Professional Documents
Culture Documents
điều chế OFDM
điều chế OFDM
OFDM là nằm trong một lớp các kỹ thuật điều chế đa sóng mang (MCM)
trong thông tin vô tuyến. Còn trong các hệ thống thông tin hữu tuyến chẳng hạn
như trong hệ thống ASDL, các kỹ thuật này thường được nhắc đến dưới cái tên: đa
tần (DMT). Kỹ thuật OFDM lần đầu tiên được giới thiệu trong bài báo của R. W.
Chang năm 1966 về vấn đề tổng hợp các tín hiệu có dải tần hạn chế khi thực hiện
truyền tín hiệu qua nhiều kênh con.
Tuy nhiên, cho tới gần đây, kỹ thuật OFDM mới được quan tầm nhờ có
những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xử lý tín hiệu và vi điện tử.
Hiện nay, kỹ thuật ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM) được
dùng làm chuẩn trong các hệ thống phát thanh số ở châu Âu. Kỹ thuật này đang
được đề nghị đưa vào ứng dụng ở Mỹ cũng như nghiên cứu để phát triển trong lĩnh
vực truyền hình số.
Bản báo cáo này sẽ giới thiệu về nguyên lý, mô hình toán học và những đặc
điểm cơ bản trong kỹ thuật OFDM và cách mô phỏng phương pháp điều chế
OFDM sử dụng matlab.
MỤC LỤC
Hình 1.2.1 Biểu diễn phổ tín hiệu trong miền thời gian
Trong phương pháp điều chế đơn sóng mang, dòng tín hiệu được truyền đi
trên toàn bộ băng tần B, có nghĩa là tần số lấy mẫu của hệ thống bằng độ rộng băng
tần và mỗi tín hiệu có độ dài là:
T sc= 1/B
Trong thông tin vô tuyến băng rộng, kênh vô tuyến thường là kênh phụ
thuộc tần số (frequency selective channel). Tốc đọ lấy mẫu ở thồn tin băng rộng sẽ
rất lớn, do đó chu lỳ lấy mẫu Tsc sẽrất nhỏ. Do đó phương pháp điều chế đơn sóng
mang có những nhược điểm sau:
- Ảnh hưởng của nhiễu liên tín hiệu ISI gây ra bởi hiệu ứng phân tập đa
đường đối với tín hiệu thu là rất lớn.Điều này được giải thích do độ dài của
một mẫu tín hiệu Tsc là rất nhỏ so với trường hợp điều chế đa sóng mang.
Do vậy ảnh hưởng của trễ truyền dẫn có thể gây nhiễu liên tín hiệu ISI ở
nhiều mẫu tín hiệu thu. Có 5 loại nhiễu trong thông tin vô tuyến:
1. Gaussian Noise
2. Interchannel Interference
3. Co-channel Interference
4. Inter-symbol Interference
5. Multiple Access Interference
- Ảnh hưởng của sự phụ thuộc kênh theo tần số là rất lớn đối với hệ thống. Do
băng thông rộng kênh phụ thuộc vào tần số.
- Hai lý do nêu trên làm cho bộ cân bằng kênh và lọc nhiễu ở máy thu là phức
tạp.
Phương pháp điều chế đơn sóng mang hiện nay vẫn được sử dụng chủ yếu trong
thông tin băng hẹp như hệ thống thông tin di động toàn cầu GSM. Trong thông tin
băng rộng, phương pháp điều chế đa sóng mang ra đời để cải thiện các nhược điểm
trên.
b. Phương pháp điều chế đa sóng mang FDM:
Công nghệ OFDM nằm trong một lớp các kỹ thuật điều chế đa sóng mang
trong thông tin vô tuyến. Còn trong các hệ thống thông tin hữu tuyến chẳng hạn
như trong hệ thống ADSL, các kỹ thuật này thường đượcc nhắc đến dưới cái tên:
đa tần (DMT). Ý tưởng chính trong kỹ thuật OFDM là việc chia lượng dữ liệu
trước khi phát đi thành N luồng dữ liệu song song có tốc độ thấp hơn và phát mỗi
luồng dữ liệu đó trên một sóng mang con khác nhau.
Các sóng mang này là trực giao với nhau, điều này được thực hiện bằng cách
chọn độ dãn cách tần số giữa chúng một cách hợp lý.
OFDM tạo ra lưới theo thời gian và tần số. Mỗi hình chữ nhật là một kênh
độc lập và có thể cấp cho những người sử dụng khác nhau.
Tần sốcủa các sóng mang hơn kém nhau một khoảng W/N Hz, trong đó W là
độ rộng dải tần. Mỗi sóng mang được nhân với một giá trị phức xn,m lấy từ dữ liệu
đầu vào; chỉ số dưới n tương ứng với chỉ số của sóng mang, và m là chỉ số của toàn
bộ ký hiệu OFDM (còn gọi là khung OFDM). Mỗi tín hiệu sm(t) tương ứng với
một điểm trong không gian Euclid N-chiều gọi là không gian tín hiệu, mỗi điểm
được biểu diễn bởi một bộ các giá trị (xm,0, xm,1, ..., xm,N-1). Một tập hợp M
điểm trong không gian N-chiều này được gọi là chùm tín hiệu (signal
constellation). Các điểm nằm trong chùm tín hiệu này có thể là đầu ra sau khi thực
hiện phép điều chế M-trị bất kỳ. Trong trường hợp thực hiện truyền tín hiệu liên
tục, m là một số nguyên m lẻ. Các kết quả có được sau khi thực hiện phép nhân sẽ
được cộng lại và tín hiệu cuối cùng sẽlà dạng sóng (theo thời gian) được truyền đi
qua kênh.
Do f n(t) là một xung vuông được điều chế tại tần số sóng mang kW/N (Hz),
nên kỹthuật OFDM thường được coi như là có N sóng mang, trên mỗi sóng mang
ký hiệu được truyền đi với tốc độthấp hơn ROFDM = Rs/N. Chú ý rằng tốc độ ký
hiệu của mỗi kênh con là tốc độ truyền các ký hiệu (hoặc các khung) OFDM.
Tính trực giao và dải bảo vệ.
Ðiểm mấu chốt nhằm có được hiệu quảsửdụng dải tần cao là tính trực giao
của các sóng mang. Trong các hệ thống ghép kênh phân chia theo tần số thông
thường, các sóng mang được phân tách bởi một dải bảo vệ nhằm cho phép thu và
giải điều chế các sóng mang đó bằng các thao tác lọc thông thường. Tuy nhiên, các
dải bảo vệ này đã làm giảm hiệu quả sử dụng dải tần. Nếu các sóng mang là trực
giao với nhau, thì chúng có thể được sắp xếp sao cho các dải băng chồng lên nhau
sao cho vẫn có thể thu tốt mà không có giao thoa với các sóng mang lân cận (ICI).
Tuy nhiên, các dải bảo vệ là cần thiết để duy trì tính trực giao giữa các sóng mang
trong kỹ thuật OFDM, nhưng cách hoạt động của các dải bảo vệ này khác hẳn với
kỹ thuật FDM thông thường.
Máy thu OFDM có thể được coi là gồm nhiều bộgiải điều chế, mỗi bộ sẽ
thực hiện chuyển tín hiệu ở mỗi sóng mang xuống băng gốc và tích phân trên một
chu kỳ ký hiệu nhằm khôi phục lại dữ liệu ban đầu. Sơ đồ nguyên lý của quá trình
giải điều chế một ký hiệu trong kỹ thuật OFDM được mô tả trong hình (3). Chúng
ta có thể dễ dàng nhận thấy, nếu các hàm ∅n(t) với n = 0,1,...,N-1 là trực giao với
nhau từng đôi một thì mới khôi phục được bộ(xm,0, xm,1, ..., xm,N-1) ban đầu.
trong đó, * là kí hiệu của liên hợp phức. Có nhiều bộcác hàm trực giao, nổi tiếng
nhất là các hàm luỹ thừa phức tạo thành cơ sở của phép biển đổi Fourier:
Như vậy, nếu p, q là sốnguyên thì các hàm này sẽ là độc lập tuyến tính. Tính
trực giao này giữa chúng đã gợi ý về việc sử dụng phép biến đổi Fourier rời rạc
(DFT) trong kỹ thuật OFDM.
Nếu tất cả các sóng mang không phải là sóng mang mong muốn bị trộn
xuống các tần số bằng một số nguyên lần 1/t , trong đó t là chu kỳ ký hiệu, thì
chúng sẽ có tích phân bằng 0 trên một chu kỳ ký hiệu. Như vậy, các sóng mang sẽ
là độc lập tuyến tính, hoặc trực giao với nhau, nếu độ dãn cách giữa các sóng mang
là bội số của 1/t.
Trở ngại duy nhất trong việc sử dụng DFT trong kỹthuật OFDM là bản chất
không tuần hoàn của tín hiệu trong miền thời gian. Ðiều này có thể được giải quyết
bằng cách thêm một thời khoảng bảo vệ Tg, đoạn này chính là bản sao của ký hiệu
tích cực trong Tg giây trước (như trên hình 4). Ðoạn thêm vào này thường được
gọi là CP (cyclic prefix) bởi vì nó làm cho ký hiệu OFDM như là tuần hoàn đối với
máy thu. Tín hiệu thu sau đó sẽ được xấp xỉ bằng phép chập tuần hoàn giữa tín
hiệu phát và đáp ứng xung của kênh.
Hình 4. Thêm CP vào ký hiệu OFDM
Chiều dài của dải bảo vệ bị hạn chế nhằm đảm bảo hiệu suất sử dụng dải tần,
tuy nhiên, nó phải dài hơn đáp ứng xung của kênh nhằm duy trì tính trực giao giữa
các sóng mang con và loại bỏ được các loại giao thoa ICI và ISI. Những lợi ích đạt
được nhờ chèn thêm dải bảo vệ này thường có giá trị hơn những suy giảm trong
hiệu suất sử dụng dải tần và trong tỷ số SNR. Ðể minh hoạ cho điều này, chúng ta
có thể thấy rằng năng lượng phát sẽ tăng khi tăng chiều dài Tg của CP, trong khi
đó thì năng lượng tín hiệu thu và lấy mẫu vẫn giữ nguyên. Năng lượng phát trên
một sóng mang con là :
Như vậy, CP có chiều dài càng lớn thì suy giảm SNR càng nhiều. Thông
thường, chiều dài tương đối của CP sẽ được giữ ởmức nhỏ, còn suy giảm SNR sẽ
chủ yếu là do yêu cầu loại bỏ giao thoa ICI và ISI (nhỏ hơn 1dB với Tg/T < 0,2).
trong đó, xn,m là modul của số phức tương ứng với sóng mang con thức trong ký
hiệu OFDM thức và khác 0 trên chu kỳ thời gian (m-1) < t < m , trong đó là
chu kỳ ký hiệu. Ðiều này cho phép chúng ta có thểviết lại phương trình (2) dưới
dạng trung bình của các sóng mang phức liên tục theo thời gian, với m cho trước:
trong đó, fn = f0 + n∆f với f0 là tần số gốc, và ∆f là khoảng dãn cách giữa các sóng
mang. Không mất tính tổng quát, gán f0 = 0. Thay giá trịfn và lấy mẫu biểu thức
(8) tại tần số 1/T, ta được:
Ta chọn N mẫu trên một chu kỳ ký hiệu, sử dụng mối quan hệ = NT. So
sánh phương trình (9) với dạng tổng quát của phép biến đổi IDFT :
chúng ta thấy rằng, hàm phức xn,m theo biến n chính là định nghĩa của tín hiệu
được lấy mẫu biểu diễn trong miền tần số và s(kT) là dạng biểu diễn trong miền
thời gian. Do mối quan hệ giữa 2 phép biến đổi DFT và IDFT:
Hình 5. Sơ đồ khối các quá trình điều chế, giải điều chế OFDM sửdụng FFT
Hình (5) là sơ đồ khối của một hệ thống OFDM có sử dụng mã sửa sai, phép
IFFT được sử dụng để thực hiện các thao tác điều chế như trong hình (1). Dữ liệu
đầu vào sẽ được ánh xạ thành các bộN-phần tử bằng cách sửdụng bất cứ phép điều
chế M-trị thông thường nào. Sau đó, các thành phần thực và ảo sẽ được tách ra và
được mã hoá chập riêng biệt (thông thường là mã chập có hệ số tỉ lệ1/2). Bộ xen rẽ
khối có chức năng thực hiện xen rẽ các sóng mang (theo tần số), và khối IFFT sẽ
tạo ra dạng sóng ở miền thời gian giống như biểu thức (8). Sau khi thêm CP vào ký
hiệu OFDM thì tín hiệu sẽ được phát đi qua kênh fading nhiều đường, đồng thời nó
cũng chịu ảnh hưởng của nhiễu trắng cộng sinh AWGN. Tại máy thu, sau khi loại
bỏ CP khỏi ký hiệu OFDM, người ta thực hiện cân bằng và biến đổi FFT. Tín hiệu
miền thời gian thu được sau đó sẽ được giải xen rẽ, giải mã sửa sai theo thuật toán
Viterbi và cuối cùng được giải điều chế M-trị để trở thành luồng dữ liệu ban đầu.
3.Một số ứng dụng của công nghệ OFDM:
Sơ đồ khối OFDM trong hệ thống viễn thông:
Tín hiệu trong miền thời gian và Phổ của tín hiệu sau khi điều chế OFDM
2.1 Sử dụng Simulink:
Khối IQ mapper:
Biểu đồ chòm sao của tín hiệu sau điều chế 64-QAM
Gồm 64 điểm đối xứng nhau qua 2 trục I và Q