Professional Documents
Culture Documents
Cách đây ít lâu, chúng tôi có viết bài đặt vấn đề về việc “Giáo Hội Công Giáo cần được
mở trường học”, đăng trên Vietcatholic.org, conggiaovietnam.net, chuacuuthe.com và được
trích đăng lại trên nhiều trang web khác. Ở đó chúng tôi đã cố gắng nêu lên tính cấp bách trong
việc Giáo Hội đứng ra điều hành và tổ chức giáo dục. Nhưng có những điều khác cũng cần phải
quan tâm để khi bắt tay vào việc, cả nhà giáo dục lẫn học sinh và cả xã hội cũng không thất
vọng.
1. Nhân sự.
Chúng ta hiểu hơn “người thế gian” về vấn đề con người. Học thuyết Xã Hội của Giáo
Hội Công Giáo đã xác quyết con người là nhân vị cao cả. Do đó để phục vụ con người chúng ta
cần nhắc đến yếu tố người phục vụ đầu tiên. Mới đây, một nhóm anh em (trong đó có một giáo
viên thuộc dòng Lasan), mượn danh nghĩa dòng Lasan để mở trung tâm ngoại ngữ “mini” có
tính thử nghiệm. Lúc đầu thì họ dùng câu nói của thánh Lasan “giáo viên phải quan tâm đến
từng học viên” để chọn những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm. Nhưng họ bị vấp ngay tức khắc.
Các trung tâm khác thường tuyển giáo viên bình thường để trả thù lao thấp bù lại chi phí. Trung
tâm mới này cũng đang lo sẽ phải đi vào con đường ấy. Lại có một chuyện bất ngờ. Trung tâm
này thuê phòng của một giáo xứ. Cha phó xứ này giảng trong thánh lễ không được “hấp dẫn”,
do không soạn bài hay vì lý do này khác mà lại giảng sai nhiều điều. Thêm một ông cha phụ tá
khác hơi “nhiều chuyện” và hách dịch. Một giáo viên của trung tâm này góp ý. Thế là hai cha
phó ấy bắt trung tâm cho anh giáo viên ấy nghỉ dạy, dù hai cha phó này không có chuyên môn
cũng chẳng có quyền gì trên trung tâm ấy. Ông cha xứ nghe đâu cũng dạng quốc doanh nên
không dám nói gì. Và dĩ nhiên cũng vì thói quen “cúi đầu giữ chỗ” nên các anh từ đầu có thiện
chí đã phải để cho thiện chí cúi đầu! Họ chấp nhận những điều ấy như chuyện thường tình, và
những người có tâm huyết thấy rằng trung tâm này cũng chỉ là chỗ làm ăn. Ngay từ đầu, một
trung tâm đang cố gắng mang danh Công giáo đã hành xử y như các trường mà ta thường lên
tiếng phê phán, chỉ vì phải chiều theo một vài linh mục chưa ý thức sống sứ mạng mục tử của
mình. Và do vậy, giáo viên cũng như học viên thấy nghi ngờ tính minh bạch của công việc giáo
dục ở đó.
2. Học phí.
Chúng ta cho rằng giáo dục Công giáo thì phải ưu tiên cho người nghèo. Nhưng vấn đề
tiền bạc không đơn giản là chuyện ra sao cũng được. Khi mở trường , người ta nghĩ rằng “giáo
dục là ưu tiên”. Nhưng rồi chi phí phát sinh. Người làm giáo dục thấy “thêm chút học phí thì
dân thành phố cũng chịu được”, thế là học phí lại thành chuyện muôn thuở của giáo dục Việt
nam. Một nhóm anh em nọ mở lớp dạy ngoài giờ, qui tụ giáo viên có đạo để chung một chí
hướng. Chỉ sau ít ngày thôi, mọi người nhận ra rằng học phí cũng chẳng thấp hơn các nhóm
khác. Hoặc các nhà trẻ đang hoạt động cũng có vấn đề về học phí, về thứ tự ưu tiên… Dĩ nhiên
là có nhiều lý do để biện minh: trang trải chi phí, để bù lại cho trường hợp có học viên không
học tiếp tháng sau (lý do này xem ra có vẻ bi hài nhất), để thế này thế nọ vân vân. Tất cả những
điều chúng ta làm đều có thể biện minh, nhưng có một điều không bao giờ xã hội chấp nhận:
lấy lý do nhân đạo để làm kinh doanh. Khi chạm đến đồng tiền, nhiều giá trị phải thay đổi, và
đó là điều mà người làm giáo dục Công giáo, kể cả các tu sĩ, phải đặc biệt cảnh tỉnh.
3. Phương pháp giáo dục.
Người ta vẫn than thở là chương trình học ở Việt nam nặng nề, học nhiều mà chẳng có
bao nhiêu kiến thức, học thêm dạy thêm tràn lan… Nếu Giáo Hội Công giáo được mở trường
lớp, chúng ta phải chấp nhận nhiều thực tế không đúng ý mình, ít là lúc ban đầu. Giáo viên ở
đâu ra? Là các giáo viên đang dạy ở các trường nhà nước (rõ ràng cho đến bây giờ Giáo Hội
Việt nam chưa có chương trình đào tạo riêng cho giáo viên Công giáo). Là các giáo viên đang
dạy ở các trường, dù tốt đến mấy, nhiều ít họ cũng chịu ảnh hưởng trong phong cách làm việc, ý
tưởng về mô hình giáo dục, quen với cách học sinh gian lận v.v… Ngay cả trong một số chủng
viện, tu viện, việc quay cóp bài vở (mà chúng tôi gọi là gian xảo trong các bài làm), đã là tiếng
báo động. Nhìn lại ảnh hưởng giáo dục trên xã hội, các nhà giáo có nhiều thao thức không thể
ngồi yên. Nhưng họ sẽ làm được gì khi ngay bây giờ chưa có hướng đi nào rõ nét. Cha Lê
Quang Uy DCCT vẫn nói đại ý phải làm ngay, phải sống tốt, sống khác, sống đẹp, không thể cứ
theo lối sống thế gian. Nhưng ai sẽ thổi ý tưởng ấy bùng lên?
2. Lòng hy sinh.
Đức Kytô, với tư cách một nhà giáo dục, đã không ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào,
để dạy cho dân những chân lý của muôn đời. Ngài không những dạy bảo mà còn cảm hoá, bằng
chính lòng nhân từ và tình yêu của Ngài, biểu lộ qua lòng hy sinh chấp nhận tất cả để đến với
những học trò nghèo, bình dân. Là môn đệ Đức Kytô, các nhà giáo dục Công giáo cũng phải đi
con đường ấy. Hy sinh thì giờ, công sức đã vậy, mà sự hy sinh về đời sống vật chất cũng là cách
thế hữu hiệu để giáo dục. Không thiếu những nhà giáo Công giáo vẫn hăm hở chờ nhận quà
ngày 20/11, không thiếu những nhà giáo nhiệt thành giảng dạy nhưng vẫn đòi sự đền bồi cân
xứng. Tất cả những điều ấy không sai xét về mặt nào đó, nhưng quả thật là những chướng ngại
không nhỏ trên con đường giáo huấn.
3. Phải có một học thuyết.
Bất cứ một chương trình hành động nào cũng cần được hướng dẫn bởi một lý thuyết phù
hợp, phù hợp với tôn chỉ, với mục tiêu, với con người và xã hội mà những người hành động
nhắm tới. Người Công giáo được soi sáng và thúc đẩy bởi Tin Mừng, trong đó tất cả nguyên tắc
được Đức Kytô, vị Thầy mẫu mực đã rọi soi đến từng ngóc ngách của cuộc đời đa dạng và
phong phú này. Nhưng các học thuyết, Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo và các văn
kiện của Toà Thánh về giáo dục là minh hoạ và chi tiết hoá lời giảng của Đức Kytô trong từng
môi trường làm việc cụ thể. Các giáo chức Công giáo đang nhắm tới việc kiện toàn nền giáo
dục không thể làm ngơ trước các học thuyết này. Và chúng con tha thiết mong các vị hữu trách
trong Giáo Hội quan tâm đặc biệt để phong trào học và sống các học thuyết của Giáo Hội trở
thành việc huấn luyện thường xuyên cho những người quan tâm đến công cuộc giáo dục trong
Giáo Hội.