Professional Documents
Culture Documents
4.Giải pháp thu hút và thúc đầy sinh viên tích cực học tâp
4.Giải pháp thu hút và thúc đầy sinh viên tích cực học tâp
Kết quả từ một nghiên cứu gần đây của PGS.TS.Nguyễn Công Khanh,
Trường đại học sư phạm Hà Nội, cho thấy có một tỉ lệ cao sinh viên (54,5%) không
hứng thú trong các bài giảng. Có lẽ đây cũng chỉ là một phát hiện mới (bằng con số)
về một điều mà chúng ta đã biết rất rõ từ lâu nay rồi. Nói cách khác là chất lượng
giáo dục đại học hiện nay ở nước ta đang gặp nhiều vấn đề mà đó chỉ là một biểu
hiện như phần nổi của cả tảng băng chìm.
Vấn đề đặt ra là vậy thì đâu là nguyên nhân chán học của sinh viên. Trong số các
nguyên nhân khác nhau chắc chắn có việc sinh viên chưa xác định được đúng đắn các
mục tiêu làm động cơ tự thân cho việc học của mình. Mặt khác, nội dung và phương pháp
đào tạo đại học của chúng ta cũng chưa phù hợp. Hơn nữa, mỗi giáo
viên cũng chưa thực sự trang bị được cho mình những kỹ năng cần thiết để lôi cuốn sinh
viên học tập. Chính vì thế mà chúng ta vẫn chưa thu hút được sinh viên nhiệt tình học tập
nhằm tạo ra hiệu qu ả tốt hơn cho quá trình đào tạo. Do vậy, trong những việc phải làm để
thu hút sinh viên tích cực thì trước hết phải giúp họ xác định được học tập là mục tiêu tự
thân, đồng thời giáo viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy và trau dồi những kỹ năng
sư phạm cần thiết.
Đối lập với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống nói trên cũng đã từng có cách tiếp
cận ngược lại mà người ta vẫn gọi là cách tiếp cận nhân văn. Đây cách tiếp cận quan tâm
đến từng cá nhân ng ười học. Kiểu tiếp cận mục tiêu loại này khá phổ biến ở Mỹ và các
nước phương Tây trong thập niên 1970-1980. Cách tiếp cận này thường làm cho người
học “thích” hơn những dễ dàng để cho người học trở nên quá tự do và "buông thả" mà
không đạt được mục tiêu giáo d ục như là một hệ thống các chuẩn mực xã hội được xác
định đối với nhân cách một loại đối tượng giáo dục. Điều này cũng giống như cho thực
khách, nhất là người Việt Nam ta, vào một nhà hàng ăn tự chọn: chúng ta có thể rất thích
ăn và ăn tuỳ thích, nhưng rất có thể ta không biết nên chọn những món nào để ăn, ăn bao
nhiêu và ăn như thế nào để đáp ứng vừa đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cơ thể và phù hợp
với văn hoá ẩm thực nếu không được hướng dẫn và không có quá trình làm quen. Chính
vì thế, để khắc phục những nhược điểm của cả hai cách tiếp cận giáo dục nói trên, hiện
nay các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hướng tới một cách tiếp cận hiện đại kết hợp
giữa truyền thống và nhân văn. Quan niệm về việc học hiện đại bên cạnh việc nhấn mạnh
việc học có hướng dẫn cũng đề cao việc tự học, tự định hướng và sự tự chịu trách nhiệm
cho việc học của mình (Obanya và CS, 2003).
Trong bối cảnh của thời kỳ mới và trong giai đoạn mới của sự phát triển giáo dục
đại học, người ta nêu ra 3 tiêu chí quan trọng để đổi mới phương pháp dạy và học như
sau:
- Tiêu chí bao quát hàng đầu của việc dạy và học là dạy cách học;
- Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học;
- Công cụ cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin.
Bài viết này không đề cập sâu đến toàn bộ các tiêu chí này mà chỉ thảo luận giải
pháp để thúc đẩy và thu hút sinh viên học tập tích cực (active learning). Về
mặt này, người phương Tây đã tiên phong trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
Chính họ đã vận dụng thành công trên thực tế một nguyên lý giáo dục của người phương
Đông cổ (Khổng Tử, 451 BC) là “Những gì tôi nghe, tôi sẽ quên; Những gì tôi thấy, tôi
sẽ nhớ; Những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu”. Để học tốt một điều gì đó người học không chỉ
cần nghe thấy, mà phải được nhìn thấy và tốt hơn nữa là trực tiếp làm điều đó trong một
quá trình. Phương pháp giảng dạy phải làm sao sử dụng được càng nhiều giác quan của
người học tham gia vào quá trình học thì càng tốt. Việc học không phải là một môn thể
thao nghe nhìn. Sinh viên không thể học được nhiều nếu chỉ ngồi trong lớp nghe giảng,
làm bài tập cho và trả lời câu hỏi. Phải để cho người học được nói về những gì đang học,
viết về nó, liên hệ với kinh nghiệm thực tiễn và
ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày. Nhiều kỹ thuật rất đơn giản nhưng nó có thể tạo ra sự
khác biệt rất lớn trong quá trình học tập của học viên. Để tập trung chú ý của học viên
vào nội dung bài giảng, người dạy không cần phải nói liên tục mà phải biết cách làm cho
người học tham gia tích cực vào quá trình học tập của bản thân. Đối với giáo dục
chuyên nghiệp thì việc thực tập, thực hành, rèn nghề và thực tập sản xuất (thực địa) cho
sinh viên là hết sức cần thiết, tăng cường cơ hội cho họ “làm” để hiểu được vấn đề và
phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Người học phải biến những gì học được thành một phần
của chính bản thân mình.
Để tạo hứng thú và phát huy mạnh mẽ tính chủ động của người học, việc đổi mới
phương pháp giảng dạy ở nước ta hiện nay cần đi vào các hướng sau đây:
- Tổ chức tốt bài giảng và cách giảng bài
Thực ra thì cho đến nay giảng bài vẫn thịnh hành như một phương pháp để phổ biến kiến
thức cho học sinh, sinh viên. Nó đã tỏ ra là một công cụ không dễ bỏ qua. Giảng giải là
phương pháp tốt nhất để truyền đạt các kiến thức chung và thông tin, nhất là trong điều
kiện lớp đông như ở nước ta hiện nay. Vấn đề là phải cải tiến phương pháp này để lôi
cuốn được sự chú ý hơn của người học. Dù nội dung có như thế nào thì một bài giảng tốt
đều phải được bố cục tốt và giảng giải một cách rõ ràng. Để các học viên dễ tiếp thu thì
giảng viên phải phác thảo, định rõ, nhắc lại những khái niệm quan trọng nhất, có minh
hoạ phù hợp và tóm t ắt ngắn gọn. Kỹ năng trình bày là rất quan trọng và giảng viên phải
luôn nhớ hướng sự chú ý của học viên vào nội dung bài chứ không phải vào người giảng.
Chẳng hạn, giảng viên nên đưa ra một vấn đề trước khi giảng để định hướng học viên vào
những thông tin nhất định. Khi bài giảng được kết cấu tương ứng với vấn đề đặt ra, học
viên nghe có định hướng sẽ tiếp thu thông tin được chủ động hơn. Khi giảng viên tập
trung chú ý đến học viên và làm sáng tỏ nội dung bài cho họ, làm cho các ý liên quan đến
các tình huống cụ thể, giúp họ ghi nhớ thì học viên sẽ hứng thú hơn và học được nhiều
hơn. Muốn vậy, giảng viên phải có kiến thức sâu rộng và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Đó là cơ sở của thành ngữ “giáo già con hát trẻ”.
- Tăng cường đặt câu hỏi và khuyến khích người học đưa ra câu hỏi Giảng viên có thể
tạo sự tham gia tích cực của học viên bằng cách đưa ra nhiều câu hỏi và khuyến khích họ
đặt câu hỏi. Câu hỏi là phần cốt lõi của một quá trình học. Giáo viên yêu cầu các học viên
đặt câu hỏi, chú ý lắng nghe và đưa chúng vào những lần dạy sau
để khuyến khích các học viên đặt câu hỏi. Đồng thời, giáo viên cũng phải thường xuyên
đặt câu hỏi để buộc mỗi học viên phải tích cực suy nghĩ tìm ý trả lời. Nếu giáo viên biết
lắng nghe các ý kiến trả lời của học viên, có đánh giá kết quả học tập thông qua hỏi và trả
lời câu hỏi trên lớp thì người học sẽ có thêm “động cơ” để học tập tích cực hơn trong quá
trình học trên lớp.
Trong khi giảng bài giảng viên nên áp dụng phương pháp “động não” để kích thích học
viên suy nghĩ bằng cách đưa ra một chủ đề hoặc một vấn đề để các học viên đưa ra đề
nghị hoặc gợi ý. Người học được ghi nhận nhưng không đánh giá. Bằng cách đó giảng
viên có thể làm cho học viên cảm thấy mình có liên quan đến bài giảng và thông qua đo
có thể biết được năng lực của mỗi người học.
Học viên có thể hỏi giáo viên hoặc ngược lại để tóm tắt kiến thức, làm rõ vấn đề hoặc
minh hoạ việc áp dụng kiến thức. Việc hỏi này có thể diễn ra trước, trong hoặc sau bài
giảng tùy thuộc vào việc học viên có quen thuộc chủ đề hay không. Việc hỏi cũng có thể
được tiến hành riêng rẽ và coi như là cơ hội để thầy trò chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm
và để đề ra những kế hoạch áp dụng kiến thức vào thực tế.
- Dùng những phương tiện để hỗ trợ trực quan
Dùng những hình minh hoạ trực quan để làm cho bài giảng bớt trừu tượng và sau thời
gian nói liên tục phải có giờ giải lao. Để học được một vấn đề, nhiều người đòi hỏi phải
được nhìn tận mắt ngay cả khi vừa được nghe về nó. Do vậy, giáo viên nên sử dụng các
phương tiện như: biểu đồ, đồ thị, bảng, máy chiếu, băng video để hỗ trợ giảng dạy. Tuy
nhiên, nếu dùng các phương tiện nghe nhìn chỉ để thay phấn viết bảng thôi thì hậu quả sẽ
tiêu cực bởi vì thực chất đó vẫn là phương pháp thuyết trình một chiều. Mục đích việc
dùng các phương tiện nghe nhìn là làm cho bài giảng sinh động hơn, tiết kiệm thời gian
viết bảng để giành thời gian cho giảng viên giải thích, cho sinh viên đặt câu hỏi và thảo
luận.
- Chuẩn bị các tài liệu bổ sung
Trước khi giảng bài, nhất là khi giảng viên sử dụng bài giảng PowerPoint, nên phân
phát đề cương bài giảng/handout cho sinh viên. Các tài liệu này giúp người học dễ theo
dõi những ý chính, tóm tắt nội dung, phát triển các ý và áp dụng chúng. Ngoài ra giảng
viên có thể phát hay giới thiệu nguồn tài liêu đọc thêm liên quan để sinh viên có thể
nghiên cứu sâu hơn về vấn đề đã được giảng trên lớp.
- Khuyến khích học tập theo nhóm và tăng cường thảo luận
Khi cho sinh viên học tập theo nhóm kết quả thường tốt hơn là học một mình. Học
tập, cũng như làm việc, nếu có tính tương hỗ và xã hội sẽ tốt hơn là cạnh tranh và biệt
lập. Làm việc cùng với những người khác sẽ hứng thú hơn và tăng thêm cơ hội học tập
được lẫn nhau. Chia sẽ ý tưởng của nhau và phản ứng trước hành động của người khác sẽ
làm cho suy nghĩ sắc bén hơn và hiểu biết được sâu sắc hơn.
Thảo luận là trao đổi trực tiếp giữa các học viên để đạt được một mục đích học tập cụ thể.
Nó có thể là trao đổi thân mật, không hình thức hoặc được tổ chức với mục tiêu và nhiệm
vụ nhất định, thời gian được giới hạn, lịch trình chuẩn bị trước và có thể có hoặc không
có người chủ trì.
Giáo viên có thể bắt đầu bài học bằng một cuộc thảo luận để lấy ý kiến và quan điểm của
học viên, cũng có thể xen giữa bằng một cuộc thảo luận để làm sáng tỏ một vấn đề hoặc
để tóm tắt củng cố nội dung, cũng có thể tổ chức buổi thảo luận vào cuối buổi học vì tất
cả những mục đích kể trên.
Giáo viên có thể bắt đầu cuộc thảo luận bằng cách đa ra một lời phát biểu, một câu hỏi
hoặc một vấn đề, cũng có thể dùng các đoạn phim minh hoạ hoặc bài tập. Các phương
pháp khác có thể tạo ra cấu trúc của một cuộc thảo luận hữu ích. Các buổi thảo luận có
thể là một nhóm nhỏ từ 4-6 người hoặc nhóm những tổ thảo luận với nhau hoặc một
nhóm từ 6-10 người thảo luận về một vấn đề trong khi những người còn lại ngồi nghe.
Nếu như lớp học có kế hoạch đi thực địa/thực tập giáo trình thì để cho sinh viên tự
thảo luận lập kế hoạch và đảm nhiệm một phần hay toàn bộ mọi sự sắp xếp cho chuyến
đi.Tạo cơ hội cho những sinh viên làm cán bộ hòa nhập trong lớp. Dùng các kỹ năng lãnh
đạo của những sinh viên đó để cải thiện hoạt động của các sinh viên khác.
- Minh hoạ bài giảng bằng các ví dụ, tình huống hoặc sự việc cụ thể
Thay vì tập trung cung cấp khái niệm, kiến thức (yêu cầu học thuộc), giảng viên cần
lấy ví dụ giải thích/minh hoạ khái niệm. Sử dụng các ví dụ quen thuộc để minh hoạ về
các quy tắc, nguyên lý, định nghĩa, học thuyết để sinh viên có thể hiểu được. Giáo viên
cần đặt ra cho người học những tình huống cần phải giải quyết nhằm giúp học viên áp
dụng lý thuyết và kiến thức học được để ra quyết định. Giáo viên phân tích tình huống
đặt ra để học viên biết cách áp dụng những gì đã học vào cuộc sống của người học sau
này.
Phương pháp dạy và học tích cực hiện nay thường được áp dụng có việc dạy học
qua dự án, dạy học nêu vấn đề, học thông qua hành động, học qua trải nghiệm (nêu ý
tưởng, nhiệm vụ, hướng dẫn chọn lựa các khái niệm, các phương pháp, công cụ đánh
giá... tìm cách đặt ra cho SV các nhiệm vụ phải giải quyết để chúng suy nghĩ, tìm lý
thuyết, phương pháp phù hợp... học sinh tích cực tìm kiếm thông tin, tự trải nghiệm... và
học các kỹ năng đánh giá cách suy nghĩ của bản thân).
- Phản hồi nhanh chóng với sinh viên
Sinh viên cần biết về những gì có thể thu được từ khoá học. Lúc bắt đầu học sinh viên
cần được giúp đỡ trong việc đánh giá kiến thức và năng lực hiện có. Trong lớp sinh viên
cần có cơ hội thường xuyên để thể hiện và nhận được những gợi ý bổ ích cho việc học
được tốt hơn. Trong quá trình học và cuối khoá sinh viên cần có cơ hội để bộc lộ những
gì họ đã học được, biết những gì họ cần phải làm để tiếp tục học tốt hơn. Do vậy sự đánh
giá và phản hồi kịp thời của giáo viên đối với người học có tác dụng rất lớn đối với việc
chủ động học tập của sinh viên.
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian học tập
Học tập là bằng thời gian cộng với công sức. Không gì thay thế được thời gian trong học
tập. Học cách sử dụng tốt thời gian có ý nghĩa quyết định đối với sinh viên cũng như
các nhà chuyên môn. Sinh viên cần được giúp đỡ để biết quý thời gian và biết cách sử
dụng thời gian học tập một cách có hiệu quả nhất. Phân bổ thời gian tốt có nghĩa là học
có hiệu quả đối với sinh viên và dạy có hiệu quả đối với giáo viên.
- Đặt kỳ vọng cao cho sinh viên
Có kỳ vọng cao trong cuộc sống và học tập là hết sức cần thiết cho mọi người. Thường
thì khi giáo viên đặt kỳ vọng cao cho sinh viên thì họ sẽ phải tích cực phấn đấu học tập
hơn. Nếu giáo viên quá dễ dãi, học ít thi vẫn đỗ, thậm chí đạt được điểm cao, thì sinh
viên sẽ không “chịu” học. Do vậy, kỳ vọng sinh viên phải nổ lực học tập là một giải pháp
mang tính cưỡng bức cần thiết để thúc đẩy sinh viên chủ động học tập nhằm đạt được kết
quả cao.
- Tôn trọng tài năng và phương pháp học đa dạng của sinh viên
Có nhiều cách thức học tập khác nhau. Sinh viên mang đến trường với những năng lực và
kiểu học tập rất khác nhau. Nhưng sinh viên xuất sắc trong phòng seminar có thể lại rất
vụng về trong phòng thí nghiệm hay trong một studio nghệ thuật. Nhưng sinh viên thực
hành tốt chưa chắc đã học tốt về lý thuyết. Do vậy mỗi sinh viên cần có cơ hội để thể
hiện tài năng riêng của họ và được học theo cách hữu hiệu nhất với mỗi người. Sau đó họ
có thể buộc phải học theo cách mới mà họ chưa quen. Chẳng hạn, mỗi học viên đều có
phương pháp ghi chép riêng riêng nhưng dù sao giáo viên cũng nên hướng dẫn về các vấn
đề như:
thông tin có trong sách hay trong tài liệu có được phát không? Có cần thiết phải ghi quá
chi tiết không? Các con số và sự kiện cụ thể có quan trọng không? Liệu trong bài kiểm
tra có hỏi về chúng không?
- Ra nhiều bài tập và tiểu luận
Trước, trong và sau bài giảng, giáo viên phải yêu cầu học viên viết để trình bày các câu
hỏi, ý kiến, quan điểm hoặc làm các bài tập vận dụng. Các bài tập này sẽ giúp người học
phải tự đào sâu tìm hiểu rõ kiến thức lý thuyết, nhận biết được các tiêu chuẩn, niềm tin,
quan điểm thái độ, xem xét mối quan hệ giữa lý thuyết và thực hành, sau đó chia sẻ các
tiêu chuẩn đó với người khác. Phần lớn các hoạt động này cần sự tin tưởng thực sự, sự
thường xuyên trao đổi giữa các thành viên trong nhóm. Các bài viết có thể được giữ kín,
được dùng trong nhóm hoặc đưa cho người dạy. Mục đích của việc này là làm cho học
viên sáng tỏ thêm nội dung và chương trình của mình. Việc giao cho sinh viên viết các
bài tiểu luận theo chủ đề có tác dụng rất tốt không chỉ để họ nắm được các thông tin liên
quan đến chủ đề đó mà rèn luyện họ rất tốt về cách khai thác tài liệu và cách viết tài liệu
khoa học. Việc này đòi hỏi hệ thống thư viện của nhà trường cần phải được nâng cấp để
có đủ nguồn tài liệu và tiện lợi cho sinh viên tra cứu. Hiện nay nhìn chung kỹ năng viết
của sinh viên đại học và thậm chí cả cao học và nghiên cứu sinh của chúng ta rất yếu.
Nguyên nhân chính có lẽ là do không được chú trọng luyện về vấn đề này và không được
thực hành thường xuyên thông qua việc viết các tiểu luận chuyên đề.
- Tăng cường các bài kiểm tra
Các câu hỏi ngắn trên lớp giúp học viên đánh giá được sự tiếp thu và ghi nhớ của họ
hoặc để ôn lại kiến thức trước khi sang một bài mới. Các bài kiểm tra giữa kỳ giúp đánh
giá tiến độ học tập của sinh viên và cho sinh biết phải làm gì để có kết quả học tập tốt
hơn. Các bài kiểm tra này nên được tính vào điểm xếp loại cuối kỳ và có thể báo trước
hoặc không báo trước. Nếu có các bài kiểm tra “tiến độ” thì sinh viên sẽ phải tích cực học
tập hơn, đặc biết là tự học “ở nhà” để đối phó với việc kiểm tra đó. Dù là học đối phó và
có thể sinh viên không được “hứng thú” thì kết quả cuối cùng vẫn là tích cực hơn.
- Phối hợp giảng dạy
Một môn học được nhiều người cùng tham gia giảng dạy sẽ làm cho việc giảng dạy đỡ
đơn điệu hơn. Hơn nữa, khi mỗi giáo viên được phân công chịu trách nhiệm một vài
chương hay chuyên đề của môn học thì sẽ có điều kiện đầu tư chuẩn bị cho bài giảng
được tốt hơn, chất lượng giảng dạy sẽ cao hơn, học sinh sẽ thu được nhiều kiến thức cập
nhật hơn và do vậy sẽ thích học hơn.
Kết luận
Để có động cơ tích cực học tập, người học phải tự ý thức được hoặc cần được giúp đỡ để
nhận thức được rằng học trước hết là cho bản thân mình và chính mình là người phải biết
cách biến kiến thức chưa khai phá thành tài sản riêng. Ngược lại, việc dạy cần hướng vào
phát triển cá nhân sao cho cá nhân đó thấy hứng thú học tập vì biết rằng mình có thể áp
dụng những kiến thức thu được ở trường học vào công việc ngoài đời và trong suốt cả
cuộc đời của họ. Đồng thời, quá trình đào tạo đại học phải giúp sinh viên biết rèn luyện
việc tự học và duy trì việc học suốt đời, chứ không chỉ dừng lại sau khi tốt nghiệp đại học
hoặc chỉ học khi đến trường học. Muốn vậy, phương pháp giảng dạy phải hướng tới trang
bị cho người học cách học để họ có thể cập nhật kiến thức thường xuyên và liên tục. Đổi
mới phương pháp giảng dạy là nhằm phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học.
Hơn nữa, để dạy và học có hiệu quả cao thì việc khai thác triệt để công nghệ thông tin
truyền thông trong quá trình dạy và học là hết sức cần thiết trong thời đại ngày nay. Đó là
những vấn đề mang tính phổ quát cho giáo dục đại học nói chung. Riêng đối với các
ngành trong khối nông-lâm-ngư nghiệp, vấn đề sinh viên xuất thân từ nông thôn và kiến
thức bản địa trong chuyên môn cần phải được coi là những nét đặc thù trong quá trình đổi
mới phương pháp giảng dạy hiện nay.
Để đáp ứng được những đòi hỏi như đã nếu trên, người giáo viên cần phải có tâm huyết,
giành rất nhiều thời gian và công sức để nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới
phương pháp giảng dạy. Đối với các nước phát triển, nơi có điều kiện vật chất tốt cho
giáo viên làm việc, có cơ chế để thu hút giáo viên đại học yên tâm tận tuỵ với công việc
chuyên môn thì việc thực hiện các giải pháp như nêu trên là hoàn toàn khả thi. Trong điều
kiện nước ta, với điều kiện vật chất còn nhiều khó khăn, mức lương cho giáo viên còn rất
thấp, nhất là tỷ lệ sinh viên/giáo viên quá cao, nhiều thầy cô phải dạy quá nhiều lớp,
nhiều tiết thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng trên không phải dễ dàng.
Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp vĩ mô đúng đắn. Tuy nhiên, một khi người thầy
thật sự tâm huyết với nghề nghiệp và nhà trường có trách nhiệm cao đối với sự tiến bộ
của xã hội thì chắc chắn sẽ tìm được cách để vượt qua được các trở ngại. Bằng chứng là
trong những năm tháng chiến tranh, trong hoàn cảnh nền kinh tế, xã hội của đất nước
còn gặp muôn vàn gian khó nhưng chúng ta vẫn có những thế hệ người thầy rất nổi tiếng
và đào tạo cho đất nước rất nhiều chuyên gia giỏi.