You are on page 1of 34

Phương pháp luận sáng tạo

Quy luật về tính đầy đủ của các hệ thống kỹ
thuật
Quy luật về tính đầy đủ
của các hệ thống kỹ
thuật
Một hệ kỹ thuật hoạt động tự lập phải bao gồm động
cơ, bộ phận truyền động, bộ phận làm việc và bộ phận
điều khiển. Trong đó mỗi bộ phận phải có khả năng làm
việc tối thiểu và ít nhất phải có một bộ phận điều khiển
được.

Thí dụ, chiếc máy tiện có đầy đủ các bộ phận này :
động cơ để cho máy hoạt động; các trục, các bánh xe
răng cưa, các khớp nối đóng vai trò truyền động; bộ
phận làm việc là lưỡi dao tiện; các tay vặn, nút bấm,
các tay đòn thực hiện chức năng điều khiển. Ở đây, bộ
phận điều khiển còn "yếu" nên cần sự tham
gia của người thợ tiện. trong các máy tiện tự động hoá
cao, bộ phận điều khiển hoàn thiện hõn, người thợ chỉ
còn làm công việc lắp ráp, chỉnh và theo dõi hoạt động
của máy.
Quy luật về tính đầy đủ
của các hệ thống kỹ
thuật
 Quy luật vừa nêu cho thấy khuynh hướng hệ kỹ thuật thay thế dần
một số chức năng của con người. Sự hình thành một hệ kỹ thuật
thực hiện chức năng mới thường bắt đầu từ sự nảy sinh bộ phận
làm việc. các bộ phận còn lại do con người hoặc môi truờng bên
ngoài đảm nhiệm cho đến khi được thay thế bởi các bộ phận kỹ
thuật tương ứng.
Chiếc xe đạp ban đầu chỉ gồm hay bánh xe ( bộ phận làm việc ) và
thanh ngang nối chúng. Các phần còn lại, người đi xe tự làm lấy :
dùng chân đạp xuống đường ( động cơ ), dùng thân mình để truyền
chuyển động cho bánh xe và phải dùng sức để nghiêng xe đi ( lái )
khi đến chổ quẹo. sau đó, pedal, đĩa, xích được sáng chế ra để thực
hiện chức năng truyền động từ thân người đến bộ phận làm việc.
tay lái (ghi đông ) xuất hiện làm công việc điều khiển trở nên dễ
dàng hơn. Động cơ lắp vào xe đạp ( xe gắn máy ) giải phóng người
đi xe, khỏi phải sử dụng sức lực cơ bắp.
Quy luật này cho thấy, nếu ở đâu đó, nhà sáng chế còn bắt gặp
máy móc chưa có đầy đủ các bộ phận nói trên, không chần chờ gì
nữa, hãy làm cho chúng trở thành các hệ kỹ thuật tự lập. 
C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin

TT TT

C,NL,TT
Sản phẩm được thay
C, NL TT đổi

C, NL C, NL
C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin
TT TT
Làm
việc TT
C, NL TT (Công cụ) Sản phẩm
Đầu
TT Đầu
vào ra

C, NL
C, NL
ĐK ĐK
SP Máy sơ khai
LV LV
T SP T SP
Đ Đ
ĐC ĐC

Máy hoàn thiện Máy tự động hoàn t


toàn
Đ

SP SP

t
Quy luật về tính thông suốt
Quy luật về tính thông
suốt
Bất kỳ hệ kỹ thuật nào cũng là hệ tiêu thụ và biến đổi
dạng năng lượng nào đó, cho nên cần có sự thông suốt
về mặt năng lượng từ động cơ qua bộ phận truyền
động đến bộ phận làm việc. Để tăng tính điều khiển
của hệ còn cần phải bảo đảm sự thông suốt năng
lượng mang thông tin giữa bộ phận điều khiển và các
bộ phận khác của hệ. 

Nhà thiết kế, nếu không tính đến quy luật này, có thể
mắc những sai lầm như : hoặc năng lượng bị tích tụ
thừa tại các chi tiết nào đó và làm mau hỏng chúng,
hoặc do sự dẫn năng kém mà phải sử dụng động cơ có
công suất lớn hơn mức cần thiết, gây lãng phí. Mặt
khác, biết quy luật này, người ta ý thức được việc chế
tạo các chốt an toàn, các cầu chì để ngắt dòng năng
lượng nếu chúng vượt qua giới hạn cho phép, có thể
TT TT

C,NL,TT
Sản phẩm được thay
C, NL TT đổi

C, NL C, NL
C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin

Diễn tả sự thông suốt


C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin
TT TT

Làm
việc TT
C, NL TT (Công cụ) Sản phẩm
Đầu
TT Đầu
vào ra

C, NL
C, NL
Một số yếu tố ảnh hưởng
•Tốc độ phát
•Loại mã
Phát Thu •Tốc độ mã hóa
•Loại kênh truyền
•Tốc độ truyền trong kênh
•Khả năng thông qua cực đại của kênh
•Nhiễu
Mã hóa Giải mã •Tốc độ giải mã hoặc mã hóa tiếp
•Tốc độ thu

Hoặc
Mã hóa
tiếp Kênh truyền 2
Kênh truyền 1
Quy luật về tính tương
hợp các phần của hệ
Điều kiện cần để cho một hệ kỹ thuật có sức sống, về
mặc nguyên tắc, phải có sự tương hợp giữa các phần
của hệ theo các thông số sau: dạng năng lượng và
cách truyền tãi, vật liệu, trạng thái vật lý của vật chất,
thời gian, không gian, cách tương tác giữa các phần
của hệ...Mức độ tương hợp càng cao thì khả năng làm
việc của hệ kỹ thuật càng lớn. Sự hoàn thiện bất kỳ hệ
kỹ thuật nào, ở mức độ này hay mức độ khác, đều liên
quan đến việc nâng cao tính tương hợp giữa các phần
của hệ và sau đó là với môi truờng bên ngoài.
Thí dụ, các nhà xây dựng khi đóng cọc công trình, chọn
tần số búa đập phù hợp với tần số riêng của cọc ( tạo
cộng hưởng) làm công việc trở nên dễ dàng hơn. Khi
ghép, nối các chi tiết máy móc cần để ý lựa chọn vật
liệu trung gian sao cho tương hợp với các chi tiết đó,
nếu không, mối hàn, ghép hay dán sẽ không cho độ tin
cậy và tuổi thọ như ý muốn.
TT TT

C,NL,TT
Sản phẩm được thay
C, NL TT đổi

C, NL C, NL
C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin

Diễn tả sự thông suốt


C – Chất
NL – Năng lượng
TT – Thông tin
TT TT

Làm
việc TT
C, NL TT (Công cụ) Sản phẩm
Đầu
TT Đầu
vào ra

C, NL
C, NL
Quy luật tăng tính lý tưởng của hệ kỹ thuật
Quy luật tăng tính lý
tưởng của hệ kỹ thuật
Các hệ thống kỹ thuật phát triển theo hướng làm
tăng mức độ lý tưởng của hệ.
Hệ kỹ thuật ra đời không phải là mục đích tự thân
mà là phương tiện để thực hiện một công việc xác
định. Lúc đầu, hệ kỹ thuật còn “xấu xí”, hoạt động
chưa thật hiệu quả và nhiều khuyết tật. Dần dần,
người ta hoàn thiện và mở rộng khả năng của nó,
nói cách khác, đưa hệ dần đến mẫu lý tưởng. Mẫu
lý tưởng là mẫu mang tính quy ước, được hiểu :
không có hệ mà chức năng của hệ vẫn được thực
hiện. Tất nhiên, trên thực tế không có chuyện như
vậy, và các hệ kỹ thụật chỉ tiến gần đến mẫu lý
tưởng chứ không bao giờ đạt đến cả.
Quy luật tăng tính lý
tưởng của hệ kỹ thuật
 Giải pháp kỹ thuật được coi là tiến đến gần mẫu lý tưởng nếu có
một hoặc vài tính chất sau :
1. các kích thước của hệ kỹ thuật tiến gần hoặc trùng với kích
thước của chính sản phẩm mà nó phải chế tạo, xử lý hoặc vận
chuyển. Khối lượng của hệ kỹ thuật nhỏ hơn rất nhiều khối lượng
của sản phẩm.
2. khối lượng và kích thước của hệ kỹ thuật hoặc của các phần
chức năng chính tiến dần đến zero ( trong trường hợp giới hạn
bằng zero ).
3. thời gian chế tạo, xử lý sản phẩm của hệ kỹ thuật tiến tới zero
hoặc bằng zero.
4. hiệu suất của hệ kỹ thuật tiến tới một hoặc bằng một, còn chi
phí năng lượng tiến tới zero hoặc bằng zero.
5. tất cả các phần của hệ kỹ thuật luôn luôn thực hiện công việc có
ích một cách đầy đủ theo khả năng thiết kế.
Quy luật tăng tính lý
tưởng của hệ kỹ thuật
 Giải pháp kỹ thuật được coi là tiến đến gần mẫu lý tưởng nếu có
một hoặc vài tính chất sau :
6. hệ kỹ thuật làm việc trong thời gian dài vô tận mà không cần
phải sửa chữa hoặc dừng lại.
7. hệ kỹ thuật làm việc không cần có người hoặc với sự tham gia
tối thiểu của con người.
8. hệ kỹ thuật không có bất kỳ ảnh hưởng xấu nào đối với con
người và môi trường.
9. hệ có thể thực hiện nhiều chức năng.
10. giảm số lượng các chi tiết của hệ kỹ thuật dần đến zero mà
không ảnh hưởng đến chức năng của hệ.
11. giá thành sản phẩm tiến dến zero.
Quy luật tăng tính lý
tưởng của hệ kỹ thuật
Quy luật tăng tính lý tưởng của hệ kỹ thuật
đóng vai trò rất quan trọng trong tư duy sáng
tạo kỹ thuật. Quy luật này giúp nhà sáng chế
định hướng một cách khách quan suy nghĩ để
tập trung những nổ lực cần thiết về phía đúng
đắn nhất. Ở đây, hệ kỹ thuật đóng vai trò như
ngọn hải đăng dẩn đường : mọi sáng chế
không có tác dụng đưa hệ kỹ thuật về hướng
lý tưởng sẽ nhanh chóng bị “lão hoá” và bị
đào thải, thậm chí không được đưa ra áp
dụng.
Quy luật tăng tính lý
tưởng của hệ kỹ thuật

Hệ lý tưởng

Hiện tại t (0, +∝)


Quy luật về tính không đồng đều trong sự phát
triển các phần của hệ kỹ thuật
đồng đều trong sự phát
triển các phần của hệ kỹ
thuật
Các phần của hệ phát triển không đồng đều, hệ
càng phức tạp thì tính không đồng đều càng lớn.
Sự phát triển không đồng đều giữa các phần của
hệ là một trong những nguyên nhân phát sinh
mâu thuẫn trong hệ kỹ thuật – các bài toán sáng
chế mới. Giải quyết thành công các bài toán này
( khắc phục được các mâu thuẩn) là động lực thúc
đẩy các hệ kỹ thuật phát triển. Thí dụ, khi trọng
tải của các tàu thủy chở hàng bắt đầu tăng mạnh,
công suất các động cơ cũng tăng nhanh theo,
nhưng phương tiện hãm không thay đổi. Kết quả
nảy sinh bài toán : làm thế nào hãm tàu chở dầu
có trọng lượng choán nước 200,000 tấn ? bài toán
này còn chưa có lời giải hữu hiệu, từ lúc bắt đầu
hãm đến khi dừng hẵn, những con tàu lớn còn có
thể đi thêm được vài hải lý.
đồng đều trong sự phát
triển các phần của hệ kỹ
thuật

t (0, +∝)
Quy luật chuyển sang hệ trên
Quy luật chuyển sang
hệ trên
Khi đã cạn khả năng phát triển, hệ chuyển sang
hệ trên với tư cách là một phần của hệ trên, và sự
phát triển sẽ diễn ra tiếp tục ở mức hệ trên.
Thí dụm trước kia, khi trình độ phát triển thấp,
mỗi nhà đều dùng nước giếng hoặc nước sông.
Sau đó, ở mức phát triển cao hơn, cùng với sự
hình thành các khu dân cư tập trung, việc dùng
nước theo kiểu cũ dẩn đến nhiều sự bất tiện,
không lợi về mặc thời gian và kinh tế ( thử tưởng
tượng mỗi nhà trong thành phố có một hay vài
giếng nước cùng gàu, xô, máy bơm, cái lọc nước,
khử trùng ..). hệ thống cung cấp nước chung cho
cả thành phố được hình thành và sự phát triển
tiếp theo xảy ra chính ở mức hệ trên này.
Quy luật chuyển hệ kỹ thuật từ mức vĩ mô sang
mức vi mô.
Quy luật chuyển hệ kỹ
thuật từ mức vĩ mô sang
mức vi mô
 Các bộ phận làm việc của hệ lúc đầu phát triển ở mức vĩ mô,
sau đó chuyển sang phát triển ở mức vi mô.
Cho đến hiện nay, các hệ kỹ thuật có bộ phận làm việc là
các “khối vật chất” kích thước vĩ mô còn chiếm số đông :
cánh quạt máy bay, chân vịt tàu thủy, bánh xe ô tô, lưỡi dao
tiện, gầu máy xúc...các sáng chế có thể tiếp tục hoàn thiện
các “khối” vĩ mô này. Nhưng đến một lúc nào đó, giải pháp
kỹ thuật hữu hiệu chỉ có thể đạt được khi chuyển các bộ
phận làm việc sang mức vi mô, sử dụng trực tiếp các phân
tử, nguyên tử, ion, điện tử..., được điều khiển bằng các loại
trường như điện, từ, điện từ trường, nhiệt độ... cánh quạt
máy bay được thay thế bằng các dòng khí của động cơ phản
lực, xuất hiện các tàu thủy, xe chạy trên đệm không khí,
điện từ. Tia lazer là công cụ đắc lực dùng trong thông tin liên
lạc, gia công kim loại, chữa bệnh, chùm tia điện tử trong
máy thu hình vẽ trên màn hình nhanh hơn bất kỳ cây bút vẽ
thông thường nào. 
Quy luật chuyển hệ kỹ
thuật từ mức vĩ mô sang
mức vi mô

………
………
………

t (0, +∝)
Quy luật tăng tính điều khiển của hệ kỹ thuật
Quy luật tăng tính điều
khiển của hệ kỹ thuật
 Hệ kỹ thuật phát triển theo hướng tăng tính điều khiển và
tăng sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa vật chất và các trường
năng lượng có trong hệ thống.
Điều này được thực hiện bằng cách chuyển từ các trường cơ
học sang các trường điện, từ và trường điện từ, tăng tính
phân tán của vật chất và tăng số lượng các mối liên kết giữa
các yếu tố của hệ thống, tăng tính nhanh nhạy của hệ
thống.
Thí dụ, để nâng cao chất lượng đúc cần phải khuấy thép
đang nguội dần trong khuôn. Đến thời gian gần đây,người ta
còn cố gắng làm điều đó bằng cách xử dụng các máy khuấy
cơ học, máy rung. Hiện nay,người ta chuyển sang dùng
khuấy điện từ trong công nghệ đúc thép để khuôn liên tục.
Máy bay cũng ngày càng trở nên linh động hơn : tùy theo
chế độ bay mà máy bay có thể thay đổi dạng hình học của
cánh, thân và hướng động cơ. Người ta cũng tạo điều kiện
tối ưu cho các quá trình công nghệ như thành lập những
phân xưởng đặ biệt xử lý các vật liệu bị ôxy hoá mạnh, ở đó
không khí được thay bằng khí trơ.
Quy luật tăng tính điều
khiển của hệ kỹ thuật
 Hệ kỹ thuật phát triển theo hướng tăng tính điều khiển và
tăng sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa vật chất và các trường
năng lượng có trong hệ thống.
Điều này được thực hiện bằng cách chuyển từ các trường cơ
học sang các trường điện, từ và trường điện từ, tăng tính
phân tán của vật chất và tăng số lượng các mối liên kết giữa
các yếu tố của hệ thống, tăng tính nhanh nhạy của hệ
thống.
Thí dụ, để nâng cao chất lượng đúc cần phải khuấy thép
đang nguội dần trong khuôn. Đến thời gian gần đây,người ta
còn cố gắng làm điều đó bằng cách xử dụng các máy khuấy
cơ học, máy rung. Hiện nay,người ta chuyển sang dùng
khuấy điện từ trong công nghệ đúc thép để khuôn liên tục.
Máy bay cũng ngày càng trở nên linh động hơn : tùy theo
chế độ bay mà máy bay có thể thay đổi dạng hình học của
cánh, thân và hướng động cơ. Người ta cũng tạo điều kiện
tối ưu cho các quá trình công nghệ như thành lập những
phân xưởng đặ biệt xử lý các vật liệu bị ôxy hoá mạnh, ở đó
không khí được thay bằng khí trơ.

You might also like