Professional Documents
Culture Documents
Soc Nhiet Do Gang Suc. Full Version. LDR
Soc Nhiet Do Gang Suc. Full Version. LDR
1
động viên,... đọc kỹ tài liệu này, để tránh những sự cố không hay có thể xảy ra. Tài liệu có
thể được chia sẻ miễn phí trong cộng đồng mà không cần xin phép LDR, tuy nhiên cần đề
rõ nguồn lấy từ LDR.
Do thời gian dịch thuật và biên tập gấp rút, không tránh khỏi sai sót. Nhóm biên tập rất cám
ơn mọi sự góp ý và sửa sai.
Dịch tễ học
Tình trạng sốc nhiệt do gắng sức đang có xu hướng gia tăng mạnh, mặc dù vận động viên,
huấn luyện viên và nhân viên y tế đã và đang được đào tạo bài bản và chuyên sâu về vấn đề
này. Nguy hiểm hơn cả, EHS có thể dẫn đển tử vong và số ca tử vong từ năm 2005 đến
2009 cao hơn bất cứ khoảng thời gian 5 năm nào trong vòng 35 năm đổ lại đây. Theo cơ
quan kiểm soát và phòng chống bệnh Hoa Kỳ (CDC), mỗi năm ở các trường cấp 3 có trung
bình 9237 trường hợp sốc nhiệt do thể thao. Báo cáo của Hiệp hội bóng bầu dục Hoa Kỳ
năm 2008 cho thấy: có 31 vận động viên tử vong do EHS từ năm 1995. Hầu hết các trường
hợp xảy ra trong mùa hè với nhiệt độ và độ ẩm cao, cũng như tình trạng sức khoẻ của vận
2
động viên không ở mức tốt nhất. Tỷ lệ gặp EHS khi chơi bóng bầu dục chuyên nghiệp là
4,5/100 000.
Một nghiên cứu chuyên sâu về những trường hợp tử vong do EHS trong quân đội đã hé lộ
những nhân tố quan trọng nhất như sau: tất cả trường hợp tử vong đều do thiếu kiến thức
cũng như thiết bị cho sơ cứu, cũng như cơ thể của bệnh nhân đã hoạt động quá mức, ngoài
ra tập luyện trong điều kiện khắc nghiệt cũng là nguyên nhân phổ biến. Nhiều tài liệu khác
cũng chỉ rõ sự liên hệ giữa sốc nhiệt và yếu tố môi trường nóng ẩm, đặc biệt đối với những
môn thể thao sức bền, như chạy marathon.
3
Thuốc hay chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến sốc nhiệt qua nhiều cơ chế khác nhau, như giảm
khả năng thoát mồ hôi, rối loạn hệ thống tuần hoàn máu, tăng nhiệt năng cơ thể, rối loạn
cân bằng nước và khoáng, giảm khả năng nhận thức cơ thể, do đó vận động viên không biết
cần dừng lại lúc nào. Một số danh mục thuốc và thức ăn được khuyến cáo có liên hệ đến
EHS bao gồm:
4
Rối loạn chức năng thần kinh trung ương
Rối loạn chức năng thần kinh trung ương có thể biểu hiện ở nhiều mức độ, bao gồm: mất
định hướng, đau đầu, hành vi không thích hợp, kích thích, cảm xúc không ổn định, lẫn lộn,
thay đổi nhận thức, hôn mê hoặc co giật.
Một quan niệm sai lầm là VĐV bệnh nhân bị sốc nhiệt vẫn tỉnh táo thì nghĩa là mọi việc
vẫn ổn. Rất nhiều VĐV sắp rơi vào tình trạng EHS ban đầu vẫn có vẻ tỉnh táo, nhưng thực
ra lại sắp tiến triển thành bệnh trạng nặng hơn. Quá trình bệnh khởi phát mà thần kinh vẫn
đang tỉnh táo này có thể làm cho các nhân viên y tế đánh giá sai tình hình và làm cho chẩn
đoán trở nên không rõ ràng hoặc bị chậm trễ. Giai đoạn minh mẫn này (gọi là khoảng tỉnh)
thường trùng khớp với một tình trạng rối loạn chức năng nhỏ trong hệ thần kinh trung ương
rất khó nhận ra.
• Rối loạn điện giải và chuyển hoá (ví dụ, tăng hoặc giảm kali máu, tăng hoặc giảm
natri máu, hạ đường máu, hạ phospho máu, hạ magie máu và hạ canxi máu)
5
• Co giật (có thể thứ phát sau rối loạn điện giải và cần phải điều chỉnh, hạ đường
huyết, tổn thương não, áp lực tưới máu não không thích hợp, hoặc nguyên nhân
khác). Vì vậy, trong khi đang tìm nguyên nhân, cần bắt đầu điều trị ngay bằng thuốc
an thần.
• Mê sảng kích thích (thường thoáng qua và là hậu quả của tăng thân nhiệt, nhưng có
thể thứ phát do hạ đường máu, áp lực tưới máu não không thích hợp, tổn thương
não, hoặc nguyên nhân khác). Có thể điều trị bằng thuốc an thần tác dụng ngắn.
• Suy hô hấp; hội chứng suy hô hấp cấp.
• Tiêu cơ vân
• Tổn thương thận cấp (thường đi kèm với tiêu cơ vân). Cần xem xét lọc thận càng
sớm càng tốt nếu thấy nguy cơ
• Tổn thương gan
• Đông máu nội mạch rải rác (DIC)
• Xuất huyết tiêu hoá và tổn thương ruột do thiếu máu
• Tổn thương cơ tim, rối loạn nhịp tim (nhìn chung hồi phục nếu nhanh chóng làm
mát, bù dịch và điều chỉnh rối loạn điện giải)
Nguy cơ suy đa phủ tạng và tử vong do EHS phụ thuộc và mức độ khẩn trương của việc
chẩn đoán và làm mát. Nếu điều trị sớm, tổn thương tim mạch do EHS thường phục hồi
trong vòng vài giờ. Các chỉ số sinh học của tổn thương gan (ví dụ, tăng men gan) có thể
tăng cao trong 24 đến 48 giờ trước khi giảm về bình thường, và có thể cần đến vài tuần
hoặc tháng tuỳ thuộc mức độ nghiêm trọng của bệnh. Tổn thương thận có thể mất đến vài
tuần để hồi phục. Các chỉ số tổn thương cơ đi kèm với tiêu cơ vân (creatine kinase,
myoglobin) có thể tăng trong vòng 24 đến 96 giờ trước khi bắt đầu giảm, và có thể mất vài
tuần để trở về nồng độ bình thường, phụ thuộc vào độ nặng của tổn thương.
Chẩn đoán phân biệt các trường hợp ngất trong lúc tập luyện
Ở vận động viên có tổn thương nhiệt do gắng sức, bao gồm cả chấn thương nhiệt và sốc
nhiệt, ngất là triệu chứng thường gặp nhất. Tuy nhiên, có thể rất khó để đánh giá chính xác
căn nguyên một VĐV ngất, dù ở hiện trường hay ở phòng khám, do các chẩn đoán phân
biệt rất rộng và nhiều trường hợp không thể hỏi được bệnh sử rõ ràng. Cách tiếp cận thấu
đáo đối với một VĐV bị ngất không nằm trong bài này, nhưng cần nghĩ đến EHS nếu VĐV
có nhiều yếu tố thuận lợi của EHS, và đặc điểm lâm sàng gợi ý EHS. Việc xử trí EHS
không quá phức tạp (xem bài sau), nói chung không gây hại gì cho nạn nhân, và vẫn có thể
tiến hành trong lúc đang tiến hành chẩn đoán các nguyên nhân khác gây ngất. Các chẩn
6
đoán đó bao gồm hạ natri máu do gắng sức, tăng thân nhiệt ác tính, và ngừng tim, tất cả đều
cần chẩn đoán và điều trị sớm để tránh hậu quả nặng nề.
Hạ natri máu
Hạ natri máu do gắng sức thường xuất hiện ở VĐV tập sức bền, có thể có thân nhiệt bình
thường, và có biểu hiện thay đổi nhận thức, có thể cả co giật. Các VĐV này thường bị quá
tải dịch, gây ra hạ natri máu do pha loãng. Nhanh chóng tìm ra nồng độ natri máu thấp và
bù muối ưu trương (3%) có thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng.
Ngừng tim
Ngừng tim là nguyên nhân gây ngất ít gặp ở các VĐV khoẻ mạnh. Ở nhóm các VĐV trẻ
hơn, bệnh cơ tim phì đại là căn nguyên hàng đầu, còn ở các VĐV cao tuổi là hẹp tắc động
mạch vành cấp máu nuôi cơ tim.
7
Trong mỗi kịch bản, mức độ nghiêm trọng của bệnh tỉ lệ thuận với độ tăng thân nhiệt và
mức độ mất nước.
Kết luận về nhận biết và chẩn đoán phân biết sốc nhiệt
Tất cả các loại ngất liên quan đến nhiệt cần phải được phân biệt với các nguyên nhân không
do vận động, bao gồm rối loạn nhịp tim, đặc biệt ở các VĐV lớn tuổi và những người có
bệnh tim trước đó.
Tuy nhiên, ngừng tim do rối loạn nhịp tim, gặp trong trường hợp bệnh cơ tim phì đại hay
bệnh lý động mạch vành, lại là nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong ở các VĐV khi
gắng sức. Với bất kỳ trường hợp mất ý thức nào, khi lay gọi không đáp ứng, cần nhanh
chóng bắt mạch (động mạch quay, động mạch bẹn). Nếu không thấy mạch đập cần gọi cứu
hộ khẩn cấp và tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn ngay tại chỗ. Xử trí ngừng tuần hoàn
vượt ra ngoài phạm vi của bài này.
Nhớ rằng, có khá nhiều nhân tố có thể gây ra EHS đã được ghi chép lại. Các yếu tố này
gồm có: điều kiện môi trường (nhiệt độ hoặc/và độ ẩm cao), bài tập với cường độ cao, ít tập
luyện thích ứng nhiệt, tình trạng thể chất yếu, dụng cụ tập ngăn cản việc giảm nhiệt, tỷ lệ
trọng lượng cơ thể trên diện tích da cao (ví dụ như béo phì), mất ngủ, mất nước, và bị sốt.
Cần nghĩ đến EHS nếu VĐV có nhiều yếu tố thuận lợi của EHS, và đặc điểm lâm sàng gợi
ý EHS. Việc xử trí sớm EHS có tầm quan trọng đặc biệt, vì vậy cần tiến hành ngay lập tức
khi nghi ngờ đối tượng có EHS.
Chuột rút do nhiệt (Heat cramps, co rút cơ liên quan tới tập luyện)
“Chuột rút do nhiệt” thật ra là thuật ngữ không chính xác, bởi vì nhiệt không trực tiếp gây
co cơ. Tuy vậy, gần như tất cả các trường hợp chuột rút ở vận động viên đều gắn với sự tập
luyện ở cường độ cao hoặc tới mức kiệt sức. Chuột rút thường xuất hiện hơn khi VĐV tập
luyện nặng trong thời tiết nóng, nhưng cũng có thể xảy ra cả ở môi trường mát (ví dụ, ice
hockey, bơi). Chuột rút cũng thường thấy khi VĐV bắt đầu chế độ tập luyện hoàn toàn mới
hoặc hiếm dùng trước đó.
8
Nhiều yếu tố được cho là góp phần dẫn đến sự xuất hiện chuột rút ở VĐV. Mất nước, mất
natri và/hoặc kali, điều kiện thời tiết khắc nghiệt và sự mệt mỏi của hệ thần kinh đều có thể
có vai trò
Tiêu chuẩn lâm sàng để khẳng định chẩn đoán chuột rút thường bao gồm đau cơ dữ dội và
co cứng cơ, có sự co liên tục của nhóm cơ chính trong bài luyện tập kéo dài trước đó.
Không có các dấu hiệu nặng hơn, như hạ natri máu do gắng sức hoặc sốc nhiệt do gắng sức.
9
Các cơ quan thường bị tổn thương trong chấn thương do nhiệt bao gồm các cơ, thận và gan;
thường thấy biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của toan chuyển hoá, tiêu cơ vân, tổn thương
thận cấp và suy gan.
Chẩn đoán chấn thương do nhiệt chủ yếu dựa vào bệnh sử có ngất trong quá trình tập luyện
cường độ cao, thân nhiệt từ 40 đến 40.5 độ C, và không có triệu chứng thần kinh. Bất cứ sự
thay đổi ý thức nào đều gợi ý chẩn đoán sốc nhiệt gắng sức.
• Mức độ nghiêm trọng của sốc nhiệt có thể không rõ ràng tại thời điểm ban đầu
• Tình trạng bệnh và tỷ lệ tử vong liên quan trực tiếp tới khoảng thời gian nhiệt độ
trung tâm cơ thể tăng cao.
Vì thế, xử trí sốc nhiệt tốt bao gồm cả xử trí tại hiện trường lẫn điều trị trong bệnh viện,
trong đó hạ nhiệt nhanh là tối quan trọng. Nếu không xử trí kịp thời, sốc nhiệt có thể dẫn
tới các biến chứng nặng như tiêu cơ vân, suy thận cấp, suy gan cấp, rối loạn đông máu nội
mạch rải rác. Ngay cả với những VĐV chưa có tổn thương cơ quan đích (hệ thần kinh trung
ương, gan, thận,…), thân nhiệt trung tâm tăng cao > 40ºC cũng là một dấu hiệu cần đặc biệt
lưu ý và cần xử trí kịp thời.
• Đo các dấu hiệu sinh tồn gồm mạch, huyết áp, và nhiệt độ ở trực tràng. Chỉ có nhiệt
độ trực tràng mới phản ánh trung thành nhiệt độ trung tâm cơ thể.
• Chẩn đoán sốc nhiệt khi nhiệt độ trung tâm cơ thể cao ≥ 40°C trong hoàn cảnh có
rối loạn ý thức, tri giác. Lúc này, người bệnh cần phải được hạ nhiệt gấp.
Nếu nhân viên y tế có mặt tại chỗ, có sẵn các thiết bị cần thiết để hạ nhiệt tích cực (như bể
nước đá, khăn lạnh, xô nước lạnh) và không cần phải điều trị cấp cứu nào khác ngoài việc
hạ thân nhiệt gấp, tốt nhất là nên theo nguyên tắc "hạ nhiệt trước, vận chuyển sau". Khi đã
hạ nhiệt đến nhiệt độ hợp lý (38,9°C), bệnh nhân được chuyển gấp tới cơ sở cấp cứu gần
nhất.
10
Nếu không đủ điều kiện hạ nhiệt tại chỗ, đặc biệt là nếu bệnh nhân có các vấn đề khác (như
co giật) yêu cầu can thiệp y tế, bệnh nhân cần được chuyển ngay lập tức tới cơ sở cấp cứu
gần nhất. Việc hạ nhiệt có thể được thực hiện trong khi vận chuyển với cách hạ nhiệt hiệu
quả nhất có thể.
• Ngâm VĐV trong bể nước đá là biện pháp hạ nhiệt nhanh nhất, hiệu quả nhất. Nếu
có sẵn bể nước đá, ngâm vận động viên trong bồn nước đá (càng lạnh càng tốt);
nhiệt độ nước cần từ 2°C đến 15°C.
• Đổ nước và đá lạnh lên đến lưng bồn tắm hoặc bể vầy. Đá lạnh nên đủ nhiều để
luôn luôn phủ kín được toàn bộ bề mặt mặt nước.
• Đặt VĐV vào bồn nước đá. Phủ cơ thể bằng nước đá càng kín càng tốt. Nếu việc
phủ kín toàn thân không thể thực hiện được, thì ưu tiên phủ phần thân người càng
nhiều càng tốt (trừ đầu và chân tay).
• Chú ý giữ phần đầu và cổ vận động viên trên mặt nước. Một hoặc hai người hỗ trợ
có thể thực hiện việc này bằng cách luồn khăn hoặc vải dài dưới nách và quanh
trước ngực người bệnh để giữ.
• Tiến hành khuấy nước mạnh trong quá trình làm mát
• Trong quá trình điều trị bằng nước đá, liên tục theo dõi nhiệt độ bên trong cơ thể
của người bệnh bằng nhiệt kế hậu môn (nhiệt kế thân mềm, nằm thường xuyên tại
vị trí đo trong suốt quá trình làm mát cơ thể).
• Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn khoảng 10 phút một lần, và kiểm tra tình trạng tri
giác liên tục trong quá trình làm mát.
11
• Nên gọi thêm người hỗ trợ sẵn sàng ở gần đó để phòng trường hợp người bệnh
kháng cự hoặc cần được nâng lên hay xoay trở nếu có nôn trớ.
• Tiếp tục làm mát cho tới khi nhiệt độ trung tâm hạ tới 39 độ C. Nếu không thể đo
được nhiệt độ qua hậu môn hoặc phép đo bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ của nước lạnh
đang ngâm, thì thực hiện làm mát trong khoảng từ 10 đến 15 phút, sau đó vận
chuyển tới nơi cấp cứu. Làm mát bằng ngâm nước đá thường đạt được hiệu quả
giảm khoảng 1 độ C mỗi năm phút, nếu như nước được khuấy liên tục.
• Nước đá là lý tưởng nhất nhưng nếu không sẵn thì dùng nước thường cũng được,
giữ nhiệt độ nước lạnh hợp lý; khuấy nước mạnh trong quá trình hạ nhiệt.
5. Nếu không có đủ điều kiện để ngâm nước đá, mà tại hiện trường có biện pháp làm
mát khác, thì cố gắng làm mát người bệnh bằng phương pháp tốt nhất có thể. Ví dụ
như các cách sau:
• Cho đá, nước và 12 chiếc khăn vào một thùng giữ nhiệt. Đặt sáu chiếc khăn nhúng
nước đá lạnh trên cơ thể người bệnh, để nguyên như vậy trong khoảng từ hai đến ba
phút rồi lại cho các khăn đó vào thùng nước đá, và thay các khăn đang ngâm trong
thùng lên người bệnh nhân. Thực hiện thay khăn liên tục như vậy cứ mỗi hai đến ba
phút.
• Liên tục giội nước lạnh cho bệnh nhân bằng vòi phun, xô nước,...
• Nếu có đá nhưng không có bồn, thì đặt bệnh nhân vào một miếng vải lớn kiểu khăn
trải giường, phủ lên người bệnh nhân bằng đá lạnh rồi quấn khăn lại. Thay đá mới
ngay khi đá tan bớt.
• Áp khăn ướt, lạnh tiếp xúc với cơ thể nhiều nhất có thể. Khăn lạnh cần được thay
thế ngay khi nó hết lạnh hoặc sau mỗi hai đến ba phút.
• Áp túi đựng nước đá vào cổ, nách, bẹn (các vùng có mạch máu lớn đi qua), đồng
thời phun nước ấm lên người bệnh nhân và sử dụng quạt để thổi gió qua da ẩm (hạ
nhiệt bằng bay hơi). Cần phun nước khi cần và quạt liên tục.
6. Liên tục theo dõi các chỉ số dấu hiệu sinh tồn (nhiệt độ trực tràng, nhịp tim, nhịp hô
hấp, huyết áp) và tình trạng tinh thần. Đảm bảo an toàn cho bệnh nhân trong mọi
thời điểm.
7. Ngừng hạ nhiệt khi nhiệt độ trực tràng xuống còn 38.3°C đến 38.9°C.
Lưu ý rằng ban đầu tốc độ hạ nhiệt sẽ chậm, nhưng bệnh nhân được điều trị càng lâu, tốc
độ hạ nhiệt sẽ nhanh dần. Một số người lo ngại ngâm nước lạnh gây nguy cơ đuối nước cho
người bệnh Với các biện pháp đề phòng hợp lý, thì hầu như không có nguy cơ đuối nước.
Các biện pháp đề phòng gồm có: giám sát bệnh nhân toàn thời gian, kêu gọi thêm người
giúp đỡ, và luồn khăn dưới nách người bệnh, vòng qua trước ngực để giữ họ ngồi ngay
12
ngắn, tránh được việc đầu bệnh nhân bị ngập dưới nước.
Mặc dù các tình trạng kém vệ sinh có thể xảy ra, ví dụ do nôn trớ hay tiêu chảy, nhưng một
bồn nước mất vệ sinh vẫn là một biện pháp đánh đổi chấp nhận được khi thực hiện một
biện pháp giữ mạng sống cho người bệnh. Bồn bẩn thì có thể làm sạch lại dễ dàng.
Không có bằng chứng chứng minh hiệu quả của việc truyền nước lạnh qua đường tĩnh
mạch hay làm lạnh dạ dày qua ống thông dạ dày.
13
• Thêm các câu hỏi về EHS vào bảng hỏi trước khi tham gia giải cũng như quá
trình kiểm tra sức khoẻ để xác định các cá nhân “có nguy cơ cao”.
Các biện pháp huấn luyện trong tập luyện, hoạt động, thi đấu
- Nghỉ ngơi thường xuyên giữa bài tập để uống nước và làm mát.
- Tránh các hoạt động trong thời gian nhiệt độ quá cao và/hoặc ẩm (đo bằng WBGT);
luyện tập khi WBGT thấp (tức là ban đêm, hoặc sáng sớm) hoặc môi trường trong
nhà mát mẻ là một sự phương án hợp lí.
- Đặc biệt chú ý đến các vận động viên có tỉ lệ khối cơ / diện tích da cơ thể cao (ví dụ
các vận động viên béo phì) trong suốt bài tập ở điều kiện nóng ẩm.
- Theo dõi cẩn thận các vận động viên có tiền sử sốc nhiệt.
- Giảm thiểu các thiết bị, phụ kiện, quần áo cản trở sự tỏa nhiệt trong thời tiết nóng
ẩm
- Uống nước trước khi hoạt động và luôn bổ sung nước trong quá trình tập. Trước khi
tập luyện và thi đấu trong thời tiết nóng, vận động viên nên bổ sung 6 mL nước /kg
cơ thể mỗi 2-3 giờ để bắt đầu tập luyện trong tình trạng cơ thể đủ nước. Trừ khi vận
động viên thiếu muối và các chất điện giải khác, lượng muối nạp vào trước và trong
quá trình tập không có tác dụng ngăn ngừa sốc nhiệt.
- Tránh tập luyện trong điều kiện môi trường nóng và/hoặc ẩm khi ốm.
- Dừng tập luyện và thông báo cho nhân viên y tế ngay nếu bạn hoặc đồng đội bị kiệt
sức nghiêm trọng, buồn nôn, hoặc các triệu chứng liên quan đến sốc nhiệt khác.
14
- “Làm lạnh” (tức là thực hiện các biện pháp làm mát trước và đặc biệt trong lúc chơi
thể thao) có thể mang lại hiệu quả cho vận động viên chơi các môn thể thao sức bền
(chạy đường dài, đạp xe, tennis, các môn thể thao đồng đội) trong môi trường nóng.
Các phương pháp “làm lạnh” bao gồm cả biện pháp bên trong (như là uống nước
đá) và bên ngoài (như là áo choàng lạnh). Ngoài việc làm lạnh sơ bộ, vận động viên
có thể áp dụng các biện pháp làm lạnh khi tập luyện. Ngoài việc uống nước đá, còn
có thể mặc áo choàng đá, đắp khăn lạnh quanh cổ, đầu, trán hoặc nhúng cánh tay,
bàn tay vào chậu đá. Các phương pháp làm mát sơ bộ có ảnh hưởng khác nhau lên
các vận động viên, vì vậy điều quan trọng là cần thực hiện và theo dõi các biện pháp
làm mát này trong tập luyện trước khi ứng dụng trong thi đấu.
- Mặc trang phục thể thao thông thoáng, hỗ trợ thoát nhiệt nhanh trong quá trình tập
luyện khi trời nóng. Nên thay quần áo khi thấy sũng mồ hôi và muối làm hạn chế
khả năng làm mát.
Môi trường Môi trường tương tự như môi trường sẽ gặp trong hoạt động mục tiêu
Nhiệt độ môi trường ấm hoặc nóng (Nhiệt độ tính theo WBGT > 26ºC)
Độ ẩm tương đối tương tự như độ ẩm sẽ gặp trong hoạt động mục tiêu
Nếu không có điều kiện tập luyện trong môi trường tương tự, thì có thể
mặc thêm quần áo hoặc tập luyện trong khoảng thời gian nóng nhất/độ
ẩm cao nhất trong ngày.
Tính chất của Thời gian tập: > 60 phút
bài tập Ngưỡng tập luyện: aerobic
Cường độ: Cường độ trung bình (nên bắt đầu từ mức nhịp tim vào
khoảng 60 và cao nhất là 80% ngưỡng nhịp tim tối đa ước tính dựa theo
độ tuổi).
Tần suất luyện tập: Mỗi ngày tập một lần (có thể nâng lên đến tần suất
một ngày tập hai bài xen kẽ với ngày tập một bài)
Tiếp nước Duy trì tỉ trọng nước tiểu ở mức: < 1, 020 gram/mL
Độ thẩm thấu niệu: <700
15
cho cơ thể Màu nước tiểu: <3 (theo thang 8 màu)
Đảm bảo an Theo dõi nhiệt độ bằng nhiệt kế hậu môn hoặc đường tiêu hoá (<40 độ C)
toàn Theo dõi vận động viên để phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng của các
chứng bệnh do nhiệt gây ra
Theo dõi nhịp tim để phát hiện trường hợp cường độ hoạt động lên cao
quá (vượt qua ngưỡng 80% mức nhịp tim tối đa ước tính theo độ tuổi)
Tránh không tập các bài interval ở tốc độ dự kiến trong giải đua (có thể
tập các bài tốc độ này vào lúc khác, trong điều kiện môi trường mát hơn)
Tính toán tốc độ ra mồ hôi: cân nặng cơ thể (không mặc quần áo) trước
khi tập (kg) – cân nặng cơ thể (không mặc quần áo) sau khi tập (kg) +
lượng nước đã uống vào (lít) trong mỗi giờ tập luyện = tốc độ ra mồ hôi
(lít/giờ)
Đảm bảo vận động viên tiếp đủ nước cho cơ thể trước và trong quá trình
tập luyện (duy trì tình trạng mất nước < 2%)
Cường độ tập luyện nên tương ứng với trình độ và sức khoẻ của vận động
viên
*WBGT: WetBulb Globe Temperature: Nhiệt độ cầu ướt dựa trên cả nhiệt độ không khí,
độ ẩm, tốc độ gió, ánh nắng, bức xạ hồng ngoại.
Tham khảo: Bảng tra nhiệt độ WBGT dựa trên độ ẩm và nhiệt độ không khí
16
(Cách dùng: Gióng hàng ngang – Độ ẩm tương đối và hàng dọc – Nhiệt độ không khí để
tìm ra nhiệt độ WBGT – Ví dụ Độ ẩm tương đối là 80%, nhiệt độ không khí 25 độ C, thì
nhiệt độ WBGT theo bảng này sẽ là 28 độ).
• Không được phép tập luyện trong ít nhất 7 ngày kể từ khi được xuất viện.
• Theo dõi sức khỏe với bác sĩ trong khoảng 1 tuần sau khi xuất viện để kiểm tra cơ
thể và làm xét nghiệm cần thiết và chẩn đoán hình ảnh các cơ quan bị ảnh hưởng
khi sốc nhiệt.
• Một khi hồi phục và trở lại hoạt động, vận động viên nên bắt đầu tập ở môi trường
mát mẻ và dần tăng thời gian, cường độ và tiếp xúc nhiệt trong khoảng 2 tuần để
chứng minh khả năng chịu nhiệt và thích nghi với thời tiết.
• Những vận động viên không thể tiếp tục hoạt động mạnh trong 4 tuần do các triệu
chứng tái phát (ví dụ mệt mỏi quá mức) nên được kiểm tra lại. Kiếm tra khả năng
chịu nhiệt trong phòng thí nghiệm có thể hữu ích.
• Vận động viên có thể tiếp tục thi đấu khi anh ta/cô ta có khả năng tham gia toàn bộ
buổi tập trong môi trường nóng ẩm trong 4 tuần mà không gặp ảnh hưởng xấu nào.
17