Professional Documents
Culture Documents
Phan Bá Lương
Bài viết này bắt đầu bằng một lần tình cờ, tôi lần giở một số trang của cuốn Biên niên lịch sử cổ trung đại
Việt Nam, và tôi đọc được “Năm Đinh mùi 187, Hán Linh đế cử Lý Tiến, người quận Giao Chỉ làm Thứ sử
Giao Chỉ…Lý Tiến làm Thứ sử đến năm 200” hay “Năm Giáp thìn 284, nhà buôn nước Đại Tần (tức Đông
La Mã, ở phương tây) tới Giao Chỉ mua ba vạn tờ giấy “mật hương” là loại giấy viết cực tốt của Giao Chỉ để
đưa sang Tấn”. Chỉ cần đọc hai đoạn văn trên, tự thấy còn nhiều điều của lịch sử dân tộc mà mình chưa biết
được và ý nghĩ viết, hay chính xác hơn là tập hợp, lại các sự kiện lịch sử hình thành.
Và ba cuốn sách chính được xác định là Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt ĐVSKToàn Thư) do Lê Văn Hưu,
Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên… soạn thảo (1272 – 1697), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch, Nxb
KHXH 1993, chuyển sang bản điện tử 2001 bởi Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty,
Nguyễn Quang Trung; Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Khâm Định VSTGCM) của Quốc sử
quán triều Nguyễn, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục 1998, chuyển sang bản điện tử 2001 bởi Lê Bắc, Công
Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Thanh Quyên; Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam: từ đầu đến giữa thế kỷ
XIX(Biên Niên LSCTĐVN) của Viện Sử học, Nxb KHXH 1987. Ngoài ba cuốn sách trên tôi còn tham khảo
nhiều bài viết trên các trang web với mục đích bổ sung, nhất là bổ sung thân thế các nhân vật lịch sử, không
phải là mục đích chính của bài này nên tôi không ghi xuất xứ, vì vậy xin các tác giả bài viết thông cảm cho
và xin nhận lời cám ơn chân thành của tôi.
Các chú thích ở bên dưới mỗi trang, chủ yếu tôi lấy từ ba cuốn sách nêu trên, cũng như từ các trang web, do
đó tôi cũng không ghi xuất xứ. Còn đối với những chú thích của riêng tôi sẽ được ghi bằng nét chữ
nghiêng.Thoạt đầu, tôi dự định tập hợp những sự kiện tương tự như là “kỷ lục”, “lần đầu tiên” … nhưng sau
phải từ bỏ vì không thể kiểm chứng được. Chuyển dự định sang “những sự kiện mới ít người biết” nhưng rồi
cũng phải bỏ vì có những sự kiện đối với tôi là mới nhưng với những người khác là cũ và ngược lại, còn ít
người biết thì không chắc chắn. Cuối cùng, tôi trở lại điểm xuất phát là cứ ghi nhận các sự kiện, cũng là cách
để ôn lại những sự kiện lịch sử Việt Nam, dù trước đây đã biết ít nhiều. Và bài tập hợp càng lúc càng kéo dài
thêm trang với ý định này.
2 Chuyện lạ trong sử Việt
Cuối cùng, nếu bạn là người đọc được bài tập hợp này, thì xin hiểu rằng những phần mục trong bài tập hợp
này, do chính tôi ghi lại theo ý của riêng mình, trong đó có thể có cái bạn đồng thuận, có cái chưa đồng
thuận, hoặc bạn cho rằng còn thiếu nhiều, thì xin bổ sung bằng một bài viết khác để chúng ta cùng hiểu thêm
về lịch sử Việt Nam. Xin thành thật cám ơn.
Đại Việt (1054 – 1804) là quốc hiệu từ thời nhà Lý, tồn tại không liên tục, trải qua các vương
triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh).
Đại Ngu (1400 – 1407) là quốc hiệu thời nhà Hồkhi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ thất bại
và nhà Hậu Lê giành lại độc lập, quốc hiệu trở lại thành Đại Việt ([6]).
Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận
quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”.
Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia Nam Việt thời nhà Triệu, bao gồm cả Quảng
Đông và Quảng Tây của Trung Hoa, vì vậynhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam
để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804 ([7]).
Đại Nam: Năm 1820, lợi dụng nhà Thanh suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc
hiệu mới Đại Nam vào ngày 15/2/1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
*Công chúa tổ nghề dệt lụa:
Truyền thuyết kể rằng công chúa Thiều Hoa là người hiền lành xinh đẹp, lại có biệt tài nói chuyện với chim
và bướm. Một lần nói chuyện với bướm nâu, biết bướm nâu chỉ ăn một thứ lá dâu để đẻ ra trứng rồi nở
thành sâu, nhả ra sợi vàng. Bướm đưa Thiều Hoa ra bãi dâu ven sông thấy hàng ngàn con sâu đang làm kén.
Thiều Hoa xin bướm giống trứng và sâu ấy cũng như hỏi bướm cách kéo tơ rồi tìm cách đan chúng thành
những mảnh nõn nà vàng tươi và đặt tên cho những tấm ấy là lụa. Sau đó Thiều Hoa đem truyền dạy cho
mọi người trồng dâu, chăn tằm, kéo sợi, dệt lụa. Tấm lụa đầu tiên nàng đem tặng vua cha, Hùng Vương khen
ngợi con gái và truyền cho dân chúng theo đó mà dệt lụa, nhiều làng đã tôn Thiều Hoa làm tổ sư nghề dệt
lụa, làm thành hoàng của làng mình
ứng. Quân khởi nghĩa đi đến đâu thắng đến đó, chỉ trong một thời gian ngắn Hai Bà đã dẹp yên, thu phục
được 65 thành ấp ở đất Lĩnh Nam. Bà Trưng Trắc được suy tôn làm quốc vương, tức là Trưng Vương (40 –
43), đóng đô ở Mê Linh ([3]).
b-Nữ vương thứ nhì và cũng là nữ vương cuối cùng: Năm Giáp thân 1224, vua Lý Huệ Tông bị bịnh
nặng mà không có con trai nên xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm thái tử, rồi truyền ngôi cho.
Công chúa Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên chương hữu đạo, tôn hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
*Đồng tiến đúc sớm nhất – Tiền giấy đầu tiên – Vua cho đúc nhiều tiền đồng nhất:
Năm Canh ngọ 970, Đại thắng Minh hoàng đế Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình và cho
đúc tiền đồng “Thái Bình hưng bảo” là đồng tiền đúc sớm nhất ở nước ta. Khảo cổ học cho thấy Thái Bình
hưng bảo có ba loạt khác nhau nhưng đều có lỗ hình vuông ở giữa và có đường kính không đều bình quân
khoảng 22 mm. Cả ba loạt đều có mặt trước ghi chữ Thái Bình hưng bảo bằng chữ Hán. Có một loạt thay vì
chữ Thái lại là chữ Đại. Hiện chưa rõ do lâu ngày đồng tiền đó bị hỏng nên mất một chấm, hay đó thực sự là
chữ Đại nhưng được đọc là Thái ([9]). Về mặt sau, thường có chữ Đinh (họ của vua) đúc nổi; nhưng có một
loạt không có chữ gì.
Năm Bính tí 1396 vua Trần Thuận Tông, ban hành tiền giấy “Thông bảo hội sao”, loại 10 đồng vẽ
râu rồng, loại 30 đồng vẽ sóng nước, loại 1 tiền vẽ đám mây, loại 2 tiền vẽ con rùa, loại 3 tiền vẽ con rồng.
Định tội tử hình, sung công điền sản kẻ làm giấy bạc giả. Quy đinh đổi 1 quan tiền đồng lấy 1 quan 2 tiền
giấy. Cấm lưu dùng tiền đồng, định tội lưu dùng tiền đồng như tội làm giấy bạc giả. Đây là loại tiền giấy đầu
tiên ở nước ta.
Vua cho đúc nhiều tiền đồng nhất là vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786) với 16 loại tiền đúc khác nhau mang
niên hiệu của mình gồm: 1. Cảnh Hưng Thông Bảo, 2. Cảnh Hưng Trung Bảo, 3. Cảnh Hưng Chí Bảo, 4.
Cảnh Hưng Vĩnh Bảo, 5. Cảnh Hưng Thái Bảo, 6. Cảnh Hưng Cự Bảo, 7. Cảnh Hưng Trọng Bảo, 8. Cảnh
Hưng Tuyền Bảo, 9. Cảnh Hưng Thuận Bảo, 10. Cảnh Hưng Chính Bảo, 11. Cảnh Hưng Nội Bảo, 12. Cảnh
Hưng Dụng Bảo, 13. Cảnh Hưng Lai Bảo, 14. Cảnh
Hưng Thận Bảo, 15. Cảnh Hưng Ðại Bảo, 16. Cảnh Hưng Ðại Tiền ([10]).
Năm Kỷ dậu 1009, tháng 10, vua Lê Long Đĩnh băng ở tẩm điện, gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc
bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu. Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ ([12]).
-Chúa Quốc (1675-1725) làm chúa 1691, mất 1725, được 34 năm.
–Tự Đức (1829 –1883) trị vì từ 1847 đến 1883, ở ngôi37 năm.
*Vua lên trị vì trẻ tuổi nhất:
-Lý Nhân Tông (1066 – 1128) lên ngôi năm 1072 lúc 07 tuổi.
–Lý Anh Tông (1136 – 1175) lên ngôi năm 1138 lúc 03 tuổi.
–Lý Cao Tông (1173 – 1210) lên ngôi năm 1176 lúc 04 tuổi.
–Lý Chiêu Hoàng (1218 – ?) lên ngôi năm 1224 lúc 07 tuổi.
-Trần Thái Tông (1218 – 1277) lên ngôi năm 1225 lúc 08 tuổi.
-Trần Dụ Tông (1336 – 1369) lên ngôi năm 1341 lúc 06 tuổi.
–Trần Thiếu Đế (1396 – ?) lên ngôi năm 1398 lúc 03 tuổi.
–Lê Nhân Tông (1441 – 1459) lên ngôi năm 1442 lúc 02 tuổi.
–Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) lên ngôi năm 1562 lúc 03 tuổi.
–Lê Thế Tông (1567 – 1599) lên ngôi năm 1573 lúc 07 tuổi.
-Lê Thuần Tông (1729 – 1735) lên ngôi năm 1732 lúc 04 tuổi.
-Thành Thái (1882-1889-1907) lên ngôi năm 1889 lúc 08 tuổi.
-Duy Tân (1900 – 1916) lên ngôi năm 1907 lúc 08 tuổi.
Nhà Lý 06 27 04
Nhà Hồ 02 200 01
Nhà Lê trung
hưng 73 793 06
Chú thích:
([1])Theo “Lịch sử quân sự Việt Nam – Tập 2: Đấu tranh giành độc lập tự chủ (từ năm 179 TCN đến năm
938), của Trần Quốc Vượng, Lê Đình Sĩ; Nxb Chính trị Quốc gia 2001; được đăng tải trên trang web Tây
Vu Vương, tức thủ lĩnh Tây Vu, có lẽ thuộc dòng dõi An Dương Vương, cai trị vùng đất Cổ Loa, phía bắc
châu thổ Bắc Bộ thời thuộc Triệu. Cổ Loa là đất thuộc bộ Tây Vu; thời thuộc Hán, đổi thành huyện Tây Vu,
quận Giao Chỉ. Theo Hậu Hán thư, dân số huyện Tây Vu gần bằng số hộ cả quận Cửu Chân. Sau đó, khi Mã
Viện đã đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, chia huyện Tây Vu thành ba huyện: Tây Vu, Phong Khê và Vọng
Hải thuộc quận Giao Chỉ.
10 Chuyện lạ trong sử Việt
([2]) Số ( ) kế bên tên vương triều Trung Quốc là thời gian trị vì của các vương triều đó. Sở dĩ chỉ có 1081
năm là vì không tính 3 năm Hai Bà Trưng (40 – 43) và 62 năm (Tiền Lý) Lý Nam Đế, (Triệu Việt Vương)
Triệu Quang Phục, (Hậu Lý Nam Đế ) Lý Phật Tử. Sai số 5 năm là do cách tính có chênh lệch.
([3])Năm Canh tí 40, Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở Luy Lâu (thuộc
huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) buộc Thái thú Tô Định phải chạy về nước. Các quận Nam
Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự
lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.Năm Tân sửu 41, nhà Hán sai Mã Viện làm Phục Ba tướng
quân sang xâm lược.Năm Nhâm dần 42, Mã Viện đến Lãng Bạc đánh nhau với vua. Hai bà thấy thế giặc
mạnh không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).Năm Quýmão 43, Hai Bà Trưng
thế cô bị thua, đều tử trận. Mã Viện cho dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm) làm
giới hạn cuối cùng của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ: “Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt” (Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ diệt). Hai Bà Trưng được coi là anh hùng dân tộc của Việt Nam, và được thờ cúng tại nhiều đền
thờ, lớn nhất là đền Hai Bà Trưng ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và đền Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi, xã
Mê Linh, huyện Mê Linh,Vĩnh Phúc nay là Mê Linh,Hà Nội – quê hương của hai bà. Ngoài ra, tại tỉnh Hồ
Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho
đi sứ đó là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm) do những cừ súy bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai
Bà Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt
thời Hai Bà Trưng. Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai bà.
([4])Có tài liệu liệt kê được danh sách 70 bà. Hiện nay, vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ thờ 35 tướng nữ; vùng Hà
Tây, Hoà Bình, Bắc Ninh thờ hơn 30 tướng nữ…cả nhân dân Tày Nùng ở Việt Bắc, nhân dân Choang ở
Quảng Tây (Trung Quốc) cũng còn giữ nhiều truyền thuyết và kỷ niệm về tổ tiên xưa tham gia cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng.
([5])Theo phatgiao.org.vn thì trong số các nữ tướng thời này có 8 bà là “tì kheo ni”, đó là các bà: Bát Nàn,
Thiều Hoa, Vĩnh Huy, Phương Dung, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ, Chiêu Dung, và Hương Thảo. Các bà có
một điểm chung là sau khi Trưng Vương thất bại đều trở về ẩn cư tại chùa và mất ở đó, trừ bà Bát Nàn về tu
ngay khi Trưng Vương thành công và bà Hương Thảo khi còn sống thường hay đến cúng dường và trùng tu
chùa Cỏ.
([6])Theo Khâm Định VSTGCM thì năm Giáp thân 264, trong thời Tam quốc, nhà Ngụy đã phong cho
tướng Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc mọi việc quân ở Giao Châu (Tuy rằng có tên An Nam
nhưng đây là một chức vụ, nên có thể coi việc nhà Đường là đầu tiên khởi phát ra tên An Nam chỉ đất nước
ta). ĐVSK Toàn thư ghi đổi tên Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ vào năm Nhâm ngọ 622 vua Đường
Cao Tổ nhưng ở trang sau đó lại ghi vào năm 678 vua Đường Cao Tông (?).
([7])Theo Khâm Định VSTGCM thì Lý Tiến người đất Cao Hưng, quận Giao Chỉ, là người thông minh,
hiểu khắp kinh truyện, được bổ làm chức công tào ở quận, sau thăng dần đến chức kỵ đô úy. Năm Vĩnh Hòa
thứ 2 (137), quân Man ở Kinh Châu làm phản, Lý Tiến được sai làm thái thú quận Linh Lăng, đánh tan được
giặc ấy. Khoảng năm 184-189 vua Hán Linh Đế nhà Đông Hán, Lý Tiến được cử làm thứ sử quận Giao Chỉ.
(Có lẽ có nhầm lẫn vì chỉ tính các mốc thời gian từ 137 – 187 = 50 năm và từ 137 – 200 = 63 năm. Vậy thời
gian nào đễ Lý Tiến thăng từ chức Công tào lên chức chức Thái thú quận Linh Lăng).
11 Chuyện lạ trong sử Việt
([8])Nam Hán là một vương quốc tồn tại từ năm 917 đến năm 971trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc (907–
960) ở Trung Quốc.Lãnh thổ nước Nam Hán bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Hải
Nam ngàynay. Nam Hán truyền được 4 đời vua, vua đầu tiên là Nam Hán Cao tổ Lưu Nham hay Lưu
Nghiễm (917-941); sử Việt Nam ghi là Lưu Cung. Lưu Hoằng Thao là con thứ 9/19 người con trai của Nam
Hán Cao tổ.
([9])Theo Hán Việt từ điển trích dẫn thì chữ Đại 大: 1.Một âm là thái. (Tính) Cao trọng hơn hết như thái hòa
大和, thái cực 大極, thái lao 大牢. 2.Đều cùng âm nghĩa như chữ thái 太.
([10])Một số tiền cụ thể như Cảnh Hưng thông bảo có đường kính khoảng 23 – 24mm, mặt sau có hai chữ
Canh thân ở hai bên lỗ vuông đúc năm 1740, hai chữ Tân dậu đúc năm 1741, hai chữ Nhâm tuất đúc năm
1742; Cảnh Hưng Dụng Bảo có đường kính khoảng 24mm, mang ý nghĩa là báu tệ sử dụng hằng ngày, nên
đúc to dày ….
([11]) Theo số liệu này thì quân số nước ta có đến 1 triệu người.(?)
([12])Xem 4 năm cầm quyền của Lê Long Đỉnh thì thấy từ khi lên ngôi năm 1005-1006 đã phải thân chinh
đánh các vương tranh giành ngôi vua và đánh giặc Cử Long (thuộc phủ Quảng Hóa tỉnh Thanh Hóa), năm
1007 được yên ổn; năm 1008 thân đi đánh Đô Lương, Vị Long, Hoan Châu, Thiên Liễu; rồi đến tháng
7/1009lại thân đi đánh châu Hoan Đường, Thạch Hà. Có thể xem là cuộc đời Long Đỉnh toàn ngồi trên lưng
ngựa, làm sao là Ngọa Triều được? Lại còn cho là say mê tửu sắc nên phát bệnh trĩ, điều mà ngày nay y học
không xác nhận là nguyên nhân.
([13]) Liệt kê những trường hợp từ 30 năm trở lên.
([14])Lê Văn Thịnh (? – ?) người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay là Gia Bình, Bắc Ninh), Năm 1075
nhà Lý mở khoa thi, Văn Thịnh đỗ đầu, làm quan đến chức Thái sư. Năm 1084, ông thành công trong việc
bàn nghị về việc cương giới với quan nhà Tống, khiến nước này phải trả lại 6 huyện 3 động thuộc châu
Quảng Nguyên cho nước ta. Tuy nhiên sau khi xảy ra “Vụ án hồ Dâm Đàm” (1095), ông bị đày rồi mất
năm 1096.
([15]) Có lẽ chỉ có 26 khoa thi từ năm 1247 đời Trần Thái Tông đến năm 1484 đời Lê Thánh Tông là có
danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa vì như ĐVSK Toàn thư đã ghi: “Vua cho là từ năm Đại Bảo
thứ 3 triều Thái Tông đến giờ, việc dựng bia, đề tên tiến sĩ các khoa vẫn chưa làm được” và “Quách Đình
Bảo nhân xin đổi trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa thành tiến sĩ cập đệ, chánh bảng thành tiến sĩ xuất thân,
phụ bảng thành đồng tiến sĩ xuất thân để hợp với quy chế ngày nay. Vua y tờ tâu”, Vua ở đây là Lê Thánh
Tông. ĐVSK Toàn thư cũng viết “Nhâm Tuất 1442, Tháng 3, tổ chức thi hội cho sĩ nhân trong nước. Cho
bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Nhữ Đổ, Lương Như Hộc 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Văn Huy 7 người
đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân”, theo tôi đây là do các sử gia thời
Lê Trịnh viết lại cho phù hợp vì nếu vào đời vua Lê Thái Tông đã có tiến sĩ cập đệ, tiến sĩ xuất thân … thì
đến năm 1484 Quách Đình Bảo không xin đổi tên như đã nêu trên.
12 Chuyện lạ trong sử Việt
([16])Theo nội dung văn bia thì đây là kỳ thi Hội, điều này có nghĩa là những người dự thi phải đỗ cử nhân
(hay có thể là Tú Tài nhưng đã qua bao nhiêu năm làm việc theo quy định vào thời bấy giờ). Không thể cho
rằng văn bia viết quá số người vì những người soạn hẳn biết văn bia sẽ được lưu truyền hậu thế và phải dâng
vua thông qua trước mới được khắc in (nên không dám nâng khống số người lên). Nhưng mặt khác, muốn
có 3.000 – 6.000 cử nhân thì số người đi thi hương cũng phải cả trăm ngàn người, số này cũng đã được lượt
bớt ở xã, huyện, phủ mới được dự thi hương, như vậy số người có học ở nước ta rất lớn, không thể tin nổi.
Ngoài ra với số lượng cử nhân như vậy thì chức quan ở đâu ra đủ để mà phân bổ công việc?
([17]) Để đơn giản hóa việc thống kê, từ đây sử dụng chung danh vị “Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa”
cho 3 người đỗ đầu các khoa thi.
([18])Sở dĩ nói có nhiều người đỗ Trạng nguyên vì ĐVSK Toàn thư viết “Năm Nhâm thìn 1232, thi thái học
sinh: Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là
Trần Chu Phổ” và “Năm Kỷ hợi 1239, thi thái học sinh: Đỗ đệ nhất giáp là Lưu Miễn, Vương Giát; đệ nhị
giáp là Ngô Khắc; đệ tam giáp là Vương Thế Lộc”.
Nguồn bài đăng