbps. Ở tốc độ 6.144Mbps, cự ly truyền có thể
vào khoảng 3 km. Tốc độ truyền càng giảm thì cự ly truyền càng tăng
lên. Cự ly truyền cao nhất có thể được là 9 km. Tốc độ truyền có thể
đạt được tới 52Mbps và 155Mbps nếu sử dụng sợi quang để truyền.
Bằng cách sử dụng công nghệ DMT ADSL (Discrete Multitone – Đa tần
rờì rạc) ta có thể sử dụng nhiều tốc độ bit khác nhau, tốc độ bit chỉ còn
phụ thuộc vào mạch giao diện. Vì thế hệ thống có khả năng thích ứng
rất cao. Tốc độ bit đường xuống được cho ở trong bảng dưới đây:

- 13 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Tốc độ truyền của đường xuống của ADSL nằm trong phạm vi từ 0-
640 kbps tuỳ thuộc vào lớp truyền tải. Tổng hợp các tốc độ bit ở đường
lên được liệt kê ở bảng dưới đây:

- 14 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Đặc biệt, ATM có thể truyền qua ADSL với các tốc độ bit sau

5. Điều chế
Tất cả các kênh truyền dẫn cơ bản đều là analog, vì vậy có thể đưa
ra các ảnh hưởng truyền dẫn khác nhau. Đặc biệt, các đường dây điện
thoại đa phần là analog, và do vậy DSL sử dụng một vài dạng điều
chế. Mục tiêu cơ bản của điều chế là biến đổi một luồng bit vào DSL
thành các tín hiệu analog tương đương phù hợp với đường truyền dẫn.
ADSL là một thành viên trong tập các đường truyền số DSL, do đó
nó cũng sử dụng các phương thức điều chế căn bản giống như các
đường truyền số theo công nghệ khác. Tuy nhiên, có hai phương thức
điều chế chính được sử dụng trong công nghệ ADSL. Đó là DMT-
Discrete Multitone Modulation và CAP - Carrierless Amplitude/Phase
Modulation. Trước hết, chúng ta sẽ xét về DMT trước.
Mặc dù mạng điện thoại PSTN có dải thông tần từ 400Hz tới
3400kHz để truyền tín hiệu thoại, nhưng cáp đồng có một phổ tần số
tới 1.1MHz có thể tận dụng rất tốt để truyền dữ liệu. Công nghệ DMT –

- 15 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Discrete Multitone – Đa tần rời rạc - sử dụng toàn bộ phần còn lại của
dải phổ đó bằng cách sử dụng các hệ số khuếch đại khác nhau cho mỗi
tần số. Phần phổ tần số từ 4kHz trở về trước là dành cho tín hiệu của
hệ thống điện thoại cũ.
Ý tưởng chủ đạo của phương pháp điều chế DMT là chia nhỏ dải
thông sẵn có thành một số lượng lớn các kênh con. Các kênh con này
được chia thành các nhóm dành cho việc truyền dữ liệu trên đường lên
hoặc trên đường xuống. Trong ADSL, nhóm dành cho đường xuống
được chia vào 256 kênh 4kHz, còn nhóm dành cho đường lên có 32
kênh. Mỗi một kênh con đều độc lập và có nhiệm vụ mang một dòng
tín hiệu riêng. Tiêu chuẩn ADSL định nghĩa một dòng dữ liệu cơ bản
khi đã biết trước cả hai đầu cuối và cho phép chúng xác định tỷ số
S/N đặc trưng cho mỗi kênh, và sử dụng thông tin này để chia dữ liệu
ra từng phần để truyền qua các kênh con.

Và điều quan trọng cần phải nhớ, đó là ADSL không hề ảnh hưởng
đến phần tín hiệu thoại trong bất kỳ trường hợp nào. Và để đảm bảo
điều đó, phần tín hiệu có tần số thấp hơn 4kHz sẽ được một mạch điện
tách riêng ra khi tín hiệu đi đến đầu cuối và do đó, các cuộc liên lạc

- 16 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

bằng điện thoại sẽ vẫn thực hiện được khi đường truyền đang được sử
dụng trong các dịch vụ băng thông rộng ứng dụng công nghệ ADSL.

Kỹ thuật DMT rất hữu dụng trong chế độ bất đối xứng khi các kênh
con được chia thành các nhóm riêng biệt dành cho đường lên(từ đầu
cuối đến các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại cũ) và xuống(từ các nhà
cung cấp dịch vụ tới các. khách hàng.

Tiếp theo, chúng ta cần phải nhắc đến công nghệ điều chế biên độ
pha không sóng mang - CAP - Carrierless Amplitude/Phase Modulation
Thuật toán CAP đưa đến sự kết hợp giữa cả biên độ và pha trong
khi tạo ra các bit tín hiệu truyền qua các đôi dây xoắn. Không giống
như DMT, CAP sử dụng toàn bộ dải thông từ 4kHz lên 1,1MHz như một
kênh truyền. Công nghệ CAP được sử dụng trong một vài chuẩn viễn
thông như chuẩn V.32 … Số lượng tín hiệu mà phương pháp này có thể
phát sinh phụ thuộc vào những mẩu thông tin mà chúng ta muốn gửi

- 17 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

qua đường truyền. Công nghệ này cho phép thay đổi tốc độ bit trong
thời gian thực khi có sự thay đổi về thuật toán sử dụng.
Những lợi thế của CAP so với DMT là giá thấp, độ trễ thấp và tốc độ
đáp ứng . Tuy nhiên, DMT luôn được xem là công nghệ đang tin cậy
hơn và phức tạp hơn

6. FEC - Forward Error Control

FEC – Forward Error Control - được sử dụng để đảm bảo cho hệ


thống hoạt động tối ưu. Việc sửa lỗi này dựa vào mã hoá vòng gọi là
mã hoá Reed – Solomon thay cho thiết lập các khối byte và sửa các lỗi
khối. Thuật toán mã hoá Reed – Solomon thực hiện theo Galois Field
(GF 256) và cho phép tới 16 byte lỗi trong một từ mã 255 bytes được
sửa. Khả năng sửa lỗi của thuật toán này có thể tăng lên trong trường
hợp các cụm lỗi dạng xung nhờ xen kẽ các lỗi vào các từ mã gần kề.
Mã hoá Reed – Solomon được sử dụng vì có độ lợi mã hoá với lỗi
ngẫu nhiên (khoảng 3 dB nếu được sử dụng đúng) và sử dụng phương
pháp chèn cho phép sửa các cụm lỗi lớn gây ra do tác động xung. Mã
hoá RS có các ký hiệu là byte chứ không phải là bit, vì thế nên nó phức
tạp hơn mã hoá nhị phân. Chúng là các mã hoá có khả năng sửa lỗi
mạnh được biết và có thể ứng dụng với độ phức tạp vừa phải. Mã hoá
RS sử dụng một số chẵn byte, 2t cho phép sửa lỗi t byte và phát hiện
2t byte bị lỗi. Khi kênh cung cấp hiển thị là các ký hiệu, kênh đầu ra có
thể bị lỗi thì mã hoá RS có thể sửa lỗi cho 2t byte có thể bị lỗi đó.
Mã hoá Reed – Solomon là trường hợp đặc biệt của phương pháp
được gọi chung là mã hoá vòng. Trong mã hoá vòng, các từ mã thêm
vào có thể được tìm thấy bằng việc trượt vòng (n-1) của bất kỳ từ mã
đầu tiên nào được đưa ra. Xét về một góc độ nào đó điều này làm
giảm tính phức tạp của không gian từ mã một cách đáng tin cậy cho
phép giải mã đơn giản hơn.

- 18 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Tất cả các thuật toán trong mã hoá Reed – Solomon đối với ADSL là
kiểu byte nằm trong trường GF256 hữu hạn. GF256 là trường mở rộng
của thuật toán nhị phân.
Trong ADSL, Reed – Solomon FEC là bắt buộc, R= 2t và các byte
kiểm tra thoả mãn 0≤R≤16 với đa thức
C(Z) = c 0 ZR − 1 + c 1ZR − 2 + ... + c R − 2 Z + c R − 1

được thêm vào từ mã gồm có K byte với đa thức (K≤256)


M(Z) = m0 ZK − 1 + m1ZK − 2 + ... + mK − 2 Z + c K − 1

trong đó m0 là byte được truyền đầu tiên và c 0 là byte được truyền


đầu tiên của các bit chẵn lẻ được thêm vào. Một byte dữ liệu gồm 8 bit

[
[ d7,... , d1 , d0 ] và được kết hợp với phần tử GF256 d7 α 7 + ... + d1 α + d0 và α ]
là nghiệm của đa thức nhị phân x 8 + x 4 + x 3 + x 2 + 1 . Đa thức byte kiểm

tra thoả mãn C(Z) = M(Z).ZR G(Z) trong đó G(Z) = Π(Z − α i )

Trong ADSL, phương pháp xoắn được sử dụng khi chọn chiều sâu
chèn từ L=0 đến 64. Khi số byte thông tin K là lẻ, độ sâu chèn L=K+2t
là đồng nguyên tố và do đó lỗi có thể được phân tán. Khi K chẵn, byte
giả được chèn vào phần cuối của từ mã để tạo K lẻ (nhưng không được
truyền đi mà chỉ được thêm vào ở máy thu khi giải mã)

7.Tiêu chuẩn ANSI T1.143


Khái niệm ADSL xuất hiện vào những năm 90 của thế kỷ trước. Ban
đầu ADSL được nghiên cứu ở tốc độ 1.5 Mbps thu vào 16 kbps phát
cho ứng dụng MPEG-1. Một số người gọi đó là ADSL1. Sau đó, cùng với
yêu cầu đáp ứng về tốc độ của một số ứng dụng, cộng với sự xuất hiện
của nhiều kỹ thuật truyền dẫn tiên tiến, ADSL2 xuất hiện với tốc độ
3Mbps thu và 16 kbps phát, cho phép truyền 2 dòng MPEG-1 đồng
thời. Vào năm 1993, ADSL ra đời với tốc độ là 6 Mbps thu và 64 kbps
phát nhằm hỗ trợ MPEG2. Tiêu chuẩn ANSI T1.143 ra đời đã phát triển

- 19 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

vượt ra khỏi ADSL3. Sau khi T1.143 được công bố, các thuật ngữ
ADSL1, ADSL2 và ADSL3 đã không còn được sử dụng.
ADSL theo tiêu chuẩn ANSI T1.143 sử dụng kỹ thuật DMT. Hệ thống
truyền tải hướng về có tốc độ lấy mẫu là 2.208 MHz và kích thước các
khối là 512 liên hợp đối xứng có 256 tone từ 0 đến 1.104 MHz và chiều
dài tiếp đầu chu kỳ v= 32 mẫu. Cứ sau 68 ký hiệu, một hằng số là ký
hiệu đồng bộ bằng 512+32=544 ký hiệu được xen vào, do đó tốc độ
thực tế của ký hiệu là 2.208/(544x69/68)=4kHz. Độ rộng của tone là
2.208/512= 4.3125kHz. Do đó, độ dư băng tần là 0.3125/4 = 7.8%.
Tốc độ truyền số liệu là một số nguyên là 4kbps nhưng thông tin được
truyền theo byte nên thực tế tiêu chuẩn cho phép tốc độ phát là một
số nguyên lần 32 kbps. Mật độ phổ công suất phát chiều về là
40dbm/Hz với sai số trung bình cho phép của tone là ±2.5dB. Công
suất phát cực đại vào khoảng 20 dBm.
Chiều đi của hệ thống cũng sử dụng kỹ thuật DMT với tốc độ lấy
mãu bằng 276kHz, kích thước khối là 64 liên hợp đối xứng tức là 32
tone từ 0 đến 138 kHz và độ dài của tiền tố chu kỳv=4 mẫu. Sau 68
ký hiệu, hằng số đồng bộ ký hiệu được đưa vào có độ dài 68 ký hiệu
tạo nên tốc độ ký hiệu thực tế là 276/(68x69/68) = 4kHz. Độ rộng của
tone vẫn là 276/64 = 4.3125kHz. Độ dư băng tần là 0.3125/4 = 7.8%.
Mật độ phổ công suất hướng lên trung bình là -38dBm/Hz với dung sai
cho phép 2.5dB tạo nên công suất phát cực đại 14dBm. Các hệ thống
ADSL thế hệ 2 cho phép sử dụng 32 tới 64 tone hướng lên trong đó các
tone thêm vào được sử dụng khi trên đường truyền có các hệ thống
ISDN. Tất cả 64 tone được sử dụng để giảm tính không đối xứng của
tốc độ chiều đi và về.
Trong cả hai hướng truyền, T1.143 bắt buộc sử dụng hai đường đi
qua đường truyền gọi là đường fast và interleaving. Các bit của đường
interleaving có thể được xen vào một hoặc vài ký hiệu do đó chịu trễ

- 20 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

lớn hơn. Các bit của đường fast chỉ được xen vào biên của ký hiệu. Chỉ
số của tone trong T1.143 được sắp xếp phù hợp sao cho tone có số bit
nhỏ nhất được mã hoá trước cùng với các bit từ bộ đệm nhanh. Sau
đó, các tone có số bit lớn hơn được mã hoá từ các bit còn lại trong bộ
đệm nhanh và các bit trong bộ đệm xen cho đến khi mã hoá xong. Xen
các bit đã sắp xếp cho phép đường truyền chịu tác động của nhiễu
xung và nhiễu clip tốt hơn so với sắp xếp bit thông thường. Tone có số
bit lớn nhất thường bị ảnh hưởng của nhiễu xung và clipping và vì vậy
phải có bảo vệ burst lỗi thêm trong các đường xen của phần sửa lỗi
ngoài

Sơ đồ truyền dẫn T1.143 được thể hiện trên hình dưới đây.

“bit” “Độ lợi”

AS0 crcf scramf FECf Mã


AS1 Điều
hoá
khiển
AS2 chùm
ghép Bộ
AS3 Sắp điểm
kênh đệm
xếp và
AS0 và P/S
tone định tỷ IDFT
đồng đầu
LS1 lệ độ
bộ ra
LS2 crcj scramj FECj Xen lợi

Khung số liệu Khung số liệu Khung số Xk DAC và xử


ghép kênh đầu ra liệu đầu vào k=0-255 lý analog
mã hoá lưới

Bộ phát DMT theo chuẩn T1.143

8. Hướng phát triển và ứng dụng của ADSL


ADSL là công nghệ truy nhập mà chế độ truyền dẫn không đồn bộ
cần để mở rộng tới khách hàng gia đình và các văn phòng nhỏ. Trong
thời gian tới, ADSL sẽ có được tốc độ 10 Mbps thu và 1,5 Mbps phát.
Tuy nhiên hướng này bị mất dần do trùng với VSDL. Do đó, người ta

- 21 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

chủ trương chú trọng vào cải thiện phạm vi mạch vòng ở các tốc độ
gần 1Mbps, giá thành thấp, tiêu thụ năng lượng thấp và giảm xuyên
âm. Các hệ thống ADSL đang được phát triển để truyền đa mạch thoại
số ngoài việc truyền dữ liệu tốc độ cao.
Một hướng phát triển ADSL là kết hợp với ISDN tốc độ cơ bản. Điều
này làm giảm đáng kể tốc độ của ADSL nhưng nó cho phép đồng thời
dịch vụ ISDN và ADSL cung hoạt động trên một mạch vòng. Cấu hình
ADSL+ISDN không hứa hẹn cung cấp một mạch vòng cỡ 5.5 km mà
thông thường cung cấp bởi ISDN. ADSL+ISDN được quan tâm trong
việc cung cấp hai mạch thoại và dữ liệu tốc độ cao trung bình.
Mạng truy cập ADSL có thể được hỗ trợ cho chuyển tải lưu lượng
dữ liệu cho các ứng dụng giữa người sử dụng và nhà cung cấp dịch vụ.
Các ứng dụng cụ thể có thể là:
- Truy cập Internet (giải trí tại nhà): ADSL hỗ trợ việc duyệt web
nhanh hơn cho người sử dụng, việc đảm bảo dịch vụ không được
đáp ứng vì giá thuê bao thấp
- Truy cập Internet tốc độ cao: dịch vụ này được cung cấp cho các
doanh nghiệp và những người tiêu thụ chính. Dịch vụ được bảo đảm
phù hợp với cứơc phí.
- Đường dây thoại và điện thoại IP: Điện thoại dựa trên IP hay ATM
đựơc phát triển bởi truy nhập ADSL. Chức năng thích hợp trong
mạng truy nhập cho phép các hình thức của dịch vụ thoại được thực
hiện giống như các dịch vụ thoại hiện tại
- Video conference: Các đường truyền ADSL với băng thông cao hơn
cho phép nâng cao chất lượng dịch vụ
- Nén số tín hiệu Video: người sử dụng được xem phim số theo thời
gian thực được phân phát từ một máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ

- 22 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

- Cung cấp radio và audio: người sử dụng có thể nghe âm thanh số


được cung cấp theo thời gian thực từ máy chủ của nhà cung cấp
dịch vụ
- Giao dịch ngân hàng
- Làm việc từ xa: người sử dụng kết nối với cơ quan từ chỗ làm việc
của họ, hoặc từ các văn phòng, chi nhánh. Các ứng dụng có thể cần
nhiều dữ liệu như các sản phẩm đồ hoạ cao cấp hoặc CAD/CAM.
- các chương trình trò chơi cho nhiều người tham gia: đây là một ứng
dụng đòi hỏi cao về khía cạnh trễ truyền dẫn.
Dưới đây là một bảng giới thiệu các ứng dụng của ADSL và yêu cầu
băng thông tương ứng

- 23 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

III. ADSL và các công nghệ truyền dẫn khác

1. ATM over ADSL


ATM được thiết lập như một công nghệ truyền dẫn phù hợp cho việc
truyền tín hiệu thoại, video, và dữ liệu trên một mạng diện rộng với
một chất lượng phù hợp, trong khi ADSL có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ
tốc độ cao trên đường dây điện thoại (cáp đồng) đưa về các văn phòng
nhỏ và nhà riêng từ tổng đài. Lợi ích chung đem lại khi kết hợp 2 công
nghệ truyền dẫn, tạo ra một kiến trúc ATM over ADSL là tất yếu để có
được những kết nối đâu cuối - đầu cuối có tốc độ cao ngoài sự mong
đợi đối với các khách hàng nhỏ lẻ. ATM như một giao diện truy cập đa
chức năng sẽ cho phép kết hợp giữa các truy nhập đơn lẻ và mạng
trung kế, do đó sẽ cung cấp cho khách hàng khả năng truy nhập vào
Internet trên một đường truyền băng thông rộng. ATM over ADSL cũng
sẽ cung cấp cho những khách hàng từ xa khả năng truy nhập vào bất
cứ điểm nào trong mạng ATM, bao gồm mạng trung kế ATM, các mạng
nội bộ và các server hữu ích khác, ví dụ như server dành cho bảo mật,
server đệm nội dung Internet hoặc một server cung cấp tín hiệu video.
ATM over ADSL sẽ làm tăng hiệu quả sử các dịch vụ Internet, chẳng
hạn như chia sẻ và thu thập thông tin.
Hơn nữa, việc sử dụng ATM như là một giao thức lớp 2 phía trên
mạng truy nhập ADSL sẽ đem lại các lợi ích rõ rệt như sau:

- 24 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

- Giao thức trong suốt: Mạng độc lập với giao thưc của lớp mạng
được sử dụng (IP, IPX, AppleTalk v…v)
- Hỗ trợ đa lớp QoS: ATM cung cấp cho người điều hành mạng khả
năng hỗ trợ các dịch vụ trên nền các lớp QoS theo các mức khác
nhau tuỳ thuộc vào sự ánh xạ giữa các lớp trên với các thông tin
người dùng hoặc các ứng dụng. Độ lớn của các tế bào ATM làm cho
nó có khả năng hỗ trợ trễ đột biến, có thể thực hiện ghép các kênh
cố định, và cho phép thực hiện đầy đủ hơn các lịch trình hoạt động
của các đơn vị dữ liệu ở mức cao.
- Sự thích ứng băng thông: băng thông ATM có khả năng thích ứng
nhuần nhuyễn tỷ lệ với sự đáp ứng của công nghệ DSL cho phép tối
ưu hoá việc sử dụng trên mỗi vòng dây
- Sự nâng cấp lên các công nghệ truyền dẫn số khác: ATM là độc lập
với lớp vật lý, sử dụng nó với DSL mở đường cho kỹ thuật truy nhập
ưu việt hơn, ví dụ như Very high speed DSL (VSDL)
- Đơn giản hoá việc quản lý mạng: Từ góc nhìn của người quản trị
mạng, việc đưa ATM tới người sử dụng mạng đem lại một số ưu
điểm tiềm ẩn. Bởi vì kết nối có định hướng là bản chất của ATM, hầu
hết việc tính cước, bảo mật, bảo trì, và hoạt động hỗ trợ cơ sở hạ
tầng mạng dịch vụ chuyển mạch theo yêu cầu đều có thể được đáp
ứng

Như vậy, vấn đề mấu chốt của một hệ thống mạng truy nhập ATM
over ADSL là sự hợp nhất của giao diện ATM và thiết bị truy nhập
người dùng (UA – user-access) mới được triển khai cho các dịch vụ số
tích hợp, trong khi phải đảm bảo các giao diện kế thừa hoặc truyền
thống (ví dụ như POT, ISDN, TV tương tự v…v) trong các thiết bị. Nói
cách khác, các thiết bị UA (thường là một modem ADSL) phải bao gồm
cả giao diện ATM dành cho các cổng tương ứng khác (RG – Residential

- 25 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Gateway) Khối RG, tách các dòng lưu lượng từ các ứng dụng tương tác
và không tương tác trong một dòng dữ liệu duy nhất, thực hiện các
chức năng điều khiển cần thiết, đến và đi ra từ các nút dịch vụ trên
một mạng truy nhập truyền dẫn tích hợp. Hình vẽ dưới đây chỉ ra một
ví dụ về hệ thống truyền dẫn trong một mạng truy nhập.

Ở đầu cuối khác của mạng truy nhập, các thiết bị truy nhập dịch vụ
(SA – Service Access) và truy nhập truyền dẫn (TA - Transport Access)
cung cấp các giao diện riêng biệt dành cho nhà cung cấp dịch vụ trên
hạ tầng của mạng LAN ATM và người điều hành mạng truyền dẫn trên
hạ tầng mạng WAN ATM. Vấn đề này căn bản được thực hiện dựa vào
chuyển mạch truy nhập ATM. Đây là yếu tố cho phép ATM trở thành
một lớp phổ biến cho tất cả các giao thức trên tất cả các nền tảng
dung cấp một sự quản lý chất lượng dịch vụ đầu cuối đơn lẻ.
Sự vận chuyển dữ liệu ATM trên ADSL điển hình hỗ trợ cả hai
phương pháp truyền dẫn dữ liệu ATM cùng với sự ghép kênh bất đối
xứng được gọi là phương pháp truyền nhanh và phương pháp truyền
xen. Phương pháp truyền nhanh được thiết kế để cung cấp một mức
trễ truyền thấp ( nhiều nhất là 2ms) để đáp ứng cho các ứng dụng

- 26 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

tương tác thời gian thực, phương pháp truyền xen lại có trễ nhiều hơn
(lên đên hàng chục ms) nhưng lại có tỷ số lỗi bit rất thấp.

2. TCP over ADSL


Với những ứng dụng như Internet tốc độ cao, dòng số liệu đa
phương tiện, các hoạt động viễn thông v…v là thị trường chính cho
ADSL, việc cùng tồn tại của TCP/IP và ATM over ADSL là đặc biệt thú
vị. Điều đó quyết định việc cải tiến hiệu quả hoạt động đầu cuối - đầu
cuối của TCP/IP trên một mạng bất đối xứng, ví dụ như hệ thống mà
trong đó đường về (người sử dụng tới mạng/người cung cấp dịch vụ)
chậm hơn đáng kể so với đường tới (từ mạng/người cung cấp dịch vụ
tới người sử dụng). Tỷ lệ bất đối xứng của băng thông có thể thấp hơn
10 như trong một số modem truy nhập dịch vụ ADSL đã dự kiến, cho
tới hơn 100 hoặc hơn nữa trong điều kiện đường dây điện thoại được
dùng để kết nối từ người sử dụng đến mạng.
Về cơ bản, mạng bất đối xứng ảnh hưởng không tốt đến hoạt động
của các giao thức truyền dẫn xác thực như TCP bởi vì các giao thức này
dựa vào sự hồi đáp trong khuôn mẫu hồi đáp tích luỹ từ máy thu để
xác nhận sự tin cậy. Đối với một dòng dữ liệu không định hướng, các
bản tin ACK của TCP sẽ truyền trên đường về (hướng lên) điều chỉnh
dòng các gói dữ liệu trên đường tới (hướng xuống). TCP đưa vào do đó
phụ thuộc vào thông tin hồi đáp trên đường lên đã bị hạn chế. Sự thu
nhận các thông tin hồi đáp không đúng thời điểm sẽ có thể là nguyên
nhân của sự giảm đầu vào theo đường xuống nhanh hơn. Do đó,
đường lên hẹp hơn cũng có thể coi là một nút cổ chai chính đối vớii
đường xuống. Ví dụ, một hồi đáp trên đường truyền băng hẹp có thể
làm chậm đáng kể qúa trình mở rộng cửa sổ gửi trong quá trình khởi
động chậm, làm suy giảm tốc độ truyền trong hướng truyền của dữ
liệu.

- 27 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

Cần phải chú ý rằng sự bất đối xứng về băng thông không phải là
sự bất đối xứng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của TCP/IP mà đó
là tỷ lệ bất đối xứng băng thông chuẩn hoá, được xác định bằng tỷ số
của băng thông trên tỷ số của độ lớn của gói tin trên mỗi đường. Như
vậy, khi thiết bị thu gửi trả một TCP ACK cho mỗi segment mà nó nhận
được, tốc độ truyền trên đường tới bị giới hạn bởi tốc độ đường tới
trong lý thuyết chia cho k khi k>1. Ví dụ một đường tới 10 Mbps mang
gói dữ liệu có kích thước 1000 byte và đường về có tốc độ 100kbps
mang bản tin ACK 40 byte. Khi đó, k = 100/25 = 4 và tốc độ đường tới
sẽ bị giới hạn ở 10/4 = 2,5 Mbps
Lưu lượng Internet (hoặc TCP/IP) ngày càng được cung cấp với
những dịch vụ tốt nhất. Tuy nhiên, một dịch vụ vẫn có thể không được
đáp ứng những nhu cầu cấp thiết đối với những ứng dụng nhạy cảm về
thời gian, ví dụ như các ứng dụng audio video tương tác thời gian thực.
Với các lớp đa dịch vụ và sự đa dạng chức năng trong việc quản lý lưu
lượng, ATM luôn được mong đợi trong vai trò hỗ trợ chất lượng của
dịch vụ đối với nhu cầu của các ứng dụng. Tuy nhiên, việc đảm bảo
chất lượng của dịch vụ đơn nhất ở lớp ATM sẽ không đảm bảo được
chất lượng dịch vụ trong cung cấp đầu cuối - đầu cuối. Ngoại trừ một
sự thật là mạng ATM vẫn còn chưa được phổ biến, vấn đề đầu tiên là
khó khăn trong việc hiểu sự tương tác giữa các sơ đồ cung cấp ATM
QoS và các lớp cao hơn như TCP và IP. IP phủ lên trên ATM, không
cung cấp sự khác biệt của gói tin và hướng tới việc kết hợp các luồng
lưu lượng từ một vài kết nối trên một VC đơn lẻ của ATM. Điều này sẽ
có thể dẫn đến việc suy giảm chất lượng dịch vụ cung cấp giữa ATM
trên một VC.
Sự thật là TCP không phải là một giao thức hiểu lớp kết nối, vì thế
nó không biết đáp ứng những kỹ thuật điều khiển dựa trên các đặc
tính của lớp kết nối do đó làm trầm trọng thêm vấn đề. Lấy ví dụ, nếu

- 28 -
Khái quát về ADSL Đoàn Trần Khôi – CĐ4-K44

TCP không đáp lại ATM với tốc độ bit thích hợp (ABR) cell quản lý tài
nguyên đúng lúc, sẽ làm tăng tốc độ truyền dẫn, kết nối có thể bị suy
giảm sự hỗ trợ đảm bảo về chất lượng dịch vụ mặc dù ATM đã cung
cấp. Hơn nữa, kỹ thuật điều khiển tắc nghẽn của TCP cũng có thể đem
lại những ảnh hưởng không mong muốn trong việc cung cấp các dịch
vụ định trước của ATM. Những ngiên cứu sự vận động của TCP trên
ATM chỉ ra rằng độ lớn cửa sổ của TCP, dung lượng bộ đệm máy thu và
độ lớn của một gói TCP có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn hệ thống. Hơn
nữa, kỹ thuật hồi đáp của TCP và ATM và sự tương tác của chúng đặt
ra một trở ngại là hiểu việc quản lý bộ đệm phức tạp và các lịch trình
hoạt động đựơc yêu cầu.

- 29 -

You might also like