Professional Documents
Culture Documents
DACHUYENNGANH
DACHUYENNGANH
ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH
IP OVER ATM
ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH
IP OVER ATM
Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy đã
giúp chúng em hoàn thành đồ án này !
MỤC LỤC
Do tổ chức và độ lớn của các mạng con (subnet) của liên mạng có thể khác nhau,
người ta chia các địa chỉ IP thành 5 lớp, ký hiệu là A, B, C, D và E. Trong lớp A, B, C
chứa địa chỉ có thể gán được. Lớp D dành riêng cho lớp kỹ thuật multicasting. Lớp E
được dành những ứng dụng trong tương lai.
Netid trong địa chỉ mạng dùng để nhận dạng từng mạng riêng biệt. Các mạng liên
kết phải có địa chỉ mạng (netid) riêng cho mỗi mạng. Ở đây các bit đầu tiên của byte đầu
tiên được dùng để định danh lớp địa chỉ (0 - lớp A, 10 - lớp B, 110 - lớp C, 1110 - lớp D
và 11110 - lớp E).
Ở đây ta xét cấu trúc của các lớp địa chỉ có thể gán được là lớp A, lớp B, lớp C
Mạng lớp A: địa chỉ mạng (netid) là 1 Byte và địa chỉ host (hostid) là 3 byte.
Mạng lớp B: địa chỉ mạng (netid) là 2 Byte và địa chỉ host (hostid) là 2 byte.
Mạng lớp C: địa chỉ mạng (netid) là 3 Byte và địa chỉ host (hostid) là 1 byte.
Lớp A cho phép định danh tới 126 mạng, với tối đa 16 triệu host trên mỗi mạng. Lớp này
được dùng cho các mạng có số trạm cực lớn.
Lớp B cho phép định danh tới 16384 mạng, với tối đa 65534 host trên mỗi mạng.
Lớp C cho phép định danh tới 2 triệu mạng, với tối đa 254 host trên mỗi mạng. Lớp này
được dùng cho các mạng có ít trạm.
Một số địa chỉ có tính chất đặc biệt: Một địa chỉ có hostid = 0 được dùng để hướng tới
mạng định danh bởi vùng netid. Ngược lại, một địa chỉ có vùng hostid gồm toàn số 1
được dùng để hướng tới tất cả các host nối vào mạng netid, và nếu vùng netid cũng gồm
toàn số 1 thì nó hướng tới tất cả các host trong liên mạng
Cần lưu ý rằng các địa chỉ IP được dùng để định danh các host và mạng ở tầng mạng của
mô hình OSI, và chúng không phải là các địa chỉ vật lý (hay địa chỉ MAC) của các trạm
trên đó một mạng cục bộ (Ethernet, Token Ring.).
Trong nhiều trường hợp, một mạng có thể được chia thành nhiều mạng con (subnet), lúc
đó có thể đưa thêm các vùng subnetid để định danh các mạng con. Vùng subnetid được
lấy từ vùng hostid, cụ thể đối với lớp A, B, C như ví dụ sau:
Đơn vị dữ liệu dùng trong IP được gọi là gói tin (datagram), có khuôn dạng
VER (4 bits): chỉ version hiện hành của giao thức IP hiện được cài đặt, Việc có
chỉ số version cho phép có các trao đổi giữa các hệ thống sử dụng version cũ và
hệ thống sử dụng version mới.
IHL (4 bits): chỉ độ dài phần đầu (Internet header Length) của gói tin datagram,
tính theo đơn vị từ ( 32 bits). Trường này bắt buột phải có vì phần đầu IP có thể có
độ dài thay đổi tùy ý. Độ dài tối thiểu là 5 từ (20 bytes), độ dài tối đa là 15 từ hay
là 60 bytes.
Type of service (8 bits): đặc tả các tham số về dịch vụ nhằm thông báo cho mạng
biết dịch vụ nào mà gói tin muốn được sử dụng, chẳng hạn ưu tiên, thời hạn chậm
trễ, năng suất truyền và độ tin cậy. Hình sau cho biết ý nghĩ của trường 8 bits này.
Precedence (3 bit): chỉ thị về quyền ưu tiên gửi datagram, nó có giá trị từ 0 (gói
tin bình thường) đến 7 (gói tin kiểm soát mạng).
D (Delay) (1 bit): chỉ độ trễ yêu cầu trong đó
T (Throughput) (1 bit): chỉ độ thông lượng yêu cầu sử dụng để truyền gói tin với
lựa chọn truyền trên đường thông suất thấp hay đường thông suất cao.
Total Length (16 bits): chỉ độ dài toàn bộ gói tin, kể cả phần đầu tính theo đơn vị
byte với chiều dài tối đa là 65535 bytes. Hiện nay giới hạn trên là rất lớn nhưng
trong tương lai với những mạng Gigabit thì các gói tin có kích thước lớn là cần
thiết.
Identification (16 bits): cùng với các tham số khác (như Source Address và
Destination Address) tham số này dùng để định danh duy nhất cho một datagram
trong khoảng thời gian nó vẫn còn trên liên mạng.
Flags (3 bits): liên quan đến sự phân đoạn (fragment) các datagram, Các gói tin
khi đi trên đường đi có thể bị phân thành nhiều gói tin nhỏ, trong trường hợp bị
phân đoạn thì trường Flags được dùng điều khiển phân đoạn và tái lắp ghép bó dữ
liệu. Tùy theo giá trị của Flags sẽ có ý nghĩa là gói tin sẽ không phân đoạn, có thể
phân đoạn hay là gói tin phân đoạn cuối cùng. Trường Fragment Offset cho biết
vị trí dữ liệu thuộc phân đoạn tương ứng với đoạn bắt đầu của gói dữ liệu gốc. Ý
nghĩa cụ thể của trường Flags là:
Time to Live (8 bits): qui định thời gian tồn tại (tính bằng giây) của gói tin trong
mạng để tránh tình trạng một gói tin bị quẩn trên mạng. Thời gian này được cho
bởi trạm gửi và được giảm đi (thường qui ước là 1 đơn vị) khi datagram đi qua
mỗi router của liên mạng. Thời lượng này giảm xuống tại mỗi router với mục đích
giới hạn thời gian tồn tại của các gói tin và kết thúc những lần lặp lại vô hạn trên
mạng. Sau đây là 1 số điều cần lưu ý về trường Time To Live:
Nút trung gian của mạng không được gởi 1 gói tin mà trường này có giá
trị= 0.
Một giao thức có thể ấn định Time To Live để thực hiện cuộc ra tìm tài
nguyên trên mạng trong phạm vi mở rộng.
Một giá trị cố định tối thiểu phải đủ lớn cho mạng hoạt động tốt.
Protocol (8 bits): chỉ giao thức tầng trên kế tiếp sẽ nhận vùng dữ liệu ở trạm
đích (hiện tại thường là TCP hoặc UDP được cài đặt trên IP). Ví dụ: TCP có giá
trị trường Protocol là 6, UDP có giá trị trường Protocol là 17
Header Checksum (16 bits): Mã kiểm soát lỗi của header gói tin IP.
Options (độ dài thay đổi): khai báo các lựa chọn do người gửi yêu cầu (tuỳ theo
từng chương trình).
Padding (độ dài thay đổi): Vùng đệm, được dùng để đảm bảo cho phần header
luôn kết thúc ở một mốc 32 bits.
Data (độ dài thay đổi): Trên một mạng cục bộ như vậy, hai trạm chỉ có thể liên
lạc với nhau nếu chúng biết địa chỉ vật lý của nhau. Như vậy vấn đề đặt ra là phải
thực hiện ánh xạ giữa địa chỉ IP (32 bits) và địa chỉ vật lý (48 bits) của một trạm.
Để mạng với giao thức IP hoạt động được tốt người ta cần một số giao thức bổ sung, các
giao thức này đều không phải là bộ phận của giao thức IP và giao thức IP sẽ dùng đến
chúng khi cần.
Giao thức ARP (Address Resolution Protocol): Ở đây cần lưu ý rằng các địa chỉ
IP được dùng để định danh các host và mạng ở tầng mạng của mô hình OSI, và
chúng không phải là các địa chỉ vật lý (hay địa chỉ MAC) của các trạm trên đó
một mạng cục bộ (Ethernet, Token Ring.). Trên một mạng cục bộ hai trạm chỉ có
thể liên lạc với nhau nếu chúng biết địa chỉ vật lý của nhau. Như vậy vấn đề đặt ra
là phải tìm được ánh xạ giữa địa chỉ IP (32 bits) và địa chỉ vật lý của một trạm.
Giao thức ARP đã được xây dựng để tìm địa chỉ vật lý từ địa chỉ IP khi cần thiết.
Giao thức RARP (Reverse Address Resolution Protocol): Là giao thức ngược với
giao thức ARP. Giao thức RARP được dùng để tìm địa chỉ IP từ địa chỉ vật lý.
Giao thức ICMP (Internet Control Message Protocol): Giao thức này thực hiện
truyền các thông báo điều khiển (báo cáo về các tình trạng các lỗi trên mạng.)
giữa các gateway hoặc một nút của liên mạng. Tình trạng lỗi có thể là: một gói tin
IP không thể tới đích của nó, hoặc một router không đủ bộ nhớ đệm để lưu và
chuyển một gói tin IP, Một thông báo ICMP được tạo và chuyển cho IP. IP sẽ
"bọc" (encapsulate) thông báo đó với một IP header và truyền đến cho router hoặc
trạm đích.
Khi giao thức IP được khởi động nó trở thành một thực thể tồn tại trong máy tính
và bắt đầu thực hiện những chức năng của mình, lúc đó thực thể IP là cấu thành của tầng
mạng, nhận yêu cầu từ các tầng trên nó và gửi yêu cầu xuống các tầng dưới nó.
Đối với thực thể IP ở máy nguồn, khi nhận được một yêu cầu gửi từ tầng trên, nó thực
hiện các bước sau đây:
Ra quyết định chọn đường: hoặc là trạm đích nằm trên cùng mạng hoặc một
gateway sẽ được chọn cho chặng tiếp theo.
Đối với router, khi nhận được một gói tin đi qua, nó thực hiện các động tác sau:
2) Giảm giá trị tham số Time - to Live. nếu thời gian đã hết thì loại bỏ gói tin.
Cuối cùng khi một datagram nhận bởi một thực thể IP ở trạm đích, nó sẽ thực hiện bởi
các công việc sau:
2) Tập hợp các đoạn của gói tin (nếu có phân đoạn)
Atm là một sự chuyển mạch tế bào và bao gồm nhiều thành phần công nghệ kết
hợp những lợi ích của mạch chuyển (đảm bảo dung lượng và độ trễ của đường truyền là
hằng số) với chuyển mạch gói(linh hoạt và hiệu quả cho lưư lượng truyền không liên
tục). Nó cung cấp băng thông có thể tăng từ một vài Mbps đến nhiều Gbps. Bởi vì đặc
tính không đồng bộ của nó nên ATM hiệu quả hơn những công nghệ đồng bộ, như là
phân chia thời gian thành nhiều phần (time-division multiplexing - TDM.)với TDM, mỗi
người dùng được gán cho một khe thời gian, và không có một khu vực nào có thể gửi
trong cùng khe thời gian đó. Nếu một khu vực có nhiều dữ liệu để gửi , nó chỉ có thể gửi
khi khe thời gian đến lượt,khe thời gian được gửi trống và không được sử dụng. Bởi vì
ATM là hệ thống không đồng bộ, những khe thời gian thì sẵn có yêu cầu thông tin định
dạng nguồn truyền chứa trong phần header của mỗi tế bào ATM.
ATM truyền thông tin có đơn vị kích thước cố định gọi là tế bào. mỗi tế bào gồm
có 53 octets hoặc bytes. 5 bytes đầu tiên chứa thông tin phần header của tế bào và còn lại
48 bytes chứa payload (thông tin của người dùng). Những tế bào nhỏ,chiều dài cố định
thì rất thích hợp để truyền lưu lượng tiếng nói (voice) và video bởi vì lưu lượng truyền thì
không chấp nhận được độ trễ là kết quả từ việc phải chờ đợi gói dũ liệu lớn tải về, bao
gồm cả những thứ khác. Hình 27-2 minh hoạ định dạng cơ bản của một tế bào ATM
Figure 27-2 An ATM Cell Consists of a Header and Payload Data
II.1.2. THIẾT BỊ
Một mạng ATM được xây dựng từ một ATM switch và ATM endpoints.ATM
switch có trách nhiệm chuyển các tế bào xuyên suốt trong một mạng ATM. Công việc của
một ATM switch được định nghĩa là: Nó chấp nhận các tế bào chuyển đến từ một ATM
endpoint hoặc từ ATM switch khác. Sau đó đọc và cập nhật thông tin phần header của tế
bào và nhanh chóng chuyển tế bào đến một giao diện xuất ra về phía đích. Một ATM
endpoint (hoặc hệ thống cuối) chứa một card mạng ATM. Những ví dụ về ATM endpoint
là những trạm làm việc, routers,những đơn vị dịch vụ số (DSUs),những switch trong
mạng Lan, và những bộ mã hoá,giải mã video(CODECS).
Hình 27-3 minh hoạ một mạng ATM được xây dựng từ những ATM switch và ATM
endpoint
Figure 27-3 An ATM Network Comprises ATM Switches and Endpoints
CSU/DSU
Phần header của tế bào ATM là một trong hai dạng sau: UNI hoặc NNI. Phần
header của UNI được sự dụng cho việc giao tiếp giữa ATM endpoint và ATM switch
trong những mạng ATM riêng. Phần header của NNI được sử dụng để giao tiếp giữa các
ATM switch.
Hình 27-5 mô tả dạng cơ bản của tế bào ATM, định dạng phần header của tế bào ATM
UNI, và định dạng phần header của tế bào ATM NNI.
Không giống như UNI, phần hearder của NNI không bao gồm trường GFC
(Generic Flow Control). Ngoài ra phần header của NNI còn có trường VPI (virtual path
identifier) để giữ 12 bit đầu tiên, cho phép tạo nên trục lớn hơn giữa các ATM switch
chung
Generic flow control (GFC)- Cung cấp những tính năng cục bộ để xác định
nhiều trạm chia sẻ một giao diện ATM riêng lẻ. Trường này có đặc trưng là không
được sử dụng và được thiết lập giá trị mặc định là 0 (nhị phân 0000)
Virtual Path Identifier (VPI)- Liên kết với VCI để xác định điểm đến kế tiếp
của một tế bào khi nó đi qua một loạt ATM switch trên đường đi đến đích.
Virtual Channel Identifier (VCI)- Liên kết với VPI để xác định điểm đến kế
tiếp của một tế bào khi nó đi qua một loạt ATM switch trên đường đi đến đích.
Payload type(PT)- Cho biết bit đầu tiên của tế bào chứa dữ liệu người dùng hay
ữ liệu điều khiển. Nếu tế bào chứa dữ liệu người dung thì bit được thiết lập là 0,
nếu chứa dữ liệu điều khiển thì bit được thiết lập là 1. Bit thứ hai cho biết có tắc
nghẽn hay không( 0-không tắc nghẽn, 1-tắc nghẽn) , và bit thứ ba cho biết tế bào
đã đi đến cuối của dãy tế bào và khung AAL5 đơn lẻ hay chưa (1 là tế bào cuối
cùng của khung)
Cell loss priority (CLP)- cho biết tế bào có nên được loại bỏ nếu nó bắt gặp tình
trạng tắc nghẽn cực độ khi nó di chuyển qua mạng. Nếu bit CLP bằng 1 thì tế bào
nên được loại bỏ để nhường chỗ cho những tế bào có bit CLP bằng 0.
Header error control (HEC)- Kiểm tra tất cả các lỗi chỉ trên 4 bit đầu tiên của
phần header. HEC có thể kiểm tra lỗi của từng bit trong những byte này, do đó tế
bào được duy trì tốt hơn việc loại bỏ nó.
Lớp ATM- lớp ATM tương tự như lớp data link của mô hình OSI. Lớp ATM chịu
trách nhiệm chia sẻ đồng thời những mạch ảo trên một lien kết vật lý và đi qua
những tế bào thông qua mạng ATM. Để làm điều này nó sử dụng thông tin VPI và
VCI trong phần heađer của mỗi tế bào ATM.
ATM adaptation layer (AAL)- kết hợp với lớp ATM, AAL tương tự như lớp data
link của mô hình OSI. AAL chịu trách nhiệm phân tích những giao thức ở những
lớp cao hơn từ những chi tiết của tiến trình ATM. Lớp adaptation chuẩn bị dữ liệu
người dùng để chuyển đổi những tế bào và những phân đoạn dữ liệu vào trong 48
byte của trường payload.
Cuối cùng những lớp cao hơn ở trên AAL chấp nhận dữ liệu người dùng, sắp xếp nó vào
trong những gói và kiểm soát tới AAL.
Lớp vật lý ATM được chia làm hai lớp con:PMD(physical medium dependent) và
TC(transmission convergence)
Lớp PMD cung cấp hai chức năng chính . Đầu tiên là truyền và nhận đồng bộ
bằng cách gởi và nhận một dòng bit liên tục với thông tin thời gian liên quan .Thứ hai là
chỉ rỏ phương tiện truyền vật lý cho môi trường vật lý đã sử dụng bao gồm những kiểu và
cáp kết nối.Ví dụ:Môi trường vật lý chuẩn cho ATM bao gồm
SDH/SONET(Synchoronous Digital Hierarchy/Synchoronous Optical Network),DS-3/Ẻ
,155 Mbps trên MMF(Multimode Fiber) sử dụng loại mã hoá 8B/10B và 155Mbps
8B/10B trên cáp STP(shielded twisted pair)
Lớp TC có 4 chức năng:mô tả tế bào,HEC(header error control) phát sinh và xác
minh 1 cách tuần tự,tách riêng tỷ lệ tế bào và khung truyền thích nghi. Chức năng mô tả
tế bào duy trì những đường biên tế bào ATM cho phép những thiết bị để định vị những tế
bào trong phạm vi 1 dòng của bit.sự phát sinh và xác minh 1 cách tuần tự của HEC kiểm
tra mã HEC để đảm bảo dữ liệu hợp lệ.Việc tách riêng tỷ lệ tế bào duy trì sự đồng bộ và
thêm vào hoặc loại bỏ những tế bào ATM để thích nghi với tỷ lệ tế bào ATM phù hợp tới
dung lương payload của hệ thống truyền.Bộ khung truyền đóng gói những tế bào ATM
vào trong những khung được chấp nhận để thi hành lớp vật lý riêng biệt
AAL1 là một dịch vụ hướng kết nối, nó thích hợp để điều khiển tỉ lệ bit nguồn
không thay đổi (CBR). Như voice và video. ATM chuyển lưu lượng CBR đang sử dụng
những dich vụ mạch mô phỏng. Dịch vụ mạch mô phỏng cũng cung cấp phần đính kèm
của thiết bị hiện tại đang sử dụng những đường line cho thuê tới một mạng xương sống
ATM. AAL1 đòi hỏi thời gian đồng bộ giữa nguồn và đích. Vì lý do này AAL1 phụ thuộc
vào một môi trường như SONET, hỗ trợ xung clock.
Tiến trình của AAL1 chuẩn bị một tế bào truyền trong 3 bước. Đầu tiên, mô hình đồng bộ
mẫu (ví dụ 1 byte dữ liệu mẫu tốc độ truyền là 125 micro giây ) được đưa vào trường
payload. Bước hai những trường SN (sequence number) và SNP (sequence number
protection) được thêm vào để cung cấp thông tin mà AAL 1 nhận sử dụng để xác minh là
nó vừa nhận những tế bào đúng thứ tự. Bước 3, phần còn lại của trường payload được
điền đầy đủ với từng byte đơn lẻ để bằng 48byte .
Hình 27-8 minh hoạ cách AAL chuẩn bị truyền tế bào .
II.3.2. AAL2
Là loại lưu lượng khác có những thủ tục thời gian giống như CBR nhưng hướng
đến việc truyền trong tự nhiên. Nó được gọi là lưu lượng có tỉ lệ bit thay đổi (VBR). Đặc
trưng này bao gồm những dịch vụ được mô tả như việc đóng gói voice hoặc video không
có một tốc độ truyền dữ liệu cố định nhưng có những thủ tục tương tự những dịch vụ có tỉ
lệ bit là hằng số. AAL2 thì thích hợp cho lưu lượng VBR. Tiến trình AAL2 sử dụng 44
byte của tế bào payload cho dữ liệu người dùng và dự trữ 4 byte của trường payload để
hỗ trợ những tiến trình AAL2. Lưu lượng VBR được mô tả như thời gian thực (VBR-RT)
hoặc không có thời gian thực (VBR-VRT). AAL2 hỗ trợ cả hai loại lưu lượng VBR.
II.3.3. AAL3/4
AAL3/4 hỗ trợ cả dữ liệu hướng kết nối và dữ liệu không kết nối. Nó được thiết
kế cho những nhà cung cấp dịch vụ mạng và được sắp xếpmột cách kỹ lưỡng với SMDS
(switched multimegabit data service). AAL3/4 được sử dụng để truyền những gói SMDS
trên một mạng ATM.
AAL3/4 chuẩn bị một tế bào để truyền trong 4 bước. Bước đầu tiên, sự hội tụ các
lớp con (CS- convergence sublayer) tạo ra một giao thức đơn vị dữ liệu (PDU) bằng cách
chuyển một phần header có gắn thẻ bẳt đầu/kết thúc tới khung và nối thêm một trường
dài như một phần nối. Bước hai, việc phân đoạn và lắp ráp (SAR) những mảnh vỡ PDU
của lớp con và chuyển một header tới nó. Sau đó lớp con SAR nối thêm một CRC- 10
phần nối tới mỗi mỗi mảnh vỡ PDU để điều khiển lỗi. Cuối cùng, toàn bộ SAR PDU trở
thành trường payload của một tế bào ATM để lớp ATM chuyển phần header ATM chuẩn.
Một header của AAL3/4 SAR PDU bao gồm các trường: type,sequence number
và multiplexing identifier. Trường type xác định một tế bào là sự bắt đầu,liên tục, hay kết
thúc của một thông điệp. Trường sequence number xác định thứ tự mà những tế bào nên
được lắp ráp. Trường Multiplexing identifier xác định những tế bào từ những nguồn lưu
thông khác nhau được chèn vàocùng mạch kết nối ảo (VCC) để những tế bào đúng đắn
được ráp lại ở đích.
II.3.4. AAL5
AAL5 là AAL chính cho dữ liệu và hỗ trợ cả dữ liệu hướng kết nối và không kết
nối. Nó được sử dụng để truyền hầu hết dữ liệu non-SMDS, như CLIP (classical ip over
ATM ) và LANE (LAN emulation ). AAL5 cũng được biết đến như là một lớp ứng dụng
đơn giản và hiệu quả (SEAL) bởi vì lớp con SAR chấp nhận một cách dễ dàng CS-PDU
và những phân đoạn nó vào trong 48-octet SAR-PDUs mà không dự trữ một vài byte
trong mỗi tế bào.
AAL5 chuẩn bị một tế bào để truyền qua 3 bước. Bước đầu tiên, lớp con CS nối
thêm vào một bộ đệm có chiều dài thay đổi và một phần nối 8 byte tới một khung. Bộ
đệm dùng để chắc chắn rằng kết quả PDU đưa ra trên đường biên 48 byte của một tế bào
ATM. Phần nối bao gồm chiều dài của khung và 32 bit CRC (cyclic redundancy check)
đã tính toán ở toàn bộ PDU bên kia. Điều này cho phép AAL5 nhận tiến trình để dò tìm
những bit có lỗi, những tế bào bị mất hoặc những tế bào mất thứ tự. Bước hai,lớp con
SAR phân đoạn CS-PDU vào những khối 48 byte. Một header và phần nối (trailer) không
được thêm vào (như trong AAL3/4), vì vậy những thông điệp không thể được chèn vào.
Cuối cùng, lớp ATM đặt mỗi khối vào trong trường payload của một tế bào ATM. Để tất
cả các tế bào loại ra cuối cùng, một bit trong trường payload type(PT) được thiết lập
thành 0 để đánh dấu tế bào đó không phải là tế bào cuối cùng trong dãy đại diện một
khung đơn lẻ. Để đánh dấu tế bào là cuối cùng, bit trong trường PT được thiết lập thành
1.
Hình 27-10 : Những thiết bị thiết lập kết nối ATM thông qua phương pháp one-pass
Điều này gọi là Classical IP over ATM. Trong Classical IP over ATM , những hệ
thống cuối có mạng con hợp lý truyền thông với nhau thông qua các kết nối điểm cuối
ATM ,và giống trong mạng LAN, ARP servers sử dụng mạng con hợp lý để giải quyết
những địa chỉ IP vào trong địa chỉ ATM. Tuy nhiên lưu lượng giữa các hệ thống cuối
trong những mạng con phù hợp thì khác nhau có thể đi thông qua một router một cách
thản nhiên đính kèm cùng mạng ATM. Đây là điều không mong muốn khi router khởi đầu
một góc trễ cao và trở thành tình trạng thắt cổ chai băng thông.
Next Hop Resolution Protocol(NHRP) giải thích các bước ở vấn đề này.Hoạt
động trong từng phần riêng trong mạng ATM của các mạng con hợp lý, nó cho phép một
hệ thống cuối cùng trong mạng con giải quyết địa chỉ ATM(từ địa chỉ IP) của hệ thống
cuối trong mạng con hợp lý khác và thiết lập một kết nối các điểm cuối,gọi là đường cắt
giữa chúng.
Các phương pháp khác sử dụng mạng ATM giả dạng phổ cập giao thức mạng
LAN giống như Ethernet hay token ring. IP chạy trên nó có cùng một cách chạy của
Ethernet hay token ring. Đây gọi là mô hình mạng LAN(LANE).LANE cho phép những
ứng dụng tạm thời của IP chạy trên mạng ATM mà không cần có thay đổi nào.
Đó sẽ giúp tăng tốc độ của các mạng ATM. Tuy nhiên, giống như trong Classical
IP over ATM, khác nhau giữa các lưu lượng tranh đua trong các mạng LAN vẩn cần di
chuyển thông qua router . Giống truyền thông giữa LANE và NHRP, Multiprotocol Over
ATM(MPOA) giải quyết vấn đề bằng cách tạo đường tắt đó là đương rẽ giữa các router
và ELANs
PAR và I-PNNI
Với phương pháp cao hơn , ATM và IP chạy mổi một giao thức riêng biệt. So với
ATM là PNNI và còn IP là OSPF. Với IP , những router không có khái niệm về cấu trúc
bên trong của mạng ATM, những switch không phân biệt giữa một ATM-attched router và
một ATM ở hệ thống cuổi.
Đôi khi nó cần cho việc các router biết được các giao thức định tuyến của ATM để
hiểu thiết lập trong các kết nối ATM cuối và cuối với các router khác. Kết quả này trong
PNNI augmented routing(PAR), với router ATM-attached phải chạy giống như ATM
switch và trao đổi cấu trúc và thông tin có thể đọc được với các switch và các router
khác.
Một phương pháp khác ,gọi là tích hợp PNNI(I-PNNI), dự định sử dụng của
PNNI như một giao thức đơn lẽ sử dụng trong tương lai trong mạng của các switch và
router
Giới thiệu
Bộ nhớ được định nghĩa là một ứng dụng đầu tiên của Classcal IP và ARP trong
một môi trường hình thể mạng ATM như là LIS (Logical IP Subnetwork) được mô tả
trong đoạn 3. Bộ nhớ này không làm cho sự tiến triển tiếp theo xảy ra của công nghệ
ATM vào một phạm vi khác như LIS,một cách cụ thể một mạng ATM riêng lẽ phát triễn
thay thế cho một vài phân đoạn Ethernet Local LAN và những mạng đó trở thành kết nối
tổng thể, ứng dụng của IP và ARP sẽ được xem là khác biệt. Bộ nhớ này dung duy nhất
cho ứng dụng của ATM giống như sự thay thế trực tiếp cho WIRES và phân đoạn Local
LAN kết nối IP ở trạm cuối và các router hoạt động trong mô hình Classical LAN-based .
I. Ứng dụng của IP và ARP sẽ là khác nhau. Điều này như ứng dụng của ATM
giống sự thay thế trực tiếp cho “wires” và phân đoạn mạng LAN kết nối IP ở
trạm cuối và hoạt động của router trong mô hình “classical”LAN-based
.Những vấn đề được tăng thêm do cầu nối MAC level và mô hình LAN là
vượt ngoài giới hạn phạm vi của bài thuyết trình này.
{{{
Acknowledgments
Lời báo nhận
Memo này không thể tiến về bên trong mà không
This memo could not have come into being without the critical review
from Jim Forster of Cisco Systems, Drew Perkins of FORE Systems, and
Bryan Lyles, Steve Deering, and Berry Kercheval of XEROX PARC. The
concepts and models presented in [1], written by Dave Piscitello and
Joseph Lawrence, laid the structural groundwork for this work. ARP
[3] written by Dave Plummer and Inverse ARP [12] written by Terry
Bradley and Caralyn Brown are the foundation of ATMARP presented in
this memo. This document could have not been completed without the
expertise of the IP over ATM Working Group of the IETF and the ad hoc
PVC committee at the Amsterdam IETF meeting.
Laubach [Page 1]
I.Giới thiệu
Mục tiêu của việc đặc tả này là tương thích cho phép và bổ xung hoạt động bên
trong cho việc truyền phát các IP datagrams và yêu cầu ATM ARP và trả lời bằng ATM
Adaptation Layer 5(AAL5)
Chú ý: memo này định nghĩa duy nhất hoạt động của IP và phân giải địa chỉ
bằng ATM, và không có nghĩa là miêu tả hoạt động của mạng ATM. Nhiều tham chiếu
đến kết nối ảo ,thường xuyên là kết nối ảo, hay chuyển mạch kết nối ảo áp dụng duy nhất
trên các kênh kết nối sử dụng sự hổ trợ của IP và phân giải địa chỉ trên ATM.Vị trí memo
này không hạn chế hay có thủ tục nào trên kết nối ảo sủ dụng cho các chủ ý khác.
Khai triển ban đầu của ATM cung cấp một thay thê một phân đoạn LAN :
1.Mạng cục bộ (e.g, Ethernets, Token Rings và FDDI)
2.Các vị trí xương sống tồn tại giữa các mạng LAN.
3.Các mạch chuyên dụng hay bộ tiếp sóng khung PVCs giữa IP router.
Chú ý:
Trong 1 , IP router cục bộ với một hay nhiều hơn một giao diện ATM sẽ cho phép các kết
nối cô lập của các mạng ATM.
Trong 3, mạng ATM diện rộng chung và riêng sẽ sử dụng kết nối tới IP router , mà lần
lược có thể hay không có thể kết nối tới những mạng ATM cục bộ.ATM WANs và LANs
có thể tương kết. Mạng ATM riêng (cục bộ hay diện rộng ) sẽ sử dụng lý thuyết cấu trúc
địa chỉ ATM trong đặc tả ATM Forum UNI .
Cấu trúc này là mô hình sau định dạng của một mạng OSI Service Access Point
Address. Một địa chỉ ATM riêng duy nhất nhận ra một ATM điểm cuối. Mạng chung sẽ
sử dụng cấu trúc địa chỉ này hay địa chỉ kia trong ITU-TS giới thiệu ở E.164 hay cấu trúc
địa chỉ mạng riêng ATM .Một địa chỉ E.164 duy nhất nhận ra một giao diện tới một mạng
chung.
Nét đặc trưng và những đặc tính của các mạng ATM là khác nhau được tìm thấy
trong LANs:
ATM cung cấp một kết nối ảo trong môi trường switched. Thiết lập kết nối ảo
có lẽ làm trên PVC(Permanent Virtual Connection) hay SVC(Switched Virtual
Connection) động. SVC hướng tới quản lý các tín hiệu là chuyển đổi thi hành qua giao
thức Q.93B.
Dữ liệu chuyền qua kết nối ảo vào trong phân đoạn có khối lượng tế bào là 53
octet (5 octet là của ATM header và 48 octet còn lại là dữ liệu)
Chức năng của đơn vị ánh xạ sử dụng PDUs(Protocol Data Units) vào trong
trường thông tin của tế bào ATM và ngược lại là chuyển đổi trong AAL(ATM Adaptation
Layer).Khi một kết nối ảo được tạo ra một loại AAL cụ thể là kết hợp với kết nối ảo. Đó
là bốn loại khác nhau , đó là các phần riêng lẽ như AAL1,AAL2,AAL3,AAL4 và AAL5.
Loại AAL được biết do kết nối ảo qua điểm cuối qua việc gọi cơ chế cài đặt và không
mang bên trong đầu tế bào ATM. Đối với PVCs loại AAL được cấu hình quản lý tại điểm
cuối khi một kết nối được thiết lập. Đối với SVCs,loại AAL truyền thông dọc theo
đường dẩn của kết nối ảo qua Q.93B của thiết lập cài đặt và các điểm cuối sử dụng thông
tin tín hiệu cho việc cấu hình.Thông thường ATM switches không quan tâm đến loại AAL
của VCs. Định dạng AAL chỉ rõ một gói định dạng với kích thước lớn nhất (64K - 1)của
octet của dữ liệu người dùng.
Các ô cho một AAL5, PDU sẽ chuyển đổi từ đầu đến cuối,tế bào cuối cùng là phần tử
cuối của PDU. Chuẩn ATM bảo đảm trên một kết nối ảo ,các ô được duy trì thứ tự điểm
cuối đến điểm cuối.
Chú ý: AAL5 cung cấp dịch vụ chuyển giao dữ liệu không chắc chắn, nó lên tới giao thức
ở mức cao hơn để cung cấp sự phát lại.
Tín hiệu ATM Forum định nghĩa thiết lập kết nối điểm-điểm và điểm - nhiều
điểm.
{{{Multipoint-to-multipoint VCs
are not yet specified by ITU-TS or ATM Forum.}}}
Một địa chỉ ATM Forum ,ATM điểm cuối là mã hoá sang địa chỉ NSAP hay là
địa chỉ E.164 Public-UNI. Trong một số lựa chọn , cả hai bao gồm là địa chỉ ATM điểm
cuối và E.164 Public-UNI là cần bới một ATMARP client đến một phạm vi máy chủ khác
hay router Laubach. Từ đó sử dụng một địa chỉ ATM điểm cuối và địa chỉ E.164 Public
UNI do ATMARP là tương tự đến việc sử dụng một địa chỉ Ethernet, khái niệm của địa
chỉ phần cứng là mở rộng bao gồm địa chỉ ATM trong ngữ cảnh của ATMARP,mặc dù địa
chỉ ATM không cần có sự đáng kể của phần cứng .ATM Forum NSAPAs sử dụng cùng
định dạng cơ bản như U.S.GOSIP NSAPAs.
Chú ý: Địa chỉ ATM Forum không nên giải thích sự xuất hiện của U.S GOSIP
NSAPAs.Chúng không,người quản tri là khác nhau,với các trường được loại ra là khác
nhau,vâng vâng….
Những memo này diển tả khai triển ban đầu của ATM trong giới hạn của mạng
IP classical như là một sự thay thế trực tiếp cho mạng nội bộ và cho các kết nối AP với
các router kết nối bên trong,hoặc bên trong hay giữa các vùng quản lý. Mô hình classical
ở đây nói đến cách xử lý của bộ điều hợp máy chủ ATM như một giao diện kết nối mạng
đến hoạt động chồng giao thức IP trong mô hình LAN-based.
Đặc trưng của mô hình classical:
o.Cùng kích thước đơn vị truyền là sử dụng cho tất cả các kết nối ảo trong một LIS.
o.Mặc định sự đóng gói LLC/SNAP của các gói tin IP.
o.Cấu trúc định tuyến IP end-to-end lưu lại cùng một lúc.
o. Địa chỉ IP phân giải thành địa chỉ ATM nhờ sử dụng một dịch vụ ATMARP trong
phạm vi của LIS-ATMARPs lưu trong phạm vi của LIS. Từ viễn cảnh của client, kiến
trúc ATMARP lưu lại đúng mô hình cơ bản ARP trong hiện tại trong mục 3.
o.Một IP con sử dụng cho nhiều máy chủ và router.Mổi một kết nối ảo trục tiếp đến hai
thành phần IP trong phạm vi của cùng một LIS.
Tương lai các memo sẽ mô tả hoạt đông của IP over ATM khi mạng ATM được
khai triển toàn cầu và kết nối bên trong. Khai triển của ATM vào trong Internet nội bộ là
mới bắt đầu và sẽ hoàn thành trong vài năm tới.Trong thời gian phần này bắt đầu của
ranh giới dưới các lý do sau đây:
o.Những người quản tri và quản lý các mạng con IP sẽ hướng đến các bước đầu
tiên của cùng nhiều mô hình như họ đã khai triển hiện nay.
{{{ The mindset of the community will change slowly over time as
ATM increases its coverage and builds its credibility.}}}
o.Thực nghiệm chính sách quản lý đáng tin cậy trên sự bảo mật,truy cập , định
tuyến,và khả năng sàn lọc của cổng IP Internet: i.e., firewalls. ATM sẽ không cho phép
đến cổng sau trong phạm vi cơ cấu cho đến khi ATM hỗ trợ tính năng quản lý tốt hơn các
dịch vụ đang tồn tại và các dịch vụ đang dung
o.Các chuẩn chung của IP over ATM sẽ có được thời gian để hoàn thành và
triển khai.
Memo này xủ lý chi tiết của mô hình kinh điển của IP và ATMARP over ATM.
Memo này không
Laubach [Page 5]
o All members within a LIS MUST be able to communicate via ATM with
all other members in the same LIS; i.e., the virtual Connection
topology underlying the intercommunication among the members is
fully meshed.
Hoạt động và cấu hình của một ATMARP server trong LIS tương tự với một ARP
server trong mạng con IP trước đây.Một gói yêu cầu về ARP được gởi từ hệ thống cuối
đến ARP server để giải quyết địa chỉ ATM của địa chỉ IP.ATMARP server là một bảng
bao gồm cặp địa chỉ IP và địa chỉ ATM như sau:<IP Address,ATM Address>.Nếu một cặp
địa chỉ khớp nhau thì địa chỉ IP được xây dựng, tương ứng địa chỉ ATM trả về sẽ được
kiểm tra ở hệ thống cuối trong gói ARP_REPLY.Cách khác một gói ARP_NAK được trả
về. Bảng nhập liệu dùng để định cấu hình bằng tay hay nghiên cứu thông qua một đăng
ký của hệ thống cuối với ATMARP server. Phần mô tả chi tiết của LIS và ATMARP có
thể xây dựng trên RFC 1577.
RFC 1577
6. Address Resolution
All IP members supporting PVCs are required to use the Inverse ATM
Address Resolution Protocol (InATMARP) (refer to [12]) on those VCs
using LLC/SNAP encapsulation. In a strict PVC environment, the
receiver SHALL infer the relevant VC from the VC on which the
InATMARP request (InARP_REQUEST) or response (InARP_REPLY) was
received. When the ATM source and/or target address is unknown, the
corresponding ATM address length in the InATMARP packet MUST be set
to zero (0) indicating a null length, otherwise the appropriate
address field should be filled in and the corresponding length set
appropriately. InATMARP packet format details are presented later in
Laubach [Page 7]
this memo.
Directly from [12]: "When the requesting station receives the InARP
reply, it may complete the [ATM]ARP table entry and use the provided
address information. Note: as with [ATM]ARP, information learned via
In[ATM]ARP may be aged or invalidated under certain circumstances."
It is the responsibility of each IP station supporting PVCs to re-
validate [ATM]ARP table entries as part of the aging process. See
Section 6.5 on "ATMARP Table Aging".
Laubach [Page 8]
The ATMARP server accepts ATM calls/connections from other ATM end
points. At call setup and if the VC supports LLC/SNAP encapsulation,
the ATMARP server will transmit to the originating ATM station an
InATMARP request (InARP_REQUEST) for each logical IP subnet the
server is configured to serve. After receiving an InATMARP reply
(InARP_REPLY), the server will examine the IP address and the ATM
address. The server will add (or update) the map entry and
timestamp into its ATMARP table. If the
InATMARP IP address duplicates a table entry IP address and the
InATMARP ATM address does not match the table entry ATM address and
there is an open VC associated with that table entry, the InATMARP
information is discarded and no modifications to the table are made.
ATMARP table entries persist until aged or invalidated. VC call tear
down does not remove ATMARP table entries.
Updating the ATMARP table information timeout, the short form: when
the server receives an ATMARP request over a VC, where the source IP
and ATM address match the association already in the ATMARP table and
the ATM address matches that associated with the VC, the server may
update the timeout on the source ATMARP table entry: i.e., if the
client is sending ATMARP requests to the server over the same VC that
it used to register its ATMARP entry, the server should examine the
ATMARP requests and note that the client is still "alive" by updating
the timeout on the client's ATMARP table entry.
Laubach [Page 9]
Note: if the client does not maintain an open VC to the server, the
client MUST refresh its ATMARP information with the server at least
once every 20 minutes. This is done by opening a VC to the server
and exchanging the initial InATMARP packets.
When an ATMARP table entry ages, an ATMARP client MUST invalidate the
table entry. If there is no open VC associated with the invalidated
entry, that entry is deleted. In the case of an invalidated entry and
an open VC, the ATMARP client must revalidate the entry prior to
transmitting any non address resolution traffic on that VC. In the
case of a PVC, the client validates the entry by transmitting an
InARP_REQUEST and updating the entry on receipt of an InARP_REPLY. In
the case of an SVC, the client validates the entry by transmitting an
ARP_REQUEST to the ATMARP Server and updating the entry on receipt of
an ARP_REPLY. If a VC with an associated invalidated ATMARP table
entry is closed, that table entry is removed.
The ATMARP and InATMARP protocols use the same hardware type
(ar$hrd), protocol type (ar$pro), and operation code (ar$op) data
formats as the ARP and InARP protocols [3,12]. The location of these
fields within the ATMARP packet are in the same byte position as
those in ARP and InARP packets. A unique hardware type value has
been assigned for ATMARP. In addition, ATMARP makes use of an
additional operation code for ARP_NAK. The remainder of the
ATMARP/InATMARP packet format is different than the ARP/InARP packet
format.
The ATMARP and InATMARP protocols have several fields that have the
following format and values:
Data:
ar$hrd 16 bits Hardware type
ar$pro 16 bits Protocol type
ar$shtl 8 bits Type & length of source ATM number (q)
ar$sstl 8 bits Type & length of source ATM subaddress (r)
ar$op 16 bits Operation code (request, reply, or NAK)
ar$spln 8 bits Length of source protocol address (s)
ar$thtl 8 bits Type & length of target ATM number (x)
ar$tstl 8 bits Type & length of target ATM subaddress (y)
ar$tpln 8 bits Length of target protocol address (z)
ar$sha qoctets source ATM number
ar$ssa roctets source ATM subaddress
Where:
The encoding of the 8-bit type and length value for ar$shtl,
ar$sstl, ar$thtl, and ar$tstl is as follows:
MSB 8 7 6 5 4 3 2 1 LSB
+-----+-----+-----+-----+-----+-----+-----+-----+
| 0 | 1/0 | Octet length of address |
+-----+-----+-----+-----+-----+-----+-----+-----+
Where:
ATM addresses in Q.93B (as defined by the ATM Forum UNI 3.0
signalling specification [9]) include a "Calling Party Number
Information Element" and a "Calling Party Subaddress Information
Element". These Information Elements (IEs) SHOULD map to
ATMARP/InATMARP source ATM number and source ATM subaddress
respectively. Furthermore, ATM Forum defines a "Called Party Number
Information Element" and a "Called Party Subaddress Information
Element". These IEs map to ATMARP/InATMARP target ATM number and
target ATM subaddress respectively.
The ATM Forum defines three structures for the combined use of number
and subaddress [9]:
ATMARP and InATMARP requests and replies for ATM address structures 1
and 2 MUST indicate a null ATM subaddress; i.e., ar$sstl.type = 1 and
Sự đóng gói dữ liệu cho IP over ATM theo lý thuyết trong RFC 1483. ALL 5 được sử
dụng để mang theo các gói IP ở các điểm cuối với điểm cuối. Hai mô hình đóng gói, mô
hình thứ nhất gọi là dồn VC Based và mô hình còn lại là sự đóng gói LLC,chúng được
xác định rõ. Điểm khác nhau giữa hai mô hình trên là sự cho phép của các giao thức cuối
cùng để mang đi trên môt VC đơn lẻ trong khi kết nối cũ tới giao thức VC based
multiplexing . Điểm khác nhau giữa hai mô hình trên cho phép đa giao thức thực hiện
trên một VC đơn lẻ trong khi kết nối trước đây là từ một VC đến một giao thức đơn lẻ.
VC Based Multiplexing
Với VC Based Multiplexing , VC là ranh giới tới giao thức cụ thể và đóng gói dữ
liệu trực tiếp vào trong trường CPCS-PDU của ALL 5 .Thế nên mổi một kết nối có thể
mang theo mổi một giao thức mà thôi. Phương pháp này tốt hơn trong khi một số lớn các
cách của VC có thể thiết lập nhanh và thận trọng hơn .
Như trước đây đã đề cập, với Classical IP over ATM, giao tiếp inter-LIS phải
thong qua router, đó không phải là giải pháp tối ưu khi cả hai phần liên quan được gắn
trong cùng một mạng ATM.
Kết nối trực tiếp giữa chúng được yêu cầu và trên thực tế nó không khó để đạt
được.Tất cả những gì chúng ta cần là một cơ chế cho hệ thống cuối để phân giải địa chỉ
IP của hệ thống cuối khác trong foreign LIS vào trong địa chỉ ATM tương ứng của nó.
NHRP giống như giao thức dùng để thực hiện nhiệm vụ này.NHRP bao gồm hai loại thực
thể : NHRP server(NHSs) và NHRP client(NHC),và những giao thức giữa chúng.Mổi
LIS chứa đụng ít nhất là một NHRP server và mổi hệ thống cuối là NHRP client . Khi
một hệ thống cuối cần phân giải một địa chỉ IP , nó gởi một yêu cầu đến NHRP server.
Một NHS có thể phục vụ nhiều hơn một LIS và nó giữ lại bảng chứa địa chỉ IP và
địa chỉ ATM cho tất cả các máy liên quan tới các LIS mà nó đang phục vụ.Nếu địa chỉ IP
được truy vấn liên quan đến những LIS này ,NHS đòi hỏi phải thấy một dòng trùng khớp
địa chỉ IP và trả lời lại với địa chỉ ATM tương ứng .Ngoài ra một phản hồi từ chối sẽ bị
trả lại.
Cho đến nay NHS được dùng chính xác như những ATMARP server,trên thực tế
trong các LIS nơi mà NHC và ATMARP client cùng tồn tại, NHSs là kết hợpvới chức
năng của ATMARP server .Tuy nhiên ,sự giới hạn của ATMARP server không thể phân
giải một địa chỉ IP liên quan tới một LIS khác trong khi một NHRP server thì có thể.Khi
một truy vấn đưa đến một NHRP server thì đối với một địa chỉ IP thuộc một LIS không
được thực hiện, nó sẽ quản lý việc chuyển truy vấn qua NHS phục vụ LIS . NHSs phục
vụ LIS trên mạng ATM được cấu hình trước những kết nối giữa chúng để tạo thành mạng
định tuyến cho các truy vấn NHRP .
Nhờ có các giao thức định tuyến như OSPF thực thi giữa những NHS, giống như
IP routers NHSs biết bước nhảy kế tiếp đi qua truy vấn NHRP để đi đến đúng nơi NHS.
Điều này cho biết chính xác đối với tên của NHRP sẽ đi đến từ đâu.
Khi NHS phục vụ LIS nhận truy vấn, nó sẽ trả lời với địa chỉ ATM tương ứng tới
hệ thống cuối bắt đầu truy vấn. Việc trả lời sẽ được chuyển lại thong qua NHSs và NHSs
trung gian có thể lưu lại dòng <IP address, ATM address> để những truy vấn NHRP sau
có cùng địa chỉ IP sẽ đuợc chặn lại và trả lời. Tính năng này đuợc dùng để lưu giữ nhiều
lưu lượng NHRP. Mỗi lần người gửi biết địa chỉ ATM của người nhận, nó có thể thiết lập
một kết nối end-to-end với người nhận, được gọi là đường tắt, để chuyển những gói IP
giữa chúng. Trước khi lối tắt được thiết lập, dữ liệu sẽ vẫn tiếp tục đi qua các router
giống như classical IP over ATM.
Fig. 2 NHRP
Fig.2 chỉ ra một mạng ATM phân chia thành ba LIS, mỗi cái được phục vụ bởi NHS.
Router 1 được kết nối tới cả hai LIS 1 và LIS 2, và router 2 đuợc kết nối tới cả hai LIS2
và LIS 3. Những hệ thống cuối A và B được gắn lần lượt vào LIS 1 và LIS 3.
Bây giờ A muốn gửi dữ liệu tới B:
Với classical IP over ATM thì dữ liệu phải di chuyển qua router1 và router2.
Với NHRP, A gửi một yêu cầu NHRP tới NHS1và tiếp tục tới NHS2 sau đó tới
NHS3. Khi NHS 3 đang phục vụ LIS3 chứa hệ thống cuối B, nó sẽ trả lời tới A với địa
chỉ ATM của B. Khi sự phản hồi chuyển trở lại, nó có thể đi qua NHS 2 và NHS 1. NHS
1 và NHS 2 sẽ lưu giữ thông tin này để những truy vấn NHRP sau này sẽ được trả lời trực
tiếp mà không phải chuyển nó tới NHS. Khi A nhận trược phản hồi nó sẽ thiết lập một kết
nối end-to-end với B để truyền dữ liệu giữa chúng.
Classical IP over ATM và NHRP chỉ hổ trợ IP unicast over ATM. Để hổ trợ IP
multicast,hai vấn đề cần được giải quyết: đầu tiên chúng ta cần một giao thức phân giải
địa chỉ để chuyển một địa chỉ IP multicast vào trong một danh sách địa chỉ ATM,và điều
này được giải quyết bởi MARS ( Multicast Address Resolution Server).Thứ hai,chúng ta
cần phải chỉ rỏ làm thế nào dữ liệu multicast được truyền giữa các vùng liên quan , nhiều
mạng VC và Multicast Server (MCS) là hai giải pháp khả thi.
Một MARS ( Multicast Address Resolution Server) được giới thiệu trong mỗi LIS
để thực thi phân giải địa chỉ Multicast. Nó trả lời những truy vấn cho những địa chỉ
multicast từ những hệ thống cuối trong cùng một phương pháp như ATMARP server trả
lời những truy vấn cho những địa chỉ unicast.Một hệ thống cuối tham gia hoặc không
tham gia nhóm multicast riêng biệt bằng việc gởi những gói IGMP (Internet Group
Multicast Protocol ) đến MARS.
Khi một địa chỉ IP multicast được phân giải trong một danh sách của các điểm
cuối , dữ liệu cần được chuyển giữa các thành viên của nhóm từ người gỏi tới những
người nhận .Một cách để làm điều này là để mổi thành viên của nhóm cài đặt một kết nối
point-to-multipoint với tất cả những thành viên của nhóm khác và cách tiếp cận này gọi
là VC Mesh.
Một phương pháp khác được giới thiệu là MCS (Multicast Server) trong mổi LIS
để hổ trợ multicast. Khi một truy vấn của hệ thống cuối cho địa chỉ multicast , MARS sẽ
trả lời đến chúng với một địa chỉ ATM của MCS. Sau đó hệ thống cuối gởi những gói
multicast tới MCS . MCS sẽ xây dựng kết nối point-to-multipoint hay multipoint-to-point
tới những thành viên của nhóm để truyền những gói đã nhận từ hệ thống cuối để tất cả
các thành viên của nhóm theo lý thuyết trong trường địa chỉ của gói multicast. Với MCS,
nếu thành viên của một nhóm multicast thay đổi, nó chỉ cần sữa VC point-to-multipoint
tới những thành viên của nhóm trong khi với VC mesh, tất cả những kết nối trong mesh
này phải được thay đổi. Tuy nhiên, MCS cần lắp ghép lại những gói cellified đã gửi từ
nguồn và gửi lại chúng đến những thành viên của nhóm vì vậy nó có thể trở thành điểm
conjestion riêng biệt và giới thiệu chắc chắn số lương góc trễ. Với VC mesh việc lắp ráp
là không cần vì góc trễ được làm cực tiểu.
LAN Emulation
LANE(Lan Emulation) là chuẩn được định nghĩa bởi ATM Forum đó đưa đến gán
vào trạm tiếp theo qua ATM có cùng tính năng đó chúng vẩn sử dụng bình thường từ sự
kế thừa LANs,ví dụ như Ethernet và Token Ring. Chức năng của giao thức LANE là một
mô phỏng đến LAN trên đỉnh của một mạng ATM.
Đặc trưng, giao thức LANE định nghĩa cơ cấu cho việc tranh đua giữa IEEE
802.3 hay một Token Ring LAN 802.5.Giao thức LANE hiện thời không định nghĩa một
sự đóng gói riêng biệt cho FDDI
Fast Ethernet(100Base T)và IEEE 802.12(100VG -AnyLAN) cả hai có thể ánh xạ
không đổi bởi vì chúng sử dụng cùng một định dạng gói.
Hình 27-11 so sánh một physical LAN và một ELAN
Figure 27-11 Nhiều mạng ATM Networks có thể cạnh tranh với một Physical LAN
Giao thức LANE định nghĩa một giao diện dịch vụ cho các giao thức tầng cao hơn
để đồng nhất đến sự hiện hữu cũa LANs. Dữ liệu gởi qua mạng ATM sẽ được đóng gói
trong gói định dạng LAN MAC. Đặt đơn giản, các giao thức LANE làm cho một mạng
ATM chú ý và chạy giống như một Ethernet hay Token Ring LAN mặc dù hoạt động
nhanh hơn một Ethernet hiện tại hay một mạng Token Ring LAN
Thật quan trọng để chú ý rằng LANE không cố gắng vượt qua cạnh tranh với giao
thức MAC hiện thời của LAN đặc biệt được đề cập. LANE không cần sữa đổi đến các
giao thức tầng cao hơn để làm cho chúng hoạt động lên trên một mạng ATM.Bởi vì dịch
vụ LANE hiện tại có cùng giao diện dịch vụ của của giao thức MAC có sẵn đến các
đường dẩn của lớp mạng(như là một NDIS hay ODI giống như giao diện đường
dẩn),không thay đổi là quy định trong các đường dẩn.
Khi một LEC nối với LES và đăng ký địa chỉ ATM và MAC,nó sẽ theo ba bước
sau:
1. Sau khi LEC sử dụng được địa chỉ LES, LEC bắt buộc xoá hết kết nối đến LECS, thiết
lập điều khiển trực tiếp VCC đến LES, và gởi một thông điệp LE_JOIN_REQUEST trên
VCC đó. Điều này cho phép LEC đăng ký địa chỉ MAC và ATM của nó với LES và một
vài địa chỉ MAC khác cho proxying. Thông tin này duy trì cho nên không có hai LECS
nào cùng đăng ký cùng một địa chỉ ATM hoặc MAC.
2.Sau khi xác nhận thông điệp LE_JOIN_REQUEST , LES kiểm tra với LECS thong
qua việc mở kết nối, xác minh lời yêu cầu, và xác nhận thành viên của máy khách.
3.Lúc xác minh đúng , LES them LEC vào nút cuối hay nút lá của nó trong phân phối
điều khiển điểm đến nhiều
3.Lúc xác minh thành công, LES thêm vào LEC một nút con của điều khiển phân phối
điểm đến đa điểm VCC và đưa ra LEC một thông điệp báo thành công
LE_JOIN_RESPONSE chứa duy nhất một LECID (LAN Emulation Client ID). LECID
sử dụng qua LEC để lọc những truyền bá của mình từ BUS.
Môi trường MPOA điển hình là một mạng ATM với những máy ATM và các thiết
bị ngoài lề được gắn với nó. Một thiết bị ngoài lề có thể là một cầu nối kết nối một legacy
LAN (ví dụ Ether hoặc Token Ring) tới một ELAN, hoặc một router để kết nối một mạng
con non-ATM đến một mạng ATM. Trên mạng ATM này xác định một số của những
ELAN và LIS. Đặc trưng của một LIS thì tương tự một ELAN và những LAN kế thừa là
để làm cầu nối tới nó. Nhiệm vụ của giao thức MPOA là tìm ra phương pháp tốt nhất
giữa hai máy trong môi trường này để giao tiếp một cách hiệu quả với những máy khác.
Nếu một hệ thống thừa kế được gắn vào một thiết bị ngoài lề cần gửi dữ liệu đến một hệ
thống thừa kế khác gắn vào một thiết bị ngoài rìa khác. Hiển nhiên cách tiếp cận tốt nhất
là thiết lập kết nối trực tiếp giữa hai thiết bị ngoài rìa và truyền lưu lượng thông qua kết
nối này. Trong trường hợp này, thiết bị ngoài lề mà được người gửi gắn gọi là một lối
vào điểm cuối và thiết bị ngoài rìa mà được người nhận gắn gọi là một lối ra điểm cuối.
Việc giao tiếp chính của MPOA là xây dựng kết nối end –to –end giữa một lối vào điểm
cuối và một lối ra điểm cuối cho việc giao tiếp có hiệu quả. Nếu chúng ta thấy việc giao
tiếp giữa hai hệ thống thừa kế gắn vào những thiết bị ngoài lề khác nhau giống như giữa
hai thiết bị ngoài lề, chúng ta có thể đơn giản hoá sự tranh chấp bằng cách chỉ xem xét
những giao tiếp giữa các hệ thống cuối ( Những máy và các thiết bị ngoài lề.)
MPOA is built on top of LANE. If two end systems are in the same ELAN, the traffic
between them
follows the LANE specification. With LANE, inter-ELAN traffic has to go through a
router. MPOA
allows shortcuts between ELANs by integrating NHRP functionalities into it. It allows an
end system to
obtain the ATM address of another end system that lies in a different ELAN and establish
end-to-end
connection with it. Such shortcuts are created autotmatically through a mechanism called
flow detection.
Before the direct connection between the end systems is built, inter-ELAN traffic is still
forwarded to
routers. However, an entity called MPOA Client (MPC) that runs on each end system is
capable of
detecting traffic. When it finds out that an end system has recently sent a significant
amount of traffic
destined for the same destination to the router, it will try to establish a connection to the
egress point
which is "nearest" to the destination. An entity called MPOA server runs in a MPOA
environment to
resolve the ATM address of the egress point given the IP address of the destination.
Hình.3 MPOA
This RFC specifies an IAB standards track protocol for the Internet
community, and requests discussion and suggestions for improvements.
Please refer to the current edition of the "IAB Official Protocol
Standards" for the standardization state and status of this protocol.
Distribution of this memo is unlimited.
Abstract
1. Introduction
Note that this memo only describes how routed and bridged PDUs are
carried directly over the CPCS of AAL5, i.e., when the Service
Specific Convergence Sublayer (SSCS) of AAL5 is empty. If Frame
Heinanen [Page 1]
The PAD field pads the CPCS-PDU to fit exactly into the ATM cells
such that the last 48 octet cell payload created by the SAR sublayer
will have the CPCS-PDU Trailer right justified in the cell.
The CPI (Common Part Indicator) field alings the CPCS-PDU trailer to
64 bits. Possible additional functions are for further study in
CCITT. When only the 64 bit alignment function is used, this field
shall be codes as 0x00.
The CRC field protects the entire CPCS-PDU except the CRC field
itself.
4. LLC Encapsulation
Heinanen [Page 3]
Although this memo only deals with protocols that operate over LLC
Type 1 (unacknowledged connectionless mode) service, the same
encapsulation principle applies also to protocols operating over LLC
Type 2 (connection-mode) service. In the latter case the format
and/or contents of the LLC header would differ from what is shown
below.
+------+------+------+
| DSAP | SSAP | Ctrl |
+------+------+------+
The LLC header value 0xFE-FE-03 identifies that a routed ISO PDU (see
[6] and Appendix B) follows. The Control field value 0x03 specifies
Unnumbered Information Command PDU. For routed ISO PDUs the format
of the AAL5 CPCS-PDU Payload field shall thus be as follows:
The routed ISO protocol is identified by a one octet NLPID field that
is part of Protocol Data. NLPID values are administered by ISO and
CCITT. They are defined in ISO/IEC TR 9577 [6] and some of the
currently defined ones are listed in Appendix C.
Heinanen [Page 4]
+------+------+------+------+------+
| OUI | PID |
+------+------+------+------+------+
The format of the AAL5 CPCS-PDU Payload field for routed non-ISO PDUs
shall thus be as follows:
Heinanen [Page 5]
This is compatible with RFC 1042 [7]. Any changes in the header
format specified in RFC 1042 should be followed by this memo.
Note that the 802.5 Access Control (AC) field has no significance
outside the local 802.5 subnetwork. It can thus be regarded as the
last octet of the three octet PAD field, which can be set to any
value (XX).
Heinanen [Page 8]
Note that in bridged 802.6 PDUs, there is only one choice for the PID
value, since the presence of a CRC-32 is indicated by the CIB bit in
the header of the MAC frame.
The Common Protocol Data Unit (PDU) Header and Trailer are conveyed
to allow pipelining at the egress bridge to an 802.6 subnetwork.
Specifically, the Common PDU Header contains the BAsize field, which
contains the length of the PDU. If this field is not available to
the egress 802.6 bridge, then that bridge cannot begin to transmit
the segmented PDU until it has received the entire PDU, calculated
the length, and inserted the length into the BAsize field. If the
field is available, the egress 802.6 bridge can extract the length
from the BAsize field of the Common PDU Header, insert it into the
corresponding field of the first segment, and immediately transmit
the segment onto the 802.6 subnetwork. Thus, the bridge can begin
transmitting the 802.6 PDU before it has received the complete PDU.
Note that the Common PDU Header and Trailer of the encapsulated frame
should not be simply copied to the outgoing 802.6 subnetwork because
the encapsulated BEtag value may conflict with the previous BEtag
value transmitted by that bridge.
An ingress 802.6 bridge can abort an AAL5 CPCS-PDU by setting its
Length field to zero. If the egress bridge has already begun
transmitting segments of the PDU to an 802.6 subnetwork and then
Heinanen [Page 9]
notices that the AAL5 CPCS-PDU has been aborted, it may immediately
generate an EOM cell that causes the 802.6 PDU to be rejected at the
receiving bridge. Such an EOM cell could, for example, contain an
invalid value in the Length field of the Common PDU Trailer.
+-------------------------------+
| LLC 0xAA-AA-03 |
+-------------------------------+
| OUI 0x00-80-C2 |
+-------------------------------+
| PID 0x00-0E |
+-------------------------------+
| |
| BPDU as defined by |
| 802.1(d) or 802.1(g) |
| |
+-------------------------------+
5. VC Based Multiplexing
Note that the 802.5 Access Control (AC) field has no significance
outside the local 802.5 subnetwork. It can thus be regarded as the
last octet of the three octet PAD field, which in case of 802.5 can
be set to any value (XX).
Heinanen [Page 11]
In case of Ethernet, 802.3, 802.4, 802.5, and FDDI PDUs the presense
or absence of the trailing LAN FCS shall be identified implicitly by
the VC, since the PID field is not included. PDUs with the LAN FCS
and PDUs without the LAN FCS are thus considered to belong to
different protocols even if the bridged media type would be the same.
Acknowledgements
This document has evolved from RFCs [1] and [4] from which much of
the material has been adopted. Thanks to their authors T. Bradley,
C. Brown, A. Malis, D. Piscitello, and C. Lawrence. In addition,
the expertise of the ATM working group of the IETF has been
invaluable in completing the document. Special thanks Brian
Carpenter of CERN, Rao Cherukuri of IBM, Dan Grossman of Motorola,
Joel Halpern of Network Systems, Bob Hinden of Sun Mircosystems, and
Gary Kessler of MAN Technology Corporation for their detailed
contributions.
Security Considerations
References
[5] CCITT, "Draft text for Q.93B". CCITT Study Group XI, 23
September - 2 October, 1992.
[7] Postel, J. and Reynolds, J., "A Standard for the Transmission of
IP Datagrams over IEEE 802 Networks". RFC 1042, ISI, February,
1988.
In the particular case of an IP PDU, the NLPID is 0xCC and the FR-
SSCS-PDU has the following format:
Heinanen [Page 14]
Note that according to RFC 1294 the Q.922 Address field shall be
either 2 or 4 octets, i.e., a 3 octet Address field is not supported.
In the particular case of a CLNP PDU, the NLPID is 0x81 and the FR-
SSCS-PDU has the following format:
Note that in case of ISO protocols the NLPID field forms the first
octet of the PDU itself and shall thus not be repeated.
0x00 Null Network Layer or Inactive Set (not used with ATM)
0x80 SNAP
0x81 ISO CLNP
0x82 ISO ESIS
0x83 ISO ISIS
0xCC Internet IP
. When the network becomes large it is expected that such configuration can be complex
and
error-prone. PNNI augmented routing (PAR) tackles this problem by allowing the routers
take part in the
PNNI routing protocol and make connections to other routers on demand based on the
reachability
information it gets from the exchange of PNNI messages with other switches and routers.
With PAR, the
routers will still run the legacy IP routing protocols like OSPF and IGRP. The information
it gets by
taking part in the PNNI message exchange helps it establish connections with other
routers. [Dorling]
I-PNNI proposes the use of PNNI as the only routing protocol in an environment of ATM
network and
ATM-attached routers. A peer group may include both routers and switches. Both
signaling requsts and
IP packets are routed using the PNNI protocol. In this way, IP can benefit from the QoS
guarantee and
the scalability of the PNNI. In I-PNNI, both routers and switches will exchange PTSPs
with their
neighbours. Both IP addresses and ATM NSAP addresses can be advertised in PTSP
packets.
ATM switches will advertise their reachability to certain ATM addresses summarized as a
prefix of
20-byte ATM NSAP address while IP routers advertise reachiablity to certain IP addresses
summarized
as a prefix of 16 bit IP address.
TONG KET
Khả năng để hổ trợ cho truyền thong legacy IP là cần thiết đối với việc thành công
của những mạng ATM. Nghiên cứu ATM cho đến nay là kiến trúc mạng LAN khác
,classical IP over ATM là đơn giản để thực thi. Tuy nhiên , mặt hạn chế của nó là truyền
thông inter-LIS đi thông qua một router chắc chắn dù cho hai phần kết nối trực tiếp đến
mạng ATM. NHRP ngăn chặn vấn đề này bằng cách tăng lên với một giao thức giải pháp
địa chỉ vì thế đường nối tắt có thể thiết lập giữa các hệ thống cuối thuộc về các LIS không
giống nhau. Để thúc đẩy sự triển khai kỹ thuật của ATM, LANE tranh đua với Ethernet
và Token Ring LANs trên mạng ATM vì vậy tồn tại phần mềm IP chạy trên LANs và trên
cả ELANs mà không có sự thay đổi nào. Tuy nhiên , ELAN có các điểm hạn chế như
classical IP over ATm, đó là truyền thông inter-ELAN có thông qua một router . MPOA
kết hợp với công nghệ LANE và NHRP để hổ trợ cho cả việc định tuyến IP và làm cầu
nối giữa LAN với mạng ATM. Thêm vào đó là các kiểu dữ liệu mới, hai sơ đồ định tuyến
PAR và I-PNNI được đưa ra sử dụng trong môi trường mạng ATM và các router.PAR cho
phép các router tự phát hiện ra các router khác và xây dung kết nối ATM để thay đổi các
thông tin định tuyến.I-PNNI cho phép giao thức PNNI có thể sử dụng trong các mạng
ghép bao gồm ATM switch và các router.Thật ra các cải tiến về định tuyến có thể sử dụng
ngang hang với một vài kiểu dữ liệu
Phần này mô tả việc cấu hình một cổng trên một ATM switch router để cho phép một
Classical IP over ATM kết nối đến bộ xử lý định tuyến của ATM switch router.
IV.1. CẤU HÌNH CLIP TRONG MÔI TRƯỜNG SVC (switched virtual circuit)
Phần này mô tả việc cấu hình IP over ATM trong một môi trường SVC. Nó đòi
hỏi một người quản trị mạng để cấu hình địa chỉ ATM của chính thiết bị và cấu hình một
ATM ARP server vào trong mỗi thiết bị client
Hình 12-1 mô tả các bước cần thiết để cài đặt một kết nối Classiacal IP over ATM giữa
ATM switch router client A và client B.
Bước 1: Gói IP ban đầu được gửi bằng cách Client A khởi tạo một yêu cầu tới ARP server
để tìm địa chỉ IP và địa chỉ ATM tương ứng cảu client B trong bảng ARP của ARP server.
Bước 2: ARP server gửi ngược lại một phản hồi tới client A với địa chỉ ATM trùng khớp.
Bước 3: Client A sử dụng địa chỉ ATM mà nó vừa nhận từ ARP server để cài đặt một
SVC trực tiếp đến client B.
Bước 4: Khi client B phản hồi với một gói IP tới client A, nó cũng khởi tạo một truy vấn
tới ARP server.
Chú ý: Khi client B nhận địa chỉ ATM cho client A, nó thường nhận ra rằng nó đã
sẵn sàng có một cuộc gọi thiết lập tới địa chỉ ATM của client A và không thiết lập cuộc
gọi khác.
Bước 5: Mỗi lần kết nối được biết tất cả client, chúng giao tiếp trực tiếp trên SVC.
Trong việc thực thi của cisco, ATM ARP client cố gắng duy trì một kết nối đến ATM ARP
server. ATM ARP server có thể mất kết nối, nhưng client cố gắng mỗi lần một phút để
mang kết nối trở lại. Không có thông điệp lỗi nào được đưa ra khi một kết nối bị lỗi.
Nhưng client sẽ không định tuyến những gói tin cho đến khi ATM ARP server được kết
nối và chuyển đổi những địa chỉ mạng IP.
Mỗi gói tin với một địa chỉ IP không xác định, client gửi một yêu cầu ATM ARP tới ARP
server. Cho đến khi địa chỉ đó được phân giải, một vài gói IP đã được định tuyến tới giao
diện ATM làm cho client gửi yêu cầu ATM ARP khác.
ATM switch router có thể được cấu hình như ATM ARP client để làm việc với một vài
ATM ARP server theo RFC 1577. Sự lựa chọn một trong những ATM switch router trong
một LIS (logical IP subnet) có thể được cấu hình để hoạt động như ATM ARP server.
Trong trường hợp này, nó tự động hoạt động tốt như một client. Để cấu hình classical IP
và ARP trong một môi trường SVC cần thực hiện một trong những nhiệm vụ sau:
Trong một môi trường SVC, việc cấu hình cơ chế ATM ARP trên giao diện bằng cách
thực hiện những nhiệm vụ sau, bắt đầu trong mô hình cấu hình Global:
atm esi-address
esi.selector
3 ip address ip-address Chỉ định địa chỉ IP của giao diện
mask
4 atm arp-server nsap Chỉ định địa chỉ ATM của ATM ARP server
nsap-address
5 exit Thoát khỏi giao diện cấu hình
1
6 atm route {addr-prefix } Cấu hình định tuyến tĩnh thong qua ATM switch router tới
atm0 internal giao diện xử lí định tuyến. Xem những chú ý sau
1
First 19 bytes of the NSAP address.
Chú ý: Mẫu địa chỉ ESI ( end system identifier) được ưu tiên hơn trong việc nó điều
khiển địa chỉ quảng bá một cách tự động . Sử dụng mẫu NSAP của lệnh khi bạn cần định
nghĩa một địa chỉ đầy đủ 20 byte duy nhất với một tiền tố không liên quan tới tiền tố
mạng trên giao diện. Bạn chỉ cần chỉ rõ một định tuyến tĩnh khi cấu hình một ARP client
sử dụng địa chỉ NSAP.
The following example shows how to configure the route processor interface atm0 of
client A, in Figure 12-1, using the NSAP address:
Ví dụ sau chỉ rõ cách cấu hình giao diện xử lý định tuyến atm0 của client A trong hình
12-1, sử dụng địa chỉ NSAP:
Ví dụ về ESI
Ví dụ sau chỉ rõ cách cấu hình bộ giao diện xử lý định tuyến atm0 của client A sử dụng
ESI (hình 12-1)
Việc thực thi ATM ARP server của cisco hỗ trợ một server riêng lẻ không dư thừa trên
mỗi LIS và một ATM ARP server trên giao diện con. Do đó, một ATM switch router riêng
lẻ có thể hỗ trợ nhiều ARP server bằng cách sử dụng nhiều giao diện.
Để cấu hình một ATM ARP server phải hoàn thành những nhiệm vụ sau, bắt đầu trong
mô hình cấu hình Global
Dạng lệnh ATP ARP server này cho biết giao diện này thực hiện những chức năng của
ATM ARP server. Khi bạn cấu hình ATM ARP client, lệnh ATM ARP server được sử
dụng với những từ khoá và đối số khác nhau để xác định một ATM ARP server khác tới
client.
Chú ý: Dạng địa chỉ ESI được ưu tiên hơn trong việc điều khiển địa chỉ quảng bá một
cách tự động. Sử dụng dạng lệnh NSAP khi bạn cần định nghĩa một địa chỉ 20 byte duy
nhất với tiền tố không liên quan tới tiền tố của mạng trên giao diện đó. Bạn chỉ cần chỉ rõ
một định tuyến tĩnh khi cấu hình một ARP server sử dụng một địa chỉ NSAP.
Khoảng thời gian rãnh rỗi là số phút mà đích đi vào được liệt kê trong bảng ARP của
ARP server có thể rãnh trước khi server thực hiện nhiều hoạt động tới thời gian đi vào kết
thúc.
Ví dụ:
Ví dụ sau chỉ rõ cấu hình giao diện xử lý định tuyến atm0 như một ARP server
( hình 12-1)
Examples
In the following example, the show atm arp-server command displays the configuration
of the interface atm0:
The following example displays the map-list configuration of the static map and IP-over-
ATM interfaces:
IV.2. CẤU HÌNH CLIP TRONG MÔI TRƯỜNG PVC(permanent virtual circuit)
This section describes how you configure classical IP over ATM in a PVC environment.
The ATM Inverse ARP mechanism is applicable to networks that use PVCs, where
connections are established but the network addresses of the remote ends are not known.
A server function is not used in this mode of operation.
In a PVC environment, configure the ATM Inverse ARP mechanism by performing the
following tasks:
Step Command Task
1 interface atm0 Select the interface to be configured.
2 ip address ip-address mask Specify the IP address of the interface.
1
3 atm pvc vpi vci encap aal5snap [inarp Create a PVC and enable Inverse ARP
minutes] on it.
1
The VPI value on interface atm0 must always be 0.
The inarp minutes interval specifies how often Inverse ARP datagrams are sent on this
virtual circuit. The default value is 15 minutes.
Note The ATM ARP and Inverse ATM ARP mechanisms work with IP only. All other
protocols require map-list command entries to operate.
Example
Command Task
show atm map Show the ATM interface ARP configuration.
Example
The following example displays the map-list configuration of the static map and IP over
ATM interfaces: