You are on page 1of 18

Những vấn đề lý luận chung về SNA

Những vấn đề lý luận chung


về SNA
Bởi:
Nguyễn Kim Thoa

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SNA

Khái niệm veà SNA.

Hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts –SNA) là một trong hai hệ
thống thông tin kinh tế xã hội tổng hợp trên thế giới, được hình thành bởi một hệ thống
các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, trình bày dưới dạng những bảng cân đối hoặc những tài
khoản tổng hợp nhằm phản ánh toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội như: điều kiện sản
xuất, kết quả sản xuất, chi phí sản xuất; quá trình phân phối, phân phối lại thu nhập giữa
các ngành kinh tế, giữa các khu vực thể chế và các nhóm dân cư; phản ánh quá trình sử
dụng cuối cùng kết quả sản xuất cho các nhu cầu:tiêu dùng cuối cùng của cá nhân dân
cư và xã hội ,tích lũy

Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tài khoản quốc gia.

Cuộc đại quy thoái kinh tế các năm 1930 cùng với sự phát triển các lý thuyết kinh tế vĩ
mô đã thúc đẩy các nước chú ý nghiên cứu về thu nhập quốc gia cũng như thống nhất
cách tính các chỉ tiêu kinh tế để có thể so sánh được trên phạm vi thế giới.

Năm 1947, bản báo cáo đầu tiên về SNA của Richard Stone công bố, là một hệ thống
gồm 9 bảng biểu và 24 tài khoản, trong đó thể hiện rõ cách tiếp cận hạch toán trên phạm
vi xã hội (Social accounting approach). Cách tiếp cận hạch toán xã hội được xem như
là sự phát triển logic và trở thành nguyên lý cơ bản cho các hướng hoàn thiện SNA sau
này. Tuy nhiên SNA 1947 chỉ áp dụng được đối với những nước phát triển và các giao
dịch chủ yếu là các giao dịch về tiền tệ.

Năm 1952, Liên hợp quốc đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng một hệ thống tài khoản quốc
gia chuẩn công bố năm 1953 dựa trên báo cáo đầu tiên về SNA năm 1947. Trong SNA
1953 có 6 tài khoản chuẩn và 12 biểu trình bày chi tiết các luồng ghi tài khoản. SNA
1953 phát triển thêm các giao dịch về vốn và mở rộng phạm vi áp dụng cho các nước
đang phát triển. Tuy nhiên SNA năm 1953 không có bảng I-O.

1/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Năm 1968, Uỷ ban thống kê Liên hiệp quốc công bố SNA 1968 công bố lần thứ 2 sau
khi điều chỉnh lần đầu. Trong SNA 1968 ngoài phần mở rộng và chi tiết hoá các tài
khoản, xây dựng các mô hình toán học để hỗ trợ cho phân tích kinh tế và phân tích chính
sách, các chuyên gia cố gắng soạn thảo, bổ sung để phù hợp với những nội dung chỉ tiêu
kinh tế tổng hợp thuôc MPS. Ngoài các nội dụng đổi mới hệ thống hạch toán quốc gia,
mở rộng thêm phạm vi hoạt động sản xuất để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu và phân tích
kinh tế, một số nước đã lập bảng I-O và các bảng cân đối tài sản.

Vào những năm 85, Liên Hợp Quốc giao cho nhóm chuyên gia về tài khoản quốc gia,
bao gồm: Uỷ ban Thống kê Châu âu (Eorostat), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp
tác kinh tế và phát triển (OECD), Uỷ ban thống kê LHQ và Ngân hàng thế giới(WB)
đã phối hợp sửa đổi và hoàn thiện hệ thống SNA và công bố vào năm 1993. SNA 1993
khác SNA 1968 không đáng kể. Tuy nhiên, SNA 1993 đã chú ý đến các hoạt động dịch
vụ, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh thông tin liên lạc, máy tính, các tổ chức tài chính và
thị trường tài chính, các mối quan hệ giữa môi trường và nền kinh tế… Hơn nữa, SNA
1993 đã có nhiều cố gắng phối hợp các khái niệm, các định nghĩa sao cho phù hợp với
MPS đáp ứng yêu cầu của các nước đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
tập trung bao cấp sang thị trường.

Ơ Việt Nam, trước năm 1993 đã tiến hành tổ chức hạch toán nền KTQD theo hệ thống
cân đối KTQD – MPS (Material Product System). Tuy nhiên, để phù hợp với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế quốc dân từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường có sự điều
tiết vĩ mô của Nhà nước, Nhà nước Việt Nam đã tạo điều kiện cho thống kê Việt Nam
tiếp cận với thống kê các Tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới. Sau khi thực hiện
thành công dự án VIE/88 – 032 “Thực hiện Hệ thống tài khoản quốc gia ở Việt Nam” do
Hội đồng Bộ trưởng giao cho Tổng cục thống kê tiến hành, ngày 25/12/1992, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 183/TTg về việc chính thức áp dụng hệ thống tài khoản
quốc gia SNA thay cho hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân trên toàn lãnh thổ Việt
nam. Như vậy, từ năm 1993, Việt Nam đã áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia thay cho
bảng cân đối kinh tế quốc dân. Đến nay, sau 10 áp dụng SNA, vụ hệ thống tài khoản
quốc gia nước ta đã thu được những thành tựu nhât định như: đã tính được một số chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp như: GDP, tích luỹ tài sản, tiêu dùng cuối cùng, GNI… và đã lập
được một số tài khoản chủ yếu phục vụ quản lý vĩ mô của Đảng và Nhà nước.

Tác dụng của hệ thống tài khoản quốc gia.

Hệ thống tài khoản quốc gia là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Nó có những tác dụng sau:

- Số liệu của SNA phản ánh một cách tổng hợp toàn bộ kết quả sản xuất nền kinh tế
quốc dân, cung cấp thông tin chi tiết để theo dõi một cách toàn diện các diễn biến của
nền kinh tế: tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu, tiêu dùng cuối cùng của dân cư và xã hội.

2/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

- Cung cấp thông tin để tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, nghiên cứu các cân đối
lớn của nền kinh tế quốc dân: cân đối giữa tiêu dùng và sản xuất, xuất khẩu và nhập
khẩu, tiêu dùng và tích luỹ … và các cơ cấu kinh tế.

- Nghiên cứu quá trình sản xuất, phân phối và phân phối lại và sử dụng cuối cùng, nghiên
cứu các mối quan hệ giữa các ngành trong nền kinh tế thông qua các mô hình kinh tế vĩ
mô do các nhà kinh tế thế giới đề xuất. Trên cơ sở kết quả phân tích và dự báo, đề ra
chiến lược và chính sách kinh tế phù hợp.

- Hệ thống tài khoản quốc gia là một chuẩn mực của hệ thống kê Liên Hiệp Quốc, thống
nhất được phạn vi, nội dung và phương pháp hạch toán nền kinh tế, do đó đảm bảo tính
so sánh được trong so sánh quốc tế, đánh giá trình độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
xã hội của các quốc gia.

Trên đây là những tác dụng của SNA. Chính những tác dụng này của SNA đã khẳng
định vai trò to lớn của SNA trong quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô.

Các tài khoản chủ yếu của SNA.

Như đã nói ở trên, SNA là một hệ thống những tài khoản có liên hệ với nhau và các phụ
bảng nhằm bổ sung, phân tích cụ thể từng mặt của quá trình tái sản xuất.

Nội dung và tác dụng của mỗi tài khoản khác nhau, song đều nhằm mục tiêu cuối cùng
là mô tả qúa trình sản xuất và tái sản xuất xã hội của nền kinh tế quốc dân, tích luỹ
tài sản cho quá trình sản xuất của thời kỳ tiếp theo, xuất khẩu ra nước ngoài, chuyển
nhượng vốn - tài sản.

Hệ thống tài khoản quốc gia gồm những tài khoản chủ yếu sau:

-Tài khoản sản xuất (Domestic product account)

-Tài khoản thu nhập và chi tiêu (Income and outlay account)

-Tài khoản vốn- tài sản- tài chính(Capital finance account)

-Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài (Account on rest of the world)

-Bảng vào /ra(Input/ Ouput –I/O)

-Bảng kinh tế tổng hợp.

3/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Tài khoản sản xuất

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản sản xuất.

Tài khoản sản xuất là hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có liên hệ với nhau, được
trình bày dưới dạng tài khoản nhằm phản ánh quá trình sản xuất, phân phối lần đầu và
sử dụng tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).

Từ định nghĩa trên, có thể thấy đối tượng nghiên cứu của TKSX là các quá trình sản xuất
và sử dụng kết quả sản xuất (GO) nếu xét theo quan điểm vật chất) hoặc quá trình sản
xuất và sử dụng GDP (quá trình phân phối lần đầu) nếu xét theo quan điểm tài chính.

Tác dụng của tài khoản sản xuất.

Tài khoản sản xuất là tài khoản được thiết lập đầu tiên và là tài khoản quan trọng nhất
của hệ thống tài khoản quốc gia. Vai trò này được quy định bởi vai trò của sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các chỉ tiêu trong tài khoản là cơ sở để lập các tài khoản
khác.

Tài khoản sản xuất có tác dụng đánh giá tổng hợp kết quả xuất của nền kinh tế quốc dân.
Thông qua tài khoản sản xuất ta có thể nắm bắt được các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như:
giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm, thặng dư sản xuất, khấu hao tài sản
cố định. Trên cơ sở đó nghiên cứu kết cấu giá trị của sản phẩm (C, V, M).

Tài khoản sản xuất được thiết lập với các phân tổ như: theo nghành kinh tế, theo thành
phần kinh tế, theo khu vực thể chế... có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu cơ cấu
sản xuất của nền kinh tế.

Tài khoản thu nhập và chi tiêu.

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản thu nhập và chi tiêu.

Tài khoản sản xuất là hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có liên hệ với nhau, được
trình bày dưới dạng tài khoản nhằm phản ánh quá trình sản xuất, phân phối lần đầu và
sử dụng tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).

Từ định nghĩa trên, có thể thấy đối tượng nghiên cứu của TKSX là các quá trình sản xuất
và sử dụng kết quả sản xuất (GO) nếu xét theo quan điểm vật chất) hoặc quá trình sản
xuất và sử dụng GDP (quá trình phân phối lần đầu) nếu xét theo quan điểm tài chính.

4/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Tác dụng của tài khoản sản xuất.

Tài khoản sản xuất là tài khoản được thiết lập đầu tiên và là tài khoản quan trọng nhất
của hệ thống tài khoản quốc gia. Vai trò này được quy định bởi vai trò của sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các chỉ tiêu trong tài khoản là cơ sở để lập các tài khoản
khác.

Tài khoản sản xuất có tác dụng đánh giá tổng hợp kết quả xuất của nền kinh tế quốc dân.
Thông qua tài khoản sản xuất ta có thể nắm bắt được các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như:
giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm, thặng dư sản xuất, khấu hao tài sản
cố định. Trên cơ sở đó nghiên cứu kết cấu giá trị của sản phẩm (C, V, M).

Tài khoản sản xuất được thiết lập với các phân tổ như: theo nghành kinh tế, theo thành
phần kinh tế, theo khu vực thể chế... có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu cơ cấu
sản xuất của nền kinh tế.

Tài khoản thu nhập và chi tiêu.

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản thu nhập và chi tiêu.

Tài khoản thu nhập và chi tiêu là hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có liên heọ hữu
cơ với nhau được trình bày dưới dạng tài khoản nhằm phản ánh quá trình hình thành,
phân phối và phân phối lại các khoản thu nhập và chi tiêu giữa các thành viên của khu
vực thể chế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định.

Khác với tài khoản sản xuất, tài khoản thu nhập và chi tiêu chỉ nghiên cứu quá trình tái
sản xuất theo quan điểm tài chính, tức là tài khoản thu nhập và chi tiêu ngiên cứu quá
trình sản xuất và phân phối kết quả sản xuất

Tác dụng của tài khoản thu nhập và chi tiêu .

Tài khoản thu nhập và chi tiêu là một trong 4 tài khoản chính, chủ yếu của SNA, đứng
thứ 2 sau tài khoản sản xuất. Nó có những tác dụng chủ yếu sau:

- Tài khoản thu nhập và chi tiêu phản ánh quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản
phẩm trong nước (GDP), quá trình chuyển nhượng thu nhập giữa các thành viên trong
các khu vực thể chế và giữa các khu vực thể chế, giữa trong nước và nước ngoài. Từ đó
hình thành thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như từng khu vực
thể chế nói riêng.

- Thông qua tài khoản thu nhập và chi tiêu ta có thể tính được các chỉ tiêu: Tổng thu nhập
quốc gia (GNI), Thu nhập quốc gia (NI), thu nhập quốc gia sử dụng (NDI)... Xác định
các quan hệ tỷ lệ giữa nguồn thu nhập trong nước với nguồn thu nhập từ nước ngoài,
giữa chi cho tiêu dùng cuối cùng về nhu cầu đời sống và sinh hoạt của hộ gia đình dân

5/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

cư và xã hội với khả năng thực tế để dành từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để tích luỹ tài
sản, mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống.

- Ngoài tác dụng phản ánh và phân tích nói trên, tài khoản thu nhập và chi tiêu còn được
sử dụng làm cơ sở để Nhà nước đề ra các chính sách xã hội, chính sách điều tiết thu
nhập ( qua hệ thống thuế hoặc các khoản đóng góp bắt buộc...), xác định các khả năng
tích luỹ vốn (từ nguồn trong nước, đi vay hoặc đầu tư nước ngoài ...).

Tài khoản vốn –tài sản –tài chính

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản vốn – tài sản – tài chính.

Tài khoản vốn –tài sản –tài chính là hệ thống chỉ tiêu có liên hệ hữu cơ với nhau, được
trình bày dưới hình thức tài khoản, phản ánh tổng tích luỹ của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, từng khu vực thể chế trong một chu kỳ kinh tế (thường là một năm) và nguồn vốn
cho tổng tích luỹ đó.

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản vốn - tài sản - tài chính là sự hình thành và sử dụng
nguồn vốn cho tích luỹ.

Tác dụng của tài khoản vốn –tài sản –tài chính

Tài khoản vốn –tài sản –tài chính phản ánh tổng gía trị đầu tư tích luỹ bao gồm : tích luỹ
tài sản vật chất cho sản xuất, tích luỹ tài sản tài chính của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
cũng như của từng khu vực thể chế. Đồng thời cũng phản ánh các nguồn vốn cho đầu tư
tích luỹ đó.

Tài khoản vốn –tài sản –tài chính là căn cứ để xác định cơ cấu và sự biến động của từng
nguồn vốn, cụ thể: để dành, đi vay, đầu tư từ nước ngoài, chuyển nhượng hoặc từ phát
hành tiền mặt, công trái... của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và từng khu vực thể chế .

Thông qua tài khoản này, có thể đánh giá khả năng tích luỹ từ nguoàn sản xuất trong
nước, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài, định hướng phát triển kinh tế xã
hội nói chung và phát triển sản xuất nói riêng trên nền tảng hiện có.

Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài

Đối tượng nghiên cứu của tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài

Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài là một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
trình bày dưới dạng tài khoản, phản ánh mối quan hệ kinh tế của nền kinh tế quốc dân
với nước ngoài.

6/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Như vậy, đối tượng nghiên cứu của tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài là các
quan hệ kinh tế của nền kinh tế với nước ngoài. Đó là các quan hệ kinh tế thường xuyên
với nước ngoài như: quan hệ trao đổi hàng hoá dịch vụ (còn gọi là hoạt động xuất nhập
khẩu), quan hệ thu – chi nhân tố sản xuất như: lao động, vốn, tài sản, các quan hệ thu -
chi chuyển nhượng thường xuyên dưới hình thức bắt buộc và tự nguyện, quan hệ mua
bán tài sản vật chất và tài sản tài chính; và các quan hệ về vốn - tài sản – tài chính với
nước ngoài.

Tác dụng của tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài .

Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài phản ánh quá trình trao đổi, giao lưu sản phẩm
vật chất và dịch vụ, chuyển nhượng hiện hành, chuyển nhượng vốn, cũng như quan hệ
thu nhập về các nhân tố sản xuất với nước ngoài .

Nghiên cứu mối quan hệ cân đối giữa xuất khẩu với nhập khẩu, thu nhập và chi trả về
lợi tức sở hữu các nhân tố sản xuất như: lao động, vốn kinh doanh, đất, tài nguyên...
chuyển nhượng hiện hành dưới hình thức bắt buộc và tự nguyện, chuyển nhượng vốn
(tư bản) dưới hình thức viện trợ, cho không, quà biếu của các tổ chức chính phủ và phi
chính phủ, vay và cho vay với nước ngoà. Trên cơ sở đó định ra các chính sách và chiến
lược phát triển kinh tế đối ngoại.

Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài còn được sử dụng làm cơ sở để kiểm tra lại
một số chỉ tiêu trong các tài khoản khác, như tài khoản sản xuất, tài khoản thu nhập và
chi tiêu, tài khoản vốn –tài sản –tài chính.

Bảng vào /ra

Đối tượng nghiên cứu của bảng I-O

Bảng vào – ra (I/O) là một bộ phận cấu thành, bộ phận trung tâm của SNA, là hệ thống
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trình bày dưới dạng cân đối, cho phép nghiên cứu quá trình sản
xuất, phân phối và sử dụng sản phẩm xã hội theo mật số ngành kinh tế hoặc ngành sản
phẩm.

Đối tượng nghiên cứu của bảng I – O là toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối, phân phối
lại và sử dụng cuối cùng sản phẩm xã hội.

Tác dụng của bảng I –O.

Bảng I – O có tác dụng phản ánh mối liên hệ giữa các ngành kinh tế trong quá trình sản
xuất và sử dụng sản phẩm vật chất trong một thời gian nhất định, thường là một năm.

7/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Bảng I – O còn là căn cứ để xây dựng định mức chi phí trong kế hoạch sản xuất, xây
dựng công nghệ sản xuất cho từng loại sản phẩm, xây dựng kế hoạch dự trữ và cung cấp
vật tư trong nền kinh tế quốc dân.

Ngoài ra, bảng I –O còn là căn cứ nghiên cứu mối liên hệ giữa sản xuất và sử dụng cũng
như cơ cấu nền kinh tế, hiệu quả sản xuất, xây dựng kế hoạch sản xuất của từng ngành
trong mối liên hệ với các ngành kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân, liên hệ kinh tế
với nước ngoài về nhu cầu tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ và xuất nhập khẩu…

Mặt khác, nghiên cứu kết hợp ô I và ô III giúp ta xem xét mặt kết cấu giá trị về chi phí
trung gian, giá trị tăng thêm, còn thông qua ô I và ô II giúp ta nghiên cứu mặt kếtcấu sử
dụng sản phẩm vật chất và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó định các
chính sách về giá cả, tiêu dùng, thu nhập, về tỷ suất lãi, tỷ suất thuế… trong từng ngành
sản phẩm và toàn bộ nền kinh tế.

Mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống Tài khoản quốc gia.

Hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm những tài khoản tổng hợp, mỗi tài khoản có đặc
điểm, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu khác nhau. Mỗi tài khoản trong hệ thống Tài
khoản quốc gia được cấu thành bởi các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác nhau. Song giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện thông qua
phương pháp kế toán kép. Một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nào đó được thể hiện bên nguồn
(thu, có) của tài khoản này, đồng thời nó cũng được thể hiện bên sử dụng (chi, nợ) của
tài khoản khác và ngược lại.

Những khái niệm cơ bản của SNA.

Hoạt động sản xuất

Hoạt động sản xuất với tư cách là hoạt động tạo ra của cải cho con người. Vì vậy, nó
có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống. Tuy nhiên, có rất nhiều khái niệm về hoạt
động sản xuất dựa trên cơ sở các học thuyết kinh tế khác nhau.

Trên cơ sở học thuyết tái sản xuất xã hội của Mác- tức là theo quan niệm của MPS ,
định nghĩa về hoạt động sản xuất được giới hạn trong phạm vi hẹp, chỉ bao gồm những
hoạt động của con người nhằm tạo ra sản phẩm vật chất hoặc làm tăng thêm giá trị của
những sản phẩm vật chất khi chuyển từ sản xuất đến tiêu dùng. Và cũng theo quan niệm
của MPS cho rằng, chỉ có lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất mới tạo ra sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân.

Theo quan niệm của SNA, trên cơ sở các lý thuyết kinh tế của thị trường, đặc biệt là các
lý thuyết kinh tế về nhân tố sản xuất và thu nhập, nên định nghĩa về hoạt động sản xuất

8/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

có phạm vi rộng hơn. Có rất nhiều dịnh nghĩa về hoạt động sản xuất, nhưng định nghĩa
đầy đủ nhất và thường gặp nhất là:

Hoạt động sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách là cá nhân hay một tổ
chức bằng năng lực của mình, cùng các yếu tố: tài nguyên, đất đai, vốn (tư bản), sản
xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả, nhằm thoả mãn nhu
cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của dân cư và xã
hội, tích luỹ tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra nước
ngoài… và quá trình này tồn tại, vận động khách quan, không ngừng được lặp đi lặp lại
trong các thời kỳ.

Như vậy theo quan niệm của SNA, hoạt động sản xuất có những đặc trưng sau:

1. Là hoạt động có mục đích của con người, và người khác có thể làm thay được.

2. Bao gồm cả hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất và hoạt động tạo ra sản phẩm dịch vụ.

3. Sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ tạo ra phải hữu ích và phải được xã hội chấp
nhận, tức thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội, của sản xuất, cho đời sống và cho tích
luỹ.

Quan niệm về sản suất trên đây cuỷa SNA đã mở rộng phạm vi tính toán các chỉ tiêu
kinh tế tổng hợp trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, nó còn cho
phép phân định hoạt động nào là hoạt động sản xuất, hoạt động nào là hoạt động phi sản
xuất; chi phí nào được tính vào chi sản xuất (tiêu dùng trung gian), chi phí nào đựơc tính
vào tiêu dùng cuối cùng, kết quả nào được tính vào kết quả sản xuất… Tuy nhiên, trong
thực tế, khi xây dựng SNA, phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế xã hội, điều kiện thu thập
thông tin và trình độ hạch toán thống kê ở mỗi nước mà có những quy điịnh thêm.

Lãnh thổ kinh tế.

Trong nền kinh tế mở, khi mà tất cả các quốc gia đều có những mối quan hệ giao lưu
kinh tế xét trên tất cả các mặt: sản xuất, xuất nhập khẩu… với nhau và những mối quan
hệ này thường rất đa dạng và phức tạ thì vấn đề đặt ra có tính nguyên tắc trong SNA là
phải xác định rõ ràng và cụ thể phạm vi hạch toán kinh tế ở từng quốc gia. Để giải quyết
vấn đề này, SNA sử dụng hai khái niệm có liên quan đến nhau rất chặt chẽ với nhau là:
lãnh thổ kinh tế, đơn vị thường trú và đơn vị không thường trú.

* Lãnh thổ kinh tế.

Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong các tài khoản thuộc SNA được tính theo phạm vi
lãnh thổ kinh tế. Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia là lãnh thổ địa lý của quốc gia đó,
không kể phần địa giới các sứ quán, lãnh sự quán, khu quân sự, cơ quan làm việc của
các tổ chức quốc tế … mà các quốc gia khác, các tổ chức của Liên Hiệp Quốc, các tổ

9/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

chức phi Chính phủ… thuê và hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó và được tính thêm
phần địa giới các tổ chức tương ứng của quốc gia đó thuê và hoạt động trên lãnh thổ địa
lý của quốc gia khác, bao gồm :

- Lãnh thổ địa lý: đất liền, hải đảo, vùng trời, vùng biển thuộc quốc gia, trừ phần địa giới
các sứ quán, lãnh sự quán, khu vực quân sự, cơ quan làm việc của các tổ chức quốc tế…
mà các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế khác thuê và hoạt động trên lãnh thổ địa lý
của quốc gia đó.

- Vùng trời, mặt nước, vùng đất nằm ở vùng biển quốc tế mà ở đó quốc gia được hưởng
các quyền đặc biệt về mặt pháp lý như khai thác hải sản, khoáng sản, dầu khí..

- Vùng lãnh thổ nằm ở nước khác được Chính phủ thuê và hoạt động vì mục đích ngoại
giao, quân sự, khoa học… như các ủaùi sứ quán, lãnh sự quán, các căn cứ quân sự, trạm
nghiên cứu khoa học…

* Đơn vị thường trú vaứ ủụn vũ khoõng thửụứng truự.

Đơn vị thường trú là các đơn vị kinh tế của quốc gia và nước ngoài có đăng ký thời gian
hoạt động tại lãnh thổ quốc gia đó trên 1 năm và chịu sự quản lý về luật pháp của quốc
gia đó.

Đơn vị thường trú của một quốc gia gồm:

- Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động
trong các ngành kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế, các hộ gia đình … của quốc
gia và đang hoạt động trên lãnh thổ địa lý của quốc gia đó.

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế của nước ngoài đầu
tư trực tiếp, liên doanh… ở quốc gia sở tại vơí thời gian trên 1 năm.

- Các toà đại sứ, lãnh sự quán, các tổ chức quân sự… của quốc gia đóng ở nước ngoài.

- Những người trong nước làm thuê, làm hợp đồng ngắn hạn và dài hạn cho tổ chức
quốc tế và nước ngoài đóng ở nước sở tại.

- Những người đi làm thuê có tính chất tạm thời, những người đi công tác, học tập, buôn
bán, du lịch, thăm viếng người thân ở nước ngoài với thời gian dưới 1 năm.

Ngược với khái niệm đơn vị thường trú là khái niệm đơn vị không thường trú dùng để
chỉ tất cả các tổ chức hay cá nhân không phải là đơn vị thường trú cuả một quốc gia, bao
gồm:

10/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

- Phần còn lại của các đơn vị thuộc các nước không hoạt động trên lãnh thổ địa lý Việt
nam .

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài với thời gian
trên 1 năm.

- Các tổ chức hoặc dân cư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam thời gian dưới 1 năm, kể
cả học sinh nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

- Các đại sứ quán, lãnh sự quán, tổ chức quốc phòng, an ninh của nước ngoài làm việc
tại Việt Nam.

Việc xác định đơn vị thường trú và lãnh thổ kinh tế đóng vai trò quan trọng khi tính các
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp để lập các tài khoản. Vì vậy, tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội
mỗi nước, thời gian hoạt động và lợi ích kinh tế của từng đơn vị hoạt động sản xuất kinh
doanh mà có quy định cụ thể cho phù hợp với khả năng hạch toán và thu thập thông tin.

Nền kinh tế quốc dân.

Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống bao gồm toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể
kinh tế có chức năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với nhau
trên cơ sở phân công lao động xã hội, được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất
định.

So với quan niệm về nền kinh tế quốc dân của MPS, quan niệm về nền kinh tế quốc dân
của SNA có nhiều điểm khác nhau:

- Theo MPS: nền kinh tế quốc dân gắn liền với lãnh thổ địa lý. Theo lãnh thổ địa lý, nền
kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh tế thường trú và không thường trú trong
phạm vi lãnh thổ nghiên cứu, tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với nhau, thực hiện các
chức năng khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội.

- Theo SNA: nền kinh tế quốc dân gắn liền với lãnh thổ kinh tế. Theo lãnh thổ kinh tế,
nền kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh tế thường trú của lãnh thổ nghiên cứu,
tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với nhau, thực hiện các chức năng khác nhau trong hệ
thống phân công lao động xã hội.

Các phân tổ chủ yếu của SNA.

Để phân tích quá trình sản xuất cũng như quá trình tạo thu nhập lần đầu và phân phối thu
nhập, nghiên cứu cơ cấu của nền kinh tế quốc dân và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành
kinh tế, các khu vực thể chế và các khu kinh tế.., trong SNA thường sử dụng phương
pháp phân tổ .

11/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Trong hệ thống tài khoản quốc gia có sử dụng các phân tổ chủ yếu sau:

Phân tổ theo khu vực thể chế.

Để phản ánh mối quan hệ giao dịch kinh tế giữa các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế,
trong hệ thống tài khoản quốc gia đã phân loại các đơn vị hoạt động đó thành các nhóm
lớn theo từng khu vực thể chế dựa trên các đặc điểm về nguồn vốn, mục đích và lĩnh
vực hoạt động của chúng.

Khu vực thể chế là tập hợp các chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân, có quyền ra quyết
định về kinh tế và tài chính, có nguồn vốn hoạt động, mục đích và lĩnh vực hoạt động
giống nhau.

Căn cứ để phân các đơn vị hoạt động theo từng khu vực thể chế là:

- có cùng chức năng hoạt động hoặc có cùng chức năng hoạt động tương tự nhau.

- nguồn kinh phí cho hoạt động tương tự nhau.

- các đơn vị đó là những chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có
quyền thu chi, mở tài khoản.

Căn cứ vào nguyên tắc trên, nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia được phân thành 5
khu vực thể chế:

- Khu vực thể chế Nhà nước: bao gồm các đơn vị quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng,
bảo đảm xã hội, nghiên cứu khoa học, hoạt động sự nghiệp về y tế, văn hoá, giáo dục,
thể thao… Nguồn kinh phí để chi tiêu cho các đơn vị này do ngân sách Nhà nước cấp.

- Khu vực thể chế tài chính: gồm các đơn vị có chức năng hoạt động kinh doanh tiền tệ,
ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm… Nguồn kinh phí để hoạt động của các đơn vị chủ yếu
dựa vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tiền tệ và tài chính của đơn vị.

- Khu vực thể chế phi tài chính: gồm các đơn vị có chức năng sản xuất kinh doanh
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thuộc các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng,
thương nghiệp… Nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu dựa vào kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh sản phẩm hàng hoá - dịch vụ của đơn vị.

- Khu vực thể chế vô vị lợi: gồm các đơn vị sản cung cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu
tiêu dùng sinh hoạt, tín ngưỡng của dân cư như: các hiệp hội, các hội từ thiện, các tổ
chức tín ngưỡng… Nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu dựa vào sự đóng góp tự nguyện
của các thành viên, sự đóng góp và giúp đỡ của các tổ chức.

12/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

- Khu vực thể chế hộ gia đình. Hộ gia đình dân cư vừa là đơn vị tiêu dùng cuối cùng,
vừa là đơn vị sản xuất có chức năng sản xuất ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Khu vực
hộ gia đình bao gồm toàn bộ các hộ gia đình dân cư với tư cách là đơn vị tiêu dùng và
đơn vị sản xuất các thể. Nguồn kinh phí chủ yếu để chi tiêu của các hộ gia đình dựa vào
sản xuất kinh doanh cá thể, thu nhập và tiền lương, lãi tiền gửi ngân hàng …

Phân tổ theo khu vực thể chế sẽ giúp cho việc xác định các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
được chính xác hơn, phạm vi nghiên cứu rông hơn, đa dạng hơn để phục vụ công tác
lãnh đạo các cấp và quản lý nền kinh tế ở tầm vĩ mô đạt kết quả cao nhất.

Phân ngành kinh tế quốc dân.

Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các ngành kinh
tế khác nhau dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt động của các đơn vị kinh tế hay chủ
thể kinh tế trong hệ thống phân công lao động xã hội.

Việc phân loại các hoạt động kinh tế vào các ngành kinh tế thích hợp phải căn cứ vào
các nguyên tắc sau:

- Phải căn cứ vào học thuyết phân công lao động xã hội và trình độ phân công lao động
xã hội.

- Phải căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.

Tức là phải căn cứ vào đặc trưng của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các tổ chức có
chức năng hoạt động giống nhau hoặc gần giống nhau.

- Phải đáp ứng được yêu cầu của công tác so sánh quốc tế.

- Đơn vị gốc tham gia phân ngành kinh tế quốc dân là các đơn vị kinh tế có tư cách pháp
nhân tức là có hạch toán độc lập hoặc tự hạch toán.

- Phải dựa vào chức năng và đặc điểm chủ yếu của các đơn vị kinh tế.

- Phải thường xuyên hoàn thiện hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân.

Trên cơ sở phạm trù sản xuất theo SNA, dựa trên nguyên tắc chung về phân ngành kinh
tế quốc tế, toàn bộ hoạt động sản xuất của quốc gia được chia thành 3 khu vực:

- Khu vực 1: gồm những hoạt động khai thác sản phẩm từ tự nhiên như: Nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản.

- Khu vực 2: bao gồm những hoạt động khai thác và chế biến sản phẩm từ mỏ các loại,
công nghiệp chế biến; sản xuất và phân phối điện, nước ga; xây dựng.

13/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

- Khu vực 3: bao gồm những hoạt động dịch vụ: thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn
thông, quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng…

Phân ngành kinh tế quốc dân có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc xác định cơ cấu
kinh tế, xác định mối quan hệ kinh tế giữa các ngành nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng
của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ đó phân tích, đánh giá thực trạng
nền kinh tế, phục vụ việc xây dựng các chủ trương, chính sách nhằm chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn lịch sử của kinh tế đất nước.

Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, phân ngành kinh tế quốc dân đã mô tả chi tiết hơn,
chính xác hơn, cụ thể hơn một bước của phân loại theo khu vực thể chế.

Phân toồ theo sản phẩm.

Nếu phân ngành kinh tế, về cơ bản vẫn dựa vào chức năng sản xuất chính của từng đơn
vị hoạt động kinh tế, trong đó bao gồm nhiều loại sản phẩm dịch vụ thuộc ngành kinh tế
khác nhau thì phân theo ngành sản phẩm dựa vào :

- Những sản phẩm dịch vụ có cùng công dụng.

- Những sản phẩm dịch vụ có cuứng quy trình công nghệ sản xuất tương tự nhau.

- Sử duùng nguyên vật liệu chủ yếu tương tự nhau.

Phân theo ngành sản phẩm sẽ chi tiết hơn nữa đối với từng ngành kinh tế,và được sử
dụng trong bảng I/O, trong công tác kiểm kê sản phẩm hàng hoá, tồn kho, tài sản cố
định, hàng hoá xuất nhập khẩu…

Phân toồ theo thành phần kinh tế.

Phân theo thành phần kinh tế là căn cứ vào chế độ sở hữu đối với các yếu tố sản xuất
và kết quả sản xuất để tập trung các đơn vị hay chủ thể kinh tế của nền kinh tế quốc dân
thành từng nhóm khác nhau.

Phân theo thành phần kinh tế là căn cứ quan trọng để hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế- xã hội đúng đắn, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, đồng thời
củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Theo Nghị Quyết Đại Hội 9 của Đảng và Nhà nước, các thành phần kinh tế nước ta hiện
nay gồm có:

1. Kinh tế Nhà nước.


2. Kinh tế tập thể
3. Kinh tế cá thể và tiểu chủ.

14/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

4. Kinh tế tư bản tư nhân


5. Kinh tế hỗn hợp
6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Phân toồ theo vùng lãnh thổ.

Phân theo vùng lãnh thổ là căn cứ vào các đặc điểm về tự nhiên, quản lý hành chính và
kinh tế xã hội phân chia nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia ra thành các vùng, các
lãnh thổ khác nhau.

Phân tổ theo vùng, lãnh thổ có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu sự phân bổ các
nguồn lực và kết quả của nền sản xuất xã hội theo vùng, lãnh thổ. đánh giá trình độ phát
triển kinh tế xã hội của từng vùng, lãnh thổ và so sánh giữa các vùng, lãnh thổ với nhau.
Trên cơ sở đó đề ra các chính sách quản lý kinh tế xã hội hợp lý, tạo điều kiện để các
vùng, lãnh thổ phát triển đồng đều.

Phân tổ giao dịch.

Đây là phân tổ riêng của SNA. Phân tổ giao dịch là căn cứ vào tính chất giao dịch để
phân chia các giao dịch trong nền kinh tế thành các loại khác nhau, gồm

- Mua bán sản phẩm.

- Trả và nhận lương.

- Trả và nhận lãi tiền vay.

- Trả và nhận dịchvụ bảo hiểm.

- Thuế thu nhập.

- Đóng góp cho các tổ chức vô vị lợi.

- Chuyển nhượng…

Mỗi loại phân tổ có tác dụng và ý nghĩa khác nhau, chúng phản ánh cơ cấu nền kinh tế
theo một góc độ nghiên cứu nhất định. Vì vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà SNA
sử dụng loại phân tổ nhất định.

Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp chủ yếu trong hệ thống tài khoản quốc gia.

Trong hệ thống tài khoản quốc gia sử dụng các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp sau:

15/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Tổng giá trị sản xuất (Gross output-GO)

Tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu kinh tế phản ánh toàn bộ giá trị của sản phẩm do lao
độngtrong các ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân tạo ra trong 1 thời kỳ nhất định,
tức là phản ánh kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế theo từng thời kỳ: tháng, quý, 6
tháng, năm, thường là một năm.

GO được xác định theo 3 phương pháp:

Phương pháp xí nghiệp.

Theo phương pháp này, lấy xí nghiệp làm đơn vị tính, thực chất là tổng giá trị sản xuất
của tất cả các xí nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.

GOXN = ∑ni = 1GO XN1.

Phương pháp ngành.

Lấy ngành làm đơn vị tính, thực chất là tổng cộng giá trị sản xuất của tất cả các ngành
trong nền kinh tế quốc dân.

GONGàNH = ∑20(17)
I = 1 GO ngànhI

=GOXN I - giá trị sản phẩm chu chuyển

giữa các xí nghiệp cùng 1 ngành.

Phương pháp kinh tế quốc dân.

Phương pháp này lấy nền kinh tế quốc dân làm đơn vị tính, phản ánh được kết quả sản
xuất của nền kinh tế quốc dân.

GOKTQD = GONGàNH - giá trị sản phẩm chu chuyển

giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân.

Thực chất của 3 phương pháp này là loại trừ dần phần bị tính trùng giá trị sản phẩm của
các xí nghiệp, của các ngành trong nền kinh tế quốc dân.

Cả 3 phương pháp này không được sử dụng để tính GO cho các xí nghiệp, các doanh
nghiệp mà được áp dụng để tính GO của toàn nền kinh tế quốc dân

16/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Chi phớ trung gian.

Chi phí trung gian là một bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất, là chi phí sản phẩm
các ngành khác nhau để sản xuất sản phẩm của một ngành nào đó, bao gồm chi phí vật
chất: nguyên vật liệu chính phụ, bán thành phẩm, nhiên liệu … và chi phí dịch vụ: cước
phí vận tải, bưu điện, chi phí tuyên truyền, quảng cáo …

Khi tính chi phí trung gian cần chú ý các nguyên tắc sau:

- Chỉ tính những yếu tố nào đã được tính vào tổng giá trị sản xuất mới được tính vào chi
phí trung gian.

- Giá tính chi phí trung gian là giá sử dụng khi tính giá trị sản xuất của các yếu tố thuộc
chi phí trung gian.

Tổng sản phẩm quốc nội( Gross Domestic Product – GDP)

Tổng thu nhập quốc gia (Gross National Income -GNI)

GNI =GDP +Δnhân tố sản xuất.

Thu nhập quốc gia (National Income – NI)

NI= GNI – KHTSCĐ.

Thu nhập quốc gia sử dụng(National Disposable Income – NDI)

NDI= NI + Δ chuyển nhượng hiện hành

Tiêu dùng cuối cùng(Final Consumption - C)

Tiêu dùng cuối cùng là một phần của Tổng sản phẩm xã hội sử dụng để thoã mãn nhu
cầu tiêu dùng đời sống, sinh hoạt của các nhân dân cư, hộ gia đình và nhu cầu tiêu dùng
chung của xã hội (Nhà Nước), gồm: tiêu dùng cuối cùng của dân cư và tiêu dùng cuối
cùng của Nhà nước.

Tổng tích luỹ tài sản (Gross Capital Formation)

Tổng tích luỹ tài sản là một bộ phận của GDP được sử dụng để đầu tư tăng tài sản nhằm
mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư, gồm tích luỹ tài
sản cố định, tích luỹ tài sản lưu động và tích luỹ tài sản quý hiếm.

17/18
Những vấn đề lý luận chung về SNA

Xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

Xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ
được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng… giữa các đơn vị thường trú của nước ta với
các đơn vị thường trú của nước ngoài.

Để dành (Sn).

Để dành là phần tiết kiệm hoặc để dành từ nội bộ nền kinh tế, là một trong những nguồn
vốn để tích luỹ tài sản.

Để dành được tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và từng khu vực thể chế. Có 3 loại
để dành:

+ ẹể dành từ thu nhập trong nước:

Sn = GDPthuần – TDCC

= GDP – C1- TDCC

+ Để dành từ thu nhập quốc gia

Sn = NI – TDCC

= GNI – C1- TDCC

+ Để dành từ thu nhập quốc gia sử dụng

Sn = NDI – TDCC

18/18

You might also like