Professional Documents
Culture Documents
Khả năng keo tụ của hệ đất sét-nước phụ thuộc vào sự nén ép của lớp khuyếch tán,
chiều dày của lớp khuyếch tán lại phụ thuộc vào điện thế zeta ζ (thế năng bề mặt của lớp
hấp phụ bề mặt).
Cho chất điện li (ion hoá trị 1, tốt nhất là Na+ tạo môi trường kiềm yếu) tác dụng lên
hạt sét sẽ làm điện thế ζ tăng lên, độ dày của lớp khuyếch tán tăng lên, các hạt sét đẩy
nhau.
Khi đưa vào huyền phù các muối có cation hoá trị 2,3 làm cho lớp khuyếch tán bị nén
lại, thế năng ζ giảm đi, các hạt xích lại gần nhau và độ bền cấu trúc tăng lên.
Trên hình ψ là thế năng của lớp điện tích kép tại bề mặt tiếp xúc của hạt đất sét và
nước, ζ là thế năng của lớp khuyếch tán.
2. Ảnh hưởng của các chất điện li khác nhau đến tính chất, cấu trúc của huyền
phù đất sét
• Chất điện li kiềm:
Đây là những chất đưa vào trong dung dịch các ion R+ và ion OH-.Thường sử dụng
NaOH, Na2CO3, thuỷ tinh lỏng natri, phosphat natri... đặc biệt là natri pôliphosphat
Na5P3O10, Na6P4O13 hay (NaPO3)n.
Vd: sự thuỷ phân Na2CO3 đã tạo nên Na+ và OH- theo quá trình sau:
Na2CO3 + H20 → 2Na+ + 2OH- + H2CO3
• Các axit vô cơ, các muối của axit, muối của kiềm của các cation hoá trị 2 và cao
hơn: những chất này tăng độ bền cấu trúc và tạo nên keo tụ ghét nước của huyền
phù.
Vd: các anion SO42-, Cl- cùng với các cation R3+ làm xít chặt cấu trúc. Riêng anion
SO42- làm xít chặt cấu trúc rất mạnh do nó có xu hướng chống lại, khắc phục sự kết tủa
của Ba(OH)2
2.3. Tính chất trao đổi ion của huyền phù đất sét:
Đất sét có khả năng trao đổi ion, đó chính là hiện tượng hấp thụ trao đổi và liên quan
đến hoá học bề mặt của vật chất. Đây là hiện tượng thuận nghịch và tuân theo định luật
tác dụng khối lượng.
• Độ bền vững của mối liên kết cation với đất sét phụ thuộc vào hoá trị và trọng
lượng nguyên tử của chúng. Nếu hoá trị và trọng lượng nguyên tử tăng lên sẽ làm
tăng khả năng trao đổi của cation với hạt sét.
Cs >Rb+>K+>Na+>Li+
+
Anion OH- đóng vai trò đặc biệt trong quá trình ảnh hưởng đến tính chất cơ chế cấu
trúc huyền phù đất sét bằng các dung dịch kiềm.
Để đo khả năng trao đổi ion người ta dùng đơn vị dung lượng trao đổi ion (mg/eKV)
của 100 g đất sét khô.
Chúng ta thấy rằng dung lượng trao đổi ion cực đại của nhóm khoáng môntmôrilônit,
bentônit và verơnuculit.
Đất sét bị bão hoà bởi 1 cation nào đó, vd Na+, Ca2+ thì ta ký hiệu Na-đất sét và Ca-đất
sét.
Đất sét thiên nhiên đa số chứa cation hấp thụ là Ca2+ và ít hơn là Mg2+, H+, Na+ và K+.
Nói cách khác những cation Ca2+ của đất sét là cation trao đổi nhiều nhất, sau đó mới đến
Mg2+ và H+ và cuối cùng là Na+, K+.
Những anion OH-, SO42-, Cl-, PO33-, NO3- là những anion trao đổi của đất sét. Loại ion
và lượng ion trao đổi sẽ ảnh hưởng đến tính chất của huyền phù đất sét.
Trên thực tế trên bề mặt hạt đất sét tồn tại đồng thời những vị trí tích điện dương
(cation) và tích điện âm (anion). Khi hấp phụ từ trong môi trường nước những ion trái
dấu, ở những vị trí trên sẽ xuất hiện lớp điện tích kép có dấu khác biệt nhau làm ảnh
hưởng rất mạnh đến tính chất cấu trúc của huyền phù đất sét. Sự có mặt trên hạt sét
những khu vực có điện tích trái dấu nhau khẳng định một tính chất quan trọng là các
khoáng sét ở trong nước có tính lưỡng cực rất lớn và bền vững.