Professional Documents
Culture Documents
Tai Lieu Sinh Hoat Chi Đoàn
Tai Lieu Sinh Hoat Chi Đoàn
Tháng 4/2018
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã khẳng định với toàn thể dân tộc Việt Nam
với lương tri thế giới: “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”,
“Đồng bào Nam Bộ là dân tộc nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân
lý đó không bao giờ thay đổi!”.
Với Người, đất nước, núi sông Việt Nam là một khối thống nhất, Bắc – Trung –
Nam “Không thể phân chia, kết đoàn ba miền như con một cha, nhà một nóc, no đói, rách
lành sẽ chia, đùm bọc, không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam ta”…
Khi cuộc trường chinh chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc, một nửa đất nước
sạch bóng ngoại xâm, song cả dân tộc vẫn chịu nỗi đau chia cắt do âm mưu và hành động
xâm lược của đế quốc Mỹ.
Hòa bình lập lại trên miền Bắc nhưng trái tim Hồ Chí Minh chưa phút nào yên, vì
miền Nam còn bị quân thù giày xéo. Người luôn trăn trở khôn nguôi về miền Nam, về sự
nghiệp giải phóng đất nước vẫn còn chưa hoàn tất. Giải phóng miền Nam thống nhất non
sông giờ đây trở thành mục tiêu hàng đầu của mọi người Việt Nam yêu nước thương nòi
và đó cũng chính là quyết tâm không lay chuyển của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bài thơ chúc Tết năm 1969 của Hồ Chí Minh:
…Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào,
Tiến lên chiến sĩ, đồng bào,
Bắc, Nam sum họp, xuân nào, vui hơn!
Cho đến những ngày sắp đi xa, Người vẫn giữ một niềm tin sắt đá: “Cuộc chống
Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song
nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Niềm tin ấy, khát vọng ấy thể
hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt và trở thành sự thôi thúc trong tâm khảm
mỗi người dân hai miền đất nước cùng phấn đấu cho ngày mai thống nhất nước nhà. Đó
cũng là động lực mạnh mẽ cho toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khó khăn,
lâu dài, gian khổ, song nhất định thắng lợi.
11 giờ 30 phút trưa 30/4/1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc phủ
Tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ kính yêu
toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam toàn thắng. Một lần nữa, “sức mạnh Việt Nam
– sức mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” lại ngời sáng.
Miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, đất nước thu về một mối.
Từ đây, Nam, Bắc sum họp một nhà, chung vui niềm vui thống nhất. Khát vọng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam về một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sau những năm dài trường kỳ
kháng chiến đã trở thành hiện thực.
Chiến thắng 30/4 là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó là biểu tượng sáng ngời của Chủ nghĩa anh hùng
Cách mạng Việt Nam, đỉnh cao của khí phách và trí tuệ của con người Việt Nam. Suốt 30
năm kể từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, cả dân tộc kiên cường chiến
đấu hy sinh để đi tới thắng lợi trọn vẹn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, “Bắc
Nam sum họp”…
Chiến thắng 30/4 là chiến thắng của nội lực Việt Nam, của truyền thống văn hóa
dân tộc, của sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, đồng thời
là sự ủng hộ giúp đỡ chí tính của bạn bè quốc tế, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Ngày 30/4 là ngày hòa hợp dân tộc, từng gia đình và cả dân tộc sum họp dưới mái
nhà Việt Nam, người một nước cùng nhìn về một hướng, cùng chung một con
đường…Hòa hợp dân tộc đã hóa giải xung đột, xóa bỏ hận thù, giải phóng nội lực để cùng
nhau bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do cùng đi lên
Chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn./.
Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao
động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng
sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ
được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số
nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan
sang các nước khác.
Do sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm việc 8
giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là sự nảy nở và phát triển
phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn
định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp
tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông
qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là
8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các
nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới
chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ,
giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ
thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40
nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu
ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ
làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người
tham gia. Cũng ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra
5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York,
Baltimore, Boston... hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ.
Những cuộc biểu tình tại Chicago diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi những
công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố khác, thuê bọn khiêu khích và cảnh
sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng
trăm công nhân chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... Báo cáo của Liên
đoàn Lao động Mỹ xác nhận: "Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi
dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy".
Ngày 20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành phố Chicago, Quốc tế cộng sản
lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Frederic Engels, Đại hội lần thứ
nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương
lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước.
Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp công nhân,
ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới.
Năm 1920, được sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu tiên cho phép
người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến này dần dần được
nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công
nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh
chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ, giành những quyền lợi kinh tế -
xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động
1/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do
thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao
động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người
đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in,
nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mit-tinh lớn nhất trong
thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của
nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về
nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai
cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa
bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội./.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 01/7/1915
trong một gia đình công chức tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
Năm 1929, tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
Ngày 01/5/1930, bị địch bắt, kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, do thắng lơi của Mặt trận Bình dân Pháp, đồng chí được trả tự do, được
kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia hoạt động trong công nhân lao động ở
Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1939, Đảng điều động vào công tác ở Sài Gòn, tham gia Ban
Chấp hành Đảng bộ Thành phố. Cuối năm 1939, ông được phân công tham gia lập lại Xứ
uỷ Trung kỳ. Đầu năm 1941, bị địch bắt ở Vinh, rồi bị đưa về Sài Gòn xử án 5 năm tù và
đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được đón về Nam Bộ
hoạt động ở miền Tây, sau đó lên Sài Gòn - Chợ Lớn trực tiếp lãnh đạo kháng chiến với
các chức vụ Bí thư Thành uỷ, Bí thư Đặc khu uỷ Sài Gòn - Gia Định.
Năm 1947, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ Nam Bộ. Năm 1949, đồng chí tham gia
Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ. Từ 1957 đến 1960, đồng chí là quyền Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ.
Năm 1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục và sau đó là Phó
Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
Năm 1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục và sau đó là Phó
Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Năm 1976, đồng chí là Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tháng 12/1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đồng chí được bầu lại vào Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung
ương Đảng, được phân công giữ các chức vụ Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của
Trung ương, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt
Nam đến năm 1980. Sau đó, được phân công theo dõi thực hiện Nghị quyết của Đảng và
Chính phủ ở các tỉnh miền Nam.
Tháng 12/1981, đồng chí làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng
3/1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Tháng 6/1985, tại Hội nghị Trung ương 8, đồng chí được bầu vào Bộ
Chính trị, làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 6/1986, được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, và được phân công
Thường trực Ban Bí thư.
Tháng 12/1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đồng chí được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương và được Trung ương bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ Đổi mới .
Năm 1987, đồng chí kiêm chức Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Tháng 6/1987,
đồng chí được bầu làm Đại biểu Quốc hội khoá VIII. Tháng 6/1991, tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII, đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng
6/1996, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, được cử lại làm Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã trải qua biết
bao gian khổ về vật chất và tinh thần, bình tĩnh trước mọi hiểm nguy và biến cố, có niềm
tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, có tầm nhìn chiếc lược và tình thương
yêu đồng bào, đồng chí sâu sắc. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là nhà lãnh đạo uy tín của
dân tộc, có đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam, đặc biệt tiêu biểu cho ý chí và
nguyện vọng trong công cuộc đổi mới của toàn Đảng và toàn dân ta. Cuộc đời và sự
nghiệp của đồng chí mãi là tấm gương sáng cho nhân dân noi theo.
Với những đóng góp to lớn cho đất nước, Đồng chí đã được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Sao vàng và nhiều Huân, Huy chương và các phần thưởng cao quý khác.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh mất ngày 27/4/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 83 tuổi.