Professional Documents
Culture Documents
---------
---------
Trịnh Xuân Sỹ
---------
---------
Trịnh Xuân Sỹ
Mã số: 60440104
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất PGS.TS.
Nguyễn Hoàng Hải, người đã đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành luận văn này.
Xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến anh Lưu Mạnh Quỳnh đã đóng góp
những ý kiến quý báu trong suốt quá trình thí nghiệm và hoàn thiện luận văn.
Em cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, Cô, các anh chị và các bạn
học viên thuộc Bộ môn Vật lý Chất rắn, Trung tâm Khoa học Vật liệu, khoa Vật lý
của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc Gia Hà Nội đã hỗ trợ, tạo
điều kiện và đóng góp ý kiến quý báu về kết quả của luận văn.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè và những người thân
trong gia đình đã luôn động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập cũng như
hoàn thành luận văn.
Học viên
Trịnh Xuân Sỹ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1.2.4. Phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học (CVD)........................ 12
1.3.3. Ứng dụng màng Platin trong cảm biến sinh học......................... 22
2.2. Chức năng hóa bề mặt màng Pt và gắn kết với các phân tử sinh học. 29
CVD (chemical vapor deposition) Lắng đọng pha hơi hóa học
FTIR (Fourier transform infrared Quang phổ hồng ngoại chuyển đổi
spectroscopy) Fourier
4-ATP 4-Aminothiophenol
1-Ethyl-3-(3-dimethylaminopropyl)
EDC
ethylcarbodiimide
EG Ethylene glycol
GA Glycolaldehyde
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.7. Các bộ phận chính của một cảm biến sinh học 20
Hình 1.8. Mô hình màng sau khi được chức năng hóa 24
Hình 2.1. Sơ đồ chế tạo màng Pt bằng phương pháp khử polyol 29
Hình 2.3. Thiết bị kính hiển vi điện tử quét Jeol 5410 LV tại Trung
33
tâm Khoa học Vật liệu
Hình 3.2. Giản đồ nhiệt xạ của màng Pt khi nung ở các nhiệt độ
41
khác nhau
Hình 3.5. Ảnh SEM màng Pt chế tạo ở 140°C trước khi nung 44
Hình 3.6. Ảnh SEM màng Pt chế tạo ở 140°C sau khi nung ở 450°C.
44
(a) cấu trúc màng, (b) các đám hạt
Hình 3.8. Ảnh AFM của mẫu chế tạo ở 140°C sau khi nung 46
Hình 3.10. Phổ FTIR (a) 4-ATP trên đế Silic (b) màng Pt sau khi
49
được chức năng hóa bằng 4-ATP
Hình 3.11. Hình ảnh mô tả màng Pt sau khi được chức năng hóa 50
Hình 3.12. Phổ Raman của màng Pt và màng Pt sau khi chức năng
51
hóa bằng 4-ATP
Hình 3.14. Phổ FTIR của màng Pt gắn axit citric ở thang đo (a) 500
55
– 4000 cm-1 (b) 1200 – 2200 cm-1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Các kết quả tính kích thước hạt theo các đỉnh nhiễu xạ 40
Bảng 3.2. Kết quả các kích thước của hạt ở nhiệt độ 300°C. 41
Bảng 3.3. Kết quả các kích thước của hạt ở nhiệt độ 450°C. 42
Bảng 3.4. Vị trí các mode dao động của 4-ATP nguyên chất và
50
màng Pt đã được chức năng hóa
Bảng 3.5. Vị trí đỉnh Raman của 4-ATP nguyên chất và màng Pt
52
sau khi được chức năng hóa bằng 4-ATP
MỞ ĐẦU
Hiện nay, lắng đọng màng kim loại vẫn đang là một chủ đề quan trọng, thu
hút được nhiều sự quan tâm từ cả trong và ngoài nước. Bên cạnh các kỹ thuật lắng
đọng thông thường, các phương pháp tiếp cận mới liên tục được tìm hiểu và nghiên
cứu, đã không những giải quyết được nhiều khó khăn trước đây mà còn tác động
mạnh lên khả năng ứng dụng của màng kim loại trong thực tiễn. Một trong số
những phương pháp mới gây được sự chú ý gần đây là phương pháp lắng đọng
màng kim loại sử dụng phản ứng khử muối. Chúng ta biết rằng các phản ứng hóa
học khử muối có thể tạo ra kim loại nguyên chất ở nhiệt độ thấp. Vì vậy chúng đã
được ứng dụng rộng rãi để chế tạo các hạt nano kim loại [26, 40, 47] nhưng lại rất
hiếm khi được sử dụng trong việc lắng đọng màng do hiện tượng các mầm kim loại
thường hình thành và lớn lên trong lòng chất lỏng và tạo thành hạt kim loại thay vì
thành màng. Tuy nhiên nếu kiểm soát sao cho mầm kim loại hình thành và phát
triển trên bề mặt chất nền thì có thể thu được màng kim loại với chất lượng tốt ở
nhiệt độ thấp.
Platin là một kim loại quý, có nhiều ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực
khác nhau. Pt có tính trơ, rất ít bị ăn mòn, dẫn điện tốt và khả năng xúc tác hiệu quả
trong nhiều phản ứng hóa học, nên thường được sử dụng trong các hệ thống chuyển
đổi năng lượng như pin năng lượng mặt trời [41, 50, 56, 59, 65], tế bào nhiên liệu
(fuel cells) [3, 7, 19, 53, 57] và cả trong cảm biến sinh học [3, 35, 38]. Trong nhiều
ứng dụng, Pt thường dùng dưới dạng màng. Màng Pt có thể được lắng đọng bằng
nhiều phương pháp hóa lý khác nhau. Nó có thể được chế tạo từ kim loại Pt nguyên
chất sử dụng phương pháp phún xạ magnetron [39, 57], lắng đọng pha hơi hóa học
[32, 49, 56] bốc bay chùm điện tử hay bốc bay nhiệt. Nó cũng có thể chế tạo từ
dung dịch muối Pt hay axit chloroplatinic sử dụng phương pháp lắng đọng điện hóa
[12, 61] hoặc mạ hóa học [14, 15, 31, 72]. Mỗi phương pháp này đều có những giới
hạn và nhược điểm riêng. Chẳng hạn, phún xạ magnetron và bốc bay chùm điện tử
yêu cầu chân không và năng lượng cao, làm tăng đáng kể chi phí chế tạo. Lắng
1
đọng điện hóa thì cần đế có độ dẫn tốt và độ ổn định cao trong dung dịch điện giải,
trong khi đó lắng mạ hóa học lại cần một lớp kim loại hoạt động trên bề mặt của
chất nền.
Trong thời gian gần đây, phương pháp khử polyol muối Pt bắt đầu được sử
dụng rộng rãi để lắng đọng màng Pt. Đây là phương pháp đơn giản chỉ sử dụng các
phản ứng hóa học thuần túy nên chi phí rẻ, không yêu cầu các thiết bị phức tạp hay
môi trường chế tạo đặc biệt, mà vẫn thu được màng kim loại có chất lượng tốt, thích
hợp cho nhiều ứng dụng khác nhau. Trước đó, phương pháp polyol chủ yếu dùng để
chế tạo các hạt nano kim loại [10, 60, 63], rất ít nghiên cứu trong việc chế tạo màng.
Kurihara và các đồng sự đã có một báo cáo ngắn gọn về lắng đọng màng kim loại
bao gồm Co, Ni, Rh, Re,W, Pt, và Au trên nền các đế không dẫn khác nhau như
pyrex, kapton, teflon, sợi graphit, sợi cacbon, bằng cách nhúng các đế này vào trong
hỗn hợp dung dịch phản ứng của muối kim loại [44]. Màng sau khi chế tạo có cấu
trúc nano với kích thước tinh thể trung bình khoảng 10 nm. Hiện nay, đã có nhiều
công trình trình sử dụng phương pháp khử polyol để lắng đọng màng Pt như một
phương pháp đơn giản và tiết kiệm [41, 65, 66]. Tuy nhiên đa số các nghiên cứu
này đều chỉ tập trung ứng dụng vào pin mặt trời, gần như chưa có một báo cáo nào
thử nghiệm ứng dụng trong những lĩnh vực khác, đặc biệt là lĩnh vực sinh học. Vì
vậy nhằm mục đích tìm hiểu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các tính chất của màng
Pt được chế tạo bằng phương pháp polyol trên đế silic đồng thời thử nghiệm ứng
dụng trong chế tạo cảm biến sinh học với tên đề tài của luận văn là:
“Chế tạo màng nano kim loại quý và tìm hiểu khả năng ứng dụng”
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng polyol là ethylene glycol để khử muối
H2PtCl6 tạo màng Pt trên đế silic. Màng sau khi tạo thành được xử lý nhiệt để phân
hủy hết các thành phần hữu cơ còn sót lại đồng thời tăng cường độ bám dính lên đế.
Các đặc tính cấu trúc, hình thái và tính chất được nghiên cứu một cách cụ thể và chi
tiết. Cuối cùng màng được thử nghiệm trong chế tạo cảm biến sinh học thông qua
2
nghiên cứu khả năng chức năng hóa bề mặt và khả năng đính kết với một số phân tử
sinh học.
Như vậy mục tiêu chính của luận văn được đặt ra:
Chương I: Tổng quan các phương pháp chế tạo màng Pt, tính chất
của Pt và giới thiệu về cảm biến sinh học
Chương II: Thực nghiệm – Quy trình chế tạo màng Pt, chức năng hóa
bề mặt màng và đính kết với một số phân tử sinh học
Chương III: Kết quả và thảo luận
3
Chương 1: TỔNG QUAN
Platin thường được sử dụng trong làm chất xúc tác, trang thiết bị phòng thí
nghiệm, thiết bị điện báo, các điện cực, nhiệt kế điện trở, thiết bị nha khoa, và đồ
trang sức.
mặt. Nhiệt độ nóng chảy của platin khoảng 1768°C, nhiệt độ sôi cỡ 3825°C.
Platin có màu trắng bạc, sáng bóng, là một trong những kim loại dẻo dai
nhất, dễ kéo sợi và dễ dát mỏng: 1g Pt có thể kéo thành sợi với chiều dài 5km và có
thể dát mỏng platin tới độ dày cỡ micromet [2]. Platin ít bị mài mòn nên rất thích
hợp để làm đồ trang sức mỹ nghệ. Kim loại này khó bị ăn mòn, chịu được nhiệt độ
cao và có tính dẫn điện ổn định cho nên được sử dụng trong các ứng dụng công
nghiệp [17]. Tuy nhiên platin có thể bị ăn mòn bởi các halogen, xianua, lưu huỳnh
và dung dịch kiềm ăn da. Platin rất dễ hấp thụ hydro và oxy, ứng dụng là vật liệu
xúc tác trong các phản ứng hóa học.
4
Platin là kim loại kém hoạt động nhất. Ở điều kiện thường, platin không bị gỉ
trong không khí, rất bền với oxi ngay cả khi nhiệt độ cao. Tuy nhiên, platin tác dụng
với khí clo khi đun nóng và tác dụng chậm với brom lỏng ở nhiệt độ thường.
Platin không hòa tan trong axit clohidric và axit nitric, nhưng tan trong nước
cường toan để tạo thành axit hexachloroplatinic H2PtCl6 theo phương trình phản
ứng [22]:
PtCl2 có thể được điều chế bằng cách nung nóng H2PtCl6 lên 350°C trong
không khí [24]:
5
PtCl4 → PtCl2 + Cl2 (1.4)
Khi nung lên nhiệt độ cao hơn cỡ 550°C PtCl2 sẽ bị phân hủy thành Pt
nguyên chất và khí clo. [74]
Tinh thể H2PtCl6.6H2O có màu đỏ nâu, chảy rữa trong không khí ẩm, tan
trong nước cho dung dịch màu vàng, tan trong rượu và ete. Dung dịch H2[PtCl6] tác
dụng với ion Ag+ không cho kết tủa AgCl mà cho kết tủa bạc cloroplatinat
Ag2[PtCl6] màu đỏ tươi. Điều đó cho thấy rõ ràng nồng độ của ion Cl- trong dung
dịch axit là rất bé, nghĩa là ion phức [PtCl6]2- rất bền.
H2PtCl6 thường được điều chế bằng cách cho platin nguyên chất vào nước
cường toan (hỗn hợp HCl và HNO3) theo phương trình (1.1)
6
Khi bị nung nóng H2PtCl6 bị phân hủy thành PtCl4 rồi PtCl2 rồi thành Pt
nguyên chất, mặc dù các bước phân hủy này không theo từng nấc cụ thể và rõ ràng
[4]:
Hạt nano Pt có thể được chế tạo bằng nhiều phương pháp hóa lý khác nhau.
Đối với phương pháp hóa, hạt nano thường được tổng hợp trong dung dịch hóa học,
vì vậy các hạt nano này thường gọi là các hạt Pt dạng keo. Một số phương pháp hóa
có thể kể đến như phương pháp hóa khử [16, 20, 46], phương pháp polyol [51] và
phương pháp mixen đảo [13]. Bên cạnh đó, hạt nano Pt cũng có thể chế tạo bằng
nhiều phương pháp lý chẳng hạn như phún xạ [58], bốc bay chùm điện tử [43] hoặc
cắt đốt bằng laser trong dung dịch [21, 52].
7
Khi ở dạng
ng nano, các hhạt platin có sự thay đổi đáng kể về tính chất.
ch Dễ dàng
nhận thấy nhất là sự thay đđổi về màu sắc. Trong dung dịch lỏng,
ng, các hhạt nano platin
có màu từ xám đếnn xám đen
đ tùy thuộc vào nồng độ hạt [18].
]. Tính ch
chất quang tuyến
tính của chúng bị chi phốối bởi hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt
m kết hợp với
các dao động tập thể củaa các electron ttự do trong hạt [70]. Mộtt trong những
nh thay đổi
quan trọng nhất củaa platin khi ở dạng nano là khả năng xúc tác. Hạtt nano platin có
hoạt động
ng xúc tác cao có ngu
nguồn gốc từ diện tích bề mặt lớn. Dựaa vào đó, có thể
giảm lượng Pt cần thiếtt trong các hhệ thống sử dụng hạtt nano Pt là ch
chất xúc tác mà
vẫn đảm bảo hiệu suấtt và ch
chất lượng. Điều này có ý nghĩa quan trọng
ng khi ứng dụng
hạtt nano Pt trong công nghi
nghiệp vì bản thân Pt là một kim loạii quý có giá thành đắt
đỏ.
8
Trong luận văn
ăn này, chúng tôi chỉ
ch điểm qua một số phương
ương pháp mới
m hoặc
phổ biến được sử dụng đểể chế tạo màng Pt.
9
1.2.2. Phương pháp bốcc bay chùm điện tử
Bốc bay chùm điệện tử (e-beam evaporation) là phương
ng pháp sử
s dụng năng
lượng của chùm electron hội tụ trực tiếp lên vật liệu để làm hóa hơi vvật liệu trong
chân không cao và ngưng
ưng ttụ trên đế.
Ở phương
ng pháp này, khi chùm electron năng lượng cao đượ
ợc bắn trực tiếp
lên vật liệu gốc, do bị ddừng đột ngột toàn bộ năng lượng củaa chùm electron được
chuyển hóa thành nhiệtt năng
nă làm hóa hơi vật liệu này. Do đó có thểể nhận thấy một
số ưu điểm như sau:
10
- Dễ điều chỉnhnh áp suất,
su thành phần khí, nhiệt độ để kiểmm soát cấu
c trúc và hình
thái của màng
- Tốc độ lắng đọng ng có ththể làm chậm xuống đếnn 1 nm / phút ho
hoặc cũng có thể
lên tớii vài micro/ phút
- Có thể sử dụng rấtt ít vvật liệu gốc
1.2.3. Phương
ng pháp phún xxạ catot
Phún xạ (sputtering)
puttering) là kỹ
k thuật chế tạo màng mỏng dựaa trên nguyên lý
truyền động năng bằng
ng cách dùng các ion khí hi
hiếm được tăng tốcc dư
dưới điện trường
bắn phá bề mặt vật liệu từ
ừ bia vật liệu, truyền động năng
ng cho các nguyên tử
t này bay
về phía đế và lắng đọng
ng trên đế.
Phún xạ đượcc chia làm hai loại chính: phún xạ cao áp 1 chiều
chi và phún xạ
xoay chiều. Phún xạ cao áp 1 chi
chiều là loại đơn giản nhất sử dụng
ng nguồn
ngu cấp điện áp
11
1 chiều đặt trên hai điện cực trong chuông chân không. Phún xạ xoay chiều là kỹ
thuật sử dụng hiệu điện thế xoay chiều để gia tốc cho ion khí hiếm. Nó vẫn có cấu
tạo chung của các hệ phún xạ, tuy nhiên máy phát là một máy phát cao tần sử dụng
dòng điện tần số sóng vô tuyến (thường là 13.56 MHz).
Để tăng hiệu suất của phún xạ một chiều lẫn xoay chiều, người ta đặt bên
dưới bia các nam châm. Từ trường của nam châm có tác dụng bẫy các electron vào
trong vùng gần bia nhờ đó làm tăng hiệu ứng iôn hóa do làm tăng tần số va chạm
giữa các electron với các nguyên tử khí ở gần bề mặt bia do đó làm tăng tốc độ lắng
đọng đồng thời giảm sự bắn phá của electron và ion trên bề mặt màng, giảm nhiệt
độ đế và có thể tạo ra sự phóng điện ở áp suất thấp hơn. Áp suất phóng điện càng
thấp thì càng giảm được nồng độ các tạp chất trong màng và tăng động năng của
các nguyên tử đến lắng đọng trên màng (do quãng đường tự do trung bình của các
nguyên tử khí càng tăng, và do đó tấn số va chạm với các nguyên tử lắng động càng
giảm, khi áp suất càng thấp).
1.2.4. Phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học (CVD)
Lắng đọng hơi hóa học là một phương pháp mà nhờ đó vật liệu rắn được lắng
đọng từ pha hơi thông qua các phản ứng hóa học xảy ra ở gần bề mặt đế được nung
nóng. Phương pháp CVD được ứng dụng chủ yếu để chế tạo màng mỏng. Ví dụ chế
tạo các màng ứng dụng trong công nghệ vi điện tử như: màng cách điện, dẫn điện,
lớp chống gỉ, chống oxi hóa và lớp epitaxy. Tuy nhiên cũng có thể sử dụng CVD để
chế tạo các vật liệu dạng khối có độ tinh khiết cao và các vật liệu composit.
Ở dạng đơn giản nhất, quy trình CVD diễn ra như sau:
- Chất phản ứng dạng khí được đưa vào buồng phản ứng nhờ dòng khí
nén
- Các phản ứng hóa học ở pha hơi của các chất phản ứng sẽ tạo nên các
tiền chất màng và sản phẩm phụ
12
- Các tiềnn ch
chất này và sản phẩm phụ được vận chuyểnn xuống
xu bề mặt đế
(đượcc nung nóng)
- Xảy ra sự hhấp thụ và khuếch tán các tiền chất trên bề mặt
m đế
- Dưới nhiệtt độ
đ cao, các phản ứng hóa học bề mặt xảyy ra đẫn dến sự
lắng đọng
ng màng m
mỏng
- Sản phẩm
m phụ
ph sinh ra sau phản ứng sẽ khuếch
ch tán ngư
ngược vào dòng
chất lưu, dòng
òng ch
chất lưu đưa khí tiền chất dư và sảnn phẩm
ph phụ ra khỏi
buồng.
Ta có thể mô tả phương
phươ pháp CVD bằng phương trình:
t°, Plasma
Tiền chất (khí
khí) Màng (rắn) + Sản phẩm phụ (1.9)
Phương
ng pháp CVD được ứng dụng phổ biến để chế tạo
o màng Pt. Vargas
Garcia và Takashi Goto đđã tóm tắt một cách đầy đủ và chi tiếtt các cách th
thức chế tạo
màng Pt bằng CVD [32].
]. Trong đó, màng Pt có thể được chế tạo từ acetylacetonate,
a
carbonyl
arbonyl platinum complex
complexes, allyl platinum complexes và bằng
ng nhi
nhiều hợp chất
khác của Pt.
13
1.2.5. Phương pháp mạ điện hóa
Mạ điện hóa hay lắng đọng điện hóa là quá trình điện hóa phủ một lớp mỏng
của một kim loại lên bề mặt của một kim loại hoặc vật dẫn khác để làm thay đổi
tính chất bề mặt.
Một cách đơn giản, quá trình mạ điện có thể được trình bày trên hình1.6.
Trong đó vật cần mạ sẽ gắn với cực âm catot, kim loại mạ gắn với cực dương anot
của nguồn điện trong dung dịch điện môi. Cực dương của nguồn điện sẽ hút các
electron e- trong quá trình ôxi hóa và giải phóng các ion kim loại dương, dưới tác
dụng lực tĩnh điện các ion dương này sẽ di chuyển về cực âm, tại đây chúng nhận
lại e- trong quá trình oxi hóa khử hình thành lớp kim loại bám trên bề mặt của vật
được mạ. Độ dày của lớp mạ tỉ lệ thuận với cường độ dòng điện của nguồn và thời
gian mạ.
Phương pháp lắng đọng điện hóa được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây
để chế tạo điện cực cho pin mặt trời sử dụng chất màu nhạy sáng [12, 61]. Điện cực
Pt được chế tạo theo 2 phương pháp là: lắng đọng liên tục và lắng đọng xung. Lắng
đọng liên tục sử dụng nguồn điện một chiều còn lắng đọng xung sử dụng nguồn
điện xung. Với phương pháp lắng đọng liên tục, tinh thể Pt có hình gai có kích
thước rất lớn lên tới vài trăm nanomet, không phân bố đều, và diện tích bề mặt lớn.
Trong khi đó, phương pháp lắng đọng xung có nhiều ưu điểm hơn như có thể kiểm
14
soát được kích thước của hạt, độ đồng đều cao và độ bám dính tốt. Các cụm Pt được
chế tạo từ phương pháp xung có kích thước khoảng 40 nm và kích thước hạt khoảng
3nm. Điện cực Pt trong phương pháp lắng đọng xung có diện tích bề mặt lớn gấp
1.86 lần phương pháp lắng đọng liên tục, hứa hẹn khả năng ứng dụng cao trong chế
tạo pin mặt trời [61].
Kỹ thuật mạ hóa học đã được biết đến và sử dụng trong nhiều thể kỷ. Một
trong những quá trình mạ hóa học phổ biến được sử dụng là phản ứng tráng gương:
Có hai quá trình được sử dụng phổ biến để mạ hóa học là quá trình oxi hóa –
khử và quá trình tự xúc tác.
15
M
+ z e → M (1.11)
Do vậy kim loại M2 lắng đọng dưới dạng hạt hoặc màng liên tục trên bề mặt
của kim loại M1. Nửa phản ứng còn lại (phản ứng oxi hóa) là quá trình tan của kim
loại có tính khử mạnh như sau:
M → M + z e (1.12)
Kết hợp 2 phương trình trên, phản ứng oxi hóa khử có dạng như sau:
M
+ M → M + M (1.13)
Kim loại M1 đóng vai trò là tác nhân khử còn ion M2 đóng vai trò là tác nhân
oxi hóa.
Có thể thấy rằng phản ứng thế chỉ xảy ra ở bề mặt của kim loại có tính khử
cao hơn.
Theo lý thuyết, chỉ cần cho một kim loại có tính khử mạnh vào dung dịch
chứa ion của kim loại có tính khử yếu hơn thì phản ứng lắng đọng của kim loại có
tính khử yếu ngay lập tức xảy ra. Tuy nhiên trong thực tế, loại lắng đọng này phụ
thuộc vào hệ thống sau: Ag/Zn, Au/Ni, Au/Ag, Cu/Zn, Cu/Fe, Cu/Al, Pd/Ni, Pt/Fe,
Pt/Co…
Dựa trên nguyên lý nhiệt động lực học, ngay khi bề mặt của kim loại khử
mạnh bị kim loại khử yếu bao phủ hoàn toàn thì phản ứng kết thúc.
16
thái bề mặt và tính chất hóa lý của chất lắng. Một khi bắt đầu, phản ứng có thể
không chỉ xảy ra trên bề mặt của vật thể mà còn xảy ra trong lòng chất lỏng, tạo ra
các hạt với hình dạng và kích thước khác nhau. Chính các hạt được tạo ra lại đóng
vai trò làm xúc tác làm tăng cường phản ứng. [64]
• Sự khử ion kim loại có thể xảy ra trong lòng chất lỏng hoặc trên bề mặt hoạt
tính xúc tác.
• Khi lắng đọng xảy ra trên bề mặt chất rắn, bề mặt này phải được hoạt hóa
một cách phù hợp để xảy ra phản ứng lắng đọng.
• Nồng độ của cả tác nhân oxi hóa và tác nhân khử phải chọn một cách phù
hợp để tránh hoặc làm giảm sự khử xảy ra trong lòng chất lỏng tạo thành các
hạt kim loại.
• Tất cả các tham số ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng oxi hóa – khử (nhiệt độ,
áp suất, nồng độ) phải kiểm soát một cách chính xác để đạt được độ dày hoặc
tính chất theo ý muốn.
• Quá trình mọc màng chịu sự tác động của hoạt động tự xúc tác của bề mặt
lắng đọng kim loại.
Phản ứng lắng đọng kim loại M, sử dụng chất khử Rn- được mô tả như sau:
Trong thực tế, việc quan trọng nhất của mạ hóa học bằng quá trình này là bề
mặt của đế phải được chế tạo để có thể có hoạt động xúc tác. Để làm được điều đó,
bề mặt có thể được xử lý theo hai cách: với đế kim loại, bề mặt có thể được mạ điện
17
một lớp mỏng kim loại có cùng bản chất với kim loại bị khử hoặc kim loại khác
thích hợp, sau đó tiến hành xử lý nhiệt. Đối với đế không dẫn điện, bề mặt được xử
lý với SnCl2 hoặc PdCl2 để tạo một lớp mỏng paladin bằng cách khử. [54]
Lắng đọng tự xúc tác của platin đã được đề cập và sử dụng trong nhiều tài
liệu kỹ thuật cũ. Theo đó, có 2 cách để thu được Platin là sử dụng bể phản ứng chứa
alkaline và sử dụng bể phản ứng chứa axit [31]. Đối với cách một, bể phản ứng
alkaline có thể chứa hỗn hợp alkaline tetravalent platinum hydroxide, hydrazine,
hoặc cũng có thể chứa platinum hydroxide và hydrazine. Đối với cách hai, bể chứa
axit có thể chứa hỗn hợp dinitrodiammine palatinate hoặc potassium
tetranitroplatinate và một số axit khác. Trong những tài liệu mới công bố gần đây,
H2PtCl6 và muối Pt clorua được sử dụng một cách thường xuyên với tư cách là tiền
chất để tạo ra Pt bằng phương pháp mạ hóa học. [14, 15, 72]
Phương pháp polyol là quá trình hóa học sử dụng polyol để khử các tiền chất
như hydroxit, oxit, muối … tạo ra kim loại nguyên chất. Đây là phương pháp lý
tưởng và phổ biến để chế tạo màng và hạt kim loại quý có cấu trúc micro, dưới
micro và cấu trúc nano. Trong phương pháp này, tiền chất kim loại chẳng hạn như
hydroxit, oxit hay muối được hòa tan trong một chất lỏng polyol (thường là
ethylene glycol) rồi đun nóng. Khi nhiệt độ tăng, thế khử của glycol tăng làm cho
phản ứng khử tiền chất kim loại xảy ra tạo thành các nhân kim loại nguyên tử và
phát triển lên thành hạt kim loại. Ở đây, các polyol đóng vai trò vừa là dung môi,
tác nhân khử vừa là chất hoạt động bề mặt [36].
18
Trong số các polyol thì ethylene glycol (EG) là chất thích hợp nhất để khử
tiền chất kim loại vì có tính ổn định và nhiệt độ bay hơi cao (khoảng 197°C). Có
nhiều tài liệu cho rằng [37, 42, 67] quá trình EG khử các ion kim loại diễn ra theo
các phương trình phản ứng sau đây:
Mặc dù được sử dụng nhiều để chế tạo các hạt nano kim loại, phương pháp
polyol vẫn áp dụng rất hạn chế trong việc chế tạo màng đặc biệt là màng Pt. Thời
gian gần đây, ngày càng có nhiều công trình sử dụng phương pháp này để lắng đọng
màng Pt [41, 65, 66]. Tiền chất và polyol thường được sử dụng là H2PtCl6 và
ethylene glycol. Phản ứng xảy ra được khống chế trên bề mặt đế làm xuất hiện các
nhân kim loại phát triển dần thành màng. Thực chất phản ứng xảy ra có 2 quá trình
lắng đọng là: quá trình mọc màng trên bề mặt đế và quá trình hình thành hạt nano Pt
trong lòng chất lỏng. Do đó, sau phản ứng, tồn tại song song cả cấu trúc màng và
19
cấu trúc hạt. Phương
ng pháp polyol có nhi
nhiều ưu điểm đáng so với nhiềều phương pháp
khác như quy trình chế tạạo đơn giản, không cần
n chân không cao, ngu
nguồn năng lượng
lớn, không yêu cầuu các thi
thiết bị đắt tiền và không cần một lớp hoạt độộng xúc tác trên
bề mặt đế. Do đó tiềm
m nă
năng áp dụng vào trong thực tế là rất lớn,
n, lý ttưởng để ứng
dụng sản xuất hàng loạtt trong công nghi
nghiệp.
Hình 1.7. Các bộ phận chính của một cảm biếnn sinh hhọc
20
biến enzyme (enzyme sensor); cảm biến ADN (DNA sensor); cảm biến miễn
dịch (immunosensor).
• Bộ phận chuyển đổi (transducer) là bộ phận chuyển đối các tín hiệu sinh
học có nguồn gốc từ tương tác của chất phân tích với đầu thu tín hiệu trở
thành tính hiệu khác có thể đo đạc và định lượng.
• Hệ thống điện tử: Bao gồm các hệ thống điện tử như bộ khuếch đại, phần
mềm máy tính và giao diện người dùng có thể hiển thị các kết quả đo đạc
một các trực quan.
Như vậy có thể tóm gọn lại nguyên lý hoạt động của một cảm biến sinh học
như sau: Khi cho đầu thu sinh học tiếp xúc với chất phân tích, sẽ xảy ra phản ứng
giữa chất phân tích và đầu thu sinh học tạo ra hoặc làm thay đổi các tín hiệu như
điện, nhiệt, quang. Các tín hiệu này được bộ phận chuyển đổi chuyển thành tín hiệu
khác có thể đo đạc và định lượng (thường là tín hiệu điện) sau đó được khuếch đại
và xử lý bằng phần mềm máy tính để trở thành các tham số vật lý có ý nghĩa rồi
được hiển thị lên giao diện tương tác với con người.
21
điện thế là không có dòng điện trong mạch đo, vì thế người ta gọi nó là điện cực có
dòng điện bằng không). Điện thế này được xác định theo phương trình Nerst, trong
đó điện thế tỷ lệ với hàm logarit của nồng độ chất phân tích.
Điện cực nhạy ion (ISE) là điện cực có khả năng tương tác chọn lọc với các
ion tích điện cần quan tâm. ISE phải có thế điện cực được thiết lập đủ nhanh và có
độ chính xác cao. Trong cảm biến điện hóa, điện cực nhạy ion thường dùng là điện
cực màng và điện cực khí được chế tạo từ các kim loại trơ như Pt, Au hoặc từ màng
thủy tinh.
Trong hầu hết các ứng dụng điện hóa, ngoài điện cực chọn lọc ion ta phải sử
dụng thêm một điện cực có điện thế xác định và không đổi. Điện cực này được gọi
là điện cực chuẩn hay điện cực so sánh. Điện cực chuẩn phải không tham gia phản
ứng với bất kỳ thành phần nào trong dung dịch cần khảo sát, phải thuận nghịch và
tuân theo phương trình Nerst, phải có điện thế không đổi theo thời gian và có thể
lấy lại giá trị thế ban đầu sau khi có dòng điện nhỏ chạy qua. Hiện nay, điện cực
chuẩn thường được sử dụng là điện cực calomel và điện cực Ag/AgCl.
1.3.3. Ứng dụng màng Platin trong cảm biến sinh học
Platin có nhiều tính chất quý như ổn định hóa học, dẫn điện tốt có khả năng
xúc tác hiệu quả trong nhiều phản ứng hóa học nên được ứng dụng phổ biến để chế
tạo cảm biến sinh học, đặc biệt là cảm biến điện hóa. Thông thường, trong ứng dụng
22
này, Pt được lắng đọng dưới dạng màng trên bề mặt của đế hoặc một chất nền nào
đó. Màng Pt lúc này trở thành một bộ phận của bộ phận chuyển đổi, có tác dụng cố
định các đầu thu sinh học để làm địa điểm cho các phản ứng tương tác giữa đầu thu
sinh học và chất phân tích. Nếu diện tích bề mặt càng lớn thì có khả năng lượng đầu
thu sinh học được gắn trên bề mặt màng Pt càng nhiều, dẫn đến khi tương tác với
chất phân tích, tín hiệu sẽ mạnh hơn và dễ dàng nhận biết được. Vì vậy một trong
những vấn đề quan trọng nhất của màng Pt khi ứng dụng làm điện cực là diện tích
bề mặt của màng. Ngày nay, với màng có cấu trúc nano, diện tích bề mặt đã được
tăng lên một cách đáng kể. Tuy nhiên để chế tạo ra các màng này, người ta thường
dùng các phương pháp đắt tiền hoặc đòi hỏi những điều kiện chế tạo đặc biệt như
chân không cao hay nguồn điện năng lớn gây khó khăn cho việc sản xuất đại trà
trong công nghiệp. Do đó, luận văn này sẽ nghiên cứu phương pháp đơn giản chế
tạo màng nano Pt là phương pháp khử Polyol và thử nghiệm ứng dụng màng này để
chế tạo điện cực Pt.
Một vấn đề quan trọng không kém là phương pháp cố định đầu thu sinh học
lên trên bề mặt màng Pt. Liên kết này giữa đầu thu sinh học và màng Pt phải rất bền
chặt để có thể ứng dụng tốt trong cảm biến sinh học. Một phương pháp đơn giản và
được sử dụng nhiều đó là tạo đơn lớp tự sắp xếp (SAM – Self-Assembled
Monolayer). Đây là một phương pháp dễ dàng, thuận tiện để có thể cố định được
các đầu thu sinh học chặt chẽ trên bề mặt của màng Pt.
23
mặt đế. Lợi dụng
ng tính ch
chất này có thể chức năng hóa màng Pt bằng
ng m
một số chất hữu
cơ thích hợp có khả năng
ăng ttạo SAM trên bề mặt Pt để cố định các đầu
u thu sinh hhọc.
Chức năng hóa bềề mặt màng là công việc quan trọng để có th
thể gắn kết các
phân tử sinh học lên bề m
mặt màng. Màng Pt chỉ có khả năng tạoo liên kkết bền vững
với một số loạii nhóm đđặc trưng, chẳng hạn như các nhóm thiol, pphosphonate,
silanes chứ không thể tạạo liên kết trực tiếp với các nhóm chứcc có trong enzyme,
DNA hay kháng thể.. Vì vvậy để gắn kết các phân tử hữu cơ này lên bề
b mặt màng,
cần thiết phải có mộtt ch
chất trung gian vừa có thể cố định trên bề mặặt màng vừa có
khả năng liên kết vớii các loại phân tử sinh học. Những chất như
ư vvậy gọi là chất
chức năng hóa bề mặt.
24
chẳng hạn như Au, Ag, Cu, Fe và Pt. Trong đó, các alkanethiol mà đặc biệt là 4-
ATP được dùng khá phổ biến cho mục đích này.
Quy trình chức năng hóa bề mặt màng khá đơn giản, màng có thể được chức
năng hóa bằng cách nhúng vào một dung dịch đồng nhất của vật liệu chức năng hóa
bề mặt. Sau một thời gian đủ lâu, các nhóm liên kết trong chất chức năng hóa tạo
thành SAMs một cách tự nhiên trên bề mặt màng và do đó gắn kết một cách chặt
chẽ với màng. Lúc này màng đã sẵn sàng để mang đi gắn kết với các phân tử sinh
học.
Để xác định và chứng minh được màng đã được chức năng hóa, người ta tiến
hành nghiên cứu liên kết giữa màng và phân tử của chất chức năng đó. Thông
thường, khi chất chức năng hóa đã cố định lên màng, một liên kết nào đó trong phân
tử của chất này sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng liên kết mới với lớp màng bên
dưới. Sự mất đi của liên kết cũ và xuất hiện của liên kết mới có thể thấy được thông
qua việc nghiên cứu phổ hồng ngoại và phổ Raman. Bằng cách so sánh các phổ của
chất chức năng hóa nguyên chất, màng trước và sau khi đã chức năng hóa có thể đi
đến kết luận một cách chính xác về việc gắn kết của chất chức năng hóa lên bề mặt
của màng.
25
hạt nano kim loại, nhưng lại rất ít các nghiên cứu sử dụng để chế tạo màng, đặc biệt
là màng Pt. Trong thời gian gần đây, ngày càng nhiều các công trình bước đầu thử
nghiệm phương pháp này để lắng đọng màng [41, 65, 66]. Tuy vậy, hầu hết đều giới
hạn trong tạo màng trên các đế Indium Tin Oxide (ITO) và Fluorine doped Tin
Oxide (FTO) nhằm mục đích ứng dụng trong pin mặt trời, ít có ứng dụng trong lĩnh
vực khác, đặc biệt trong lĩnh vực sinh học – một lĩnh vực đang có tiềm năng rất lớn.
Mặc khác, theo kiến thức và tìm hiểu của tác giả, ở Việt Nam hiện chưa có một
công trình nào cụ thể nghiên cứu về màng platin được chế tạo bằng phương pháp
polyol. Hơn nữa, với mục tiêu tìm kiếm một phương pháp đơn giản, phù hợp với
điều kiện trang thiết bị còn hạn chế ở Việt Nam mà vẫn đảm bảo khả năng ứng dụng
trong chế tạo cảm biến sinh học, chúng tôi quyết định sử dụng phương pháp này để
chế tạo màng Pt trên đế silic. Polyol được lựa chọn để tiến hành thí nghiệm là
ethylene glycol, và tiền chất là axit chloroplatinic. Trong khi, ethylene glycol là hóa
chất dễ kiếm thì axit chloroplatinic lại có thể chế tạo dễ dàng bằng cách cho platin
vào nước cường toan. Quá trình lắng đọng màng được thử nghiệm trên một chiếc
máy khuấy từ có khả năng kiểm soát nhiệt độ đặt trong một tủ kín để hạn chế các
tác động không mong muốn từ môi trường ngoài.
Để thử nghiệm trong chế tạo cảm biến sinh học, chúng tôi bước đầu nghiên
cứu việc gắn kết của màng Pt sau khi chế tạo với các phân tử sinh học. Đây là bước
khá quan trọng vì chỉ khi xác định được các đầu thu sinh học được cố định tốt trên
bề mặt của màng thì mới có thể thực sự ứng dụng màng Pt này vào chế tạo bộ phận
chuyển đổi trong cảm biến sinh học. Quá trình thử nghiệm đính kết sẽ tiến hành
trong hai bước: chức năng hóa bề mặt màng và đính kết các phân từ sinh học lên
màng đã chức năng. Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng 4-aminothiophenol (4-
ATP) với tư cách là chất chức năng hóa bề mặt. Phân tử 4-ATP vừa chứa nhóm
thiol (S-H) vừa chứa nhóm amino (NH2). Trong khi nhóm thiol có khả năng tạo liên
kết rất bền vững với các kim loại như Au, Ag, Cu, Pt… thì nhóm amino dễ dàng
liên kết với các phân tử hữu cơ như enzyme, kháng thể, DNA... Liên kết chặt giữa
lưu huỳnh trong nhóm thiol và kim loại sẽ giúp cho các phân tử hữu cơ được cố
26
định trên bề mặt màng. Cần chú ý rằng, lượng 4-ATP phải dư để các phân tử 4-ATP
tạo thành một đơn lớp xếp chặt trên bề mặt màng, nhờ đó các nhóm chức năng luôn
luôn hướng ra bên ngoài bề mặt Pt tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc và bắt
cặp với các phân tử hữu cơ. Hai chất hữu cơ được lựa chọn để thực hiện việc đính
kết là enzyme glucose oxidase (GOx) và axit citric. Mỗi chuỗi enzyme có cả gốc
COOH tự do và liên kết peptit trong nó, còn mỗi phân tử axit citric chỉ có một gốc
COOH và không có liên kết peptit nào. Như vậy khi nghiên cứu việc đính kết của
hai loại phân tử này có thể bao quát được các khả năng trong đó nhóm cacboxyl liên
kết với nhóm chức năng amino để tạo thành liên kết peptit.
27
Chương 2: THỰC NGHIỆM
Dung dịch H2PtCl6 0.01M được cho vào hòa tan với ethylene glycol để tạo ra
hỗn hợp dung dịch H2PtCl6 mới có nồng độ 0.002M. Rung siêu âm trong 5 phút để
các chất hoàn toàn trộn lẫn vào nhau. Dung dịch lúc này có màu vàng tươi.
Bật máy khuấy từ, kiểm soát nhiệt độ xung quanh điểm 140°C. Đặt đế silic
lên trên bề mặt của máy, chờ trong 5 phút cho đến khi đế silic đạt 140°C. Sử dụng
pipet lấy 2 ml dung dịch H2PtCl6 0.002M nhỏ từ từ trải đều trên mặt đế. Sau khoảng
3 – 5 phút, dung dịch bắt đầu bay hơi và khô hoàn toàn sau 10 phút. Từ màu vàng
tươi của dung dịch dung dịch H2PtCl6, bề mặt đế lúc này được bảo phủ bằng 1 lớp
28
màng mỏng
ng màu xám đen ph
phản xạ ánh sáng kém. Mang màng mỏng
ng đđi ủ ở nhiệt độ
450°C thu đượcc màng Pt hoàn ch
chỉnh có màu sáng trắng phản xạ tốtt ánh sáng.
29
STT Tên hóa chất Công thức Nguồn gốc
7 Kali clorua KCl MERCK
8 Natri hydrophotphat Na2HPO4 BIO BASIC
9 Kali dihydrophotphat KH2PO4 BIO BASIC
• Màng Pt được ngâm rửa trong dung dịch ethanol, sau đó được lấy ra
và sấy khô ở 60°C.
• Pha 4-ATP trong ethanol để tạo thành dung dịch 4-ATP 0.01M.
• Cho màng Pt vào cốc thí nghiệm, sử dụng một lượng dung dịch 4-
ATP vừa đủ để làm ngập màng trong chất lỏng và cất giữ trong 24 giờ
ở nhiệt độ thường
• Lấy màng ra khỏi dung dịch, rửa lại bằng ethanol để loại bỏ hoàn toàn
4-ATP còn lưu lại. Sau đó để màng khô tự nhiên trong không khí.
• Hòa tan 800 ml nước cất 2 lần với: 8 g NaCl, 0.2 g KCl, 1.44 g
Na2HPO4 và 0.24 g KH2PO4.
• Điều chỉnh độ pH đạt 7.4 bằng HCl và NaOH.
• Cho thêm H2O để đạt được thể tích 1 ml
• Tiệt trùng bằng nồi hấp
30
EDC đặt hàng từ BioBasic, lưu trữ trong tủ 4°C. Mỗi lần dùng cần sử dụng
nhanh vì EDC hút nước và phân hủy. Lần này, dung môi nước đều phải là nước cất
2 lần được khử trùng
1 ml enzyme có nồng độ 0.1 mM được hòa tan trong 5 ml dung dịch PBS 1X
chứa trong 1 cốc nhỏ có thể tích 50 ml. Cho 1 mg EDC vào cốc thí nghiệm và lắc
đều nhẹ tay cho đến khi tan hoàn toàn. Tiếp đến, lấy màng Pt đã được chức năng
hóa nhúng chìm hẳn vào dung dịch trong cốc rồi bịt kín bằng 1 lớp màng polyester
và lưu trữ ở 4°C. Cuối cùng, Sau 12 giờ màng Pt được lấy ra, rửa lại vài lần bằng
PBS và để khô tự nhiên trong không khí.
Các bước đính kết axit citric tương tự như đính kết enzyme. Trước hết, axit
citric được hòa tan trong nước cất để tạo dung dịch có nồng độ 0.1 mM. Rút ra 1 ml
dung dịch axit citric vừa pha, hòa lẫn với 5 ml dung dịch PBS 1X trong cốc thí
nghiệm, sau đó cho thêm 1 mg EDC vào rồi lắc đến khi tan hoàn toàn. Nhúng màng
Pt ngập hoàn toàn trong dung dịch, bọc kín lại và lưu giữ ở 4°C trong 12 giờ. Cuối
cùng màng được lấy ra, rửa sạch bằng PBS và để khô tự nhiên.
31
Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích cấu trúc tinh thể bằng nhiễu xạ
tia X (X-Ray Diffraction - XRD) dựa vào hiện tượng nhiễu xạ tia X trên mạng tinh
thể khi thoả mãn điều kiện phản xạ Bragg:
2dsinθ = nλ (2.1)
với d là khoảng cách giữa các mặt phẳng nguyên tử liền kề, θ là góc nhiễu
xạ, λ là bước sóng của tia X và n là bậc phản xạ. Tập hợp các cực đại nhiễu xạ
Bragg dưới các góc 2θ khác nhau được ghi nhận bằng phim hoặc detector cho ta
phổ nhiễu xạ tia X.
Hiện nay với việc phát triển kỹ thuật nhiễu xạ tia X, người ta đã chứng minh
được phương pháp ghi giản đồ nhiễu xạ hoàn toàn có thể áp dụng để xác định kích
thước hạt tinh thể trong màng mỏng (hay trong vật liệu nói chung). Đó là công thức
Scherrer:
0.9λ
D= (2.2)
βcosθ
Trong đó:
Từ công thức trên chúng ta nhận thấy đối với tinh thể khối có cấu trúc hoàn
hảo (không có hạt nanô tinh thể) thì tất cả các đỉnh đều nhọn, không có độ bán rộng
(β → 0 thì D → ∞). Nhiễu xạ tia X của màng mỏng thường cho các đỉnh không sắc
nhọn như trong trường hợp tinh thể khối, còn màng mỏng cấu trúc nano cho các
đỉnh tương đối tù với cường độ nhiễu xạ không lớn.
32
Các mẫu trong luận văn này đã được phân tích cấu trúc bằng nhiễu xạ kế tia
X D5005 của hãng Bruker (Đức) tại Trung tâm Khoa học vật liệu (TT KHVL) sử
dụng bước sóng tia X tới từ bức xạ Kα của Cu là : λCu = 1,54056 Ǻ
Hình 2.3. Thiết bị kính hiển vi điện tử quét Jeol 5410 LV tại Trung tâm Khoa
học Vật liệu
Nguyên tắc cơ bản của phương pháp SEM là sử dụng tia điện tử để tạo ảnh
mẫu nghiên cứu. Ảnh đó khi đến màn ảnh quang có thể đạt độ phóng đại yêu cầu.
Chùm tia điện tử được tạo ra từ catot qua hai tụ quay sẽ được hội tụ lên mẫu nghiên
cứu. Khi chùm tia điện tử đập vào bề mặt của mẫu, chúng va chạm không đàn hồi
33
với các nguyên tử của mẫu làm bật ra các electron ở lớp K, các electron này gọi là
electron thứ cấp. Mỗi electron thứ cấp qua điện thế gia tốc vào phần thu và biến đổi
thành một tín hiệu ánh sáng. Chúng được khuyếch đại, đưa vào mạng lưới điều
khiển tạo độ sáng trên màn ảnh. Độ sáng, tối trên màn ảnh phụ thuộc vào số electron
thứ cấp phát ra từ mẫu nghiên cứu và phụ thuộc vào hình dạng bề mặt mẫu nghiên
cứu
Phương pháp SEM sử dụng để khảo sát và chụp ảnh cấu trúc bề mặt mẫu.
Thông qua đó có thể xác định được sự phân bố của hạt, kích thước trung bình và
hình dạng tinh thể của các hạt hay các vật liệu có cấu trúc tinh thể khác.
Màng Pt sau khi chế tạo được tiến hành chụp SEM phân giải cao sử dụng
máy FESEM Hitachi S4800 tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
34
electron có năng lượng cao và được thu hẹp nhờ hệ các thấu kính điện từ. Các mẫu
màng trong luận văn được phân tích EDX nhờ thiết bị kính hiển vi điện tử quét có
tích hợp hệ thống phân tích phổ tán xạ năng lượng tia X (EDS) TEAM Apollo XL
EDS của hãng EDAX tại Khoa Vật lý – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
35
qua xử lý của phần mềm
m máy tính, cho phép duy trì ở chế độ lựcc không đổi hay chế
độ độ cao không đổii trên bbề mặt mẫu.
Phương
ng pháp AFM có th
thể khảo sát mẫu rất mỏng, bởi vì ảnh
nh ttạo bởi phương
pháp này là do lựcc nguyên ttử của lớp
p ngoài cùng là chính. Bán kính m
mũi dò thường
nhỏ hơn 400A0. Phương
ương pháp này đo được cả vật liệu dẫn điệnn và không dẫn
d điện.
Không đòi hỏi môi trường
ng chân không cao. M
Mẫu chuẩn bị đơn giản,
n, cho thông tin
hình ảnh đầy đủ hơnn phươ
phương pháp SEM.
Màng Pt trong luậận văn được khảo sát bề mặt nhờ thiết bị đo Park Systems
XE-100 tại Khoa Vậtt lý, Trường
Tr Đại học Khoa học Tự nhiên.
Thiết bị đo sử dụng
ng một
m đầu dò kim cương được dịch chuyểnn trên bbề mặt với
áp lực rất nhẹ để lấyy thông tin vvề hình dạng bề mặt của mẫu từ đó
ó xác định được độ
gồ ghề và chiều dày củaa màng. Độ phân giải theo chiều thẳng đứng
ng là 10 A
A°, bước
dịch chuyển từ 200 A° đếến 65 µm. Phân giải theo phương nằm
m ngang ph
phụ thuộc vào
bán kính của đầu dò [1].
36
Độ dày của màng mỏng trong luận văn được đo đạc sử dụng thiết bị đo bề
mặt Dektak 150 của hãng Veeco tại Trung tâm Khoa học Vật liệu – Đại học Khoa
học Tự nhiên.
Kỹ thuật này dựa trên hiệu ứng đơn giản là: các liên kết trong phân tử có khả
năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại ở bước sóng thích hợp. Tại bước sóng đó, liên kết
hấp thụ năng lượng bức xạ để chuyển sang mức dao động mới (mức dao động kích
thích). Như vậy, bước sóng này sẽ đặc trưng cho liên kết tương ứng. Khi mẫu
nghiên cứu được chiếu tia hồng ngoại có tần số liên tục thay đổi thì những tia có
năng lượng nhất định mới bị hấp thụ. Thông qua đó có thể xác định được các liên
kết có trong mẫu nghiên cứu.
Mẫu đo phổ IR có thể ở dạng rắn, lỏng hoặc khí nhưng thông thường mẫu
thường được chuẩn bị dưới dạng rắn hoặc lỏng. Mẫu không nên chứa nước vì nước
hấp thụ mạnh các bức xạ có bước sóng 3.7 m (~3710 cm-1) và khoảng 6.25 m
(~1360 cm-1). Các dải này chồng lên phổ của liên kết cần nghiên cứu, gây khó khăn
cho việc giải thích phổ.
Mẫu màng mỏng Pt trong luận văn được phân tích phổ FTIR nhờ thiết bị đo
FT/IR-6300 của Jasco tại Trung tâm Khoa học Vật liệu – Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên.
37
lượng giữa hai mức dao động của nguyên tử (hoặc mạng tinh thể) cùng với sự tạo
thành hoặc hủy một lượng tử dao động. Bằng cách so sánh phổ Raman của các mẫu
với phổ của vật liệu chuẩn hoặc bằng cách tính toán lý thuyết về độ rộng của vạch,
kiểu dạng và sự sắp xếp các vạch phổ ta có thể biết được thành phần pha, cấu trúc
của mẫu nghiên cứu.
Trong quang phổ Raman, mẫu được chiếu xạ bởi chùm laser cường độ mạnh
trong vùng tử ngoại-khả kiến ( v0 ) và chùm ánh sáng tán xạ thường được quan sát
theo phương vuông góc với chùm tia tới. Ánh sáng tán xạ bao gồm hai loại: một
được gọi là tán xạ Rayleigh, rất mạnh và có tần số giống với tần số chùm tia tới ( v0 )
loại còn lại được gọi là tán xạ Raman, rất yếu. Để quan sát được vạch Raman, ta
phải: tăng cường độ của vạch Raman và tách vạch Raman khỏi vạch chính. Một
trong những phương pháp tăng cường là SERS (Surface Enhanced Raman
Scattering) dựa trên hiện tượng plasmon bề mặt. Phương pháp này khá hiệu quả
nhưng lại rất khó thực hiện vì phụ thuộc nhiều vào tính chất bề mặt kim loại và tần
số plasma của kim loại.
Phổ Raman của các mẫu thí nghiệm được đo đạc nhờ hệ phân tích phổ
Raman LabRAM HR của hãng HORIBA Jobin Yvon tại Trung tâm Khoa học Vật
liệu – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
38
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nhiệt độ tối ưu để chế tạo màng Pt ở trong khoảng 140°C – 160°C vì đây là
khoảng nhiệt độ ethylene glycol bị oxi hóa mạnh nhất thành glycolaldehyde – chất
khử chính trong phản ứng khử polyol (xem 1.2.7). Do đó chúng tôi đã tiến hành thử
nghiệm chế tạo ở các nhiệt độ khác nhau trong khoảng trên. Tuy nhiên, khi nhiệt độ
càng cao, quá trình bay hơi và đối lưu của chất lỏng xảy ra rất mạnh gây ra khó
khăn trong việc kiểm soát được độ đồng đều của màng trên đế. Vì vậy, trong luận
văn này, 140°C được sử dụng như nhiệt độ lý tưởng để chế tạo màng Pt thử nghiệm
trong sinh học. Màng chế tạo ở một số nhiệt độ cao hơn chỉ được sử dụng để nghiên
cứu trong các phép đo nhằm hiểu rõ hơn tính chất và quá trình tạo màng mỏng.
39
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ màng Pt trước khi ủ nhiệt
Dựa vào độ bán rộng có thể tính được một cách tương đối kích thước của hạt
theo công thức Scherrer (2.2).
Bảng 3.1. Các kết quả tính kích thước hạt theo các đỉnh nhiễu xạ
STT 2theta (độ) Độ bán rộng (độ) Bước sóng (nm) (hkl) D (nm)
1 39.78 0.70 0.154 111 12.1 ± 0.1
2 46.27 0.85 0.154 200 10.2 ± 0.2
3 67.57 0. 92 0.154 220 10.4 ± 0.4
Như vậy thông qua giản đồ nhiễu xạ gia X, sử dụng đỉnh có cường độ nhiễu
xạ mạnh nhất ở vị trí 39.77° tương ứng với mặt tinh thể (111), có thể tính được kích
thước tinh thể trước khi ủ cỡ 12.1 nm.
40
Hình 3.2. Giản đồ nhiệt xạ của màng Pt khi nung ở các nhiệt độ khác nhau
Hình 3.2 là giản đồ nhiễu xạ của các mẫu ở các nhiệt độ 140°C (vừa chế tạo),
300°C và 450°C. Dựa vào giản đồ nhiễu xạ, khi nhiệt độ ủ càng cao, cường độ các
đỉnh nhiễu xạ càng lớn thì đỉnh càng nhọn và độ bán rộng nhỏ đi. Như đã thấy ở
công thức Scherer, độ bán rộng của đỉnh nhiễu xạ tỷ lệ nghịch với kích thước của
hạt. Điều này gợi ý rằng, khi nung ở các nhiệt độ cao, kích thước trung bình của hạt
tăng lên.
Bảng 3.2. Kết quả các kích thước của hạt ở nhiệt độ 300°C.
STT 2theta (độ) Độ bán rộng (độ) Bước sóng (nm) D (nm)
1 39.80 0.69 0.154 12.2 ± 0.1
2 46.28 0.86 0.154 10.1 ± 0.2
3 67.59 0.91 0.154 10.5 ± 0.4
41
Bảng 3.3. Kết quả các kích thước của hạt ở nhiệt độ 450°C.
STT 2theta (độ) Độ bán rộng (độ) Bước sóng (nm) D (nm)
1 39.81 0.60 0.154 14.0 ± 0.1
2 46.32 0.69 0.154 12.4 ± 0.2
3 67.63 0.82 0.154 11.7 ± 0.3
Từ các bảng 3.2, 3.3, sử dụng đỉnh có cường độ nhiễu xạ mạnh nhất tương
ứng với mặt (111) ta tính được kích thước hạt nung ở 300°C là 12.2 nm không khác
nhiều so với kích thước của hạt ở 140°C, còn hạt nung ở 450°C thì kích thước trung
bình là 14.0 nm.
So sáng kích thước trung bình của hạt ở 140°C, 300°C, 450°C nhận thấy
rằng khi ủ màng Pt từ 140°C lên 300°C kích thước trung bình hạt nano không thay
đổi đáng kể. Tuy nhiên, khi ủ lên 450°C kích thước hạt lại tăng lên khá mạnh. Điều
này có thể có nguyên nhân từ sự phân hủy của muối H2PtCl6 còn dư khi nung ở các
nhiệt độ cao. Theo một số tài liệu [2, 8, 50, 74], ở nhiệt độ 400°C – 450°C, axit
chloroplatinic sẽ bị phân hủy hoàn toàn thành Pt. Quá trình phân hủy này không rõ
ràng, có thể axit chloroplatinic bị phân hủy thành từng nấc hoặc cũng có thể phân
hủy trực tiếp thành platin (xem 1.1.3.3). Do đó màng Pt nung ở 450°C chứa cả 2
loạt hạt Pt: 1 loại hình thành do phản ứng khử polyol và loại kia hình thành do phản
ứng phân hủy axit chloroplatinic. Các hạt Pt hình thành do nhiệt phân có kích thước
lớn hơn dẫn đến kích thước trung bình của hạt Pt tăng lên.
42
Hình 3.3. Phổ EDX của mẫu trước khi nung
Tuy theo kết quả EDX thì H2PtCl6 còn dư nhưng trong kết quả XRD chỉ có
các đỉnh đặc trưng của Pt chứ không có đỉnh của bất kỳ vật liệu ở dạng tinh thể nào
khác. Điều này có thể giải thích như sau: mặc dù H2PtCl6 có thể tồn tại ở dạng tinh
thể dưới dạng H2PtCl6.6H2O, tuy nhiên theo sự tìm hiểu của tác giả chưa có một
công bố nào đề cập đến nhiễu xạ của dạng chất này.
Hình 3.4 là phổ EDX của màng Pt nung ở 450°C. Ở nhiệt độ này, tuy lượng
Cl vẫn còn nhưng không đáng kể do muối H2PtCl6 đã bị phân hủy thành các hạt Pt.
43
3.1.3. Hình thái và kích thước
Hình 3.5. Ảnh SEM màng Pt chế tạo ở 140°C trước khi nung
Hình 3.5 và 3.6 lần lượt là ảnh SEM của màng Pt chế tạo ở 140°C trước khi
nung và sau khi nung ở 450°C. Trước khi nung, hình ảnh khá mờ, không rõ nét.
Nguyên nhân là vì muối còn dư và một số hợp chất hữu cơ được tạo thành sau phản
ứng làm cho màng dẫn điện kém dẫn đến lượng electron thứ cấp sinh ra khi chụp
SEM ít, gây khó khăn cho quá trình ghi ảnh. Sau khi nung lên 450°C, màng hiện lên
khá rõ ràng do các hợp chất hữu cơ và muối này đã bị phân hủy hoàn toàn làm cho
màng dẫn điện tốt.
(a) (b)
Hình 3.6. Ảnh SEM màng Pt chế tạo ở 140°C sau khi nung ở 450°C. (a) cấu
trúc màng, (b) các đám hạt
Dựa vào hình 3.6, mẫu nung ở 450°C có thể quan sát thấy 2 cấu trúc khá rõ
ràng là cấu trúc màng (a) và các đám hạt (b). Hai loại cấu trúc này tương ứng với 2
44
quá trình mọc màng: Quá trình mọc màng trên đế và quá trình mọc màng trong lòng
chất lỏng. Đối với quá trình mọc màng trên đế, dưới tác dụng của nhiệt, tiền chất Pt
ngay lập tức bị khử để tạo thành các nhân Pt gắn chặt trên bề mặt đế. Các nhân Pt
này phát triển dần tạo thành cấu trúc màng liên tục trải đều trên toàn bộ bề mặt đế.
Đối với quá trình mọc màng trong lòng chất lỏng, các nhân Pt hình thành một các
ngẫu nhiên trong dung dịch, dưới tác động của đối lưu, các nhân đó chuyển động
liên tục và phát triển lên tạo thành các hạt nano Pt tự do. Khi dung dịch phản ứng
bay hơi hết, các hạt nano này sẽ kết tụ vào nhau thành từng đám và lắng đọng trên
bề mặt của cấu trúc màng phía dưới. Vì là chỉ là các hạt nằm chồng lên nhau, nên
khi chưa nung, các hạt này dễ dàng bị bong ra khỏi đế khi cho vào nước. Đây chính
là nguyên nhân làm cho màng Pt khi chưa xử lý nhiệt có độ bám dính kém. Sau khi
ủ lên, các các đám hạt nano dưới tác dụng của nhiệt khuếch tán vào nhau và khuếch
tán vào cấu trúc màng Pt bên dưới làm cho độ bám dính của chúng tăng lên đáng
kể.
Bên cạnh hai loại cấu trúc màng và các đám hạt như đã chỉ ra, trên bề mặt
của mẫu sau khi nung còn có các hạt có kích thước lớn hơn nằm phía trên cả cả hai
loại cấu trúc này. Các hạt đó phân bố một cách đồng đều xuyên suốt bề mặt của
mẫu nên có thể kết luận chúng được hình thành sau khi nung lên nhiệt độ cao chứ
không thể hình thành bằng phản ứng ethylene glycol khử ion Pt. Vì nếu chúng được
hình thành trong phản ứng khử polyol thì sau khi dung môi phản ứng bay hơi hết,
các hạt này phải kết đám lại với nhau chứ không thể phân bố đồng đều như vậy. Chỉ
có một cách giải thích hợp lý đó là các hạt này có nguồn gốc tự sự phân hủy muối
H2PtCl6 còn dư ở nhiệt độ cao. Điều này được khẳng định khi nghiên cứu ảnh SEM
của màng Pt chế tạo ở 160°C và nung lên 450°C.
Hình 3.7 là ảnh SEM của màng Pt được chế tạo ở 160°C. Bề mặt của màng
khá lồi lõm so với mẫu chế tạo ở 140°C. Nguyên nhân có thể là do quá trình bay hơi
và đối lưu mạnh của dung môi phản ứng ở nhiệt độ cao. Bên cạnh đó, bề mặt mẫu
không tồn tại các hạt có kích thước lớn phân bố đồng đều như hình 3.6. Như vậy có
45
thể kết luận rằng ở 160°C, ethylene glycol oxi hóa thành glycolaldehyde khá nhiều,
dẫn tới việc khử hoàn toàn axit chloroplatinic trong dung dịch, do đó không còn
lượng H2PtCl6 còn dư để phân hủy thành hạt Pt ở nhiệt độ cao.
46
3.1. 4. Một số tính chấtt khác
Bên cạnh
nh các phép đo trên, màng Pt chế tạo ở 140°C cũng đượ
ợc khảo sát một
số tính chất khác như độ bám dính, độ dày của màng và tính chất điện.
n.
47
Độ dày của màng được đo bằng phương pháp đo độ dày Alpha-Step (hình
3.9). Kết quả cho thấy màng có độ dày trong khoảng khoảng 70 - 100 nm. Chú ý
rằng đây là độ dày tính từ bề mặt đế silic đến bề mặt màng chứ không phải độ dày
màng trung bình. Bên trên cấu trúc màng còn có các đám hạt có thể có độ cao vài
chục cho đến vài trăm nano. Màng Pt được chế tạo bằng phương pháp Polyol có khả
năng dẫn điện tốt. Kết quả đo bằng phương pháp bốn mũi dò cho thấy điện trở mặt
của màng của màng nằm trong khoảng 20 – 40 Ω/sq tùy thuộc vào từng mẫu khác
nhau.
Một cách tổng quát, phương pháp khử polyol áp dụng trong chế tạo màng
nano Pt có nhiều ưu điểm so với phương pháp khác như cách chế tạo đơn giản,
không yêu cầu máy móc và điều kiện phức tạp, đặc biệt có khả năng áp dụng một
các phổ biến trong công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những nhược điểm
như khó khống chế được độ dày của màng, độ đồng đều kém do hiện tượng đối lưu
và bốc hơi của chất lỏng trong quá trình chế tạo. Một hướng đi khả quan để khắc
phục các nhược điểm này là sử dụng kỹ thuật phun phủ màng. Trong đó sử dụng
một đầu phun có khả năng kiểm soát kích thước của hạt chất lỏng, đế silic được đặt
trên một tấm gia nhiệt có thể kiểm soát nhiệt độ. Thay đổi kích thước của hạt chất
lỏng và khoảng cách giữ đầu phun với đế sao cho khi hạt chất lỏng bay đến đế silic
thì ngay lập tức phản ứng khử xảy ra tạo thành hạt Pt. Một thuận lợi cơ bản của kỹ
thuật này là nhiệt độ đế có thể nâng lên trên 140°C, thậm chí lên tới 200°C hoặc cao
hơn nữa mà không sợ quá trình đối lưu và bay hơi ảnh hưởng đến sự tạo màng. Mặt
khác khi ở nhiệt độ cao, các hạt Pt được tạo thành khi hạt chất lỏng vừa chạm vào
đế sẽ liên kết chắc chắn với cấu trúc Pt có sẵn hoặc với silic dẫn tới hình thành một
cấu trúc xốp đồng nhất xuyên suốt trên bề mặt của màng. Đây là một hướng đi hứa
hẹn để hoàn thiện phương pháp khử polyol tạo màng nano Pt, đồng thời có thể sử
dụng để chế tạo màng xốp ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
48
3.2. Kết quả chức năng hóa màng Pt
Hình 3.10. Phổ FTIR (a) 4-ATP trên đế silic (b) màng Pt sau khi được chức
năng hóa bằng 4-ATP
Đối với 4-ATP nguyên chất, hầu hết các mode dao động trong tài liệu đã
xuất bản [9] đều xuất hiện. Tuy nhiên có 2 mode dao động νCSarom và δCHarom ở các
49
vị trí tương ứng là 1090 và 820 cm-1 có quan sát được nhưng nằm lẫn vào hai mode
rất mạnh của silic.
Bảng 3.4. Vị trí các mode dao động của 4-ATP nguyên chất và màng Pt đã
được chức năng hóa
Mode dao Vị trí đỉnh hấp thụ của 4- Vị trí đỉnh hấp thụ của màng Pt
động ATP nguyên chất (cm-1) chức năng hóa (cm-1)
νCN 1280 1280
νCC 1423 1420
νCC 1490 1486
νCC 1591 1583
νCC 1616 1618
νCHovertone 1884 1884
νSH 2551 -
νCHarom 3023 3025
νNH2 3209 3203
νsNH2 3360 3352
νaNH2 3460 3455
50
trình hấp thụ hóa học tại bề mặt thông qua các nguyên tử lưu huỳnh của phân tử 4-
ATP dẫn đến sự hình thành cấu trúc tự sắp xếp (self-assembly) với nhóm amino tự
do ở cuối hướng ra phía ngoài màng Pt. Ngoài ra, sự khác biệt giữa hai phổ hồng
ngoại còn thể hiện ở việc dịch chuyển vị trí của các mode dao động. Tuy vậy sự
dịch chuyển này chưa được hiểu rõ một cách hoàn toàn [9].
Mặc dù kết quả FTIR chỉ ra sự biến mất của mode dao động đặc trưng cho
liên kết S-H, nhưng lại không thể quan sát được mode đặc trưng của liên kết Pt-S
mới hình thành. Như sẽ chỉ ra trong phần kết quả Raman, mode dao động đặc trưng
cho liên kết này nằm ngoài thang đo của kết quả FTIR ở trên nên không thể nhận
biết được. Hơn nữa, theo các kết quả đã công bố [33, 75], liên kết Pt-S khó có thể
được xác định chỉ bằng phổ FTIR.
Hình 3.12. Phổ Raman của màng Pt và màng Pt sau khi chức năng hóa bằng 4-
ATP
51
Phổ Raman được sử dụng tương tự như phổ IR vì nó tạo ra các vạch phổ đặc
trưng cho mỗi loại liên kết. Platin được coi như một kim loại không tăng cường
dưới điều kiện kích thích của bước sóng nhìn thấy [8]. Hình 3.12 cho thấy phổ
Raman của màng Pt chưa chức năng hóa và sau khi đã chức năng hóa bằng 4-ATP.
Cả 2 phổ cùng có đỉnh ở 520 cm-1 tương ứng với vị trí liên kết của các nguyên tử
silic [5, 55]. Pt không có đỉnh nào đặc trưng trong cả 2 phổ. Các vị trí đỉnh khác của
màng Pt chức năng hóa được gán với các liên kết như trong bảng 3.5. Trong đó, các
đỉnh chuẩn của 4-ATP được lấy từ tài liệu công bố [73].
Bảng 3.5. Vị trí đỉnh Raman của 4-ATP nguyên chất [73] và màng Pt sau khi được
chức năng hóa bằng 4-ATP
Thông qua bảng 3.5 có thể nhận thấy hầu hết các vạch phổ đặc trưng của 4-
ATP đề xuất hiện trong phổ của màng Pt sau khi chức năng hóa. Mode dao động
νC-S của 4-ATP trên Pt bị dịch xuống tần số thấp so với tần số thu được của 4-ATP
nguyên chất. Sự dịch chuyển xuống tương tự của thiolphenol trên bề mặt Pt cũng đã
được quan sát bởi Bryant và đồng sự [48]. Điều này chỉ ra rằng sự hấp thụ phân tử
4-ATP xảy ra khi liên kết Pt-S được tạo thành. Có thể coi đây như một bằng chứng
nữa của việc hấp thụ 4-ATP trên bề mặt Pt. Ngoài ra, quan sát phổ Raman của màng
Pt chức năng hóa có thể nhận thấy một đỉnh nhỏ ở vị trí 356 cm-1 (hình 3.12). Trong
52
bài review của mình [6], Kudelski cho rằng vị trí này (360 cm-1) tương ứng với
mode kéo dãn của liên kết Pt-S. Như vậy có thể khẳng định một cách chắc chắn
rằng, 4-ATP đã tạo lên kết Pt-S khi bị hấp thụ trên bề mặt của màng Pt.
Hình 3.13 là phổ đo FTIR của màng Pt sau khi thử nghiệm gắn kết enzyme.
Có thể thấy rằng các đỉnh dao động của gốc amino ở các vị trí 3203, 3352, 3455 cm-
1
(hình 3.10) trong phổ FTIR của 4-ATP trên màng Pt đã biến mất. Bên cạnh đó,
đỉnh của mode dao động νC-C tại vị trí 1618 cm-1 cũng biến mất hoặc bị che lấp
bởi mode dao động có vị trí 1640 cm-1. Đây chính là tần số dao động C=O amide I
53
[34]. Điều này gợi ý rằng, nhóm amino của 4-ATP trên bề mặt Pt đã phản ứng với
nhóm cacboxyl của enzyme để tạo thành liên kết peptit. Quá trình tạo thành liên kết
peptite có thể được thể hiện một cách ngắn gọn như sau [28]:
Trong đó EDC có vai trò là chất trung gian, tạo điều kiện cho phản ứng tạo
thành liên kết peptit bền vững.
Như vậy thông qua sự xuất hiện vạch phổ ở 1640 cm-1 tương ứng với tần số
vạch amide I và sự biến mất của các vạch đặc trưng cho nhóm amino, có thể nói
rằng đã có sự gắn kết giữa enzyme và 4-ATP trên bề mặt Pt thông qua sự tạo thành
liên kết peptit giữa nhóm amino và cacboxyl. Tuy nhiên, vì enzyme có bản chất là
protein chứa cả 2 nhóm amino, cacboxyl và cả các chuỗi polipeptit trong nó nên dao
động admide I có thể có nguồn gốc nội tại của phân tử enzyme. Vì vậy, để làm rõ
chúng tôi thử nghiệm thêm việc gắn kết với axit citric vì phân tử của chất này chỉ có
một nhóm cacboxyl, thông qua đó có thể dễ dàng xác nhận lại sự tạo thành liên kết
peptit giữa nhóm amino của 4-ATP và nhóm cacboxyl của phân tử axit citric.
54
3.3.2. Gắn kết vớii axit citric
Hình 3.14. Phổ FTIR ccủa màng Pt gắn axit citric ở thang đo 50 – 4000 cm-1
o (a) 500
(b) 1200 – 2200 cm-1
55
KẾT LUẬN
Màng Pt có cấu trúc nano đã được chế tạo thành công trên đế silic sử dụng
phương pháp polyol. Màng được tạo thành có độ bám dính tốt, kích thước tinh thể
trung bình thay đổi từ 10 – 14 nm tùy theo nhiệt độ nung. Màng được tạo thành có
hai loại cấu trúc: cấu trúc màng và các đám hạt. Trong khi cấu trúc màng có nguồn
gốc từ sự phát triển của Pt trên bề mặt đế thì đám hạt là do sự tạo thành của các hạt
Pt trong lòng chất lỏng, kết tụ và lắng đọng lại trên bề mặt của lớp màng bên dưới.
Độ dày của màng thay đổi từ 70 – 100 nm, không đồng nhất trên bề mặt đế do quá
trình bay hơi và đối lưu của dung môi lỏng trong quá trình chế tạo, cũng như sự
hình thành của các đám hạt trên bề mặt màng. Đây là nhược điểm lớn nhất của
phương pháp này, tuy nhiên có thể khắc phục thông qua việc sử dụng một số kỹ
thuật phủ màng khác như kỹ thuật phun phủ. Màng Pt được chế tạo bằng phương
pháp polyol có khả năng đính kết các phân tử sinh học sau khi được chức năng hóa
với 4-ATP. Điều này mở ra khả năng ứng dụng to lớn trong việc chế tạo điện cực
của cảm biến sinh học với giá rẻ và phương pháp đơn giản.
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Nguyễn Năng Định (2009), Vật lý và kỹ thuật màng mỏng, NXB ĐHQGHN.
[2] Hoàng Nhâm, Hóa học vô cơ, Tập 3, NXB Giáo Dục.
Tiếng Anh
57
[10] Bong Kyun Park, Sunho Jeong, Dongjo Kim, Jooho Moon, Soonkwon Lim,
Jang Sub Kim (2007), “Synthesis and size control of monodisperse copper
nanoparticles by polyol method”, Journal of Colloid and Interface Science,
331, pp. 417-424.
[11] Boulikas, T.; Pantos, A.; Bellis, E.; Christofis, P (2007), “Designing platinum
compounds in cancer: Structures and mechanisms”, Cancer Ther. , 5, pp. 537–
583.
[12] Chang Ho Yoon, R. Vittal, Jiwon Lee, Won-Seok Chae, Kang-Jin Kim (2008),
“Enhanced performance of a dye-sensitized solar cell with an electrodeposited-
platinum counter electrode”, Electrochimica Acta, 53, pp. 2890–2896.
[13] Chen, D.H.; Yeh, J.J.; Huang, T.C. (1999), “Synthesis of platinum ultrafine
particles in AOT reverse micelles”, J. Colloid Interface Sci., 215, pp. 159–166.
[14] Che-Yu Lin, Jeng-Yu Lin, Jo-Lin Lan, Tzu-Chien Wei, Chi-Chao Wan (2010),
“Electroless Platinum Counter Electrode for Dye-Sensitized Solar Cells by
Using Self-Assembly Monolayer Modification”, Electrochemical and Solid-
State Letters,13 (11) D77-D79.
[15] Chih-Ming Chen, Chia-Hsien Chen, Sheng-Jye Chernga, Tzu-Chien Wei
(2010), “Electroless deposition of platinum on indium tin oxide glass as the
counterelectrode for dye-sensitized solar cells”, Materials Chemistry and
Physics, 124, pp. 173-178.
[16] Chun-Wei Chen and Mitsuru Akashi (1997), “Synthesis, Characterization, and
Catalytic Properties of Colloidal Platinum Nanoparticles Protected by Poly(N-
isopropylacrylamide)”, Langmuir, 13, pp. 6465–6472.
[17] Craig, Bruce D; Anderson, David S; International, A.S.M. (1995), Handbook
of corrosion data, pp. 8-9.
[18] Elham Gharibshahi, Elias Saion (2012), “Influence of Dose on Particle Size
and Optical Properties of Colloidal Platinum Nanoparticles”, Int. J. Mol. Sci.,
13, pp. 14723-14741.
58
[19] Ermete Antolini (2007), “Platinum-based ternary catalysts for low temperature
fuel cells: Part II. Electrochemical properties”, Applied Catalysis B:
Environmental, vol. 75, pp. 337–350.
[20] Fenghua Li, Fei Li, Jixia Song, Jiangfeng Song, Dongxue Han, Li Niu (2009),
“Green synthesis ofhighly stable platinum nanoparticles stabilized by amino-
terminated ionic liquid and itselectrocatalysts for dioxygen reduction and
methanol oxidation”, Electrochem. Commun., 11, pp. 351–354.
[21] Fumitaka Mafuné, Jun-ya Kohno , Yoshihiro Takeda , and Tamotsu Kondow
(2000), “Formation and Size Control of Silver Nanoparticles by Laser Ablation
in Aqueous Solution”, J. Phys. Chem. B, 104 (39), pp. 9111–9117.
[22] George B. Kauffman, Joseph J. Thurner, David A. Zatko (1967), “Ammonium
Hexachloroplatinate(IV)”, Inorganic Syntheses, Volume 9.
[23] George S. Newth (1920), A Text-book of Inorganic Chemistry, Longmans,
Green, and co. p. 694.
[24] George T. Kerr, Albert E. Schweizer, Theodore Del Donno (1980), “β-
Platinum(II) Chloride”, Inorganic Syntheses, Volume 20
[25] Greenwood, N.N.; Earnshaw, A. (1997), Chemistry of the Elements (Second
ed.), New York: Elsevier Butterworth-Heinemann.
[26] Hongshui Wang, Xueliang Qiao, Jianguo Chen, Shiyuan Ding (2005),
“Preparation of silver nanoparticles by chemical reduction method”, Colloids
and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 256, pp. 111-115.
[27] http://hivatec.ca/consulting-design/thin-film-deposition/
[28] http://irs.ub.rug.nl/dbi/43789b7720e98
[29] http://www.seas.ucla.edu/prosurf/MOCVD.htm
[30] http://www.tcbonding.com/sputtering.html
[31] Izumi Ohno (2010), Modern Electroplating, Fifth Edition, John Wiley & Sons,
c. 20.
59
[32] J. R. Vargas Garcia, Takashi Goto (2003), “Chemical Vapor Deposition of
Iridium, Platinum, Rhodium and Palladium”, Materials Transactions, Vol. 44,
No. 9, pp. 1717 to 1728.
[33] Jian Feng Li et al (2010), "Shell-isolated nanoparticle-enhanced Raman
spectroscopy", Nature 464, pp. 392-395.
[34] Jilie KONG and Shaoning YU (2007), “Fourier Transform Infrared
Spectroscopic Analysis o Protein Secondary Structures”, Acta Biochimica et
Biophysica Sinica, 39(8), pp. 549–559.
[35] Jining Xie, Shouyan Wang, L Aryasomayajula and V K Varadan (2007),
“Platinum decorated carbon nanotubes for highly sensitive amperometric
glucose sensing “, Nanotechnology, 18, 065503.
[36] John N. Lalena, David A. Cleary, Everett Carpenter, Nancy F. Dean (2008),
Inorganic Materials Synthesis and Fabrication, pp. 228.
[37] Juyoung Leem, Hyun Wook Kang, Seung Hwan Ko and Hyung Jin Sung
(2014), "Controllable Ag nanostructure patterning in a microfluidic channel for
real-time SERS systems", Nanoscale, 6, 2895
[38] Kang, W.P.; Kim, C.K. (1993), “Novel platinum‐tin oxide‐silicon
nitride‐silicon dioxide‐silicon gas sensing component for oxygen and carbon
monoxide gases at low temperature”, Appl. Phys. Lett., 63, pp. 421–423.
[39] Kenneth G. Kreider, Michael J. Tarlov, James P. Cline (1995), “Sputtered thin-
film pH electrodes of platinum, palladium, ruthenium, and iridium oxides”,
Sensors and Actuators B: Chemical, 28, pp. 167-172.
[40] Kevin E. Elkins, Tejaswi S. Vedantam, J. P. Liu, Hao Zeng, Shouheng Sun, Y.
Ding, Z. L. Wang (2003), “Ultrafine FePt Nanoparticles Prepared by the
Chemical Reduction Method”, Nano Letters, 3 (12), pp. 1647–1649.
[41] Kuan Sun, Benhu Fan, Jianyong Ouyang (2010), “Nanostructured Platinum
Films Deposited by Polyol Reduction of a Platinum Precursor and Their
Application as Counter Electrode of Dye-Sensitized Solar Cells”, J. Phys.
Chem. C, 114, pp. 4237–4244.
60
[42] L. Samiee, M. Dehghani Mobarake, R. Karami, and M. Ayazi (2012),
"Developing of Ethylene Glycol as a New Reducing Agent for Preparation of
Pd-Ag/PSS Composite Membrane for Hydrogen Separation", Journal of
Petroleum Science and Technology, 2, pp. 25-32
[43] L.G. Jacobsohn, X. Zhang, A. Misra and M. Nastasi (2005), “Synthesis of
metallic nanocrystals with size and depth control: A case study “, J. Vac. Sci.
Technol. B, 23, 1470.
[44] L.K. Kurihara, G.M. Chow, P.E. Schoen (1995), “Nanocrystalline metallic
powders and films produced by the polyol method”, Nanostructured Materials,
Vol 5, Issue 6, pp. 607–613
[45] Larry N. Lewis , Kevin H. Janora , Jie Liu , Shellie Gasaway , Eric P. Jacobson
(2004), “Low temperature metal deposition processes for optoelectronic
devices”, Proc. SPIE 5520, Organic Photovoltaics V, 244
[46] Long, N.V.; Chien, N.D.; Hayakawa, T.; Hirata, H.; Lakshminarayana, G.;
Nogami, M (2010), “The synthesis and characterization of platinum
nanoparticles: A method of controlling the size and morphology”,
Nanotechnology, 21, 035605.
[47] Maribel G. Guzmán, Jean Dille, Stephan Godet (2009), “Synthesis of silver
nanoparticles by chemical reduction method and their antibacterial activity “,
Int J Chem Biomol Eng
[48] Mark A. Bryant, Susan L. Joa, Jeanne E. Pemberton (1992), “Raman scattering
from monolayer films of thiophenol and 4-mercaptopyridine at platinum
surfaces”, Langmuir, 8 (3), pp. 753–756.
[49] Masahiko Hiratani, Toshihide Nabatame, Yuichi Matsui, Kazushige Imagawa,
Shinichiro Kimura (2001), “Platinum Film Growth by Chemical Vapor
Deposition Based on Autocatalytic Oxidative Decomposition”, Journal of The
Electrochemical Society, 148, C524-C527
61
[50] Min-Hye Kim, Young-Uk Kwon (2010), “Effects of Organic Additive during
Thermal Reduction of Platinum Electrodes for Dye-Sensitized Solar Cells”,
Materials Transactions, Vol. 51, No. 12, pp. 2322-2324.
[51] Mizukoshi, Y.; Takagi, E.; Okuno, H.; Oshima, R.; Maeda, Y.; Nagata, Y
(2011), “Preparation of platinum nanoparticles by sonochemical reduction of
the Pt(IV) ions: role of surfactants”, Ultrason. Sonochem. , 8, pp. 1–6.
[52] Nguyen The Binh, Nguyen Dinh Thanh,Nguyen Quang Dong, Nguyen Thi
Trinh (2014), "Preparation of Platinum Nanoparticles in Solution of Polyvinyl
Pyrrolydone (PVP) by Laser Ablation Method ", VNU Journal of Science:
Mathematics – Physics, 30 (2), pp. 18-24
[53] Nguyen Viet Long, Tong Duy Hien, Toru Asaka, Michitaka Ohtaki, Masayuki
Nogami (2011), “Synthesis and characterization of Pt–Pd alloy and core-shell
bimetallic nanoparticles for direct methanol fuel cells (DMFCs): Enhanced
electrocatalytic properties of well-shaped core-shell morphologies and
nanostructures”, Int. J. Hydrog. Energy, 36, pp. 8478–8491.
[54] O G Palanna (2009), Engineering Chemistry, McGraw Hill Publication, pp.
185
[55] Paweł Borowicz, Mariusz Latek, Witold Rzodkiewicz, Adam Łaszcz, Andrzej
Czerwinski, Jacek Ratajczak (2012), “Deep-ultraviolet Raman investigation of
silicon oxide: thin film on silicon substrate versus bulk material “, Adv. Nat.
Sci: Nanosci. Nanotechnol., 3 045003.
[56] R. Pereira, L.F. Marchesi, R.G. Freitas, R. Matos, E.C. Pereira (2013), “A low-
cost platinum film deposited direct on glass substrate for electrochemical
counter electrodes”, Journal of Power Sources, 232, pp. 254-257.
[57] Ryan O’Hayre, Sang-Joon Lee, Suk-Won Cha, Fritz.B Prinz (2002), “A sharp
peak in the performance of sputtered platinum fuel cells at ultra-low platinum
loading”, Journal of Power Sources, 109, pp. 483-493.
62
[58] S. Hazra, A. Gibaud, P . Laffez and C. Sella (2000), “Dependence of matrix
and substrate on the morphology of nanocermet thin films”, Eur. Phys. J. B, 14,
pp. 363-369.
[59] Sang Hern Kim, Chang Woo Park (2013), “Novel Application of Platinum Ink
for Counter Electrode Preparation in Dye Sensitized Solar Cells”, Bull. Korean
Chem. Soc., Vol. 34, No. 3 831
[60] Sara E. Skrabalak, Benjamin J. Wiley, Munho Kim, Eric V. Formo, Younan
Xia (2008), “On the Polyol Synthesis of Silver Nanostructures: Glycolaldehyde
as a Reducing Agent”, Nano Letters, Vol. 8, No. 7, pp. 2077-2081
[61] Seok-Soon Kim, Yoon-Chae Nah, Yong-Young Noh, Jang Jo, Dong-Yu Kim
(2006), “Electrodeposited Pt for cost-efficient and flexible dye-sensitized solar
cells”, Electrochimica Acta, 51, pp. 3814–3819.
[62] Shuhei HOSHIKA et al (2010), “Effect of application time of colloidal
platinum nanoparticles on the microtensile bond strength to dentin”, Dent.
Mater. J., 29, pp. 682–689.
[63] Sridhar Komarneni, Dongsheng Li, Bharat Newalkar, Hiraoki Katsuki, and
Amar S. Bhalla (2002), “Microwave−Polyol Process for Pt and Ag
Nanoparticles”, Langmuir, 18 (15), pp. 5959–5962
[64] Stojan S. Djokić, Pietro L. Cavallotti (2010), Electrodeposition Modern
Aspects of Electrochemistry, Springer New York, Volume 48, pp. 251-289.
[65] Swee Jen Cho, Chin Yong Neo, Xiaoguang Mei, Jianyong Ouyang
(2012), “Platinum nanoparticles deposited on substrates by solventless
chemical reduction of a platinum precursor with ethylene glycol vapor
and its application as highly effective electrocatalyst in dye-sensitized
solar cells”, Electrochimica Acta, 85, pp. 16-24.
[66] Swee Jen Cho and Jianyong Ouyang (2011), “Attachment of Platinum
Nanoparticles to Substrates by Coating and Polyol Reduction of A Platinum
Precursor”, J. Phys. Chem. C, 115, pp. 8519–8526.
[67] T. Sugimoto (2011), Monodispersed Particles, Elsevier, pp. 214
63
[68] Than-Tung Duong, Jin-Seok Choi, Anh-Tuan Le and Soon-Gil Yoon (2014),
"Morphology Control of Pt Counter Electrodes Using a Pt Precursor Solution
with H2PtCl6·xH2O for Highly Efficient Dye-Sensitized Solar Cells", Journal of
The Electrochemical Society, 161(4) H166-H171
[69] Toonika Rinken, State of the Art in Biosensors - General Aspects, c. 13.
[70] U Kreibig, M Vollmer (1995), Optical properties of metal clusters, Springer,
Berlin
[71] Wöhler, L.; Streicher, S. (1913). “Über das Beständigkeitsgebiet von vier
wasserfreien Platinchloriden, über die Flüchtigkeit des Metalls im Chlorgas und
die Darstellung sauerstoff-freien Chlors”, Chem. Ber. 46 (2), pp. 1591–1597.
[72] Xiao Lyu, Jingping Hu, John S. Foord, Qiang Wang (2013), “A novel
electroless method to prepare a platinum electrocatalyst on diamond for fuel
cell applications”, Journal of Power Sources, 242, pp. 631-637.
[73] Xiaoge Hu, Tie Wang, Liang Wang, and Shaojun Dong (2007), “Surface-
Enhanced Raman Scattering of 4-Aminothiophenol Self-Assembled
Monolayers in Sandwich Structure with Nanoparticle Shape Dependence: Off-
Surface Plasmon Resonance Condition”, J. Phys. Chem. C, 111, pp. 6962-
6969.
[74] Ysmael Verde, Gabriel Alonso, Victor Ramos, Hua Zhang, Allan J. Jacobson,
Arturo Keer (2004), “Pt/C obtained from carbon with different treatments and
(NH4)2PtCl6 as a Pt precursor”, Applied Catalysis A: General, 277, pp. 201–
207.
[75] ZHOU ZhiYou, TIAN Na & SUN ShiGan (2013), "Kinetics of thiocyanate
orientation conversion on Pt surface studied by in situstep-scan time-resolved
microscope FTIR spectroscopy ", Chinese Science Bulletin, 58, pp. 622-626.
64