You are on page 1of 65

Vũ Ngọc Tiến

Ðiều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975

4 kì

Lời nói đầu: Năm 1998, tôi được mời tham gia đề tài nghiên cứu “Lịch sử 50 năm kinh
tế Việt Nam 1945- 1975” của Viện Kinh tế học, có sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới
(WB). Nhiệm vụ của một nhà văn-nhà báo, một kẻ ngoại đạo như tôi trong đề tài khoa
học là tìm đọc tài liệu, sách báo cũ, tác phẩm văn học, kết hợp với điều tra, phỏng vấn
nhân chứng để tái hiện lại đời sống nhân dân Bắc Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 mà số
liệu thống kê vốn ít và kém chính xác. Ðây là sáng kiến độc đáo của bà Tiến sĩ Nguyễn
Anh Tú, người Mỹ gốc Việt, đại diện WB ở Hà Nội. Qua gần 2 năm tham gia, tôi đã viết
và gửi cho họ 173 trang viết tay khổ A4, nhưng sau đó, vì nhiều lý do cá nhân, tôi không
tiếp tục làm việc và liên lạc với ông GS chủ nhiệm đề tài. Không rõ họ có sử dụng, hoặc
sử dụng đến đâu, như thế nào? Nay đọc lại bản thảo, tôi thấy nó có thể có ích cho các
nhà nghiên cứu, các nhà văn trẻ. Nó lột tả chân thực đời sống khốn khó một thời trong
mô hình kinh tế Stalin, đồng thời lý giải sự thắng thua trong cuộc chiến tranh ý thức hệ
giữa 2 miền Nam-Bắc, từ góc nhìn thuần túy kinh tế học và xã hội học.

Cần lưu ý, phần viết về nông thôn trong bản thảo khá nhiều sự kiện, nhân chứng, song
vấn đề lại tương đối đơn giản. Vì vậy, để không làm mất thời gian nhiều của bạn đọc, tôi
chỉ lọc ra phần viết về đời sống đô thị, lược bớt các biểu đồ, biểu bảng và bổ sung, chỉnh
lý nội dung cho phù hợp. Bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu thêm về phần nông thôn có thể liên
hệ với tôi qua BBT talawas.

Tháng 6 năm 2005

I. Giai đoạn 1954-1960: Hàn gắn vết thương chiến tranh

1. Tâm thế người dân

Người Hà Nội sẽ không bao giờ quên được giây phút tuyệt vời ngày 10/10/1954, khi
đoàn quân chiến thắng từ năm cánh cửa ô kéo về trong bài ca của nhạc sĩ Văn Cao:
“Trùng trùng quân đi như sóng, lớp lớp đoàn quân tiến về…” Nhạc phẩm viết từ năm
1949, đã từng bị phê bình là lạc quan tếu. Khi cụ Hồ tiếp chuyện GS. Trần Hữu Tước,
nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim và nhà văn Nguyễn Ðình Thi, nghe họ ca ngợi bài hát đó là khát
vọng chiến thắng, dự báo thiên tài của Văn Cao thì nhạc phẩm đó mới được phổ biến.
Trong đoàn người ra đón quân cách mạng chỉ còn là những người dân Hà Nội đặt trọn
niềm tin ở chế độ mới, bởi những ai không ưa cộng sản đều đã di cư vào Nam. Họ bảo
nhau, hòa bình rồi, ăn đói mặc rét mà hưởng độc lập tự do vẫn sướng. Hòa bình, tự do,
dân chủ là nguyện ước sâu xa trong lòng họ. Chuẩn giá trị trong đời sống xã hội lúc này
là lao động hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đời sống mới, xã hội mới, không hề
đòi hỏi sự đãi ngộ. Người Hà Nội nô nức đi lao động ở các công trường xa thành phố, đi
đắp đê Mai Lâm (Hà Nội) trong trận lụt năm 1958 hay đi lao động công ích ở đường Cổ
Ngư, hồ Bảy Mẫu với niềm tin trong sáng đến lạ kỳ. Học sinh phổ thông các trường nội
thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh đi về nông thôn giúp dân nhổ mạ, bón ruộng hay
gặt lúa cũng tưng bừng như đi dự trại hè. Bộ phim Cô gái công trường, một trong những
tác phẩm điện ảnh đầu tiên của Việt Nam đã phản ánh chân thực tâm thế người dân lúc
đó. Quan niệm về hạnh phúc của họ vừa trong sáng vừa có phần lãng mạn. Bà NTT ở phố
Hàng Bè kể rằng, hồi ấy bà là hoa khôi nổi tiếng, nhiều đám sang trọng, giàu có dạm hỏi,
nhưng bà chỉ mê mệt anh trung đội trưởng đội mũ nan, đeo huy hiệu chiến sĩ Ðiện Biên
nhưng không viết thạo một lá thư, đóng quân ở gần nhà. Tâm thế người Hà Nội thời đó
đều như bà NTT, thiên về lĩnh vực tinh thần, coi nhẹ vật chất. Khát vọng sống của họ là
được cống hiến, được chia sẻ.

2. Mức sống và chất lượng sống

Trước hết, cần điểm qua kết cấu xã hội ở Hà Nội và các đô thị sau 1954. Ða số các nhà
giàu, trí thức cao cấp hoặc các gia đình có liên quan đến chính quyền cũ đều đã di cư vào
Nam. Số còn lại thuộc diện tư sản dân tộc chỉ có 861 người, kỹ sư và bác sĩ 150 người,
giáo chức cấp tiểu học và trung học hơn 500 người, còn lại chủ yếu là các hộ tiểu thương,
tiểu chủ. Tính trung bình ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh cứ 2 hộ dân có một hộ tiểu
thương. Trong khi đó số công nhân mất việc làm do chủ cũ di cư vào Nam ở Hà Nội 10
vạn và ở Hải Phòng là 3 vạn người. Bộ phận công nhân viên chức ở vùng kháng chiến về
Hà Nội cỡ khoảng 6 vạn người. Số này giữ cương vị chủ chốt ở các công sở, nhà máy và
chỗ ở thường là nhà của người di cư, mỗi ngôi nhà có khoảng 3-5 hộ, cá biệt có nơi hàng
chục hộ. Ở khu vực thành thị còn xuất hiện thêm một tầng lớp dân cư là người miền Nam
ra tập kết. Từ tháng 7/1954 đến 5/1955 có 175.000 cán bộ, chiến sĩ và 15.000 học sinh
miền Nam ra sống ở các đô thị miền Bắc. Nhìn chung, bức tranh xã hội đô thị thời đó khá
phức tạp. Mô hình xã hội mới lại buộc Nhà nước phải lo giải quyết cùng một lúc các vấn
đề việc làm, ăn, mặc, ở, điện, nước… cho khối cán bộ, công nhân, viên chức. Ngoài
những nỗ lực tự thân của nền kinh tế đang còn ốm yếu, giải pháp trưng thu hàng hóa của
các hộ tiểu thương, tiểu chủ, tư sản và tước đoạt một phần diện tích nhà ở của nhiều hộ
dân trung lưu chia cho cán bộ, công nhân, viên chức là không loại trừ. Qua hơn 2 năm,
những vấn đề nêu trên đã giải quyết tạm ổn, chính phủ đề ra kế hoạch 3 năm khôi phục
kinh tế sau chiến tranh và đã thu được một số thành tựu tương đối khả quan. Số liệu
thống kê chính thống của Nhà nước tuy còn sơ lược và kém chính xác, nhưng có thể khái
quát về mức sống đô thị như sau:

• Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng là: năm 1957 - 18,61 đồng; 1959 - 20,39
đồng; 1960 - 21,42 đồng.

• Có sự nhích dần của lương và phụ cấp trong cơ cấu thu nhập của các hộ công nhân, viên
chức: năm 1957 thu nhập từ lương và phụ cấp 81,7%, từ ngoài lương (làm thêm) là
18,3%; Tương ứng cho các năm sau: 1959 là 85,8% và 14,2%; 1960 là 86,5% và 13,5%.

• Cơ cấu tiêu dùng: năm 1957 chi về ăn 70,5%, chi về sinh hoạt vật chất khác 19,4%, chi
về sinh hoạt văn hóa tinh thần 10,1%; Tương ứng cho các năm sau: 1959 là 69,5% -
21,9% - 8,6%; 1960 là 75,5% - 14,6% - 9,9%.

Các số liệu thống kê vừa nêu chỉ phản ánh phần nào đời sống của khối công nhân, viên
chức Nhà nước. Ðể thấy rõ hơn bức tranh đời sống xã hội đô thị, ta có thể tham khảo một
số cuộc phỏng vấn các nhân chứng ở độ tuổi 50 trở lên. Dưới đây là những lời kể:

Cụ VÐC, sinh năm 1916, làm nghề bưu tá, về hưu năm 1976, quê ở làng Yên Thái nay là
phường Bưởi quận Tây Hồ - Hà Nội:

“Tháng 9/1954, tôi được một cán bộ hoạt động bí mật trong nội thành đưa ra ngoại ô
huấn luyện nghiệp vụ bưu điện và phát hành báo chí, chuẩn bị tiếp quản Thủ đô. Sau đó,
tôi làm chân chạy thư, báo, công văn cho UBND xã Thái Ðô (gồm thị xã Nghĩa Ðô và
phường Bưởi bây giờ). Lương lúc ấy hưởng bằng tiền “cụ Hồ kháng chiến” là 2 vạn
đồng, tương đương 50 kg gạo. Từ năm 1958, tôi được biên chế vào ngành bưu điện, phụ
trách chuyển thư, báo cho 11 khối dân cư thuộc khu Ba Ðình. Lương khởi điểm là 33,6
đồng, phụ cấp con cái từ đứa thứ 3 được mỗi đứa 5 đồng. Ngoài ra nghề bưu tá mỗi tháng
được 5 đồng uống nước, tiền hao mòn xe đạp cứ 10km được 5 xu, mỗi ngày đi khoảng 50
km được 2 hào rưỡi. Vợ tôi làm nghề xeo giấy trong tổ hợp tác mới thành lập (1958),
mức thu nhập khoảng 36-38 đồng/tháng. Cộng các khoản thu nhập của gia đình cỡ 115-
120 đồng/tháng. Nhà tôi 10 miệng ăn cũng tạm đủ sống. Lúc này, Nhà nước vừa đổi tiền,
mỗi công dân từ 18 tuổi trở lên chỉ được đổi 200 đồng tiền ngân hàng mới. Nghe nói ở
trong phố, có người nhiều tiền, uất quá ném ra đường vì không đổi được, rồi tự tử mà
chết. Ðấy là một cách để Chính phủ cào bằng mức sống mọi tầng lớp cư dân đô thị.
Ngoài vàng bạc, kim cương ai đó còn giấu được, không đăng ký với Nhà nước ra, tiền
mặt của mọi nhà là xấp xỉ như nhau. Nhờ vậy giá trị đồng tiền rất cao, có lợi cho cánh
công nhân, viên chức chúng tôi. Với mức thu nhập như đã nói, vợ chồng tôi đủ nuôi 8
đứa con, thỉnh thoảng đi xem hát chèo, cải lương diễn lưu động ở chợ Bưởi, giá vé người
lớn 4 hào, trẻ em 2 hào.”

Ông NÐT, Phó tiến sĩ, Viện trưởng một Viện nghiên cứu lớn ở Hà Nội, sinh năm 1946,
sống tại khu Thành Công, quận Ba Ðình:

“Quê tôi ở một xã ngoại thành, cách Hà Nội chừng 12 km. Bố mẹ tôi dọn vào nội thành ở
từ năm 1949. Ông nội tôi có chút học vấn và uy tín với dân làng nên được cách mạng bố
trí ra làm lý trưởng để thuận lợi che chở, giúp đỡ cán bộ kháng chiến. Bố tôi mở một
xưởng xẻ gỗ nhỏ. Mẹ tôi buôn thúng bán bưng ở chợ. Khi giải phóng, gia đình tôi có 9
anh em (6 trai, 3 gái), tôi là thứ tư. Nhìn chung, từ năm 1954-1956 gia đình tôi sống tạm
ổn vì Nhà nước chưa có động thái gì lớn trong chính sách kinh tế mới. Cuối năm 1956,
ông nội tôi ở quê bị quy vào thành phần địa chủ cường hào ác bá, bị vu khống đủ thứ tội
mà thoạt nghe như chuyện cười của Azit Nêxin. Cuối cùng cụ bị kết án và bị treo cổ ngay
tại phiên tòa diễn ra ở sân vận động, nay là nhà máy ngói xi măng… May mà năm 1958
cụ được minh oan, nếu không thì đời tôi ra tóp, chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Năm
1958, cải tạo công thương nghiệp ở nội thành, bố tôi cũng may mắn được xếp vào diện
tiểu chủ nên xưởng xẻ gỗ không bị hợp doanh. Những năm ấy giá cả bán lẻ như sau: Về
gạo, gạo tám thơm hay dự hương 0,80 – 0,85% đồng/1 kg, gạo mùa 0,60 đồng/1kg, gạo
chiêm 0,40 - 0,45 đồng/1 kg; Trứng gà 0,80 - 1,20 đồng/1 chục; Thịt lợn 2,5 đồng/1 kg;
Cá chép tươi, cá quả, cá chày 1,80 đồng/1 kg…

Tôi còn nhớ được giá cả vì hồi đó mới 12 tuổi đã phải đi chợ, nấu ăn cho các anh lớn
giúp việc bố tôi ở xưởng xẻ gỗ. Mẹ tôi buôn bán ở chợ, tối về ngồi đếm tiền, tính ra mỗi
ngày lãi được 2 – 3 đồng. Bố và các anh tôi ở xưởng xẻ gỗ làm cật lực, kiếm được 5-7
đồng/ngày. Với mức thu nhập ấy, gia đình tôi chỉ đủ sống ở mức ăn no, thỉnh thoảng có
miếng thịt kho mặn. Tôi có một người bạn rất thân, bây giờ là một nhà văn. Gia đình anh
ấy cũng thuộc diện tiểu thương, tiểu chủ, nhưng năm đổi tiền (1958) có lẽ vẫn giấu được
ít vàng nên sống khá hơn. Mỗi lần đến nhà bạn học tổ, thấy nhà có lọ đường kính đầy, ai
muốn uống thì lấy nước mưa trong bể pha và vắt quả chanh vào, chỉ ngần ấy thôi cũng đủ
để tôi thèm muốn, đêm nằm mơ thấy lọ đường…”

Cụ NQÐ, sinh năm 1917, sống ở Nam Ðịnh, thành phần tư sản công nghiệp, vợ (cụ bà
BTH) buôn bán vải, tơ lụa:

“Tôi sinh ra ở thành phố dệt, tốt nghiệp trường Thành Chung Nam Ðịnh, có học qua
trường kỹ nghệ thực hành Ðông Dương trên Hà Nội. Chiến tranh xảy ra, tôi tản cư về
đình làng Ngò (Thanh Hóa). Năm 1949, tôi hồi cư và mở xưởng dệt kim, có 5 máy cổ lỗ
của Pháp, bé hơn rất nhiều so với xưởng của cụ Cự Doanh trên Hà Nội (80 máy). Vợ tôi
mở tiệm buôn bán vải đen để bán ra vùng tự do trong Thanh – Nghệ. Gia đình có 5 con,
sống ở ngôi nhà 2 tầng khá đẹp gần vườn hoa Con Cóc. Sau giải phóng, xưởng dệt kim
của tôi vẫn hoạt động bình thường, còn vợ tôi dẹp tiệm, ra bán hàng tại sạp vải ở chợ
Rồng. Ðời sống gia đình 3 năm đầu khá tốt, các con đi học bằng xe đạp Sterling của Anh,
Marina của Pháp. Gạo ăn thường là tám xoan hay tám làn ở Giao Thủy đưa lên thành
phố. Bữa ăn thường ngày đều có 4 món, do vú em quê Nghĩa Hưng nấu.

Cuộc sống gia đình bắt đầu đảo lộn từ cuối năm 1957 đầu 1958, khi vợ chồng tôi bị tập
trung đi học tập cải tạo công thương nghiệp. Theo quy định, những hộ sản xuất kinh
doanh như sau thì bị liệt vào diện tư sản: thuê mướn từ 5 công nhân trở lên, có máy phát
lực hoặc máy công cụ tiêu thụ 5 KW/giờ, vốn trên 7.000 đồng, lãi ròng trên 3.600
đồng/năm.” [Cụ bà BTH bổ sung: “Tư sản thương nghiệp thì vốn lưu động và hàng hóa
hiện hữu tại thời điểm kê khai đạt 10.000 đồng trở lên. Quy định như vậy đã là thậm vô
lý, nhưng ở Nam Ðịnh hồi đó, hễ ai có chút máu mặt là bị tìm cách đưa vào diện cải tạo,
cửa hiệu, hàng hóa dễ bề mất không.”]

Cụ NQÐ kể tiếp:

“Tôi giống hệt tính cách của ông nội là đồ Nho, đậu cử nhân trường thi Nho học Trấn
Sơn Nam [1] năm 1898, nên rất ương ngạnh, không dễ chịu khuất phục. Ði học cải tạo,
tôi hay thắc mắc, đấu lý với cán bộ: ‘Cơ sở của tôi có 5 máy, dệt 2 ca mà chỉ thuê có 8
thợ, nghĩa là còn 1 máy do tôi và 2 thằng con trai làm việc như trâu, còn hơn cả thợ và
phải lo đủ thứ ngoài sợi dệt, hà cớ gì quy tôi là tư sản bóc lột, ăn trên ngồi trốc? Thuế
cao, nguyên liệu khan hiếm, lãi ròng 800 đồng/năm còn chưa được, lấy lý nào tính toán
tôi lãi 3.600 đồng/năm?’ Tôi tuyên bố sẽ ‘dẹp tiệm’, không hợp doanh gì sất, máy sẽ hiến
cho Nhà nước đem lên Hà Nội nhập vào xưởng của cụ Cự Doanh, không làm chủ dệt thì
tôi mở cửa hiệu chữa ô tô, xe đạp vì tôi có bằng kỹ nghệ thực hành Ðông Dương, không
sợ chết đói, chỉ thương 8 thợ dệt của tôi sẽ thất nghiệp, về quê đi cày… Ðến bây giờ sắp
kề miệng lỗ, tôi mới biết mình ngu. Chuyên chính vô sản ở Nam Ðịnh là thứ “chuyên
chính vô học”, tôi cãi lý với họ sao được. Họ soi lý lịch 3 đời, ông tôi là đại địa chủ
phong kiến, anh tôi trước làm đại lý cho hãng hàng không Pháp ở Nam Ðịnh, lại di cư
vào Nam… Tôi bị tập trung đi lao động cải tạo 6 tháng. Ở nhà, toàn bộ xưởng dệt và cả
hàng hóa của vợ tôi bị trưng thu. Mấy đứa con, vì thế, học giỏi mà không được thi vào
đại học, phải tình nguyện đi lao động ở các công – nông – lâm trường, sống khổ cực,
hàng tháng vợ tôi phải đi xe đạp vượt trăm cây số để đem cho chúng, mỗi nhà liễn mỡ
lợn và vài cân cá khô ăn dè.”

Ông TBN, sinh năm 1944, kỹ sư cơ khí giao thông, hiện là phó vụ trưởng ở một bộ quan
trọng, sống ở Thanh Xuân – Hà Nội:

“Cha tôi là TVK, trước năm 1954 làm thư ký tòa án đại hình ở Hà Nội. Cụ là viên chức
mẫu mực do Pháp đào tạo cả về năng lực làm việc và phong cách sống. Sau giải phóng,
theo Hiệp định Giơ–ne–vơ (Geneva), cụ là viên chức lưu dung ngành tòa án, mức lương
240 đồng/tháng (tiền ngân hàng mới năm 1958). Mức lương ấy so với giá cả sinh hoạt là
rất cao. Mẹ tôi chỉ ở nhà lo việc nội trợ. Nhà tôi có 6 anh em, tôi là con cả, sống rất no đủ
những năm 50. Sáng nào cũng vậy, khoảng 8 giờ có chị hàng hoa ở Ngọc Hà đem hoa
đến cho gia đình. Bố tôi sống và làm việc như một chiếc đồng hồ báo thức: 5 giờ 30 đi
tập thể dục ở vườn hoa Hàng Ðậu, sau đó về ăn sáng, uống cà phê, đi làm. Hết giờ làm
việc ông về nhà tắm rửa rồi lững thững dạo phố, đọc báo ở cửa tòa báo Quân đội nhân
dân trên đường Phan Ðình Phùng và ăn tối vào 19 giờ. Chủ nhật, bố tôi thường về quê
ngoại ở làng Ðại Mỗ bắn chim hay câu cá. Có lẽ ông là người có công lớn, góp phần giúp
Chính phủ hình thành hệ thống tổ chức ngành tòa án và quy trình tố tụng từ sơ thẩm,
phúc thẩm đến giám đốc thẩm.

Cuối năm 1959 đầu 1960, bố tôi được học tập và vận động viết đơn tình nguyện không
nhận lương công chức lưu dung nữa, chỉ xin nhận lương 64 đồng. Bắt đầu từ đây, gia
đình sống khá gieo neo. Mẹ tôi phải đi làm công nhật, nắm than tiết kiệm từ tro của nhà
máy điện Yên Phụ trộn với than cám và bùn lấy ở hồ Trúc Bạch, được 1,4 - 1,6
đồng/ngày. Tuy nhiên, bố tôi chỉ cho phép cắt giảm khẩu phần ăn, còn mọi sinh hoạt gia
đình, nếp sống cá nhân không thay đổi. Ðiển hình là quần áo, ở nhà vá chằng vá đụp,
nhưng ra đường ai cũng phải có bộ tươm tất. Nó khác hẳn với nhiều gia đình công chức,
ở nhà mới dám mặc quần áo đẹp, ra đường lại vá chằng vá đụp. Bạn bè thường khuyên
cha tôi bán vàng và đồ đạc quý trong nhà làm vốn, cho mẹ tôi đi buôn bán nhì nhằng ở
chợ Ðồng Xuân, nhưng cụ không nghe. Cụ thường bảo các con: ‘Thời thế, thế thời phải
thế. Ðạo làm người trong thiên hạ lấy việc phụng sự quốc gia làm đầu’. Thế nhưng, có
nhiều đêm vì thương vợ con, cụ đã khóc thầm. Sau này, khi bị thuyên chuyển từ tóa án
tối cao về cấp thành phố, rồi về cấp khu làm anh ‘mõ tòa’, cụ vẫn chuyên cần làm việc
như một cái máy, chủ nhật vẫn về quê ngoại bắn chim, câu cá. Có lẽ nhờ cha tôi tỉnh táo,
nhẫn chịu nên tôi mới được vào đại học để có vị thế xã hội như bây giờ.”

Ông VÐH, sinh năm 1930, cán bộ kháng chiến nay đã về hưu, hiện sống ở quận Lê Chân
– Hải Phòng:

“Từ năm 1955-1960, chưa được Nhà nước phân nhà, tôi sống tại nhà riêng của bố mẹ vợ
ở phố Phan Bội Châu – Hải Phòng. Khác với Hà Nội, Hải Phòng có 300 ngày tập kết
(tính từ 10/10/1954) cho những người có ý định di cư vào Nam. Ðó là 300 ngày giao thời,
xã hội khá nhộn nhạo, giá cả sinh hoạt vô cùng đắt đỏ. Thời chống Pháp, tôi ở chiến khu
chỉ là cậu bé chạy công văn, giấy tờ. Về Hải Phòng (1955), tôi đã thành anh cán bộ 25
tuổi, nhưng văn hóa chỉ qua lớp 3 hệ phổ thông 10 năm, kiếm được bà vợ khá xinh, lại
giàu, có bằng tú tài toàn phần. Năm 1958, xếp lương công chức, cộng các khoản phụ cấp
được 80 đồng/tháng đã là khá cao trong xã hội. Tiền hồi ấy tiêu bằng đơn vị xu là nhỏ
nhất. Tiền xu có ba loại: 1 xu, 2 xu và 5 xu, bằng nhôm, có đục lỗ ở giữa. Ði ra chợ Sắt,
nhìn thấy các bà hàng rau xâu một chuỗi tiền xu vào dải rút quần cũng thấy hay mắt.
Ðồng 1 xu lúc đó có thể mua mớ hành hay rau thơm, 5 xu mua được mớ rau muống cỡ
1kg, cả nhà ăn không hết. Vợ tôi phụ giúp mẹ bán hàng xén ngoài chợ Sắt, thu nhập cũng
đủ ăn. Lương của tôi nộp cho bà ấy 45 đồng, giữ lại 35 tiêu vặt và đãi đằng bạn bè, vậy
mà vợ cũng mua trữ được mỗi tháng 1 chỉ vàng (50-55 đồng/1chỉ). Các gia đình công
nhân viên chức khác không chân trong chân ngoài như tôi chỉ tiết kiệm được 2,5 - 3,0
đồng/tháng. Tôi đi làm, mỗi sáng uống cà phê 2 hào, ăn chiếc bánh bao nhân thịt 2 hào,
vị chi 4 hào, là sang trọng ở đất Hải Phòng. Nhưng tôi thường phải ăn giấu ở nhà, không
dám ra hiệu phở ăn 2,5 hào/1 bát. Tôi hút thuốc thơm loại Thăng Long, Hoàn Kiếm cũng
phải bóc ra, nhét vào vỏ bao Bông Lúa hạng bét. Thời ấy, sống phô ra sự nghèo, giấu kín
sự giàu là hành vi ứng xử chung của toàn xã hội. Nói chung, giai đoạn 1955-1960 là thời
kỳ sung sướng, no nhàn nhất của gia đình tôi, nếu tính từ 1975 trở về trước.”

Nói đến chất lượng sống của cư dân, ta không thể bỏ qua lĩnh vực y tế - giáo dục. Ở lĩnh
vực này, chính phủ đã thành công khá ngoạn mục. Uy tín của chính phủ trong dân chúng
và trước cộng đồng quốc tế nhờ đó được củng cố. Nhiều học giả nước ngoài đã đánh giá
cao trong công trình nghiên cứu của họ về thành quả y tế - giáo dục của miền Bắc trong
giai đoạn 1954-1960 nên ở đây không cần nhắc lại (Le Vietnam au XXe Siècle – Paris
1979 – Feray P.).

Những năm 1954-1960, phương tiện sinh hoạt văn hóa bằng radio ở thành thị vẫn còn là
của hiếm, chỉ có ở các gia đình trí thức trung lưu, văn nghệ sĩ và cán bộ trung cao cấp. Bù
vào đó, hệ thống loa truyền thanh công cộng được lắp đặt rộng rãi. Cuối năm 1960, các
thành phố, thị xã, khu mỏ Quảng Ninh có khoảng 13.900 cái loa. Phó Tiến sĩ NÐT (đã
dẫn trong mục phỏng vấn) kể rằng, năm 1958, loa truyền thanh công cộng phát buổi
tường thuật trận đá bóng giữa đội Bát Nhất (Trung Quốc) và đội Thể Công (Việt Nam),
số người tụ tập ở gần nhà ông lên đến 200 người. Nhạc sĩ THB cũng kể rằng, quanh nhà
ông ở dốc Nghĩa Ðô gần chợ Bưởi không ai có máy quay đĩa hát, mỗi khi nhà ông mở đĩa
nhạc có rất nhiều thanh niên, học sinh tụ tập ở cửa để nghe nhạc cổ điển. Quanh chiếc loa
truyền thanh công cộng treo ở đầu chợ Bưởi, mỗi tối thứ bảy có khoảng vài chục đến cả
trăm người già, trẻ em ngồi nghe hát cải lương.
Ngành điện ảnh thời ấy chủ yếu sản xuất phim thời sự, đến năm 1960 mới có 4 bộ phim
truyện do xưởng phim Hà Nội sản xuất. Số phim truyện được trình chiếu chủ yếu là về đề
tài chiến tranh và hợp tác hóa nông thôn nhập từ Liên Xô, Trung Quốc: 462 bộ năm
1955, 329 bộ năm 1957 và 120 bộ năm 1960. Hà Nội có 7 rạp chiếu bóng, Hải Phòng có
2 rạp, suất chiếu nào cũng đông kín người, giá vé có 3 loại: 2 hào, 3 hào và 5 hào. Vùng
ven đô có các đội chiếu bóng lưu động mỗi tháng chiếu 2 đợt, mỗi đợt 2-3 đêm. Số người
xem ước chừng 1.000-2.000 người/1 suất chiếu. Giá vé người lớn 2 hào, trẻ em 1 hào.

Thị hiếu thẩm mỹ của đa số dân thành thị hồi đó là xem cải lương, chèo, tuồng. Kịch nói
và ca nhạc tạp kỹ, giao hưởng chỉ có ở nội thành. Giữa các màn cải lương thường xen kẽ
biểu diễn ca khúc thời tiền chiến hoặc các bài hát cách mạng. Nghệ sĩ cải lương Tuấn Sửu
cho biết, Hà Nội có 2 rạp cải lương “Chuông vàng Thủ đô” và “Kim Phụng”, 1 rạp chèo,
tuồng “Lạc Việt”, suất diễn nào cũng kín chỗ. Mỗi lần họ đi ngoại thành biểu diễn có đến
vài nghìn người xem, giá vé người lớn 4 hào, trẻ em 2 hào. Theo tài liệu thống kê chính
thống về sân khấu nghệ thuật, năm 1955 số đơn vị nghệ thuật là 24, số buổi biểu diễn là
300, số lượt người xem là 1.600.000; Tương tự các năm 1957 là 40 - 630 - 2.151.000,
1960 là 54 - 1.414 - 3.511.000.

Thị trường sách văn học thời kỳ này có rất ít đầu sách được xuất bản và kiểm duyệt rất
kỹ, nhưng lượng ấn bản cho mỗi đầu sách - sau khi được kiểm duyệt - lại khá lớn, thường
là 2-3 vạn bản, cá biệt có đầu sách “nội dung tốt” được in 5 vạn bản. Năm 1955 có 207
đầu sách, 1.712.000 bản. Tương tự các năm 1957 là 264 - 1.496.000 và 1960 là 346 -
4.682.000. Các nhà văn được biên chế vào các nhà xuất bản, tòa báo, Hội nhà văn và các
sở, ty văn hóa. Họ được hưởng lương cấp bậc theo đơn vị biên chế, ngoài ra, hưởng
nhuận bút 8-10% giá bìa và số lượng bản in. Vì vậy nhà văn nào có sách được in theo kế
hoạch thì nhận được khoản thù lao khá lớn. Một nhà văn lão thành cho biết mỗi cuốn
sách của ông được in năm 1958-1960 nhuận bút 4.000-6.000 đồng, trong khi lương và
phụ cấp ở cơ quan chỉ có 80-100 đồng/tháng. Cách đãi ngộ này khuyến khích nhà văn
sáng tác phục vụ công - nông - binh. Ðương nhiên nếu ai sáng tác khác đi chẳng những
không được in còn có thể mất biên chế ở cơ quan hoặc đi “lao động thực tế” ở công -
nông - lâm trường. Lại nói, các nhà văn có sách được in, tiền nhiều, thường hay đãi đằng
bạn bè ở các quán bia, quán phở. Ngôi nhà số 2 đường Cổ Tân trở nên nổi tiếng vì là nơi
ở của các nhà văn Nam Bộ uống bia như uống nước lã (Ðoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng,
Anh Ðức…). Lâu dần quán bia đường Cổ Tân thành nơi tụ họp của các cây bia rượu văn
nghệ sĩ: các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài… hay các họa sĩ Nguyễn
Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái… Một vại bia lúc đó giá 1,5 hào, nhưng các văn
nghệ sĩ vốn hào phóng với bạn bè nên bạc trăm, bạc nghìn chẳng mấy chốc cũng “bay
vèo”. Cha tôi chơi thân với một nhà văn thời tiền chiến, hồi đó ông này không có sách
được in vì sở trường của ông là tiểu thuyết lãng mạn. Ông thường hay đến vay tiền,
nhưng chưa một lần trả nợ. Lần ấy, bà vợ đẻ đứa con thứ 5, bị sài mòn, ông đến vay cha
tôi 100 đồng, bẽn lẽn hỏi mẹ tôi xem cộng sổ nợ là bao nhiêu, rồi ông thở dài nói: “Có lẽ
tôi phải đành viết quấy quá cuốn sách nào đó để trả anh chị”. Cha tôi đang hút thuốc lào,
buông chiếc xe điếu, chân tình nói: “Là nhà văn mà anh định viết quấy quá cho xong một
tác phẩm như nhiều đứa quen biết khác của chúng mình ư? Từ trước đến nay, bà nhà tôi
có bao giờ ghi sổ nợ cho anh đâu. 100 đồng này là tôi biếu chị để mua thuốc cho cháu
gái. Hết tiền anh hoặc chị cứ lên đây, tôi hết thì anh mới hết…” Về già, ông ngồi bán vé
số ở góc phố Châu Long và Phó Ðức Chính. Cha tôi về già cũng ra hè phố mở một quán
nước chè. Hai người gặp nhau tóc bạc phơ, nói nghề mới của các cụ hóa ra đều “hóng
hớt” được ối chuyện, đáng viết cả trường thiên hý kịch. Bản thân người viết những dòng
này, năm 16 tuổi cũng tập tọng học đòi viết văn, bị cha cấm đoán. Thậm chí, cha tôi còn
sai các em canh chừng, hễ thấy anh ngồi viết văn thì mách lại, để cha đốt đi trong ánh
mắt giận dữ, còn đứa con trai ngồi khóc nấc!...

Nói đến đời sống văn nghệ sĩ, không thể không nhắc đến cuộc đấu tranh tư tưởng với
“luồng gió độc” của nhóm Nhân văn-Giai phẩm do Nguyễn Hữu Ðang, Phan Khôi, Thụy
An khởi xướng. Sự kiện này đã được nhà văn Tô Hoài kể lại chi tiết trong cuốn Cát bụi
chân ai (NXB Hội nhà văn, 1990). Ở đây chỉ nhắc thêm câu chuyện về nhà văn Ðoàn Phú
Tứ để thấy hệ lụy của nó ảnh hưởng lâu dài đến đời sống một nhà văn ủng hộ nhóm Nhân
văn-Giai phẩm. Câu chuyện xảy ra ở thời điểm cách sau vụ Nhân văn-Giai phẩm 7 năm
(1964):

“Hà Nội đã lên đèn. Xe Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đi qua chợ Hàng Da, thấy một người
lom khom nhặt gì ở chợ. Thủ tướng hỏi thư ký:

- Ai trông giống anh Ðoàn Phú Tứ thế?

Thư ký của Thủ tướng xuống xe chạy lại thì đúng là Ðoàn Phú Tứ. Ông nói thản nhiên:

- Các con tôi có nuôi một con lợn. Tiền mua rau không đủ, chiều chiều tôi ra đây nhặt ít
vỏ chuối, thêm vào rau cho chúng nấu cám lợn.

Nghe thư ký thưa lại, Thủ tướng xuống xe đến tận nơi mời Ðoàn Phú Tứ chiều mai đến
nhà riêng ăn cơm.

Sau bữa cơm Thủ tướng bảo:

- Tôi biết anh rất giỏi tiếng Pháp. Tôi có đọc một ít tiểu thuyết cổ điển Pháp dịch ra tiếng
Việt. Người dịch chỉ dịch được ý mà không giữ được văn. Sao anh không dịch cho các
nhà xuất bản?

- Hoàn cảnh của tôi… dịch ai in?

- Tôi sẽ đảm bảo cho anh chuyện đó.

Sau bữa ấy, Thủ tướng trực tiếp trao đổi ý kiến với giám đốc NXB Văn hóa. Ít lâu sau,
bạn đọc nước ta được đọc tiểu thuyết Ðỏ và đen do Tuấn Ðô, tức nhà văn Ðoàn Phú Tứ
dịch.”

(Nguồn: Nguyễn Bùi Vợi – 101 truyện vui các nhà văn hiện đại Việt Nam – Nxb Thông
tin, 1996)
Bức tranh đời sống cư dân đô thị một giai đoạn lịch sử 1954-1960 đã khép lại với những
mảnh màu tối sáng đan xen. Dẫu sao chính phủ hồi đó còn nương nhẹ, có những giải
pháp linh hoạt, có mềm có cứng, nên đã khá thành công trong việc khôi phục nền kinh tế
sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, bắt đầu có tiềm lực để bước vào giai đoạn quyết liệt
xây dựng mô hình kinh tế Stalin trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

[1]“Trấn Sơn Nam” là tên của trường thi tại Nam Ðịnh.

Nói một chút thêm về công chức lưu dung:

Tôi có một người bạn thân từ hồi cấp 1, bạn thời đó là dạng con nhà hơi bị oai phong, cả
mấy khu lắp ghép cứ sáng đến là có ba con xe con đến đón các thủ trưởng đi làm, hai con
kia là lada tức là cấp thứ trưởng, riêng bố bạn đi con Toyota vì bố bạn là tổng giám đốc
một tổng công ty xuất nhập khẩu nhà nước. Hồi đó trẻ con nên đe'o để ý bố mẹ các bạn
làm gì, mà có để ý thì cũng chỉ thấy nhà bạn rộng gấp đôi gấn ba nhà mình, tivi to hơn,
sách nhiều hơn, đồ lưu niệm tượng tiếc này nọ nhiều hơn chứ cũng không cảm thấy
chênh lệch mức sống ghê gớm lắm. Cũng có lẽ trẻ con ít quan tâm đến vật chất.
Đến năm học lớp 12 thì bố bạn về hưu, cũng đe'o để ý lắm, đến tuổi thì về hưu thôi. Sau
mới biết, ông bạn trước làm kiểm lâm lục lộ thời Pháp, cách mạng về vẫn tiếp tục làm
việc cho bộ Lâm Nghiệp nhà ở biệt thự to lắm trên phố Trần Hưng Đạo. Sau ông xin hiến
nhà cho nhà nước đổi lấy mấy căn hộ tập thể. Cũng nhờ thế bố bạn hồi Pháp học trường
Tây được thu dụng vào làm cơ quan ngoại thương rồi lên đến chức tổng giám đốc. Khi bố
bạn về hưu cũng có giai thoại buồn cười là trước có một ông vốn xuất thân con cụ lớn
làm lính của bố bạn. Lúc làm việc chả biết có đè nén gì nhau không nhưng sau ông này
chuyển ngạch làm to lên, đến kỳ thăng thưởng hoặc lên bộ làm việc hoặc về hưu thì bố
bạn phải về hưu. Nghe đâu cũng vì chuyện lí lịch và xuất thân sinh viên học sinh tư sản
con cái công chức ngụy quyền.
Bạn tôi bây giờ cũng sống tà tà như thiên hạ, tiền không nhiều cũng không ít, vẫn thủy
chung trước sau với bạn bè không phân biệt sang giàu. Đến nhà chơi bố bạn vẫn ngồi nói
chuyện và bảo, thanh niên thì phải phấn đấu nhưng làm sao thì làm đừng để những cái vặt
vãnh của xã hội nó làm hèn nhân cách.

Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
4 kì
Kì 2

II. Giai đoạn 1961-1965: Khúc dạo đầu cho một mô hình kinh tế

1. Bãi cỏ xén bằng và những chuẩn giá trị

“Bãi cỏ xén bằng” là hình tượng do một người bạn Pháp của nhà văn Nga I. Ehrenburg
đưa ra tại một quán cà phê nghèo ở ngoại ô Paris khi nhận xét về mô hình kinh tế Stalin.
Nó thoạt trông thì gọn mắt nhưng lại trái quy luật. Một bãi cỏ ở nước Nga chỉ đẹp khi
trên đó mọc lên một cây sồi, vài bụi cây phúc bồn tử. Ở vào thời điểm xuân Tân Sửu
(1961), một số thành công về kinh tế ở giai đoạn 1954-1960 đã khiến không chỉ các nhà
lãnh đạo mà đại bộ phận dân cư miền Bắc, nhất là ở nông thôn, cũng ngây thơ đặt cược
số phận dân tộc cho mô hình này. Câu thơ “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của Tố Hữu
có lẽ phản ánh tâm trạng ông thật lòng tin theo, hy vọng ở mô hình kinh tế Stalin.

Ðể hiểu rõ tâm thế người dân đô thị và những thay đổi về chuẩn giá trị, thứ bậc trong xã
hội giai đoạn 1961-1965, cần xét qua tình hình chung của cả miền Bắc. Năm 1959 chỉ có
45% hộ nông nghiệp vào hợp tác xã. Ðến năm 1960 đã có 2.404.800 (85,83% hộ nông
dân) làm việc trong 40.200 hợp tác xã cấp xóm, cấp thôn. Bước sang năm 1961, các hợp
tác xã trên nhanh chóng sáp nhập lại để thành hợp tác xã quy mô cấp xã. Nhiều nơi như ở
Ða Tốn, huyện Gia Lâm - Hà Nội, có 5 làng cổ, tên làng và cảnh sắc rất đẹp (Ðào Xuyên,
Khoan Tế, Thuận Tốn, Ngọc Ðộng, Lê Xá) đều bị xóa mờ, thay bằng 18 xóm, cũng là 18
đội sản xuất… Khí thế hừng hực này đã tràn về các đô thị. Cuối năm 1960 đầu 1961, ở
các thành phố, thị xã, thị trấn đã có 263.600 hộ thủ công (81%) vào hợp tác xã thủ công,
102.000 hộ tiểu thương (45,1%) vào hợp tác xã mua bán. Cả miền Bắc có 1.014 xí nghiệp
quốc doanh và 889 xí nghiệp công tư hợp doanh. Như vậy, kể từ tết Tân Sửu (1961), kết
cấu xã hội trong cộng đồng dân cư đã thay đổi tận gốc. Một xã hội đa tầng được thu gọn
trong kết cấu đóng, hai mặt, hoặc là quốc doanh hoặc tập thể. Những hộ làm ăn cá thể ở
đô thị chỉ còn ước độ 17%. Chuẩn giá trị trong xã hội đô thị lúc này cao nhất là người
trong biên chế nhà nước, thứ đến xã viên hợp tác xã. Người làm ăn cá thể chẳng có vị thế
gì, con cái lấy vợ, gả chồng hay học lên cao rất khó. Ngay cả người nhà quê, khát vọng
lớn nhất cũng là được “thoát ly” thành người biên chế nhà nước, cho dù chỉ là đi làm
công nhân ăn đói, mặc rách ở các công-nông-lâm trường. Có khách đến chơi nhà, họ
không còn khoe vườn rau, ao cá mà khoe điều hãnh diện nhất là có người “thoát ly”. Ở
thành thị, thân phận người làm ăn cá thể sao giống như trong bài thơ “Khúc hát người da
đen” của Chế Lan Viên: “Bánh mì hạng ba, nhân phẩm hạng ba, thiên đường hạng bét và
nghĩa trang hạng bét”. Bức tranh xã hội đô thị thoạt nhìn ngỡ như là bãi cỏ xén bằng,
nhưng thực ra vẫn có tảng băng ngầm phân chia thứ hạng, đẳng cấp. Ngay cả những
người trong biên chế nhà nước, sự phân hóa giàu nghèo đôi khi không phải do chức vụ,
học vấn, tay nghề…

2. Mức sống và chất lượng sống

Ở giai đoạn này, ngành thống kê của Nhà nước đã hình thành đội ngũ khá đông các cán
bộ có trình độ nghiệp vụ. Mặt khác, kết cấu xã hội sau tết Tân Sửu đã trở nên đơn giản,
chỉ có hai khối người: cán bộ công nhân viên chức trong biên chế nhà nước và các xã
viên hợp tác xã, nên bài toán thống kê về mức sống cá nhân cũng không mấy phức tạp.
Vì vậy, kể từ giai đoạn này, chúng tôi sẽ tận dụng khai thác tối đa những chỉ báo thống
kê, trước khi đi vào mô tả hay phỏng vấn.

Thu nhập bình quân đầu người trong khối cán bộ công nhân viên năm 1961: 22,13 đồng;
1963: 21,95 đồng; 1965: 21,70 đồng.
Trong cơ cấu thu nhập năm 1961, thu từ lương và phụ cấp: 18,85 đồng, thu từ nguồn
khác ngoài lương: 3,28 đồng. Tương ứng, năm 1963 là 18,48 và 3,47 đồng, năm 1965 là
18,79 và 2,91 đồng.
Như vậy thu nhập của họ còn thấp hơn giai đoạn 1954-1960 vì có thể do con cái đông
lên. Theo cơ cấu thu nhập, họ chủ yếu sống bằng lương và phụ cấp. Họ không có cơ hội
kiếm thêm nhiều vì định kiến xã hội lúc đó coi mọi biểu hiện làm thêm hoặc chạy chợ là
phục hồi chủ nghĩa tư bản, là cá nhân chủ nghĩa… Lấy trường hợp một công chức bậc
trung ở Hà Nội, thu nhập bình quân đầu người/ tháng là 22,18 đồng. Tổng các khoản chi
21,46 đồng (ăn 15,24 đồng, mua sắm 2,67 đồng, chi khác 1,74 đồng) thì tích lũy chỉ có
0,72 đồng/người-tháng, gần như bằng không.

Tiếp tục đi sâu vào phân tích khẩu phần ăn của khối cán bộ, công nhân, viên chức, tài liệu
thống kê qua các văn liệu chính thống cho biết như sau (tính theo tháng):

Năm 1961: Lương thực quy ra gạo là 10,20 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá:
0,54 kg, trứng: 1,70 quả, đường: 0,19 kg, nước chấm: 0,50 lít.
Năm 1963: Lương thực quy ra gạo là 11,39 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá:
0,70 kg, trứng: 1,28 quả, đường: 0,18 kg, nước chấm: 0,45 lít.
Năm 1965: Lương thực quy ra gạo 11,40 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,54 kg, cá: 0,71
kg, trứng: 1,00 quả, đường: 0,24 kg, nước chấm: 0,50 lít.

Lại một lần nữa ta thấy được mô hình kinh tế của Stalin vận dụng vào kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất đem lại khẩu phần ăn đạm bạc, hầu như không tăng lên, thậm chí có cái suy
giảm do nguồn cung cấp từ nông thôn cũng suy giảm theo mô hình hợp tác xã cấp cao.

Ông LVT, sinh năm 1923, viên chức sở tài chính, sống ở phố Bà Triệu – Hà Nội kể lại:

“Gia đình tôi, cả 2 vợ chồng đều đi theo kháng chiến lên chiến khu Việt Bắc, nên từ năm
1954 đều đã có biên chế nhà nước. Giai đoạn 1954-1960 còn thị trường tự do nên sống dễ
thở hơn. Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Nhà nước có khẩu hiệu “thắt lưng buộc
bụng xây dựng CNXH”, vật phẩm khan hiểm, lương tăng ít không đủ bù giá, con cái
đông thêm nên khá vất vả. Cả nhà 8 miệng ăn (hai vợ chồng, mẹ già và 5 đứa con), lương
tôi 85 đồng/tháng, lương vợ 45 đồng/tháng cộng thêm phụ cấp của 2 vợ chồng cỡ 30
đồng/tháng. Tổng thu nhập từ lương là 160 đồng/tháng, bình quân đầu người 20
đồng/tháng. Muốn làm thêm để có thu nhập phải theo tổ chức, nếu để vợ chạy chợ sẽ là
việc động trời, tôi không dám. Cơ quan tôi nhận thêm lạc vỏ về cho mọi người bóc, mỗi
tháng tôi nhận thêm 1,5-2,0 tạ lạc. Cả nhà, từ già đến trẻ ngồi bóc cũng kiếm thêm được
22-25 đồng/tháng. Vợ tôi liên hệ với bà Q, tổ trưởng đan len ở phố Hàng Gai để nhận len
về đan áo xuất khẩu sang Liên Xô, mỗi tháng cũng kiếm thêm được 10 đồng. Hai khoản
thu nhập thêm này đủ để đong thêm gạo tự do 0,80 đồng/1kg của người nhà quê có ruộng
5% mang ra bán “chui” cho các bà buôn ở chợ Hàng Bè. Mỗi tháng nhà tôi đong thêm 20
kg gạo hết 16 đồng. Còn lại khoảng 20 đồng làm thêm dùng để mua sách vở cho trẻ con
đi học và thỉnh thoảng đi xem phim ở rạp là hết nhẵn.”

Cụ bà THT, sinh năm 1920, ở phố Hàng Thiếc – Hà Nội, thành phần tư sản vì có cổ phần
ở nhà máy da Thụy Khuê, khi hợp doanh với Nhà nước, cụ ông thành công nhân kỹ thuật,
đã kể lại:

“Vợ chồng tôi thuộc diện tư sản cải tạo, đang làm chủ mà khi hợp doanh biến thành
người làm công. Chồng làm việc ở phân xưởng thuộc da, vợ làm nhân viên quèn ở phòng
kế hoạch. Tổng thu nhập các khoản của 2 vợ chồng được 174 đồng/tháng, nuôi 9 đứa con
và 1 mẹ chồng nên cũng eo hẹp lắm. Lẽ ra vàng, bạc, kim cương đều bị Nhà nước trưng
thu từ năm 1959, song tôi còn chôn giấu được vài chục cây, đem ra ăn dè, mỗi tháng bán
đi 1-2 chỉ cỡ 55 đồng/chỉ, đủ phụ thêm vào miếng ăn thường nhật. Mẹ chồng tôi hay đi
thăm con cháu, dâu rể, tối về thường ngồi nước mắt lưng tròng. Cụ than thở: ‘Ðến chơi
nhà nào cũng thấy bữa cơm đầy một rổ rau cải bắp hay rau muống luộc. Ăn thế khác nào
độn rau, đến xanh ruột mất thôi. Nhà nào khá hơn thì có thêm vài bữa đậu kho với thịt
mỡ mỏng tang, nổi lều bều, nuốt sao được’. Tôi biết ý cụ nhắc khéo mình bớt vài cây
vàng chia cho họ, nhưng nghĩ cho cùng miệng ăn núi lở, chẳng bõ bèn gì, tôi lại nhắm
mắt làm ngơ.”

Khu vực hợp tác xã thủ công và hộ làm ăn cá thể, rất tiếc, các văn liệu chính thống đều
không có các chỉ báo thống kê, nhưng thiết nghĩ, mô hình hợp tác xã thủ công cũng na ná
như mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, ta có thể tham khảo các chỉ báo thống kê ở
nông thôn.

Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình
thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ
hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất
(trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm
tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Cụ thể:

Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập
trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.

Tương ứng các năm sau cũng như vậy. Năm 1963 là 12,56 đồng – 4,8 đồng – 7,76
đồng/tháng.

Nguyên nhân của sự bất hợp lý trên được ông Nguyễn Văn Cược, 72 tuổi, sống ở thôn
Ðình Tổ, xã Ðình Tổ, huyện Thuận Thành – Bắc Ninh giải thích:

“Thôn Ðình Tổ nằm dọc bờ đê sông Ðuống. Dân số vào năm Tân Sửu (1961) khoảng
2.500 suất đinh. Thôn tôi có 456 mẫu ruộng canh tác, sức kéo có 200 con trâu, bò, thuộc
loại giàu của huyện. Năm 1959 lập quy mô hợp tác xã cấp xóm nên có 4 hợp tác xã (xóm
Sông, xóm Nghè, xóm Ðình, xóm Chùa). Năm 1960 lập hợp tác xã cấp thôn, sáp nhập 4
hợp tác xã cấp xóm. Cuối năm 1961 lập hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã thì thôn tôi
chỉ có 2 đội sản xuất (1 đội xóm Nghè và 1 đội gồm 3 xóm còn lại). Thực tế cho thấy hợp
tác xã cấp xóm (1959) là đủ tầm quản lý của ban chủ nhiệm. Lên đến cấp thôn, nhất là
cấp xã thì bộ máy quản lý cứ phình to ra, năng suất và sản lượng teo dần. Bản tính nông
dân là tư hữu và vụ lợi từ cái rất nhỏ nên thu nhập ở ruộng 5% lại cao hơn ở hợp tác xã
(95% ruộng!) là điều dễ hiểu, không hiểu sao các vị lãnh đạo không sớm nhận ra điều tất
yếu này. Mặt khác thôn tôi có 456 mẫu thì 280 mẫu đất bãi trồng mía và đay. Các ông
cán bộ thu mua lợi dụng chính sách ’thắt lưng buộc bụng’, đặt giá mua thấp như đi ăn
cướp về cho nhà máy, hỏi làm sao người nông dân chịu làm việc cho hợp tác xã.”

Tình hình diễn ra ở các hợp tác xã thủ công nghiệp ngoài đô thị cũng giống như những gì
ông Cược đã nói. Ta hãy nghe trả lời phỏng vấn của một vài nhân chứng.

Ông NTL sinh năm 1942, cựu chiến binh thành cổ Quảng Trị, hiện sống ở phường Cống
Vị, quận Ba Ðình Hà Nội, có cha là ông NTH, chủ nhiệm hợp tác xã mây tre 1960-1970:

“Hợp tác xã của cha tôi thuộc loại lớn, có khoảng 300 lao động, chuyên sản xuất mành tre
mỹ nghệ và bàn ghế bằng mây. Trước năm 1960 nó gồm nhiều tổ sản xuất thủ công độc
lập nên quản lý tốt, nguyên liệu sẵn, thu nhập khá. Từ khi lên hợp tác xã cấp cao quản lý
cồng kềnh, đặc biệt là khâu thu mua nguyên liệu thất thoát nhiều, đẩy giá đầu vào lên
cao. Trong khi đó, đầu ra thời tổ hợp tác rất phong phú thì nay chỉ có một đầu ra độc
quyền là Tổng Công ty Tocotap của Nhà nước trên đường Bà Triệu thu mua để đổi hàng
cho Liên Xô nên họ định giá mua thấp, nhất là khi nào không ký được hợp đồng xuất
khẩu thì họ bỏ mặc cho hợp tác xã tồn kho hàng đống để rồi bị mối mọt xông hoặc bị
mốc. Lương của xã viên hồi ấy rất thấp, chỉ khoảng 40-50 đồng/người-tháng. Cha tôi và
ban chủ nhiệm khá hơn cũng chỉ 60-65 đồng/tháng. Tổng thu nhập của gia đình tôi, gồm
3 lao động xã viên (cha, mẹ và chị gái) đạt khoảng 150 đồng/tháng, chia cho 11 miệng ăn
là rất thấp. Các gia đình xã viên còn thấp hơn nữa. Ðó là chưa kể có những đợt 3-4 tháng
liền không có lương. Ðói thì đầu gối phải bò, xã viên tìm thu nhập thêm; nhà nào có đất
rộng thì nuôi gà, lợn; nhà chật thì chạy chợ, thực chất là đi buôn bán tem phiếu hoặc các
đồ nhu yếu phẩm do mậu dịch viên tuồn hàng ra ngoài. Thu nhập thêm thường gấp đôi,
có khi gấp ba lương hợp tác xã.”

Cụ THB, sinh năm 1917, ở phố Lò Rèn – Hà Nội, xã viên hợp tác xã cơ khí, có trụ sở ở
phố Mã Mây:

“Năm 1961, theo chủ trương của Ðảng và Chính phủ, tôi vào hợp tác xã cơ khí, đóng góp
hết công cụ sản xuất và nguyên liệu cho tập thể. Hai vợ chồng lao động cật lực, nhưng bộ
máy quản lý thì cồng kềnh, nhiêu khê nên năng suất kém lắm. Tổng thu nhập của 2 vợ
chồng chỉ cỡ trên dưới 100 đồng/tháng, trong khi lãnh đạo thì suốt ngày tiệc tùng mà
lương lại cao hơn người lao động nên chẳng ai muốn làm, bây giờ ta gọi là lãn công. Gia
đình tôi có 9 miệng ăn, nghề cơ khí vất vả mà gạo bông của Nhà nước bán cho chỉ đủ ăn
khoảng 10-12 ngày. Bí quá, tôi đành mua sắm công cụ để làm thêm ở nhà. Mặt hàng chủ
yếu là đinh các loại làm từ dây thép gai cũ của quân đội Pháp còn sót lại, do các bà đồng
nát thu gom về, bán lại cho tôi và nhiều hộ xã viên khác. Mặt hàng thứ 2 là các loại thép
lá tiết kiệm từ các “đề-xê” do nhà máy thải ra, dùng để gia công thành bản lề cửa các loại.
Nơi tiêu thụ là phố Thuốc Bắc chuyên bán đồ kim khí và các sạp hàng ở chợ quanh Hà
Nội. Tính ra mỗi ngày vợ chồng con cái làm thêm cũng kiếm được 12-15 đồng. Trung
bình mỗi tháng thu nhập ngoài hợp tác xã được 340 đồng, gấp hơn 3 lần lương của 2 vợ
chồng. Nhờ khoản thu nhập thêm này, cả nhà ăn đủ no, thỉnh thoảng có thịt làm nem hay
bún chả để cải thiện, có tháng tích lũy đuợc 5-10 đồng.”

Ông VTÐ, kỹ sư cơ khí chế tạo máy, sĩ quan thuộc Tổng cục chính trị quân đội, hiện
sống ở Tây Hồ - Hà Nội:

“Gia đình tôi năm 1961 có 8 anh em, hơn kém nhau 1 hoặc 2 tuổi, tôi là con cả 17 tuổi,
cô em gái út 8 tuổi. Cha tôi làm thợ nhuộm ở hợp tác xã nhuộm tận đường Trần Nhật
Duật, cách nhà gần chục cây số. Mẹ tôi làm nhân viên thu mua giấy phế liệu cho Liên
hiệp thủ công ngành giấy, thường là vỏ bao xi măng ở các công trường hay giấy vụn ở
các cơ sở xén kẻ giấy làm vở học trò. Mẹ tôi thường vắng nhà, còn cha tôi vốn dòng dõi
thế gia, phải đi làm thợ nhuộm đã là nỗi khổ tâm lắm rồi, đâu có nghĩ đến việc làm thêm.
Thu nhập của 2 cụ mỗi tháng khoảng 100-120 đồng, mỗi tháng chỉ dám bán đi 1 chỉ vàng
cỡ khoảng 50-55 đồng để phụ thêm vào bữa ăn cho cả nhà. Bữa cơm nào anh em tôi cũng
cạo cháy cành cạch, vét đến hạt cơm cuối cùng. Thức ăn mùa hè là rau muống luộc, đựng
đầy 4 đĩa tây (đường kính 20 cm), mùa đông là một nồi cải bắp ninh nhừ với loại khoai
tây chạy nước, bé bằng hòn bi ve, không thể gọt vỏ mà chỉ rửa qua cho sạch đất. Thức ăn
kiểu ấy thực chất là ăn độn với cơm cho đầy bụng. Họa hoằn lắm, mẹ tôi cho anh em cải
thiện bữa bún chả thì cả nhà chỉ có 8 lạng thịt, nhưng đem gạo đổi lấy 10 kg bún (1 kg
gạo đổi 2,5 kg bún), giờ nghĩ lại thì bữa cải thiện ấy cũng chỉ là bún chan nước mắm là
chính. Nhà đông con, lại đang tuổi ăn tuổi ngủ nên bữa nào tráng trứng thì chỉ có 3 quả,
trộn ít bột mì rồi đánh đều lên, láng qua chảo gang cho to và mỏng như chiếc bánh đa, để
cắt làm 8 phần đều nhau. Tôi và thằng em thứ 2 lúc đó 15 tuổi, đã biết nghĩ, thường giấu
phần của mình dưới đáy bát, rồi lén gắp cho 2 đứa bé nhất vào cuối bữa.”

Mức sống cư dân đô thị chỉ có 80% là được cào bằng như nhau, qua các nhân chứng
được phỏng vấn. Thật ra sự phân tầng, phân cực giàu nghèo ở khu vực đô thị vẫn diễn ra
âm thầm, đa dạng và rõ nét ngay trong chế độ tem phiếu. Nhìn vào thang lương người
gác cổng ở Bộ Công nghiệp so với ông Bộ trưởng, người ta có cảm giác sự đãi ngộ là
không có chênh lệch bao nhiêu. Nhưng ngoài chế độ về nhà ở, xe ô tô, phương tiện sinh
hoạt và làm việc ra, thì ngay trong miếng ăn thường nhật cũng có sự phân cấp công khai,
trên phạm vi toàn xã hội:

Bìa A cho cấp Bộ trưởng trở lên;


Bìa B cho cấp Thứ trưởng và chánh phó chủ tịch tỉnh;
Bìa C cho cấp vụ - viện, chuyên viên cao cấp, kỹ sư bậc 3/7 trở lên;
Bìa D cho cấp cán bộ trung, sơ cấp;
Bìa E cho công nhân, viên chức hành chính, sinh viên…

Người ngoài biên chế nhà nước (xã viên hợp tác xã, hộ làm ăn cá thể ở thành thị) chỉ
được cấp một số mặt hàng trong bìa mua hàng nhân dân. Ngay trong đội ngũ cán bộ,
công nhân, viên chức, một số mặt hàng phân phối ngoài định lượng (tem phiếu), dưới
hình thức “căng tin” cũng được phân ra các chế độ ưu tiên khác nhau. Dân gian thời đó
có bài vè truyền khẩu về sự phân chia đẳng cấp này: “Hai trăm ngồi phán – Trăm tám
ngồi nghe – Tranh nhà, tranh xe là anh trăm rưởi – Tất ta tất tưởi là chị chín mươi – Dở
khóc dở cười là anh sáu chục – Tối ngày lục đục là chị bốn lăm – Khóc đứng khóc nằm là
anh ba sáu”. (Hai trăm đồng là lương Bộ trưởng, ba sáu đồng là lương tổi thiểu năm
1964). Tréo ngoe còn ở chỗ, chính chế độ tem phiếu đã tạo thành trong xã hội một nhóm
người giàu không phải do cấp bậc, học vấn, tay nghề. Họ khá đông đảo, hiện diện ở khắp
nơi, làm việc ở những chỗ nắm hàng nhu yếu phẩm và phương tiện vận chuyển hàng hóa.
Lớp người này có thể điều khiển cả cán bộ trung cao cấp thông qua vợ con họ. Lớp người
này cũng là đầu mối cung cấp cho một thứ thị trường ngầm tự do, còn gọi là “chợ đen”.
Quá trình hình thành, vận động và phát triển các chợ đen đã tạo nên một nhóm cư dân đô
thị (10-15%) sống no nhàn, thừa tiền nhiều của gồm: nhân viên các cửa hàng bách hóa,
lương thực, thực phẩm, chất đốt; cán bộ cấp tem phiếu, phụ trách “căng tin” cơ quan; các
lái xe và các thương nhân hoạt động trong chợ đen mà hồi ấy gọi là “con phe”. Bề ngoài
các “con phe” bị dư luận xã hội khinh rẻ, lên án, nhưng chính họ lại là tác nhân điều hòa
nhu yếu phẩm từ người thừa sang người thiếu, thậm chí từ địa phương này sang địa
phương khác. Ðội ngũ “con phe” đã làm hư hỏng một số lớn nhân viên ngành thương
nghiệp vốn được khoác cho mỹ từ “người nội trợ của xã hội”. Ðôi khi các “con phe” còn
móc ngoặc với vợ con các cán bộ cao cấp để tuồn nhu yếu phẩm từ các cửa hàng đặc biệt
(Tôn Ðản, Nhà Thờ, Quốc Tế ở Hà Nội) ra chợ đen.

Trong quá trình điều tra, tiếp xúc với nhiều loại “con phe” thời đó, tôi đã có nhiều tư liệu
và đã viết thành truyện vừa Mỹ Linh của tôi. Ðó là nguyên mẫu cuộc đời của nữ tướng
cướp Thu trọc hay Thu bít ở ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai, Hà Nội. Ðoạn trích dưới
đây là 100% lời kể của Thu trọc dưới cái tên Mỹ Linh về tuổi thơ của chị ta:

“Thấm thoát đã 10 năm trôi đi. Bố mẹ tôi đã quen dần với cảnh sống đạm bạc. Bố tôi xin
dịch tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp cho một cơ quan nghiên cứu, lấy tiền uống cà phê và
hút thuốc Bông Lúa hạng bét. Mẹ tôi muốn có tiền nuôi tôi ăn học phải ra chợ Bắc Qua,
Ðồng Xuân buôn bán trao tay các loại tem phiếu và nhu yếu phẩm. Hồi đó mẹ tôi bị liệt
vào hạng “con phe”, tức thành phần bất hảo. Nghề này khá phức tạp, vốn dĩ hiền lành nên
mẹ tôi hay bị chèn ép. Tôi thỉnh thoảng phải ra chợ giúp mẹ nên sớm thành con bé đanh
đá, chua ngoa, nhất là lúc tôi bênh vực mẹ, chửi nhau với người khác. Ðiều này bố tôi
cấm kỵ, nhưng thương mẹ, tôi vẫn lén lút làm. Vì học ca chiều, sáng tôi dậy từ 3-4 giờ,
cắp rổ ra chợ. Quầy thịt, cá, đậu phụ, nước mắm nào cũng có vài hòn gạch của tôi dấm
chỗ. Tôi len lỏi giữa đám người hôi hám xếp hàng rồng rắn, chen lấn, chửi bới nhau để
mua được thực phẩm. Tính ra mỗi sáng, lúc chợ Ðồng Xuân, khi chợ Hàng Bè, con bé 10
tuổi cũng kiểm được 1 đồng rưỡi đến 2 đồng, hơn cả tiền dịch sách của bố một đêm. Ðó
là chưa kể có người không dùng đến phiếu đậu phụ, cá biển hay nước mắm thối, tôi có
thể mua hoặc xin lại để mua hàng giá cung cấp, bán giá cao ăn chênh lệch. Thiếu gì
những “mẹ mướp” đi chợ mà cá biển đồng tiền tanh lòm hay nước mắm thối vẫn là của
quý với họ. Nếu gặp mấy ông bà thợ móc cống có phiếu thịt loại nghề độc hại, mua được
cân rưỡi một tháng, đem bán để mua quần áo, sách vở cho con, thậm chí để đánh bạc là
tôi hôm ấy trúng to…”.

Trong cuộc điều tra, tôi còn gặp một loại người buôn bán trên lưng các “con phe”, sạch
sẽ, nhẹ nhàng, không mất một xu thuế, giàu nhanh đến chóng mặt. [Họ cho tôi tư liệu viết
tác phẩm ký “Câu lạc bộ các tỷ phú”, dự cuộc thi do báo Văn nghệ và Hội Nhà văn tổ
chức (1996-1997), nhận được giải thưởng.] Loại người này, vào đầu những năm 90, họ
sẵn có vốn tích lũy và mánh lới làm ăn nên đều phất lên thành tỷ phú. Dưới đây trích
đoạn sử dụng 100% lời kể của nhân chứng:

“Ở cửa chợ Ðồng Xuân có một chị bán bánh giò, bánh dày, chả quế. Hành trang chỉ có
một chiếc thúng đại và dăm cái ghế thấp như ngồi bệt. Ai cũng gọi chị là Vân Tây Thi vì
chị đẹp, có duyên, nói lời ngọt như mía lùi. 6 giờ sáng, Vân chỉ cần ngồi vỉa hè cửa chợ,
đợi chừng 15 phút sẽ có người chở hàng từ Tôn Ðản đến giao theo lời dặn trước và chiều
tối anh ta lại đến chở hàng còn thừa ế về nơi nó xuất phát, để sớm hôm sau lại giao hàng
mới, nóng hổi. Chỉ có Vân Tây Thi mới biết rõ các ông lớn bìa A, bìa B có thể sẽ ăn hàng
thừa ế của mình. Thời ấy, ai cắn giò chả ngập răng đều là dân phe có máu mặt ngoài chợ.
Giò chả ăn vào thì lời ra. Họ tâm sự với Vân độ này hàng gì lên, hàng gì xuống hay bán
chậm. Ai hôm đó “trúng quả đậm” muốn mua vài chỉ vàng cất giấu, ai gặp xui xẻo cần
bán đều qua tay Vân vì thời đó mua bán vàng là việc quốc cấm. Mỗi ngày Vân kiếm hơn
trăm đồng nhẹ như phẩy tay, bằng cả tháng lương ông Vụ trưởng.”

Một khi sự phân hóa giàu-nghèo, sang-hèn nảy sinh từ chế độ tem phiếu, chợ đen thì xã
hội cũng có một thứ chuẩn giá trị mới, rất dị mọ. Một cô bán hàng ở cửa hàng thịt có thể
dễ lấy đuợc chồng có học vị tiến sĩ hơn cô sinh viên y khoa hay sư phạm. Một anh lái xe
chinh phục người đẹp qua bà mẹ thực dụng lại dễ hơn anh giảng viên một trường đại học.
Ðó là sự thật hiển nhiên, đã được cô đúc trong bộ phim hài Kén rể do Xưởng phim Hà
Nội sản xuất năm 1964. Dẫu sao chế độ tem phiếu vẫn có những mặt ưu việt nhất định, rõ
nhất là sự bình ổn giá cả sinh hoạt. Biểu đồ biến động giá cả sinh hoạt 1961-1965 cho
thấy rõ điều này:

Giá sinh hoạt của năm 1961, 1963, 1965 so với năm 1957 là 119,2% - 131,5% và
133,0%; so với năm 1960 là 111,9% - 123,5% và 125,2% . Nó đảm bảo cho những gia
đình công nhân viên chức bậc lương thấp nhất có thể tồn tại bằng gạo và nhu yếu phẩm
tối thiểu. Nó giúp cho dân cư đô thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Ðịnh dù ở khu vực kinh
tế tập thể hay lao động tự do, nhưng có hộ khẩu thường trú sẽ có gạo ăn và cái mặc ở
mức cầm chừng.

Ðiều không thể phủ nhận, cuốn sổ gạo của mỗi gia đình ở đô thị là cái bảo bối cho nhà
hành pháp giữ gìn an ninh, trật tự và hạn chế gia tăng dân số cơ học (vì vậy hồi đó trong
dân gian có câu ví von “trông như mất sổ gạo” chỉ người có bộ mặt đau khổ, thiểu não).
Các mô hình kinh tế khác khó có thể làm việc này tốt hơn chế độ tem phiếu!...

Giai đoạn 1961-1965 có lẽ là thời kỳ thành công ngoạn mục nhất của miền Bắc về y tế,
giáo dục và phúc lợi công cộng. Ðành rằng chính sách “thắt lưng buộc bụng” xây dựng
chủ nghĩa xã hội có sự chia đều mức sống nghèo khó trong đại bộ phận dân cư, nhưng nó
cũng giúp cho nguồn thu ngân sách tăng nhanh, nhờ đó, chính phủ có điều kiện đầu tư
vào giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội nhiều hơn so với giai đoạn 1954-1960.

Trong lĩnh vực y tế, các số liệu thống kê cho thấy rõ sự tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 1960
chỉ có 65 bệnh viện và 180 bệnh xá, đến năm 1965 có 252 bệnh viện và 350 bệnh xá.
Chất lượng phục vụ, độ chuẩn xác của các phác đồ điều trị là rất cao, thuốc men khá đầy
đủ. Năm 1960 toàn miền Bắc có 600 bác sĩ, 2.446 y sĩ, 231 dược sĩ cao cấp, 293 dược sĩ
trung cấp. Năm 1961 những con số tương ứng là 1.525 - 8.043 - 428 và 703. Nhà nước
thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho cán bộ, công nhân, viên chức.

Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dưới sự chỉ đạo của 2 vị Bộ trưởng cũng là hai trí thức
tài năng và tâm huyết (ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và ông Tạ
Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp), từng bước đi của ngành
đều đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, bám sát nhu cầu và hiện trạng của nền kinh tế
đất nước. Lấy số liệu thống kê niên học 1955-1956 làm điểm xuất phát để so sánh, ta sẽ
thấy rõ sự tăng trưởng có tính đột biến cả về lượng và chất.

Niên học 1955-1956: 716.100 học sinh phổ thông, 2.800 học sinh trung học chuyên
nghiệp, 1.200 sinh viên đại học. Số liệu tương ứng của các niên học sau là 1960-1961:
1.794.700 - 30.700 và 16.700; 1964-1965: 2.673.900 - 42.600 và 29.300.

Ðứng ở thời điểm lịch sử 1961-1965 mà xét, thành công trong lĩnh vực y tế - giáo dục đã
đưa miền Bắc xếp vào hàng các quốc gia tiên tiến ở khu vực châu Á và ASEAN về lĩnh
vực này.

Ðời sống văn hóa nghệ thuật của cư dân đô thị những năm 1961-1965 có bước cải thiện
khá rõ rệt. Sách ngoại văn năm 1957 chỉ có 15 cuốn với 39.000 bản, tăng lên 39 cuốn và
210.000 bản (1960); 74 cuốn và 494.000 bản (1965). Ðặc biệt số lượng tác phẩm văn học
nghệ thuật trong 2 năm 1960-1961 đạt con số kỷ lục: 736 đầu sách với hơn 8 triệu bản in.
Rất nhiều tác phẩm ưu tú của văn học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt, in với số lượng
lớn và về mặt dịch thuật đã đạt tới trình độ cao nhất so với bất cứ giai đoạn nào suốt 50
năm qua (1945-1995). Nếu so với sách dịch ở miền Nam, có thể nó không phong phú, đa
dạng về các trường phái nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới cận –
hiện đại, nhưng với 1 tác phẩm cổ điển cụ thể thì sách dịch của miền Bắc đạt trình độ cao
hơn. Nhiều cuốn sách dịch đáng làm mẫu mực cho các thế hệ dịch giả sau này. Có thể
nêu một số dịch giả nổi tiếng: Phan Ðăng Tài, Ðào Anh Kha, Ðoàn Phú Tứ (tiếng Anh,
tiếng Pháp); Ðặng Thai Mai, Trương Chính (tiếng Trung); Vũ Thư Hiên, Cao Xuân Hạo
(tiếng Nga). Về thư viện, năm 1957 có 33 thư viện, 208.300 lượt người đọc; năm 1965 có
105 thư viện, 410.800 lượt người đọc. Nghệ thuật điện ảnh khá phát triển, do các nghệ sĩ
quay phim, đạo diễn, diễn viên được đào tạo ở nước ngoài về khá đông. Từ năm 1961-
1965 đã sản xuất được 13 bộ phim truyện nhựa (đen trắng) và hàng trăm bộ phim tài liệu
có giá trị nghệ thuật khá cao. Ở lĩnh vực nghệ thuật sân khấu, trình độ thẩm mỹ của công
chúng đô thị đã phát triển ở mức khá cao, đa dạng. Số lượng khán giả xem kịch nói, ca
nhạc tạp kỹ, opera, ba lê và nhạc giao hưởng ngày một đông lên. Hai năm 1961-1962 có
lẽ là thời hoàng kim của nghệ thuật opera với các nghệ sĩ nổi tiếng Quý Dương, Trần
Hiếu, Quang Hưng, Mỹ Bình, Bích Liên, Bích Thủy… Các bản giao hưởng 4 chương của
các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Hoàng Việt, Ðỗ Nhuận… đã đánh dấu mốc phát triển
huy hoàng của âm nhạc hàn lâm Việt Nam.

Nói đến đời sống văn hóa của cư dân đô thị, có lẽ nên điểm qua “mốt thời trang” của giai
đoạn này, vì nó không phản ánh trình độ hay cá tính thẩm mỹ của người dân, mà bị chi
phối bởi các yếu tố ngoài văn hóa. Hà Nội, Hải Phòng mất hẳn những tà áo dài của thiếu
nữ và các bà nội trợ trên đường phố vào những ngày thường. Áo dài chỉ thấy trong các
ngày lễ tết, nhưng cũng ít dần. Trang phục mùa hè ra đường của các bà nội trợ là quần lụa
đen, áo cánh trắng khuy bấm, còn của các cô gái là quần lụa đen, áo sơ mi trắng cổ bẻ
hoặc áo vải phin hoa cổ lá sen tròn. Mùa đông họ mặc áo bông màu tối, một số mặc áo
vét kiểu “cán bộ”, bên trong là áo len màu tím than hoặc màu đỏ. Nam giới đơn giản hơn,
mùa hè quần kaki, áo sơ mi trắng, còn mùa đông họ mặc áo bông kiểu Trung Quốc, một
số mặc áo đại cán kiểu Tôn Trung Sơn. Nhưng đó là những mốt lịch sự, còn đa số dân,
nhất là người trong biên chế nhà nước thường có cách ăn mặc cố ý tuyềnh toàng, vì như
vậy mới đúng là “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội: ra đường thường mặc
quần áo cũ hoặc cọc cạch quần mới áo cũ và ngược lại. Cán bộ lãnh đạo trong cơ quan
thường nhìn cách ăn mặc của nhân viên để đánh giá lập trường chính trị!

Ông MTT là GS.TSKH, dạy ở một trường đại học ở Hà Nội, sinh năm 1944, quê Hà
Tĩnh, theo cha mẹ ra Hà Nội từ nhỏ, kể lại:

“Năm 1962, tôi tốt nghiệp cấp 3 ở Hà Nội, đang chờ giấy gọi vào đại học. Nhóm bạn
chúng tôi thảy đều rất mơ mộng, thích phiêu lưu mạo hiểm. Bọn tôi đọc các tiểu thuyết
trong bộ Tấn trò đời của Balzac, bàn nhau tìm cách thâm nhập vào tận “hậu cung” các
nhà danh giá, nghĩa là cái bếp, để xem họ sống ra sao. Cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra một
phương án tối ưu. Học sinh đi lao động hè để tu dưỡng lập trường cách mạng thì ai nỡ từ
chối. Thế là chúng tôi, mấy đứa rủ nhau đi kéo xe bò than quả bàng. Thời ấy, dân Hà Nội
chưa có tập quán đun nấu bằng bếp dầu hay bếp điện, mỗi nhà đều dùng lò đun bằng than
quả bàng. Ðó là loại than cám 6 ở Quảng Ninh trộn với bùn, rồi đem vào bàn ép có khuôn
lỗ hình quả bàng. Nhóm bạn của tôi đã thuyết phục được bác Ðính là tổ trưởng, phụ trách
hơn chục chiếc xe kéo chở than quả bàng đựng vào mỗi thùng gỗ thông chừng 20 kg
than, để bác cho vào làm. Nơi giao than, chúng tôi chọn các phố Quán Thánh, Phan Ðình
Phùng, Bà Triệu… là những phố có nhiều gia đình danh giá ở. Nhóm tôi gồm 3 đứa con
trai, một người kéo, 2 người đẩy và một đứa bạn gái chạy lên trước quan sát, hễ thấy bố
mẹ hoặc người quen đi ngược chiều thì báo động cho lũ con trai đi trốn. Cứ thế, trong 2
tuần kéo xe và đội than vào tận bếp các nhà danh giá, bọn trẻ chúng tôi phát hiện ra một
sự thật: Nhà công chức lưu dung, học giả hay kỹ sư thời Pháp, tuy sống ở những ngôi nhà
đẹp, ra đường ăn mặc lịch sự, nhưng về nhà họ mặc áo vá chằng vá đụp, bếp ăn toàn thấy
rau với muối, chai nước mắm chẳng nhà nào đầy. Họ cư xử với chúng tôi rất nhã nhặn,
chân tình chứ không cau có, chỏng lỏn. Vào đến các nhà cán bộ cỡ kha khá, bọn tôi lại
thấy khi ra đường họ ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác nhưng về nhà đóng bộ pijama bằng lụa
màu mỡ gà, mâm cơm khá thịnh soạn, thỉnh thoảng còn ăn cơm Tây đổi bữa. Chỉ có điều
cách bài trí trong nhà luộm thuộm, kém văn hóa. Thường thì một biệt thự có hai hoặc ba
hộ cán bộ nên khu vực sân và công trình phụ rất bẩn, khác với nhà ở của công chức lưu
dung, chỗ nào cũng thơm tho, gọn mắt. Sau này, người bạn gái trong nhóm chúng tôi
thành nhà thơ khá nổi tiếng, luôn bị ám ảnh bởi câu chuyện kéo xe than thời xa xưa ấy.”

3. Các sự kiện chính trị ảnh hưởng đến đời sống đô thị

Cuối năm 1960 đầu 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam phát động chiến tranh
du kích. Ở ngoài Bắc, Nhà nước có chủ trương đưa khoảng 6.000 người đã đi lính cho
Pháp (ngụy quân) hay làm ở các cấp chính quyền (ngụy quyền) đang sống ở thành thị đi
tập trung lao động cải tạo. Họ đi không có thời hạn và gia đình cũng không được biết địa
điểm tập trung cải tạo. Chính sách đặt ra là chỉ tập trung những người có nợ máu với cách
mạng, nhưng các cấp chính quyền ở cơ sở lại lợi dụng để đe dọa, chèn ép những người có
nhà cửa rộng hoặc có tiền, vàng cất giấu được. Tình hình trở nên căng thẳng ở Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Ðịnh, không kém gì ở nông thôn thời cải cách ruộng đất.

Cụ VDH, sinh năm 1921, ở phố Hàng Buồm, Hà Nội, là xã viên hợp tác xã nhuộm Hợp
Tiến trên đường Trần Nhật Duật:

“Năm 1950, tôi bị bắt lính, nhưng mẹ và vợ tôi chạy tiền lo lót nhiều nên tôi chỉ mất 3
tháng thổi kèn Tây ở vườn hoa Canh Nông cho lính lê dương. Ngôi nhà 2 tầng ở Hàng
Buồm là do mẹ tôi mua của người Tàu, rất rộng, cỡ 200 m2, nhưng tầng 1 cấu trúc theo
kiểu nhà kho, thông thống từ ngoài vào trong, tầng 2 mới là chỗ ở và nơi thờ tự. Sau ngày
giải phóng thủ đô (10/10/1954), tôi cho một người em họ xa từ chiến khu về, làm phóng
viên báo Thời Mới (nay là Hà Nội mới) ở nhờ một nửa tầng 1, phía ngoài. Người ta
chuyển chú ấy đi nơi khác, không hỏi ý kiến tôi, giành diện tích 100 m2 này cho hợp tác
xã đóng giày sử dụng. Cuối năm 1960, Nhà nước có chính sách cải tạo ngụy quân, ngụy
quyền, tôi không thuộc diện đó, nhưng mấy ông cán bộ tiểu khu Hàng Buồm – Mã Mây
vẫn đến đe dọa tôi, sau đó buộc tôi giao nốt nửa tầng 1 phía trong, chia cho 5 hộ là bà con
của họ dưới quê lên ở. Vì là cấu trúc nhà kho, nên năm hộ này chỉ ngăn vách bằng gỗ
hoặc cót, chừa lại một lối đi lên cầu thang cho gia đình tôi và một lối đi ra khu nhà xí.
Thật lòng tôi ái ngại thay cho họ vì nơi họ ở tối như hũ nút, ẩm thấp, hôi hám lắm!
Nhưng quỹ nhà ở Hà Nội rất hiếm hoi, người bà con cán bộ ở quê, nhất là vùng Thanh-
Nghệ ra rất đông, họ phải chịu thôi. Ðến năm 1962, có đợt tập trung cải tạo thứ 2, chính
quyền lại đến đe dọa tôi một lần nữa. Sau đó họ chiếm luôn nửa tầng 2, có giếng trời đẹp
nhất để phân cho ông bí thư Ðảng ủy bệnh viện Bạch Mai, là cán bộ miền Nam tập kết
đến ở. Cả nhà tôi gần hai chục người, gồm 5 thế hệ phải chui rúc trong không gian chật
hẹp còn lại vẫn đành ngậm bồ hòn làm ngọt, chứ biết kêu ai!”

Cuộc vận động đi khai hoang lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới ở miền núi thuộc
Tây Bắc, Việt Bắc, Quảng Ninh diễn ra rầm rộ tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Ðịnh những năm 1962-1964. Ðối tượng thứ nhất được vận động đi khai hoang là
các gia đình có thành phần “bất hảo” về lý lịch. Loại này đi cả gia đình để Nhà nước giãn
dân đô thị, thay vào đó là các gia đình họ mạc của cán bộ cách mạng từ các miền quê về,
đông nhất là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Người Hà Nội gốc thời đó bảo nhau rằng, Nhà
nước tìm cách nhuộm đỏ các cụm dân cư đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. (Sau này,
vào thập kỷ 80-90, các nhà Hà Nội học đặt ra tiêu chuẩn người Hà Nội gốc phải có 3 đời
sinh sống ở Thủ đô trước năm 1954 thì khi thống kê chỉ còn 17-21% dân số, còn người
Thanh–Nghệ-Tĩnh đến sau 1954 chiếm 40%.) Ðối tượng thứ hai là các thanh niên học
sinh được học tập chính trị, khuyến khích viết đơn tình nguyện đi khai hoang ở các nông
– lâm trường. Số này có khoảng 1 vạn người, trong đó có 2/3 là những con em gia đình
trí thức cũ, bị ám ảnh bởi lý lịch dòng dõi quan lại, địa chủ phong kiến, không có khả
năng thi đỗ vào đại học. Họ tình nguyện tham gia phong trào “Thanh niên tháng Tám” đi
khai hoang lập nghiệp ở quê hương mới, hy vọng sau vài năm sẽ được tiếp tục theo học
lên đại học. Họ ra đi trống dong cờ mở, tiễn đưa náo nức, nhưng khi đến nơi ở mới liền bị
phân tán ra các đội sản xuất và bị đối xử như kẻ đi lao động cải tạo. Ai muốn trốn về
cũng không được nữa vì không còn tên trong sổ gạo của gia đình. Thân phận của gần 1
vạn con người này được lột tả khá chân thực trong tiểu thuyết Ngoại tình của Nguyễn
Mạnh Tuấn (NXB Văn học, 1993).

Một sự kiện khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại năm 1963 cũng tác động mạnh
đến đời sống tinh thần các tầng lớp cư dân đô thị. Lúc đầu, nó đơn thuần mang màu sắc
chính trị, sau lan dần sang địa hạt kinh tế, văn hóa, nghệ thuật. Ở Viện Kinh tế, ông Bùi
Công Trừng và một số người khác bị coi là phần tử xét lại. Giới văn nghệ sĩ có một số
người bị dính đòn nặng như Hà Minh Tuân với tiểu thuyết Vào đời, nhạc sĩ Hoàng Vân
với ca khúc “Tâm tình người thủy thủ”. Có lẽ căng thẳng nhất là giới nghiên cứu ở Viện
Triết học và giới báo chí ở tòa soạn báo Quân đội nhân dân.

Ông Trần Thư, sinh năm 1923, hồi đó là thiếu tá, trưởng phòng biên tập báo Quân đội
Nhân dân, hiện sống tại khu tập thể văn công Mai Dịch, Hà Nội:

“Lúc ấy, Hoàng Linh là tổng biên tập thay Văn Doãn. Anh gần như trở thành cái bóng
thầm lặng. Một lần gặp anh ở hành lang tòa soạn, tôi giữ anh lại và nói với anh một vài
suy nghĩ về tình hình. Anh lẳng lặng nghe, mỉm cười buồn rầu, rồi lảng đi không đáp một
câu.

Ít lâu sau, tôi nhận được tin sét đánh ngang tai: anh Hoàng Thế Dũng, phó tổng biên tập
cũ của báo Quân Ðội Nhân Dân; anh Phạm Viết, phó tổng biên tập báo Thời Mới; anh
Trần Châu biên tập viên báo Nhân Dân; anh Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết
học đã bị bắt.”

(Nguồn: Trần Thư – Hồi ký- Chuyện một tên tù nội bộ)

Ông Trần Thư sau đó cũng bị bắt cùng đợt với nhà báo Kiên Giang và 15 người khác.
Năm 1970 ông được tha về, nhưng vẫn bị quản thúc ở quê nhà Hưng Yên. Khi tôi gặp và
phỏng vấn tại nhà riêng (7/1998), ông trao cuốn hồi ký dày 107 trang giấy đánh máy vi
tính khổ A4 và nói: “Vụ việc của tôi với Kiên Giang và 15 anh em khác ngỡ không dính
gì đến mô hình kinh tế mà hóa ra có đấy. Hãy thử hình dung, nếu không có chiến tranh,
mô hình kinh tế Stalin sẽ rất nhanh bộc lộ các ung nhọt, sưng tấy lên như các năm 1978-
1980 sau chiến tranh, thì không biết khủng hoảng kinh tế và mâu thuẫn nội bộ sẽ dẫn đất
nước đi đến đâu!”.

Lời ông Trần Thư thay cho câu kết, khép lại một giai đoạn đời sống cư dân đô thị 1961-
1965.

Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
4 kì
Kì 3

III. Giai đoạn 1966-1975: Chiến tranh và hai mặt của mô hình Stalin

1. Chiến tranh san lấp các hố bờ ngăn cách

Ngày 5/8/1954, khi chiếc tuần dương hạm Cơ Ðốc của Mỹ cố tình đụng độ với hải quân
Bắc Việt Nam, gây ra “sự kiện vịnh Bắc Bộ” thì trên thực tế, các tầng lớp cư dân đã bắt
đầu cuộc sống thời chiến. Tuy nhiên, ở góc nhìn lịch sử kinh tế, ta vẫn có thể xem giai
đoạn này bắt đầu từ năm 1966, khi miền Bắc kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và
cuộc chiến tranh đất đối không đã lan rộng khắp các tỉnh, thành phố. Lịch sử đã chứng
minh người Mỹ đã sai lầm khi áp đặt tư duy của nền kinh tế mở và tiên tiến vào một nước
có mô hình kinh tế đóng, lạc hậu, tự cung tự cấp. Vì vậy, mục tiêu của người Mỹ muốn
dùng máy bay phá nát hệ thống giao thông, đánh sập các cơ sở kinh tế, quốc phòng của
miền Bắc để ngăn chặn chi viện cho Việt cộng ở miền Nam và kích động dân chúng đô
thị miền Bắc nổi loạn đã phá sản ngay từ đầu cuộc chiến. Từ góc độ kinh tế, ta có thể lý
giải như sau:

Thứ nhất, miền Bắc bước vào cuộc chiến tranh vẫn là nước nông nghiệp (chiếm hơn 70%
GDP), các cơ sở kinh tế về công nghiệp và quốc phòng đều nhỏ, dễ dàng sơ tán vào rừng
núi để tiếp tục sản xuất như các công binh xưởng thời chống Pháp mà không ảnh hưởng
gì lớn đến năng suất, sản lượng.

Thứ hai, đời sống cư dân miền Bắc, nhất là đô thị, sau tết Tân Sửu (1961) đã bị cào bằng
ở mức nghèo khổ tới độ không còn nghèo khổ hơn, nên tác động của chiến tranh là không
lớn đối với họ. Người Việt từ bao đời sống trong nền văn minh lúa nước, chịu đựng được
mọi điều kiện khắc nghiệt của thiên tai nên rất giỏi chịu đựng và cũng rất giỏi biến hóa
trong những hoàn cảnh khó khăn. Người Mỹ đã từng biết đến trong chiến dịch Ðiện Biên
Phủ, từng đoàn dân công đi tiếp tế cho bộ đội chỉ bằng đôi vai trần và những chiếc xe đạp
thồ. Ngay tại thời điểm người Mỹ ném bom ra miền Bắc, nếu họ chứng kiến hình ảnh
những người đàn bà ở bến phà Tân Ðệ (Nam Ðịnh) có thể đội 3 thúng gạo chồng lên
nhau, nặng chừng 70 kg mà vẫn vung vẩy đôi tay, đi nhanh thoăn thoắt, thì họ phải hiểu
rằng bom đạn phá hủy mạng lưới giao thông sẽ không ngăn nổi miền Bắc chi viện cho
Việt cộng ở miền Nam.

Thứ ba, mô hình kinh tế Stalin ở miền Bắc, như đã chứng minh trong phần 2, chứa đựng
những ung nhọt kìm hãm sức sản xuất của nền kinh tế, nhưng nó lại có mặt tích cực trong
quản lý an ninh, trật tự xã hội đô thị và dễ dàng huy động nhân tài vật lực cho chiến
tranh. Người Mỹ chủ động đưa chiến tranh lan ra miền Bắc đã vô tình thúc đẩy mặt tích
cực của mô hình kinh tế này phát huy đến mức tuyệt vời.

Cuối cùng, điều đặc biệt quan trọng mà người Mỹ không tính đến là họ không thể biện
minh cho hành động đem máy bay bắn phá, dội hàng triệu tấn bom đạn lên miền Bắc,
trước cộng đồng quốc tế và nhân dân Mỹ. Người Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử, có
truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm oanh liệt từ hàng nghìn năm. Bất cứ đảng phái
hay tổ chức chính trị nào biết khơi dậy lòng yêu nước của dân tộc này đều có sức mạnh
diệu kỳ, bất khả chiến bại. Người Mỹ gây cuộc chiến tranh đất đối không ở miền Bắc đã
làm tác nhân tự nguyện, giúp chính phủ miền Bắc san lấp mọi hố bờ ngăn cách trong nội
bộ lãnh đạo và toàn cộng đồng dân cư vừa nhen nhóm, âm ỉ bùng phát quanh việc triển
khai mô hình kinh tế Stalin đã nêu ở cuối phần II. Dưới đây là một vài dẫn chứng:

Lá thư của ông Trần Hữu Nghĩa, làm việc ở nông trường Sao Vàng, gửi con trai đang tại
ngũ, bị một đơn vị quân đội Mỹ (Recon – Co. 7th ARVNIV Corpo) lấy được 20/6/1967.
Ông Nghĩa vốn là một trí thức ở Hà Nội chịu nhiều ấm ức khi phải đưa gia đình đi khai
hoang, lập nghiệp ở miền núi:

“Trừng, con yêu quý của cậu!

Chiều hôm nay, 26/3/1967, cậu nhận được thư con viết hôm 15/2/1966 cho cậu và anh
Hai, trong lúc con sắp ra sông Bến Hải. Gian khổ lắm, con ạ, cậu vẫn biết trước rồi. Có
câu ‘lửa thử vàng, gian nan thử sức’, đường dài mới biết sức ngựa. Cao quý hay thấp hèn
là ở chỗ ấy, con ạ! Cậu thương con, cũng vì quyết tâm đi B của con và cũng vì Tổ quốc
mà cha con ta, tình cảm của con và anh Hai phải tạm chia cắt.

… Ngày 16/1/1967 Hai đã về nước, lại viết một lá thư nữa, nhờ Ban thống nhất trung
ương chuyển hộ, con đã nhận được chưa? Hai có xin đi B, nhưng nghề của Hai có thích
ứng với yêu cầu của tiền tuyến không? Không rõ. Có thể Hai sang Bộ Quốc phòng, kể cả
đi B, còn sang Ðại học Ttổng hợp Hà Nội chỉ là phụ, trên còn đang nghiên cứu…”

(Hai là con trai ông Nghĩa, anh ruột liệt sĩ Trừng. Vậy là ông Nghĩa sẵn lòng dứt ruột để
hai đứa con trai đều tình nguyện đi B – VNT chú giải).

Ông ÐVX, sinh năm 1932, một nông dân ở xã Cao Mại, huyện Kiến Xương, Thái Bình:

“Ở xã tôi, người giáo (Thiên chúa giáo) có mối thâm thù với người lương trong kháng
chiến vì họ cho rằng du kích đã giết cha At Khang và mấy trăm giáo dân trong kháng
chiến 9 năm chống Pháp. Nhưng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, người dân hai bên
lương và giáo đều có chung nỗi mong ngóng, chờ đợi con cái đi B, nhiều đứa cùng đơn vị
nên cha mẹ ở nhà đều đọc thư chung của những đứa con. Lâu dần, oán thù cởi nới, họ trở
nên thân thiết với nhau, cùng làm việc trong hợp tác xã, cùng chia sẻ mọi nỗi niềm.”

Ông NDL, sinh năm 1947, cán bộ ngành thủy sản, hiện sống ở khu tập thể Thành Công,
quận Ba Ðình, Hà Nội:

“Quê tôi ở Nghĩa Hưng, Nam Ðịnh, là nơi đất mới quai đê lấn biển nên nghèo lắm. Mẹ
tôi không chịu vào hợp tác xã, buôn bán thêm ngoài chợ huyện nên gia đình có chút của
ăn, của để. Chính quyền xã và Ban chủ nhiệm hợp tác luôn nhòm ngó, ganh ghét, trù dập,
phê vào lý lịch mấy anh em tôi như là con em của phần tử phản cách mạng. Cha tôi bị
bạo bệnh chết từ năm 1952 mà họ phê mập mờ vào lý lịch là mất tích, không rõ theo địch
hay theo ta. Tôi và ông anh cả đều học giỏi nhưng chúng tôi bảo nhau, lý lịch xấu thì đi
thi đại học làm gì cho phí công, đi bộ đội phấn đấu tốt, ra khỏi làng, chẳng đứa nào chặn
đường tiến thân của mình nữa. Anh tôi hy sinh ở chiến trường Khe Sanh năm 1968. Ðến
lượt tôi vào bộ đội phấn đấu tốt, là em liệt sĩ, lại có văn hóa cao nên được cử đi học kỹ
thuật tên lửa ở Nga. Trước ngày giải phóng miền Nam (1975), tôi là thiếu tá, tiểu đoàn
trưởng tên lửa ở đất thép Vĩnh Linh. Giải ngũ, tôi được chuyển sang ngành thủy sản,
được đi Nga lần thứ 2 để học về quản lý.”

2. Khái quát về thu nhập quốc dân miền Bắc trong chiến tranh

Nhiều học giả phương Tây tỏ ý nghi ngờ và phủ nhận các chỉ báo thống kê kinh tế của
miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1966-1975. Họ sẵn có định kiến với mô hình kinh tế Stalin
đã làm Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, nhưng lại quên rằng, chính mô hình đó đã góp phần
giúp Liên Xô đánh thắng phát xít Ðức trong thế chiến thứ 2. Bằng những phân tích ở
phần II, ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để yên tâm sử dụng các số liệu thống kê ở
miền Bắc trong thời chiến. Cho dù nó có đôi chút sai lệch do chủ nghĩa thành tích, dẫn
đến gian dối ở cấp cơ sở, song về cơ bản nó vẫn cho ta một bức tranh thu nhập quốc dân
khá hoàn chỉnh và có thể tin được (Niên giám thống kê nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa 1975).

Mức tăng thu nhập quốc dân (GDP) trong chiến tranh:

So với GDP năm 1961: Năm 1965 là 130%, năm 1968 là 109%, năm 1971 là 133% và
năm 1974 là 167%.
So với GDP năm 1965: Năm 1968 là 84%, năm 1971 là 103% và năm 1974 là 129%.

Mức tăng thu nhập bình quân đầu người (GNP) trong chiến tranh:

So với năm 1961: năm 1965 là 116%, năm 1968 là 92%, năm 1971 là 103%, năm 1972 là
97% và năm 1974 là 120%.
So với năm 1965: Năm 1968 là 76%, năm 1971 là 90%, năm 1972 là 84% và năm 1974
là 103%.

Như vậy, ngay cả năm 1968 là thời điểm chiến tranh ác liệt nhất thì GDP giảm 16% so
với năm 1965, nhưng vẫn tăng 9% so với năm 1961. Về mặt đời sống nhân dân, thu nhập
bình quân đầu người năm 1968 giảm 24% so với năm 1965, nhưng nó vẫn xấp xỉ năm
1961 (92%) và đến năm 1974 đã tăng 3% so với năm 1965.

Ðây có thể nói là thành công tuyệt vời trong lịch sử các cuộc chiến tranh hiện đại. Một
vài nhà Việt Nam học trên thế giới có phần võ đoán cho rằng người Trung Quốc đã nuôi
sống dân Bắc Việt Nam trong chiến tranh. Thật ra, ở thời điểm trước khi bước vào cuộc
chiến (1965), do chính sách “thắt lưng buộc bụng”, người dân miền Bắc, nhất là khu vực
đô thị đã bị bần cùng hóa tới mức không thể nghèo khổ hơn được nữa. Do vậy, nền kinh
tế trong suốt cuộc chiến tranh vẫn đủ nuôi sống các tầng lớp dân cư ở mức nghèo khổ
như trước chiến tranh cũng là dễ hiểu. Viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và Ðông Âu cả
về vũ khí và lương thực đều dồn cho chiến trường miền Nam. Một phần rất nhỏ viện trợ
của Trung Quốc và cộng đồng quốc tế mang tính phục vụ dân sinh, chủ yếu nhằm cải
thiện đời sống cán bộ công nhân viên trong biên chế và cư dân đô thị.

Ðể thấy rõ hơn, ta có thể phân tích cơ cấu sử dụng GDP trước và trong chiến tranh. Giai
đoạn 1961-1965, cơ cấu sử dụng GDP chủ yếu là quỹ tiêu dùng: 75,1%-77,4% (trong quỹ
tiêu dùng đó 87,74% cho tiêu dùng cá nhân của dân cư, 4,1% dùng cho y tế-giáo dục- văn
hóa, 8,16% dùng cho hành chính và an ninh quốc phòng). Phần tích lũy trong kế hoạch 5
năm lần thứ nhất, dù Chính phủ đã rất cố gắng, nhưng vẫn rất ít (24,7-25,1%) và nằm
trong tài sản cố định (nhà máy, đường xá, công trình thủy nông…), không có tích lũy
ngoại tệ, chỉ có rất ít tích lũy về nguyên liệu sản xuất. Bước vào chiến tranh, nền kinh tế
nhỏ bé và khép kín này vẫn sử dụng GDP vào tiêu dùng từ 72,7% (1967) đến 83,5%
(1973). Cái hay và độc đáo của mô hình kinh tế tập trung, bao cấp là ở chỗ dù trong hoàn
cảnh chiến tranh, Nhà nước vẫn có thể tích lũy dưới dạng tài sản cố định 19,2% (1968)
đến 24,0% (1974), cá biệt năm 1972 chỉ có 3,5% vì chịu thiên tai lũ lụt lớn năm 1971 và
cuộc tập kích bằng B52 của Mỹ (12/1972).

Những chỉ báo thống kê vừa nêu cho phép ta có bức tranh tổng thể về kinh tế thời chiến,
trước khi đi vào điều tra, mô tả đời sống cư dân đô thị.

3. Mức sống và chất lượng sống qua số liệu thống kê

Nhìn chung, bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt, cái mô hình “bãi cỏ xén bằng” được
tiếp tục kiện toàn, phát huy tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực trong đời sống cư dân
đô thị. Trước hết, ta xét qua các chỉ báo thống kê về thu nhập của khối cán bộ công nhân
viên trong biên chế.

Thu nhập đầu người/tháng bằng tiền: năm 1966 là 22,15 đồng, 1968 - 22,90 đồng, 1970 -
23,51 đồng, 1972 - 23,35 đồng và 1974 - 26,67 đồng.
Có sự khác biệt nếu tính thu nhập đầu người/tháng theo giá cả (giá gạo) so với năm 1959:
năm 1966 là 15,5 đồng, 1968 - 14,6 đồng, 1970 - 15,6 đồng, 1972 - 15,7 đồng và 1974 -
16,3 đồng.

Như vậy, trong hoàn cảnh thời chiến, hàng hóa khan hiếm, giá cả sinh hoạt tăng lên, đồng
tiền mất giá (24%-31%), Nhà nước đã liên tục tăng lương cho khối cán bộ công nhân
viên bằng việc lạm phát tiền. Cách làm này có tác động ổn định đời sống cho khối cán bộ
công nhân viên trong biên chế nhà nước, đẩy khó khăn về mức sống sang khối xã viên
nông nghiệp ở nông thôn và xã viên thủ công nghiệp, hộ làm ăn cá thể ở đô thị. Ðây là ưu
thế tuyệt đối của mô hình kinh tế Stalin trong chiến tranh mà không một mô hình kinh tế
nào khác có thể làm được tốt hơn. Thế mạnh của mô hình Stalin còn ở chỗ mức độ tăng
giá cả trên thị trường cũng không quá lớn so với các đô thị miền Nam ở giai đoạn này
(thường là vài chục phần trăm/năm), nhưng ở miền Bắc:
Chỉ số giá so với 1959: Năm 1966 là 142%, 1968 là 156,4%, 1971 là 145,83% và 1974 là
163,96%.
Chỉ số giá so với 1965: Năm 1966 là 107,5%, 1968 là 116,97%, 1971 là 109,08% và
1974 là 122,64%.

Xét về cơ cấu thu nhập, người trong biên chế do điều kiện chiến tranh sơ tán về nông
thôn không có cơ hội làm thêm để tăng thu nhập. Họ chỉ có thể trồng rau và chăn nuôi
thêm để cải thiện bữa ăn, song không đáng kể, chủ yếu dựa vào lương và tiêu chuẩn cấp
phát. Ðối với cán bộ xã viên thủ công nghiệp, vì không có số liệu thống kê nên tạm sử
dụng số liệu thống kê cho các hộ xã viên ở nông thôn để tham khảo. Nếu trước chiến
tranh (1961-1965), cơ cấu thu nhập của họ là thu nhập trong hợp tác xã 40,39%, còn
ngoài hợp tác xã là 59,61%, thì các giai đoạn sau con số tương ứng sẽ là: 1966-1970 là
34,53% và 65,47%, 1971-1975 là 35,48% và 64,52%. Tình hình cơ cấu thu nhập của xã
viên hợp tác xã thủ công ngoài đô thị cũng na ná như vậy. Họ phải bươn bả kiếm sống
ngoài hợp tác xã là chính. Phương thức kiếm sống vẫn giống như đã điều tra, phỏng vấn
ở giai đoạn 1961-1965. Chỉ có điều thời gian đầu tư vào việc kiếm thêm và cường độ lao
động của họ cao hơn gấp 2-3 lần trước chiến tranh mới đủ sống.

Nghiên cứu các số liệu thống kê, ta còn thấy các mặt y tế, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật
đã được phát triển và chuyển hướng để phục vụ đời sống tinh thần dân cư đô thị thời
chiến khá ấn tượng và hiệu quả.

Về y tế, mạng lưới bệnh viện, bệnh xá phát triển rất nhanh, phân tán về các vùng có
người đô thị về sơ tán. Năm 1965 cả miền Bắc có 252 bệnh viện và 390 bệnh xá. Ðến
năm 1967 tăng lên 434 bệnh viện, 390 bệnh xá. Năm 1974 có 441 bệnh viện, 518 bệnh
xá. Trong 3 năm chiến tranh ác liệt nhất (1967-1969) số lượng các cơ quan, xí nghiệp và
dân cư đô thị sơ tán về nông thôn, rừng núi rất đông nên số trạm y tế - hộ sinh cấp xã tăng
lên 6.000 trạm. Số lượng thầy thuốc năm 1966 có 1.998 bác sĩ, 8.806 y sĩ, 40.461 y tá và
15.983 nữ hộ sinh. Các con số tương ứng của những năm sau: 1968 có 2.838 – 12.056 –
46.779 – 15.713; năm 1970 có 3.806 – 18.087 – 48.077 – 12.190; năm 1972 có 4.989 –
20.102 – 45.499 – 11.266 và năm 1974 có 5.513 – 21.035 – 43.499 – 9.552. Cán bộ, công
nhân, viên chức, sinh viên, học sinh trung học chuyên nghiệp được khám chữa bệnh miễn
phí, ngoài ra còn được bồi dưỡng bằng tiền hoặc đường, sữa. Các bà mẹ khi sinh con
được trợ cấp tiền và được cấp từ 4-8 hộp sữa/tháng. Các xã viên hợp tác xã và người lao
động tự do nếu phải cấp cứu do tai nạn chiến tranh cũng được chữa chạy miễn phí toàn
bộ.

Về giáo dục – đào tạo, trong chiến tranh, các trường phổ thông và đại học, trung học
chuyên nghiệp phải sơ tán từ thành thị về nông thôn đã tạo nên sự giao thoa về giáo dục
giữa hai cộng đồng dân cư nông thôn – thành thị, làm cho chất lượng giữa 2 vùng không
có chênh lệch đáng kể. Nó cũng góp phần kích thích nông dân cho con đi học để đạt mơ
ước “thoát ly” thành người trong biên chế mà họ ấp ủ từ trước chiến tranh (1961-1965).
Số liệu thống kê các cấp học giai đoạn này như sau:

Niên học 1966-1967 có 3.325.800 học sinh phổ thông, 101.90 học sinh trung học chuyên
nghiệp, 48.400 sinh viên đại học. Các số liệu tương ứng những niên khóa sau:

Niên học 1968-1969 có 4.100.000 – 138.400 – 71.400


Niên học 1970-1971 có 4.568.700 – 85.800 – 69.900
Niên học 1972-1973 có 4.680.500 – 57.600 – 53.800
Niên học 1974-1975 có 5.151.300 – 69.800 – 55.500.

Qua các số liệu trên, ta thấy đã bắt đầu có dấu hiệu bất hợp lý về cơ cấu đào tạo đại học
và trung học chuyên nghiệp (một phần do chế độ cử tuyển (không thi) trong một số năm).
Ðây là một sai lầm trong chiến lược đào tạo so với giai đoạn 1961-1965 và nó còn tiếp
tục sang các niên khóa sau chiến tranh như GS Tạ Quang Bửu đã cảnh báo. Từ niên học
1965-1966, Nhà nước ồ ạt cử người đi học ở Liên Xô, Trung Quốc, Ðông Âu. Những
người này gửi về nước nhiều loại hàng hóa tiêu dùng (xe đạp, xe máy, radio, quạt điện,
vải, len, dạ…) cũng góp phần nào cải thiện mức sống cho cư dân đô thị.

Về văn hóa – nghệ thuật, số đầu sách văn học có ít đi, nhưng lượng in tăng mạnh. Năm
1965 có 303 đầu sách với 1.372.000 bản in; năm 1973 có 114 đầu sách với 1.813.000 bản
in. Ngành điện ảnh trong chiến tranh đặc biệt phát triển loại phim tài liệu, và phim truyện
ngoại nhập chủ yếu là về đề tài chiến tranh. Các đội chiếu bóng lưu động phát triển rất
nhanh vể số lượng và xuất chiếu. Suốt thời gian chiến tranh, mỗi năm có 70-100 triệu
lượt người xem phim trên dân số 20 triệu, là con số mơ ước của bất cứ nhà kinh doanh
điện ảnh nào trên thế giới. Âm nhạc phát triển song hành cả 2 thể loại ca khúc cách mạng
và âm nhạc hàn lâm. Ðáng trân trọng là các bản giao hưởng của Nguyễn Văn Nam,
Nguyễn Văn Thương, Cao Việt Bách…

4. Bức tranh đời sống đô thị qua điều tra, phỏng vấn

Có thể nói đây là thời kỳ nông thôn hóa thành thị do yếu tố chiến tranh. Tiêu chí khác
biệt giữa nông thôn với thành thị rõ nhất là điện, nước, y phục và tiện nghi sinh hoạt. Tất
cả đã được người thành thị và các khu công nghiệp chủ động nông nghiệp hóa. Người đi
sơ tán hay ở lại thành phố đều ăn mặc một loại quần áo sẫm màu (đen, nâu, xanh rêu,
xanh lá cây). Áo dài truyền thống của phụ nữ Việt Nam chỉ dùng cho các nhân viên
khách sạn hoặc cửa hàng giao tế, thậm chí có nhiều đám cưới cô dâu cũng không mặc áo
dài. Mùa hè, mốt độc đáo của những cô gái Hà Nội, Hải Phòng xinh đẹp, có nước da
trắng, cổ cao ba ngấn là loại áo cánh nâu hoặc áo bà ba đen (Nam Bộ) may bằng vải lanh
hoặc phin nõn đã nhuộm. Mùa đông, những cô gái này thường mặc áo kiểu nữ quân nhân
có hai túi, thắt ở eo lưng, bên trong mặc áo mút hoặc len cổ lọ màu đen, đỏ hoặc màu
lòng trứng. Nam giới ở thành phố diện nhất vào mùa hè là quần simili Tiệp màu ghi đá,
màu lá cây, còn sơ mi là pôpơlin Tiệp hoặc Trung Quốc, cũng màu ghi đá, màu xanh lá
cây. Vào mùa đông, trang phục phổ biến là áo bông xanh Trung Quốc, áo đại cán may
theo kiểu Tôn Trung Sơn bằng vải kaki hoặc bông dạ Mông Cổ. Chỉ trong đám cưới mới
thấy xuất hiện vài bộ complet, nhưng cũng là loại hàng len màu sẫm. Tóm lại trang phục
của người thành phố không có gì khác lắm so với người có trình độ văn hóa hoặc có vị
thế ở nông thôn.
Do bị đánh phá ác liệt nên điện và nước sinh hoạt trở nên thiếu, chỉ tập trung ưu tiên cho
sản xuất. Người dân trong thành phố luôn phải dự phòng đèn dầu để dùng những lúc bị
cắt điện. Trong số đồ dùng thiết yếu trong mỗi gia đình ở thành phố lúc này không thể
thiếu những vật như: bao vải để đi đong gạo, can đựng dầu, thông phong, bấc đèn, bấc
bếp dầu, can nhựa mua nước mắm, dấm v.v… Nước máy không đủ công suất và áp lực,
nhiều nhà phải đào một hố ở vỉa hè, hạ thấp ống nước để hứng nước máy, hoặc đào giếng
ngay trong khu phố trung tâm. Năm 1972 đã có hiện tượng dân đào giếng gặp khí độc
C02, mêtan bị chết ở phố Hàng Bồ (khu Hoàn Kiếm). Các máy nước công cộng thường
đông nghịt những người xếp hàng chờ lấy nước. Nhiều hộ dân, các thành viên trong gia
đình đi sơ tán mỗi người một nơi nên cửa luôn khóa và mặt cửa đầy những dòng chữ viết
bằng phấn để nhắn tin cho nhau mua dầu, gạo, thực phẩm hoặc chỉ số điện đã tiêu thụ…
Ðịnh suất lương thực cho mỗi người vẫn được Nhà nước cung cấp đủ, nhưng gạo để dành
tập trung cho bộ đội ngoài mặt trận nên dân phải ăn độn như ở nông thôn. Thông thường
tỷ lệ độn là 60% gạo và 40% bột mì, sắn, ngô. Ðể giải quyết việc chế biến chất độn, đã
xuất hiện một đội ngũ các hộ tư nhân làm mỳ sợi, làm bánh qui gai xốp hoặc đổi bột mỳ
lấy gạo với tỷ lệ chỉ còn một nửa. Lại một lần nữa ta thấy kinh tế thị trường vẫn tồn tại,
góp phần đáp ứng nhu cầu cấp bách của nhân dân. Từ năm 1969, Nhà nước bán mỳ sợi
cho nhân dân ăn độn thì các cơ sở làm bánh qui gai xốp thu hẹp sản xuất theo thời vụ chỉ
để phục vụ Tết, cưới hỏi hoặc liên hoan. Lúc này trên thị trường “chợ đen” lại xuất hiện
nghề buôn bán nguyên liệu làm bánh qui gai như bột mỳ, đường, sữa, trứng gà…

Ngành thương nghiệp được mệnh danh là “người nội trợ” của toàn xã hội, ngoài việc
phân phối cho toàn bộ khối cư dân thành thị cái ăn, cái mặc, chất đốt… theo định lượng
tem phiếu, còn phải lo cung cấp cả những mặt hàng thiết yếu trong những ngày lễ, tết,
cưới hỏi, ma chay… Người ta chia ra các loại bìa mua hàng: hộ độc thân, hộ bốn người
và hộ trên bốn người… Ngày Quốc Khánh (2/9) hàng năm mỗi bìa mua hàng được mua
bánh kẹo, thuốc lá Tam Ðảo, chè gói Ba Ðình. Ngày tết Trung thu mỗi bìa được mua
bánh dẻo, bánh nướng. Ngày tết Nguyên Ðán thường mỗi bìa được mua một túi hàng tết
gồm: bóng, miến, mỳ chính, hạt tiêu, chè Ba Ðình, thuốc lá Ðiện Biên, rượu chanh hoặc
cam và một hộp mứt, vài gói kẹo… Người kết hôn được mua một chiếc giường đôi giá 80
đồng loại tốt hoặc 60 đồng loại thường, một chiếc màn đôi 5, 6 đồng và một ít thuốc lá,
bánh kẹo dùng trong hôn lễ. Người chết, có giấy báo tử sẽ được mua một chiếc quan tài
bằng gỗ giá 50 đồng. Các bà mẹ sinh con, nếu mất sữa toàn phần được mua 8 hộp
sữa/tháng, còn nếu mất sữa một nửa được mua 4 hộp sữa/tháng…

Chủ nghĩa bình quân thời chiến thực chất là chia đều sự nghèo khổ, vất vả trong đại bộ
phận dân cư. Có lẽ vì thế đã nảy sinh trong tâm lý ứng xử của người dân thành thị một sự
suy bì, nhòm ngó từng bữa ăn của người khác.

Bà ÐTH ở phố Mã Mây kể:

“Ngôi nhà của tôi có 8 hộ cùng ở, 5 hộ tầng dưới, 3 hồ tầng trên. Gia đình tôi ở tầng trên
đun nấu bằng bếp dầu, nhưng ngại nhất là cái sàn gỗ ọp ẹp. Hễ băm chặt thức ăn gì là
kinh động các hộ bên dưới. Tôi làm nghề “phe phẩy” ở phố Ngõ Gạch cũng kiếm được.
Mỗi lần đi chợ về có con cá hay miếng thịt mua chui là phải dấu tít tận đáy làn, phủ mớ
rau muống lên trên để các hộ khác không nhìn thấy. Nếu bữa nào mổ con gà, con vịt thì
đến khổ… Lúc ăn không dám dùng dao chặt mà phải cắt từng miếng bằng kéo…”

Ông N.S kể lại:

“Vợ chồng tôi sống tập thể cơ quan trong dãy nhà cấp 4 ở Thanh Xuân. Tôi đi Tây về bán
cái xe máy, đài Rigonda được ít tiền nên chủ nhật thường hay cải thiện. Nói chung mỗi
lần như vậy, sáng thứ hai đi làm việc như thấy mình là đứa vừa ăn vụng bị bắt quả tang.
Mọi người nhìn tôi nhấm nháy, còn sau lưng thì họ kháo nhau rành mạch hôm trước tôi
ăn gì. Có lẽ vì thế mà năm ấy đại hội Ðảng bộ cơ quan, tôi ít phiếu nhất vì ‘không hòa
mình với quần chúng.’”

Về “mốt” ăn uống, sinh hoạt thời đó có thể điểm qua vài hiện tượng:

Quán trà

Trước chiến tranh, ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố, thị xã lác đác có vài quán trà ở
cửa chợ, nhà ga, bến xe hoặc ngã tư lớn. Quán trà lúc đó chủ yếu phục vụ dân kéo xe ba
gác, đạp xích lô hoặc khách đi tàu xe. Bắt đầu từ năm 1966 quán trà mở ra la liệt khắp
mọi nơi và hình thức sinh hoạt quán trà đã trở thành mốt của cán bộ, công nhân, học sinh,
sinh viên.

Khắp các đường phố Hà Nội, đi đâu cũng gặp quán trà, thường tập trung đông nhất ở cửa
cơ quan, xí nghiệp và bến xe điện, bến ô tô, ga tàu hỏa. Ở các vùng nông thôn, hễ đâu có
cơ quan, xí nghiệp, trường học sơ tán về là ở đó mọc lên nhan nhản các quán trà. Hình
thức quán trà rất đơn sơ, chỉ là túp lều lợp giấy dầu nếu ở thành phố; lợp rơm nếu ở nơi
sơ tán. Ðồ nghề trong quán vẻn vẹn một bếp dầu, 2 hoặc 3 cái phích Trung Quốc, 2 chiếc
ấm sành loại 1 lít ủ trong cái thùng gỗ lèn chặt đủ loại giẻ rách hoặc rơm. Hàng hóa trong
quán gồm mấy lọ kẹo (kẹo vừng hoặc kẹo bột 5 xu/1cái, kẹo lạc hoặc kẹo vừng thanh,
kẹo nhồi 2 hào/1cái), 1 hộp thuốc lá (Tam Ðảo: 1 hào hai điếu, Ðiện Biên: 1 hào rưỡi đôi,
Trường Sơn: 1 hào 3 điếu, thuốc lá cuốn: 1 hào 5 điếu). Nước trà bán theo chén, giá 5 xu
một chén. Nhiều quán bán thêm rượu “quốc lủi” tức rượu của tư nhân nấu lậu, giá 2 hào/1
chén, có thể nhắm với lạc rang đong bằng chén con (50ml) với giá 1 hào. Ở một số quán
còn bán thêm quà sáng như bánh chưng 2 hào/1chiếc, bánh giò 1 hào/1 chiếc. Tất cả bày
trên chiếc bàn gỗ thấp chừng 60 cm và mấy chiếc ghế băng thấp khoảng 25-30 cm.
Khách vào quán thường không phải vì nhu cầu giải khát. Cán bộ, học sinh, sinh viên đi
sơ tán xa nhà rủ nhau đến quán chuyện phiếm. Những người ở lại thành phố, thị xã rủ
nhau ra quán tâm sự và bàn chuyện công tác, chuyện vặt vãnh xảy ra trong cơ quan,
chuyện chiến sự trong nước và thời sự quốc tế. Vì vậy không thiếu một thứ tin tức gì từ
nội bộ cơ quan đến việc quốc gia đại sự được lan truyền từ quán trà. Khái niệm “thông
tấn xã quán trà” hình thành từ thực tế này. Thống kê của ngành an ninh năm 1971 cho
biết Hà Nội có 7.000 quán trà loại này (theo lời cụ NVK cán bộ về hưu, nguyên là chuyên
viên phòng tổng hợp Sở Công an Hà Nội).
Ðối tượng kinh doanh quán nước lúc đầu là những người cao niên (ngoài 50 tuổi). Qua
vài năm thấy nghề này kiếm được nên có nhiều phụ nữ trẻ đã bỏ việc cơ quan hoặc hợp
tác xã thủ công nghiệp về mở quán trà kiếm sống, thậm chí làm giàu từ những quán trà
lụp xụp.

Bà NTT nguyên là công nhân cơ khí nhà máy Trần Hưng Ðạo, bỏ việc về bán quán trà
kể:

“Lúc đầu tôi mở quán ở chợ Ðuổi (cuối đường Bà Triệu), sau khi tôi sơ tán với các con
về chợ Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) quán cũng khá đắt hàng, lại chẳng thuế má gì.
Kẹo, bánh có người làm sẵn mang đến giao cho tôi, chuyến sau lấy tiền chuyến trước.
Thuốc lá thì có hai nguồn: Thứ nhất, các cán bộ, công nhân, bộ đội được phân phối căng
tin nhưng không dùng đem bán lại. Thứ hai, nhân viên cửa hàng bách hóa tuồn hàng ra
ngoài kiếm lời. Chè là thứ nhà nước cấm bán trên thị trường, ưu tiên cho xuất khẩu và
cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chè. Dọc các tuyến đường ô tô, tàu hỏa từ Phú Thọ,
Yên Bái hay Bắc Thái về Hà Nội, Nhà nước kiểm soát rất kỹ, ai mang quá 0,2 kg chè là
bị thu giữ. Tuy nhiên, các lái xe, cán bộ đi công tác, sinh viên đi sơ tán ai cũng tìm cách
mang về trót lọt vài kg, có khi cả yến để kiếm lời. Tôi nghiệm thấy cái gì là nhu yếu
phẩm cần thiết của dân mà Nhà nước cấm đoán thì chênh lệch giữa giá Nhà nước và giá
thị trường tự do càng cao, càng khuyến khích cán bộ, nhân dân đi buôn lậu. Chè ngon ở
Ðại Từ, Núi Pháo giá 5 đồng/1kg, lái xe hoặc sinh viên mua về bán cho chúng tôi 10
đồng/1kg. Ðến lượt chúng tôi bán cân, bán lạng là 15 đồng/1 kg, còn xé lẻ ra từng gói đủ
pha 1 ấm là 5 hào/1gói (20 đồng/1kg). Tính ra từ năm 1967-1974 tôi bán quán trà tuyềnh
toàng là thế mà mỗi ngày lãi 12-15 đồng, hàng tháng trung bình cũng thu được 400 đồng,
đủ nuôi 5 đứa con và để dành hàng chỉ vàng mỗi tháng (vàng trên dưới 100 đồng 1 chỉ
lúc này). Mặt hàng lãi nhất là thuốc lá, sau đến chè gói từng ấm, từng lạng. Chè chén bán
giá 5 xu/1 chén thường là hòa vốn.”

Bia vại – Cà phê chui:

Ðây là hai hình thức sinh hoạt rất phổ biến trong cộng đồng dân cư đô thị.

Bia hơi còn gọi là “bia vại” vì nó được đong vào loại cốc lớn có hình vại nước, dung tích
0,5 lít, giá bán 1 hào 5 xu/1 cốc. Trước chiến tranh nó chưa là nhu cầu phổ biến của
người tiêu dùng đô thị. Nhiều người uống bia lúc đó chưa quen còn phải pha với si-rô ga.
Trong quán bia mậu dịch thường có bình C02 và bình si-rô cam màu đỏ đi kèm. Giá một
cốc si-rô ga là 2 hào. Người bán bia thường hay hỏi khách có pha si-rô không, nếu khách
đồng ý thì họ rót vào cốc bia 10ml nước si-rô cam đặc và tính gộp tiền là 2 hào 5 xu/1
cốc bia pha si-rô. Hồi đó khách uống bia hơi chỉ là trí thức, văn nghệ sĩ hoặc số ít người
đã từng đi Ðông Âu về nước quen với bia Tiệp, bia Ðức.

Chiến tranh làm cho hệ thống quản lý các mặt hàng tiêu dùng theo tem phiếu cấp phát có
nhiều lỗ hổng rò rỉ ra thị trường tự do. Xã hội nảy sinh một đội ngũ đông đảo các loại
“con phe” giàu có, đặc biệt là giới phe xe đạp, xe máy. Ngoài ra, nhiều người trong đội
ngũ lái xe chở hàng hóa, vật tư của Nhà nước đã đánh cắp hàng nên cũng nhiều tiền và có
nhu cầu hưởng thụ. Những đối tượng trên trở thành khách hàng thường xuyên của quán
bia. Công suất nhà máy bia không đủ đáp ứng nhu cầu nên ở các quán bia có hiện tượng
chen lấn, xô đẩy, ồn ã. Quán bia càng lộn xộn khi xuất hiện một số người làm thuê “phe
bia”. Hồi ấy mới xuất bản cuốn hồi ký Bất khuất của ông Nguyễn Ðức Thuận, cựu tù
nhân Côn Ðảo, có viết về chuồng cọp ở nhà tù Côn Ðảo. Dân “bia vại” ở các quán liền
lấy “chuồng cọp” đặt cho các quán bia như “chuồng cọp Cổ Tân”, “chuồng cọp Phùng
Hưng”… Lý do đơn giản vì ở các quán bia này, Nhà nước làm một hệ thống hàng rào
kiên cố để ngăn ngừa hiện tượng chen ngang, xô đẩy nhau. Giá bia Nhà nước vẫn giữ giá
1 hào 5 xu/1 cốc nhưng giá ngoài lên tới 3 hào, có khi 5 hào. Người có tiền uống bia
ngoài đương nhiên là “dân phe” xe máy hoặc lái xe ăn cắp hàng Nhà nước.

“Cà phê chui” là hình thức có phần tương phản với “bia vại” ở hai điểm: Thứ nhất, không
khí trong các quán cà phê tư nhân thường rất tĩnh lặng và ở nơi khuất vắng. Thứ hai, đối
tượng đến uống cà phê thường là các nhân sĩ nghèo, công chức lưu dung thất thế, các văn
nghệ sĩ gặp nhau đàm đạo về nhân tình thế thái… Hồi ấy các cửa hàng ăn uống Nhà nước
đều có bán cà phê nhưng pha không ngon, khách đến xô bồ đủ loại - cán bộ, công nhân,
học sinh, sinh viên và cả một số người đạp xích lô hay chữa xe đạp. Quán cà phê tư nhân
gọi là cà phê chui vì Nhà nước cấm bán hoặc nếu có ai được ưu tiên mở quán cũng phải
tế nhị chọn nơi khuất vắng. Tính ra Hà Nội có khoảng hơn chục quán cà phê chui loại
này, nhưng có lẽ nổi tiếng nhất có ba quán với ba đối tượng khác nhau:

Cà phê Lâm ở Nguyễn Hữu Huân có thâm niên bán quán nhiều năm. Ðây là nơi hội tụ
của nhiều họa sĩ tài danh như Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên…
Theo đó có lớp họa sĩ đàn em cũng rủ nhau tìm đến quán cà phê Lâm để có cơ hội chiêm
ngưỡng những danh họa bậc thầy. Có lẽ nhờ vậy mà ông chủ quán cà phê Lâm đã có cơ
hội trở thành nhà sưu tập tranh nổi tiếng Hà Nội. Thời đó, những bậc tài danh trong làng
họa thường rất nghèo. Những lúc túng thiếu họ vay tiền rồi gán nợ cho chủ quán bằng
tranh!...

Cà phê Tuyên ở gác hai số nhà 28 Trần Hưng Ðạo. Muốn uống cà phê khách phải qua
một sân gạch đầy rêu mốc rồi leo lên cầu thang rất hẹp và trơn. Ông chủ quán là chiến sĩ
hoạt động nội thành thời chống Pháp nên được ưu tiên. Khách đến quán của ông Tuyên
thường là những nhà sử học, triết học, nhà văn, nhạc sĩ và các nhân sĩ cao niên thời Pháp
không di cư, ở lại với cách mạng. Ðến đầu năm 1970 không hiểu vì lý do gì khách quen
của quán cà phê Tuyên lại rủ nhau tụ tập ở quán cà phê Mậu ở đường Ðiện Biên Phủ.

Cà phê Lý Hảo ở góc cắt nhau giữa ngõ Phất Lộc và đường Nguyễn Hữu Huân. Quán này
có đặc điểm mặt tiền cửa hàng ở phố đóng kín, khách muốn uống cà phê phải đi vòng qua
cổng sau ở ngõ Phất Lộc, qua một cái sân luôn ướt và trơn vì là nơi giặt giũ của cả 20 hộ
trong căn nhà lớn ấy. Ðối tượng khách chủ yếu là công chức lưu dung, các nhà tư sản, các
nghệ sĩ cải lương và các võ sĩ, ngôi sao điền kinh. Chủ nhân của quán là hai vợ chồng
Hoa kiều làm nghệ sĩ biểu diễn lướt ván ở hồ Hoàn Kiếm từ thời Pháp. Hai cô con gái họ
Lý này cũng là nghệ sĩ lướt ván.
Ðặc sản bụi

Vào thời ấy, ở Hà Nội, Nhà nước chỉ đặt các restaurant trong khách sạn dành cho người
nước ngoài như Thống Nhất, Dân Chủ, Hòa Bình, Hoàn Kiếm. Ngoài ra còn một vài nhà
hàng cao cấp như Mỹ Kinh ở Hàng Buồm, Bodega ở phố Tràng Tiền, Phú Gia ở phố Lê
Thái Tổ…

Các cửa hiệu đặc sản của người Hoa mở nhiều ở mấy phố Tạ Hiền, Lương Ngọc Quyến,
Hàng Giày, Lương Văn Can (Hà Nội), Cầu Ðất, Phan Bội Châu (Hải Phòng). Gọi là “đặc
sản bụi” vì những tiện nghi về phòng ốc, bát đĩa, bàn ghế rất sơ sài, thậm chí có quán tối
tăm và thường rất chật hẹp, không hơn gì mấy quán cơm bụi bây giờ. Ở đây bán các món
ăn Tàu như chim quay, thỏ, gà, dê, ngỗng, ba ba, ếch… Có những tháng ở quán đặc sản
này có bán cả thịt thú rừng. Chất lượng món ăn cao nhưng giá cả không đắt: một con
chim quay với sa-lát, nước sốt giá 2,00 đồng; thỏ quay, thỏ sốt vang 1,5 đồng/1 đĩa; ếch
tẩm bột 2 đồng/1 đĩa; tái dê hoặc dê nướng, dê hầm thuốc bắc 1,5 đồng/1 đĩa. Nói chung
những đĩa thức ăn lớn, cầu kỳ cũng không quá 5 đồng/1 đĩa. Có một điều đáng lưu ý là
khách ra vào các quán này đều cảnh giác xem chừng công an theo dõi. Ðiều đó dễ hiểu vì
không phải ai cũng sẵn tiền từ 15-20 đồng vào ăn.

Trong các loại mốt sinh hoạt thời đó ở thành phố, thị xã cần kể đến mốt xếp hàng mua
báo. Thời đó, có 3 tờ nhật báo Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội Mới (báo Thủ
Ðô). Báo cách ngày chỉ có 1 tờ Lao Ðộng. Tuần báo (báo chính trị-xã hội) có 7 tờ là Văn
Nghệ, Phụ Nữ Việt Nam, Tiền Phong, Ðại Ðoàn Kết, Ðộc Lập, Cứu Quốc và Người
Công Giáo Việt Nam. Giá báo ngày hoặc cách ngày là 5 xu/1 tờ, giá tuần báo là 1 hào
đến 2 hào/1 tờ. Tuy nhiên mỗi số báo đều có lượng phát hành lớn hàng chục vạn bản.
Khách nước ngoài đến Hà Nội thời đó thường hay chụp ảnh những dòng người xếp hàng
mua báo rất dài. Họ xem đó là biểu hiện của một dân tộc có nền học vấn và văn hóa cao.
Ðiều này phải xem xét từ hai mặt: Thứ nhất, cuộc chiến tranh đã thu hút hàng triệu thanh
niên ra mặt trận ở ba loại (bộ đội, thanh niên xung phong và các cán bộ chuyên môn y tế,
giáo dục, cầu đường…). Hầu như gia đình nào cũng có thân nhân ngoài mặt trận nên họ
khao khát xem tin chiến sự, đặc biệt là những số báo tổng kết chiến dịch mùa khô và
những bài viết của Trường Sơn, Cửu Long (các cây bút chính luận nổi tiếng thời đó). Thứ
hai, giá báo Nhân Dân 5 xu/1 tờ là giá báo có bù lỗ của Nhà nước. 20 tờ báo trị giá 1
đồng nặng 1kg, trong khi giấy gói bán cho các bà đồng nát là 1,2 đồng/1 kg. Người ta
mua báo xem tin tức chiến sự và sau đó bán cho đồng nát vẫn lãi.

Phương tiện đi lại đối với cư dân đô thị trong thời chiến là nỗi vất vả lớn nhất. Xe trong
nội thành có hai loại: Xe buýt công cộng, thường rất đông, lèn người như nêm cối, điển
hình là tuyến Bờ Hồ - Hà Ðông và tuyến Yên Phụ - Hà Ðông; Xe điện có 4 tuyến: Bưởi –
Chợ Mơ, Yên Phụ - Ngã Tư Vọng, Bờ Hồ - Hà Ðông và Bờ Hồ - Cầu Giấy, giá vé 5 xu
hoặc 1 hào nhưng rất chậm do phải chờ tránh nhau hoặc bị mất điện. Có khi từ Bờ Hồ lên
Bưởi dài 6 km mà đi tàu điện mất 2-3 tiếng. Cán bộ công nhân viên đi làm chủ yếu bằng
phương tiện xe đạp nhưng có đến nửa số gia đình hai vợ chồng chung một chiếc xe, đưa
đón nhau rất vất vả. Khi cơ quan sơ tán, những gia đình chia ra, vợ, chồng, con cái, ông
bà mỗi người một nơi do hoàn cảnh công tác và học tập. Lúc này phương tiện ô tô chạy
đường dài và tàu hỏa Nhà nước vốn đã quá ít, càng thêm quá tải.
Tình hình đi lại của cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên trên các tuyến đường liên tỉnh
đặc biệt căng thẳng vào các năm 1969-1971. Tết năm Kỷ Dậu (1969) ở Hà Nội xảy ra vụ
“Xô Viết nhà ga” vì những người quê Nghệ Tĩnh phá cửa sắt ga Hà Nội tràn vào đường
ray khiến tàu không đi được, một số nhân viên nhà ga bị thương. Nguyên nhân vụ này là
do lượng khách quá đông, tàu không thể đáp ứng. Sau khi Giôn-sơn (Lyndon B. Johnson,
tổng thống Hoa Kỳ từ 11/963 đến 1/1969) tuyên bố ngừng bắn từ vĩ tuyến 19 trở ra,
những người có quê ở Nghệ Tĩnh nóng lòng muốn về thăm quê xem mức độ tàn phá đến
đâu và người thân ai còn ai mất. Họ tạm được sống yên ổn nhưng cha mẹ, họ hàng, bạn
bè vẫn đang trong tầm bom đạn giặc ném xuống bất cứ lúc nào. Hơn nữa họ cũng muốn
mang một ít quà tết ở Thủ đô về cho người thân trong dịp năm mới. Giá vé tàu Hà Nội –
Vinh chỉ có hơn 3 đồng một chỗ ngồi, nhưng dân “phe vé” bán đắt lên tới 10-15 đồng vẫn
không có mà mua. Người ta chen lấn, xô đẩy ở cửa ga, kết quả người không có vé thì
lách được vào, kẻ chịu mua vé giá cao lại đang ở ngoài, dẫn đến sự phẫn nộ, đập phá.
Tình hình ở bến xe ô tô Kim Liên cũng xảy ra tương tự đối với khách đi tuyến Hà Nội –
Thái Bình (theo hồ sơ lưu trữ của ngành giao thông công chính thành phố Hà Nội năm
1969-1970). Tình hình trật tự ở ga Hà Nội và bến xe Kim Liên vào dịp Quốc Khánh (2/9)
và Tết âm lịch những năm 1973 và 1974 cũng phức tạp không kém năm 1969.

Vấn đề nhà ở của cư dân thành phố, thị xã, khu công nghiệp trong thời gian chiến tranh
có thể chia làm hai thời kỳ: từ năm 1966-1969 do các cơ quan, trường học và các hộ dân
phải đi sơ tán về nông thôn nên chỗ ở không còn là nhu cầu bức thiết nữa. Sau khi Mỹ
hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 19 thì vào mùa xuân Canh Tuất (1970), các cơ quan và hộ
dân bắt đầu chuyển dần về thành phố, thị xã. Mặt khác, tình hình dân số cũng tăng cả hai
dạng sinh học và cơ học. Sự tăng dân số cơ học chủ yếu do nguyên nhân các cán bộ, công
nhân, sĩ quan quân đội quê ở phía Nam vĩ tuyến 19 tìm cách đưa gia đình, họ hàng của
mình ra khỏi tọa độ lửa và an toàn nhất là về sống, làm việc trong cơ quan Nhà nước ở
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Nhà ở do Nhà nước quản lý vốn đã ít, lại bị chiến tranh
tàn phá, nên lúc này sức ép tăng dân số đã trở nên gay cấn. Tâm lý người cán bộ trong
biên chế Nhà nước, đặc biệt là những người có chức quyền hoặc học hàm, học vị dù đã
có chỗ ở với bố mẹ vẫn muốn được ở nhà lắp ghép do Nhà nước phân. Ðiều này dễ hiểu
vì trong cơ chế quản lý thời đó, được ở nhà tầng là biểu hiện trước mọi người về vị thế xã
hội của mình. Mặt khác, được phân căn hộ là có thêm một tài sản đáng giá, khi cần có thể
“hỏa hồng” cho người khác được một số tiền không nhỏ - tuy hiện tượng này thời đó
chưa phổ biến. Với tất cả những lý do vừa nêu, cho dù là từ năm 1970 Nhà nước cố gắng
xây thêm một số khu nhà cao tầng ở Kim Liên, Láng, Nguyễn Công Trứ… ở Hà Nội thì
cũng chỉ là muối bỏ bể so với nhu cầu nhà ở ngày một tăng.

Vụ án về một phụ nữ ở quận Lê Chân – Hải Phòng phục ở cửa, chặn đón đường ông phó
giám đốc Sở nhà đất trước giờ đi làm để nhét cả gói phân vào mồm ông ta là một điển
hình. Các báo lớn năm 1971 tường thuật về phiên tòa xử vụ này đã làm xôn xao dư luận.
Người đàn bà khai trước tòa: Căn hộ của bà vốn ở từ trước năm 1954, không có tranh
chấp gì; từ năm 1965 gia đình bà đi sơ tán, đến năm 1970 quay về thì căn hộ đã bị ông
phó giám đốc Sở nhà phân cho người quen, gia đình bà phải ở trong góc tăm tối gần nhà
vệ sinh; đơn từ, thưa kiện nhiều lần không được giải quyết nên bà ta nghĩ mình chịu ngửi
phân nhiều rồi nay để ông ấy ngửi một lần trước bàn dân thiên hạ. Tòa xử bà 18 tháng án
treo vì tội xúc phạm danh dự và thân thể công dân nhưng bù lại bà được trả lại nhà như
cũ.

Vụ thứ hai xảy ra ở khu nhà ký túc xá của học sinh trường Trung cao cơ điện trên đường
Nguyễn Trãi, quận Ðống Ða (nay là quận Thanh Xuân). Khi trường này đi sơ tán về thì
toàn bộ 6 khối nhà 5 tầng nằm bên phía tay phải cổng trường bị cán bộ công nhân khối
nhà máy cao – xà – lá chiếm làm nơi ở. Nhà nước đành phải đề ra phương án: phần còn
lại của trường Trung cao cơ điện giao cho trường Ðại học Tổng hợp quản lý, còn trường
Trung cao cơ điện phải chuyển toàn bộ lên Thái Nguyên.

Năm 1974 xảy ra vụ tranh chấp giữa giáo viên, học sinh trường Kế toán – Tài chính trung
ương với Bệnh viện E…

Nhìn chung tình hình chỗ ở của các thành phố khác như Việt Trì hoặc khu mỏ Quảng
Ninh trong thời gian này khá căng thẳng. Tuy nhiên căng thẳng nhất vẫn là Hà Nội.

Kỹ sư LVH quê ở Thanh Hóa, làm việc tại một cơ quan thuộc Bộ công nghiệp nặng sống
ở Thanh Xuân kể:

“Tôi lấy vợ năm 1965. Ðến năm 1972 vợ tôi sinh cháu gái thứ hai thì bị băng huyết. Hai
vợ chồng được phân một buồng xép ở chiếu nghỉ cầu thang nhà tầng rộng 9m2 đủ kê một
cái giường và bộ bàn ghế con vừa uống nước vừa làm việc. Mọi thứ sinh hoạt khác đều ở
dưới sàn nhà bé tí teo. Bố vợ tôi thương con gái lặn lội từ Thanh Hóa mang gà, gạo nếp
ra thăm. Thấy con trai tôi quấn quýt với ông ngoại nên đêm ấy tôi bố trí cho con ngủ với
ông dưới đất còn mình với vợ và đứa bé mới sinh ngủ trên giường. Sáng sớm tôi giật
mình thấy ông cụ bỏ ra ga về quê không nói một lời nào. Từ đó tôi mang tiếng với làng
mạc, họ hàng khinh bố vợ nhà quê cho ngủ dưới đất còn mình nằm giường. Ðến chết tôi
cũng không quên nỗi nhục này.”

Nhà văn Tô Ngọc Hiến xuất thân là thợ mỏ ở Quảng Ninh kể lại một giai thoại thợ mỏ
Ðèo Nai mang màu sắc tiếu lâm cười ra nước mắt:

“Ở khu tập thể công nhân mỏ Ðèo Nai mỗi gia đình được chia nửa gian nhà cấp 4 rộng
chừng 12m2. Nhà nào đông con thường gặp điều bất tiện trong sinh hoạt vợ chồng vì
nghề nghiệp nảy sinh sự éo le. Có nhà chồng làm ca đêm, còn vợ làm ca hành chính. Suốt
một tuần vợ chồng chỉ giáp mặt nhau vào bữa cơm chiều, muốn “sinh hoạt” một lúc lại
vướng ba đứa con mà nhà thì quá chật. Ðến cuối tuần anh chồng không chịu được nghĩ
cách sai con đi làm một số việc. Hai đứa lớn anh sai đi ra phố mỏ vì thiếu gì việc cho
chúng chạy chừng 15 phút. Riêng đứa con nhỏ mới 5 tuổi thì anh bí quá vì không dám sai
đi ra phố sợ xe cộ cán phải thì nguy, mà trên vùng mỏ vốn nhiều xe đi lại rầm rập. Cuối
cùng anh nghĩ ra cách sai đứa con 5 tuổi ra đầu ngõ mua nước mắm nhưng không đựng
bằng bát mà đựng bằng… đĩa. Miệng đĩa thì rộng, lòng đĩa thì nông nên đứa bé phải đi
rón rén đủ 15 phút…”
Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
4 kì
Kì 4

5. Phân hóa giàu nghèo trong cư dân đô thị

Phân hóa trong sinh viên, trí thức

Trong số gần 8 vạn học sinh chuyên nghiệp, sinh viên đại học thời chiến tranh, có khoảng
hơn 6.000 người được du học ở Liên Xô và Ðông Âu. So với những sinh viên ở trong
nước rất đói khổ vì phải đi sơ tán, số người này có đời sống tương đối tốt trong 4 hoặc 5
năm học. Khi về nước họ có hai lợi thế so với người học trong nước: Một là trình độ
ngoại ngữ hơn hẳn sinh viên tốt nghiệp trong nước. Hai là vì có chút hàng hóa mang về,
tuy không nhiều nhưng so với mức sống chung là cả một gia tài lớn thời đó, họ dễ dùng
tiền xin việc làm ở thành phố, kiếm được căn hộ lắp ghép. Lấy học sinh đi du học tại Liên
Xô (năm 1970-1975) làm ví dụ: “Lương sinh viên 90 rúp/tháng, nghiên cứu sinh 120
rúp/tháng. Các khoản ăn, uống và sinh hoạt phải chi khoảng 50-60 rúp/tháng, còn dư ra
khoảng 30-60 rúp/tháng. Tính ra sau mỗi năm học, họ dành dụm được khoảng 400-500
rúp. Tiểu chuẩn cho phép sinh viên 2 năm về phép một lần, thì khi về họ có khoảng 1.000
rúp. Nếu căn cứ vào giá hàng hóa của Nga thời đó sẽ thấy sinh viên Việt Nam đi học Liên
Xô chẳng mua được gì mấy trong lần nghỉ phép. Giá một số mặt hàng mà người Việt
Nam hồi đó ưa chuộng như sau: Máy ảnh Kiev (180 rúp), bàn là (7 rúp), máy khâu Minsk
(35 rúp), xe đạp Sport (40 rúp), radio-quay đĩa Rigonda (120 rúp), xe máy Java (200
rúp)… Tổng cộng sau 5-6 năm học ở Liên Xô (một lần về phép) sinh viên đi học có thể
mua về nước được: 1 xe máy, 1 xe đạp, 1 máy ảnh, 2-3 quạt điện, vài chiếc bàn là, 1 đài
rađiô quay đĩa, một máy khâu và một số đồ nhôm, bàn ghế gấp… Ai chịu khó không đi
phép giữa kỳ hoặc tham gia lao động ở nông trường vào dịp hè có thể mua được nhiều
hàng hơn. Ai mua nhiều sách kỹ thuật, văn học hoặc thích đi nhà hát sẽ gần hết tiền để
dành, vì một vé xem opera, ba-lê giá 15-20 rúp. Học sinh, sinh viên đi học ở Ðông Ðức
lương 600 mác/tháng, giá hàng hóa rẻ hơn ở Nga nên thường giàu hơn một chút. Học
sinh đi học ở Ðức về thường có xe Diamant hoặc Mifa, xe máy Simson hoặc Star, máy
ảnh Praktica… (Nguồn: Ngoại thương Việt Nam 1976-1996, phần 11, của tác giả ÐP,
Viện Kinh tế học, 5/1999).

Sự phân hóa trong nhóm cán bộ công nhân biên chế Nhà nước khá sâu sắc, mặc dù nó
được che đậy bởi vỏ bọc bình đẳng tới mức lương Bộ trưởng chỉ gấp 5 lần lương công
nhân quét rác. Trước chiến tranh, sự phân hóa mức sống chỉ thể hiện qua chế độ tem
phiếu và sự ưu đãi cung cấp về nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt… theo bậc
lương, chức vụ. Bắt đầu từ năm 1967, các biểu hiện trên vẫn còn, nhưng xuất hiện nhiều
dạng thức phân hóa khá mạnh mẽ và có nhiều bất hợp lý, trái với quy luật kinh tế.

Khổ nhất trong nhóm này là công nhân xí nghiệp, nhân viên hành chính, giáo viên có bậc
lương thấp từ 36 đồng, 45 đồng đến 63 đồng. Người công nhân từ lúc mới vào nghề
lương 36 đồng/tháng đến lúc hưởng lương bậc 2/7 là 58 đồng/tháng, được hưởng tem
phiếu hạng bét, nếu có con đi học sẽ luôn trong tình trạng thiếu tiền, có lúc phải bán
phiếu vải, phiếu thịt đi lấy tiền chi tiêu trong gia đình. Người giáo viên hoặc nhân viên
hành chính lương 45-63 đồng có tem phiếu bìa E, bìa D ở mức cung cấp thực phẩm quá
ít, lại phải chịu tiêu chuẩn 13 kg/tháng, thường là đói ăn và thiếu đạm nghiêm trọng.

Thầy giáo NQV, sinh năm 1936, hiện nghỉ hưu tại khu tập thể Trung Tự kể:

“Hai vợ chồng tôi đều là giáo viên, gạo 13kg/tháng, lương vợ 56, lương chồng 70, cộng
với phụ cấp khu vực 12% và thâm niên (chồng 6%, vợ3%), tất cả nhà trông vào 147 đồng
và mấy bìa phiếu nên đói lắm. Ba đứa con đi học, quần áo, giấy bút không đủ. Nhiều bữa
vợ chồng thay nhau ra xếp hàng mua “mì không người lái” (loại mì chỉ nấu với nước,
muối, mắm không có thịt) 1,5 hào/bát, mỗi lần một người xếp hàng mua được 2 bát, nên
5 lần xếp hàng mới mua được đủ 10 bát cho cả nhà 5 người ăn thay cơm vì hết gạo.”

Ðối với người công nhân viên chức, giáo viên lương thấp, niềm hi vọng có khoản thu
nhập thêm là những đợt cơ quan bán hàng căng tin. Người nghiện thuốc lá, mỗi xuất nam
giới mua 2 bao thuốc Tam Ðảo, 3 bao Trường Sơn cũng phải đem bán, mua thuốc cuốn
hút, lấy tiền chênh lệch phụ thêm vào bữa ăn.

Ông QTT công nhân cơ khí Nhà máy Bóng đèn phích nước kể:

“Thuốc lá tiêu chuẩn được mua 2 bao Tam Ðảo và 3 bao Trường Sơn. Tam Ðảo giá 4
hào/1 bao, bán cho hàng nước được 7-8 hào/1 bao; còn Trường Sơn giá 2,5 hào/1 bao,
bán được 4 hào/1 bao, tổng cộng một suất lãi được 1,05-1,25 đồng. Tôi mua nửa lạng
thuốc lá cuốn giá 7 hào vẫn thừa ra 3,5-5,5 hào cho con mua vở, mực, ngòi bút… Giấy
cuốn thuốc lá thì dùng giấy lịch, giấy đánh máy hỏng của văn thư nhà máy hoặc thậm chí
giấy báo…”

Mỗi đợt cơ quan phân phối phụ tùng xe đạp là cả một cuộc cọ xát, bình xét ồn ào. Ðối với
người lương thấp, 1 xích líp xe đạp của Trung Quốc mua 4 đồng/chiếc bán được 10
đồng/chiếc, lãi 6 đồng; 1 săm Sao Vàng 5 đồng/chiếc bán được 8-9 đồng/chiếc… Tất cả
đều là thu nhập thêm bù đắp vào sinh hoạt vốn rất thiếu thốn. Hiện tượng này được mô tả
khá sinh động trong tiểu thuyết Ðám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, với
hình tượng nhân vật Tự.

Những người có mức sống no đủ, sung sướng thời chiến tranh, gồm hai loại. Thứ nhất là
những người nắm quyền lực hoặc có lương cao. Số người này thực ra không nhiều và xét
cho cùng họ xứng đáng được hưởng. Họ được hưởng tem phiếu từ bìa C1, C2 đến A, B.
Họ được Nhà nước cấp nhà rộng, phương tiện đi lại, một số tiện nghi sinh hoạt… và có
tiêu chuẩn chữa bệnh ở bệnh viện riêng (Bệnh viện Việt Xô, nay là Bệnh viện Hữu Nghị),
bệnh nặng có thể được ra nước ngoài chữa bằng kinh phí Nhà nước đài thọ. Thứ hai là
những người giàu có bằng việc “kinh doanh chức nghiệp”, tuồn hàng ra thị trường tự do,
ăn cắp, hối lộ… Loại này chức vụ và bậc lương không cao, chủ yếu là những người nắm
nguồn hàng, tiền, phương tiện vận chuyển… của Nhà nước. Họ là cán bộ cấp tem phiếu,
cán bộ tuyển sinh đi học nước ngoài và học đại học, trung học chuyên nghiệp trong nước
thuộc các sở, ty cấp tỉnh đến Trung ương. Một số lượng đông đảo hơn là nhân viên các
cửa hàng bách hóa, thực phẩm, lương thực, lái xe ở tất cả các cấp từ huyện lỵ, tỉnh lỵ đến
thành phố Hà Nội, Hải Phòng… Như đã trình bày ở các phần trên, việc phân chia ra
nhiều chế độ đãi ngộ trong cán bộ công nhân viên chức xét về năng lực, sự cống hiến và
địa vị xã hội là xứng đáng, không có gì đáng phê phán nặng nề như nhiều nhà nghiên cứu
đã thổi phồng lên. Cái đáng phê phán là hình thức phân biệt đãi ngộ lẽ ra chỉ nên quy vào
tiền lương một cách rạch ròi, sòng phẳng, thì người ta lại đẻ ra đủ loại tem phiếu phức
tạp, tạo kẽ hở cho một số người làm giàu bất chính quá dễ, quá nhanh.

Trước hết nói về loại người giữ và duyệt cấp tem phiếu. Hệ thống này nằm từ cấp huyện,
tỉnh, thành lên đến Bộ Nội thương. Vì nó là tiền, lại không phải là tiền, nên sinh ra cấp
khống, cấp ẩu và thậm chí tuồn ra thị trường từng tập tem phiếu, mà nếu có bị tố giác thì
mức độ tội phạm không nặng như ăn cắp tiền. Trong thời kỳ này (1974) dư luận xôn xao
bởi vụ án Nguyễn Trí Tuyển, Phó giám đốc Sở Thương nghiệp Hà Nội đã cấp khống một
lượng lớn tem phiếu, nếu qui đổi giá trị ra tiền có thể xây được nhà máy Trung qui mô
(Nhà máy cơ khí Hà Nội). Nhưng ông ta và các cộng sự chỉ thu được 1/10 giá trị quy đổi
đó, còn kẻ được lợi nhiều nhất là gian thương “phe tem phiếu” (theo lời kể của luật sư V
tham gia phiên tòa, hiện về hưu, sống ở Hà Nội).

Tem gạo là một thứ dễ làm giả, nên ngoài lượng phát khống rò rỉ từ ngành thương
nghiệp, trong xã hội xuất hiện bọn tội phạm làm tem gạo giả, loại từ 250 gam đến 5 kg.
Năm 1971 tại Viện Ðịa chất và khoáng sản (Thanh Xuân- Hà Nội) có một kỹ sư phạm tội
làm tem gạo giả bằng in lưới và chịu ra tòa nhận án phạt 2 năm tù giam. Một loại nữa là
phiếu sữa dùng cho sản phụ bị mất sữa, rất khó quản lý. Nhân viên phòng thương nghiệp
chỉ cần móc ngoặc với bác sĩ bệnh viện cấp giấy chứng sinh giả và xác nhận mất sữa cho
người giả mạo là trót lọt. Hiện tượng này đã gặp ở bệnh viện Hải Phòng, Nam Ðịnh, Việt
Trì, Hòn Gai…

Hình thức làm giàu đơn giản nhất, dễ nhất là tuồn hàng nhà nước ra thị trường tự do mà
các lỗ rò rỉ là nhân viên bán hàng. Tại các cửa hàng bách hóa thường có qui định bất
thành văn là dành một lượng 10% số hàng nhập về như: thuốc lá, đường sữa, bánh kẹo,
giấy viết, xoong nồi, bát đĩa… để bán theo lệnh của quan chức địa phương phục vụ hội
nghị, khách đến công tác hoặc nhu cầu đột xuất. Theo ông NÐB, cửa hàng phó cửa hàng
bách hóa phục vụ công trình khảo sát đập sông Ðà ở phố Ðúng, thị xã Hòa Bình, năm
1970 cô H là nhân viên bán hàng đã thông đồng với một cán bộ Ủy ban trị thủy sông Ðà
tuồn hàng ra ngoài từ lỗ rò rỉ này mà kiếm đủ tiền về Hà Nội tậu nhà, mua xe đạp
Diamant, đài bán dẫn, quần áo đắt tiền… Nếu chỉ trông vào lương tháng 45 đồng thì cô H
phải ăn nhịn để dành 20 năm mới mua được 1 chiếc xe đạp là cùng.

Bà L nhân viên cửa hàng lương thực của một quầy gạo trong quận Ba Ðình (lúc đó là khu
Ba Ðình) nói:

“Chúng tôi chẳng cần đến thủ đoạn tham ô mà theo quy định về tỉ lệ gạo, mì bị mốc,
chuột ăn, rơi vãi thời đó là 5%-7% cũng đủ cho chị em chia nhau một khoản tiền gấp 4-5
lần lương tháng. Những đợt gạo về chậm, dân xếp hàng dài từ 3-4 giờ sáng, chúng tôi
giúp bạn bè bên bách hóa, thực phẩm mua hộ gạo cho người thân của họ, tất nhiên họ sẽ
có cách giúp đỡ chúng tôi khoản thịt, cá, thuốc lá, đường, sữa. Ðó cũng là một thứ thu
nhập.”

Nói chung, thời đó nhiêu cô gái bán lương thực, thực phẩm, bách hóa đều giàu có. Mốt
thời thượng của họ là đi xe đạp Diamant, Mifa màu ngọc bích, đeo hoa tai và nhẫn vàng,
đồng hồ Liên Xô loại đắt tiền… Họ là đối tượng chọn vợ của nhiều người, cao giá hơn cả
kỹ sư, bác sĩ. Những phụ nữ đứng tuổi làm nghề này thường khôn ngoan hơn, không
trưng diện ra ngoài nhưng tiền mặt có hàng nghìn, vàng có hàng vài chục cây.

Lái xe cũng là một thứ nghề hái ra tiền bằng phương tiện Nhà nước. Trong thành phố Hà
Nội, tuyến xe Bờ Hồ - Hà Ðông và Yên Phụ - Hà Ðông luôn chật cứng người đứng chen
chúc. Trừ số người đi vé tháng chiếm 1/3, còn lại số đi vé ngày không sao kiểm soát
được, Nhà nước đành khoán tiền theo chuyến. Ðây là kẽ hở cho lái xe kiếm thêm ngoài
lương.

Ông NVM lái xe tuyến đường này kể:

“Trung bình mỗi tuần chúng tôi ăn tiêu xả láng rồi, lái và phụ xe còn chia nhau mỗi
người được 100-150 đồng, bằng hai suất lương cả tháng. Lái xe khách đường dài kiếm
tiền bằng vé lậu, chở hàng cấm và dân buôn.”

Ông HVM ở bến xe thị xã Thái Bình kể:

“Hồi đó có khẩu hiệu ‘yêu xe như con, quí xăng như máu’, thật ra chỉ các chiến sĩ lái xe
tuyến lửa và một số người là vì Nhà nước mà thực hiện, thật đáng khâm phục tinh thần
yêu nước của họ. Cánh tài xế lái xe khách đường dài chúng tôi cũng yêu xe như con, quí
xăng như máu nhưng lại vì túi tiền của mình trước hết. Mỗi tháng nếu xe chạy đều bọn
tôi kiếm ngoài được 200-300 đồng, xe nghỉ sửa chữa là mất tiền nên có khi tự bỏ tiền túi
ra sửa để xe có mặt bon bon trên dặm trường kiếm tiền.”

Lái xe tải cũng có nhiều hình thức kiếm tiền. Tuyến đi Tây Bắc, Nghệ Tĩnh chở gỗ quí.
Tuyến đi Yên Bái, Thái Nguyên buôn chè. Bình thường ra cũng có thể buôn củi, sắn, lợn,
gà, vịt hoặc ngày tết buôn lá dong gói bánh chưng.

Theo lời ông LÐC, lái xe của Bộ Nông nghiệp:

“Hàng hóa thị trường tự do khan hiếm, phưong tiện vận chuyển ít, cái gì thời đó vứt lên
xe từ nơi này đến nơi khác cũng kiếm ra tiền. Ðó là chưa kể nhiều lái xe lưu manh, ăn cắp
hàng của Nhà nước bằng cách ‘chọc tiết lợn’ nghĩa là rút ruột các bao tải chở gạo, đường,
xi măng…”
Sự phân hóa trong nhóm cư dân ngoài biên chế

Trước chiến tranh, đa số những người trong nhóm này sống ở mức nghèo khổ hơn so với
cán bộ công nhân viên chức và nông dân tập thể. Bắt đầu từ năm 1966 thực tế đời sống
lại có xu hướng phát triển theo chiều ngược lại vì ba lý do:

Thứ nhất, những người làm nghề tự do nhưng có hộ khẩu chính thức ở đô thị mặc nhiên
được Nhà nước bao cấp cho một khoản “lương hiện vật”, đó là tiêu chuẩn gạo, dầu hỏa
và một số nhu yếu phẩm tối thiểu. Nếu tất cả những mặt hàng này họ đem bán ra thị
trường sẽ có giá trị gấp hai thậm chí gấp năm lần giá mua của Nhà nước. Trong khi đời
sống cán bộ công nhân do điều kiện chiến tranh bị tụt thấp đi thì những người làm nghề
tự do lại có nhiều cơ hội để tìm kiếm thu nhập. Ðơn giản như mở một quán trà hay bơm
vá xe đạp, cắt tóc, bán kem, hàn xoong nồi, chữa khóa… đều đáp ứng nhu cầu của xã hội
ngày một tăng nên thu nhập không tồi. Trong phần mô tả mốt sinh hoạt thời chiến, chúng
tôi đã phân tích kỹ thu nhập của một quán trà vỉa hè. Có thể nêu thêm một ví dụ về nghề
bơm vá xe đạp. Ðồ nghề của họ rất đơn giản, chỉ là một cái bơm và một chiếc hộp gỗ
đựng vài cái cờ lê, mỏ lết, kìm, búa, nhựa dính và vài miếng săm rách. Nhu cầu đi lại
bằng xe đạp trong chiến tranh rất cao, mà xe đạp thì cũ nát, săm lốp và phụ tùng khan
hiếm, bơm vá xe là việc xảy ra thường ngày trên đường phố. Giá bơm một lốp xe 5 xu, vá
săm 3 hào/1 miếng. Một người bơm vá xe đạp ở Hà Nội, Hải Phòng ít nhất trong ngày
cũng có khách bơm khoảng 20 lốp xe, vá 3-5 miếng săm, bằng lương một giáo viên cấp 2
hay nhân viên văn thư đánh máy của cơ quan hành chính, lại vẫn có sổ gạo, phiếu dầu!

Thứ hai, do những khó khăn của thời chiến, Nhà nước tuy không khuyến khích nhưng
ngầm thả lỏng các hộ tiểu thương buôn bán ở các chợ và mở sạp hàng nhỏ tại nhà. Sơ hở
trong quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước trong giai đoạn này là một mặt cấp đăng ký
kinh doanh cho họ, mặt khác vẫn bao cấp sổ gạo và chất đốt, nhu yếu phẩm theo đăng ký
hộ khẩu. Lẽ đương nhiên, thu nhập của các hộ tiểu thương này, đặc biệt ở các chợ lớn
như Ðồng Xuân (Hà Nội), chợ Sắt (Hải Phòng), chợ Rồng (Nam Ðịnh)… thừa đủ để mua
gạo, chất đốt theo giá tự do, nhưng Nhà nước đã vô tình cấp thêm cho họ một khoản thu
nhập nữa bằng tem phiếu (?).

Bà H bán hàng khô ở chợ Bắc Qua kể:

“Tôi và các chị em bạn hàng trong chợ phần lớn mua ‘gạo bông’ của mậu dịch về đem
các thêm tiền đổi lấy gạo quê để con cái ăn có chất mà học hành. Phiếu chất đốt chúng tôi
đun nấu nhiều hơn các hộ cán bộ nghèo nên cũng thường phải mua thêm, mỗi nhà thường
mua 5-10 lít dầu hàng tháng.”

Bà T có cửa hàng tạp hóa phố Hàng Ðào (Hà Nội) kể:

“Dân phố buôn ở Hàng Ðào chúng tôi thời ấy ai cũng chỉ bày vài thứ lèo tèo trong cái tủ
con, nhưng khách mua các tỉnh về cất hàng bao nhiêu cũng có, loại gì cũng chiều. Tiếng
là buôn bán nhỏ mà có khi doanh số ngầm của nhiều nhà còn không thua cửa hàng bách
hóa mậu dịch ở số nhà 100 cùng phố. Tôi ít vốn nhưng thu nhập cũng khá, các con sống
no đủ, không phải ăn gạo mậu dịch bữa nào.”

Thứ ba, cũng từ căn bệnh của mô hình quản lý bao cấp thời chiến đã hình thành trong xã
hội đô thị một thứ chợ đen. Hàng hóa Nhà nước càng thiếu thì các kênh rò rỉ từ cán bộ,
nhân viên Nhà nước như đã nói ở phần trên càng hoạt động mạnh, đẩy nhanh quá trình
phân hóa mức sống trong nhóm cư dân ngoài biên chế ở đô thị, làm cho đội ngũ “dân
phe” mỗi ngày thêm đông và trở thành đẳng cấp giàu có rất nhanh. Giàu nhất là “dân
phe” các mặt hàng xe đạp, xe máy, kim khí, đồ điện gia dụng. Hoạt động trong lĩnh vực
này thường là nam giới ở độ tuổi 30-40. Phương thức hoạt động của họ có hai dạng. Một
là nghề môi giới hay còn gọi là “buôn nước bọt”. Hàng hóa trao đổi trong các cuộc buôn
bán nước bọt thường là xe máy, đồng hồ, xe đạp và máy thu thanh các loại do Việt kiều
từ Tân Ðảo mang về, cán bộ đi công tác ở nước ngoài mua về không có nhu cầu sử dụng,
sinh viên đi học Ðông Âu về phép hoặc đã tốt nghiệp. Lối “buôn nước bọt” này có thể ăn
chênh lệch giá của cả bên mua lẫn bên bán tùy theo “bản lĩnh” của người môi giới. Hình
thức thứ hai là bỏ vốn ra móc ngoặc với nhân viên giữ kho, bán hàng của Nhà nước để
đánh từng lô hàng, chủ yếu là phụ tùng xe đạp, xe máy và vật tư, nguyên liệu cho các nhà
sản xuất hàng lậu. Kiểu buôn bán này giàu nhanh chóng nhưng nguy hiểm, thường là
những đối tượng đã từng có tiền án, tiền sự. Cả hai phương thức trên đã tạo ra một lớp
người giàu có gấp nhiều lần các gia đình cán bộ có chức quyền. Mốt sống của họ có thể
hình dung qua câu ca dao:

Một yêu anh có Sen-kô


Hai yêu anh có mô tô “cá vàng”
Ba yêu nhà cửa gọn gàng
Bốn yêu hộ tịch đàng hoàng thủ đô…

(Ðồng hồ Sen-kô của Nhật; xe cá vàng là loại xe mobylet của Pháp đời mới thời đó do
Việt kiều Tân Ðảo mang về. Những thứ này vào những năm cuối 60 đầu 70 ở Hà Nội còn
sang trọng hơn cả chiếc xe ôtô Toyota Nhật bây giờ. Chỉ có “dân phe” mới có tiền mua.)

Lực lượng đông đảo nhất trong số “dân phe” là những người “phe” tem phiếu và các mặt
hàng nhu yếu phẩm như thuốc lá, đường, sữa, thịt, cá… Loại này thường là phụ nữ từ 16-
50 tuổi. Họ hoạt động ở các chợ, quanh các cửa hàng bách hóa, thực phẩm, lương thực.
Biểu tượng phô diễn giàu sang của họ là xe đạp Diamant, Mifa (Ðức), Phượng Hoàng
xích hộp (Trung Quốc), vàng trang sức và đồng hồ ngoại (Nhật, Thụy Sĩ). Sự liên kết của
đám người này với nhân viên ngành thương nghiệp rất chặt chẽ, làm băng hoại đạo đức
nhiều cán bộ có chức quyền.

Lời kết:

Mô hình kinh tế Stalin giai đoạn 1966-1975 là một bước kiện toàn cao hơn của mô hình
sơ khởi giai đoạn 1961-1965. Xét về mặt đời sống nhân dân, nó đã phát huy được một số
ưu điểm trong điều kiện chiến tranh mà những mô hình khác khó có thể làm tốt hơn.
Nhưng những ung nhọt của nó cũng đã bộc lộ rõ, điển hình là sự phân hóa giàu nghèo
trong các tầng lớp cư dân một cách dị mọ, trái quy luật. Sự phân hóa đó cũng tạo ra tích
lũy và mầm mống của kinh tế thị trường mang tính hoang dã. Một thị trường hoang dã sẽ
có sức công phá đất nước sau này còn hơn cả bom đạn chiến tranh của giặc ngoại xâm mà
bây giờ người ta hay nói đến khái niệm “giặc nội xâm”. Trong tác phẩm ký Câu lạc bộ
các tỷ phú đã dẫn, tôi đã chứng minh đầu những năm 90, Hà Nội có khoảng 70% số tỷ
phú thuộc 3 đối tượng: cán bộ Nhà nước mà thời bao cấp là những kẻ ăn cắp hàng, tem
phiếu cung cấp, có vốn tích lũy, lại biết luồn sâu leo cao để có quyền lực; những người
buôn bán chợ đen cũ, quen thói chụp giật chứ không sản xuất ra sản phẩm; bọn lưu manh
vào tù ra tội đã nhiều nên làm ăn liều lĩnh kiểu xã hội đen. Ba loại tỷ phú này câu kết với
nhau trong một thứ mafia quyền lực – kinh tế, lợi dụng chính sách nhà đất rất lạ đời và kẽ
hở của các ngành ngân hàng, ngoại thương, xây dựng cơ bản… để làm giàu và thao túng
nền kinh tế đất nước.

Hà Nội, 5/1999

© 2005 talawas

Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống nông thôn Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Kì 1/3

Lời nói đầu

Hai nhóm cư dân nông thôn và thành thị vốn cùng là đối tượng điều tra, nghiên cứu trong
đề tài “Lịch sử 50 năm kinh tế Việt Nam” mà phần việc mô tả đời sống nhân dân miền
Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 do tôi thực hiện. Vì vậy trong bản thảo gốc, hai đối
tượng này được đề cập đan xen, đôi lúc xoắn vào nhau không dễ tách ra. Trong Bài 1 -
Ðiều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 (gọi tắt là Bài 1)- tôi
đã có đôi lần nhắc đến số liệu, sự kiện ở nông thôn và những vấn đề về y tế, giáo dục, văn
học nghệ thuật, vốn là đặc điểm chung cho cả hai đối tượng. Bài này – Ðiều tra đời sống
nông thôn Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 (gọi tắt là Bài 2) - chỉ coi như phần tham
khảo, bổ sung cho Bài 1, do đó có thể sẽ không thật hoàn chỉnh.

So với bản thảo gốc, trong Bài 2, tên các tiểu đề mục được đặt lại, tư liệu được bổ sung từ
những ghi chép điều tra, phỏng vấn hàng trăm nhân chứng được thực hiện năm 1998-
1999 trước đây chưa công bố hết và một số ghi chép mới.

Kèm theo Bài 1, Bài 2, là phần phụ lục chung cho cả 2 đối tượng cư dân nông thôn và
thành thị. Những số liệu thống kê trong bộ Niên giám thống kê nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (xuất bản năm 1975), vốn rất tản mạn trong nhiều mục tin, được tác giả lựa
chọn, tổng hợp để minh họa cho những điều luận giải, đa phần đã được phân tích bằng lời
trong Bài 1, Bài 2; còn trong Phụ lục được thể hiện ở dạng bảng và biểu đồ. (Bạn đọc có
nhu cầu đọc Phụ lục xin liên hệ với Ban biên tập talawas, sẽ được cung cấp theo ủy
quyền của tác giả.)
Nhân đây tác giả cũng xin có vài đính chính cho Bài 1:

Phần II, mục 2:

* Nói về thu nhập bình quân đầu người năm 1961-1965, câu “Như vậy thu nhập của họ
còn thấp hơn giai đoạn 1954-1960...” Xin sửa là: “Ta thấy thu nhập bình quân tuy cao
hơn giai đoạn 1954-1960 chút ít, nhưng thu nhập thực tế lại thấp hơn, do gạo và nhu yếu
phẩm cung cấp không đủ dùng, phải mua giá cao ở thị trường tự do.”

* Nói về số lượng cán bộ y tế: “Năm 1960 toàn miền Bắc có 600 bác sĩ, 2.446 y sĩ, 231
dược sĩ cao cấp, 293 dược sĩ trung cấp. Năm 1961 những con số tương ứng là 1.525 -
8.043 - 428 và 703.” Xin sửa lại là năm 1961 và năm 1965.

* Nói về giáo dục: “Số lượng học sinh phổ thông niên học 1960-1961 là 1.794.700
người”; xin sửa là: 1.899.600 người.

Phần III, mục 1: “Ngày 5/8/1954, khi chiếc tuần dương hạm Cơ Ðốc…” Xin sửa là:
“Ngày 5/8/1964, khi chiếc tuần dương hạm Maddox…”

Phần III, mục 5, vụ án Nguyễn Trí Tuyển năm 1974, xin sửa là năm 1970.

và một số sơ suất nhỏ về số liệu, xin xem lại ở Phụ lục.

Tác giả xin chân thành cám ơn sự quan tâm của talawas và bạn đọc.

Hà Nội 7/2005

Mục lục

I. Giai đoạn 1954-1960: Người cày có ruộng

1. Nông thôn Bắc Việt Nam sau ngày giải phóng


2. Cuộc cách mạng ruộng đất
3. Mức sống và chất lượng sống

II. Giai đoạn 1961-1965: Tiếng gà thay bằng tiếng kẻng

1. Khí thế nông dân


2. Mức sống và chất lượng sống
III. Giai đoạn 1966-1975: Nguồn lực vô tận của chiến tranh

1. Nông dân là quân chủ lực


2. Ðời sống thời chiến qua số liệu thống kê
3. Ðời sống thời chiến qua điều tra, phỏng vấn
4. Phân hóa giàu nghèo sau lũy tre làng

Thay lời kết

I. Giai đoạn 1954-1960: Người cày có ruộng

1. Nông thôn Bắc Việt Nam sau ngày giải phóng

Chiến tranh chống Pháp kết thúc, có lẽ nông dân mới là lớp người hân hoan, sung sướng
nhất. Thật vậy. Suốt 9 năm chống Pháp, người thành thị chỉ phải tản cư lâu nhất là 3 năm,
trừ một số gia đình trí thức đi theo chính phủ kháng chiến lên Việt Bắc, vào Thanh Hóa
và những thanh niên tòng quân, còn lại đa số đã hồi cư, sống trong sự an toàn của các đô
thị do người Pháp kiểm soát. Ðóng góp sức người, sức của cho chiến tranh khốc liệt chủ
yếu là nông dân. Ở những vùng giáp ranh, nông dân còn phải chịu đựng các trận càn của
lính lê dương (lính ở các nước thuộc địa) do sĩ quan Pháp chỉ huy. Làng mạc bị đốt,
người và gia súc bị giết hại vô kể, phụ nữ còn bị hãm hiếp rất man rợ. Ở vùng Thị Cầu –
Bắc Ninh, sau chiến tranh có đến hàng trăm đứa trẻ lai đen vì mẹ bị hãm hiếp trong các
trận càn…

Ông NÐT, sinh năm 1930, ở thôn Ðình Tổ, xã Ðình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, kể:

“Dọc bờ đê sông Ðuống từ Thuận Thành đến Lương Tài có đến gần 70 đồn bốt của địch,
chúng thường xuyên xua lính đi càn quét, tìm diệt du kích. Người và gia súc chết la liệt,
thê thảm. Có nơi như bốt Á Lữ, ta phá xong thì địch tái chiếm, giằng co hàng chục lần,
mỗi lần vài chục nông dân chết oan.”

Ở vùng đập Phùng (Ðan Phượng – Hà Tây) có một đồn bốt khét tiếng về sự man rợ.

Ông TÐM, sinh năm 1928, ở xã Tân Lập, Ðan Phượng – Hà Tây, kể:

“Hầu như tháng nào trên cọc rào dây thép gai ở bốt Phùng cũng có vài đầu lâu người bị
bêu nắng. Người chết có khi là du kích, nhưng cũng có khi là nông dân hiền lành bị tình
nghi mà chết oan khốc”.

Vì phải chịu bao nỗi thống khổ của chiến tranh nên người nông dân hơn ai hết cảm nhận
được đầy đủ cái giá của hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ. Họ đặt trọn niềm tin và hy
vọng ở chế độ mới. Quan niệm về hạnh phúc của họ đơn giản chỉ là được sống yên ổn
trên thửa ruộng của mình. Ngay cả trong hôn nhân, những người phụ nữ ở thôn quê cũng
thật dễ tính và giàu lòng vị tha. Họ sẵn lòng vô tư nghe theo sự vận động của đoàn thể,
tình nguyện tham gia những lễ cưới tập thể, nhận thương binh không hề quen biết làm
chồng để ăn đời ở kiếp với nhau.

Bà ÐTH, sinh năm 1933, ở xã Nghĩa Dũng, huyện Yên Dũng – Bắc Giang, kể:

“Hồi ấy tôi và gần chục cô gái khỏe mạnh, ưa nhìn trong xã hăng hái đăng ký tự nguyện
lấy chồng thương binh cụt tay hay cụt chân về chăm sóc. Người ta tổ chức một đám cưới
tập thể cho tôi và những cô gái ấy với các anh thương binh tại đình làng, chỉ có ít bánh
kẹo, rổ khoai sọ luộc chấm với mật, vài tiết mục văn nghệ ‘cây nhà lá vườn’…”

Truyền thống này có từ năm 1949 ở chiến khu Việt Bắc.

Ông V, dược sĩ cao cấp đã nghỉ hưu, hiện sống ở quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, kể:

“Trước Cách mạng tháng Tám, tôi là học sinh Hà Nội đã có bằng tú tài toàn phần. Chiến
tranh nổ ra, tôi tham gia Trung đoàn cảm tử bảo vệ Thủ đô, chiến đấu suốt 60 ngày đêm
trong nội thành, thuộc mặt trận Liên khu I. Khi rút lui ra ngoài tôi bị thương, dập nát một
chân phải cắt cụt. Xuất viện, tôi là thương binh nặng, được điều về công tác tại Bộ
Thương binh của bác sĩ Vũ Ðình Tụng, một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng. Năm 1949, cơ
quan Bộ đóng ở xã Tân Thành, huyện Ðồng Hỷ - Thái Nguyên. Tôi được một bà mẹ phúc
hậu người làng Kim Liên – Hà Nội tản cư gần đó nhận làm con nuôi, chăm sóc như con
đẻ. Khi địa phương có phong trào phụ nữ lấy chồng thương binh, tôi cũng phải theo anh
em ra đình làng cho họ xem mặt, xấu hổ muốn chết. Ðến lúc nhìn thấy các cô thôn nữ xếp
hàng ra chỉ vào người nọ người kia nhận rằng sẽ lấy anh A, anh B thì tôi chỉ muốn độn
thổ, giục mẹ nuôi dắt nhanh về nhà… Nhờ thế, sau này tôi lấy được bà vợ đúng theo
nghĩa của tình yêu!...”

Nhìn chung, nông thôn miền Bắc những ngày đầu giải phóng thật tưng bừng náo nhiệt.
Lòng người phơi phới, mong được sẻ chia. Nhịp sống yên bình, ngập tràn niềm vui và
hạnh phúc như lời ca trong nhạc phẩm “Ðêm thôn trang” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý:
“…Không gian ngát hương – Lúa ngập cánh đồng – Nhìn bông lúa chín vàng dưới ánh
trăng sáng soi … - Cười vang xóm thôn – Tiếng ai đập lúa nhanh nhanh – Thuyền xuôi
bến sông – Chày ai giã gạo nhịp nhàng…” Giai điệu và ca từ của nhạc phẩm thật tuyệt
đẹp!

2. Cuộc cách mạng ruộng đất

Cuộc cách mạng ruộng đất, còn gọi là cải cách ruộng đất (CCRÐ), trên thực tế đã được
tiến hành từ năm 1953 ở những vùng tự do Thanh – Nghệ - Tĩnh và chiến khu Việt Bắc.
Ðến năm 1955-1956, nó được diễn ra đều khắp ở các vùng nông thôn Bắc Việt Nam. Cái
chết tức tưởi, oan khuất của bà Nguyễn Thị Năm (1953), một địa chủ kháng chiến nổi
tiếng ở Ðại Từ - Thái Nguyên, tiếp đến những sai lầm trầm trọng và cung cách đối xử tàn
bạo, phi nhân của các “ông Ðội” ở nhiều địa phương (1955-1956) đã khiến nhiều người
nhìn nhận sự kiện này chỉ thấy một màu đen tối. Ở góc nhìn kinh tế học và xã hội học, ta
cần xem xét, đánh giá công bằng cả hai mặt được – mất, xấu – tốt của sự kiện này.

Trước hết nói về cái được về phương diện kinh tế. Qua CCRÐ đã có 81 vạn ha ruộng và
hàng triệu trâu, bò, ngựa được đem chia cho 222 vạn hộ nông dân nghèo khổ vốn có rất ít
ruộng, thậm chí tay trắng không tấc đất cắm dùi. Tính riêng các tỉnh vùng hạ lưu tả ngạn
sông Hồng, mỗi nhân khẩu trong gia đình cố nông sau CCRÐ có 4 sào (sào Bắc Bộ), bần
nông có 4 sào 2 thước, trung nông có 4 sào 12 thước [1 thước = 24 m2, 1 sào Bắc Bộ =
15 thước = 360 m2; 1 mẫu = 10 sào = 3.600 m2]. Nếu trung bình mỗi hộ có 5 nhân khẩu
thì ruộng đất bình quân trong các hộ nông dân ở đây là 2 mẫu canh tác trở lên. (nguồn:
Minh Tranh – Một số ý kiến về nông dân Việt Nam – Nxb Sự thật, 1961). Sự phân chia
lại ruộng đất này, về mặt lý thuyết, có tác dụng giải phóng sức lao động, đảm bảo công
bằng xã hội, kích thích năng lực sáng tạo để làm giàu của nông dân. Khẩu hiệu đầu tiên
được nêu ra trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là “Người cày có ruộng” nên
đương nhiên sau ngày giải phóng miền Bắc, những người cộng sản phải thực hiện ngay
khẩu hiệu đó. Lịch sử thế giới cũng đã chứng minh cuộc giải phóng nông nô vào thế kỷ
18 ở các nước châu Âu là một bước đi tiến bộ, hợp quy luật. Tréo ngoe ở chỗ, ngay trong
vấn đề chia lại ruộng đất đã có sự không công bằng, thiếu tính nhân đạo rồi. Tài liệu
thống kê cho thấy sở hữu ruộng đất tính theo đầu người trước và sau CCRÐ như sau:

* Năm 1945: Ðịa chủ có 10.980 m2, phú nông có 4.200m2, trung nông có 1.450 m2, bần
nông có 472m2 và cố nông có 112 m2.
* Năm 1956: Ðịa chủ còn 730 m2, phú nông còn 1.730 m2, trung nông tăng lên 1.710 m2
và bần nông có 1.390m2, cố nông có 1.370m2.

(Nguồn: Nguyễn Quang Ngọc và những người khác – 1990.)

Như vậy, trước CCRÐ, địa chủ giàu hơn cố nông 98 lần (về mặt sở hữu ruộng đất), thì
sau CCRÐ họ bỗng trở thành nghèo khổ nhất (730 m2 so với 1.370m2 của cố nông). Chỉ
nhìn vào con số biết nói trên, ta đã thấy sự bất công, vô lý, xa rời với tính chất nhân đạo
của cách mạng ruộng đất do chính những người khởi xướng đề ra. Ngoài ra, về vị thế xã
hội, họ (địa chủ) bị rơi xuống đáy của xã hội ở nông thôn, bị xa lánh, ngược đãi và khinh
rẻ. Sự lộng hành của các “ông Ðội”, cộng với tâm lý đố kỵ của lớp người nghèo đã dẫn
đến nhiều thảm cảnh kinh hoàng ở khắp các làng quê. Ta có thể tìm thấy những thảm
cảnh ấy trong các tác phẩm văn học như Chuyện làng Cuội của Lê Lựu (Nxb Hội Nhà
văn, 1993), Người đàn bà buồn của Nguyễn Phan Hách (Nxb Hội Nhà văn, 1994).

Nhưng đây mới chỉ đề cập đến sự đối xử bất công với một đối tượng thật sự giàu có,
nhiều ruộng ở nông thôn, được tạm coi là thành phần địa chủ đích thực. Sai lầm của
CCRÐ không chỉ dừng lại ở đó, mà còn đi xa hơn, dẫn đến nhiều nỗi oan sai, gây khiếp
đảm lòng người suốt nhiều thập niên sau. Ðể hiểu rõ vấn đề này, có lẽ cần điểm qua vài
nét về cấu trúc xã hội và sự phân tầng ở nông thôn Bắc Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ
20.

Làng quê Việt Nam nói chung và đồng bằng châu thổ sông Hồng nói riêng được nhiều
nhà nghiên cứu xã hội học, nhân loại học, sử học trong và ngoài nước quan tâm nghiên
cứu. Có thể kể ra một vài tác giả quan trọng mà tôi thấy hứng thú: P.Gourou, Yves Henry
(Pháp), In Sun Yo (Hàn Quốc), Trần Tự, Phan Huy Lê, Phan Ðại Doãn, Tô Duy Hợp,
Nguyễn Quang Ngọc (Việt Nam). Từ xa xưa trong lịch sử, vào thời Lý-Trần, làng đã thật
sự trở thành đơn vị hành chính, một mặt thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ sưu thuế, lao dịch,
quân dịch…, mặt khác nó hình thành cơ chế tự quản cả về kinh tế, văn hóa theo quan hệ
họ tộc thân thiết. Vậy nên quan hệ giữa chủ ruộng (địa chủ, phú nông) với người nhận
ruộng cấy rẽ, nộp tô nói chung không quá tàn tệ, hà khắc như ở Trung Quốc. Thiết chế
văn hoá làng xã với những đặc thù mang tính chất dân chủ sơ khai kiểu cộng hòa La Mã
cổ đại ở phương Tây là nét độc đáo của nông thôn Bắc Việt Nam. Theo thiết chế này, Hội
đồng kỳ biểu giống như “chính phủ” của làng, đại diện là lý trưởng, còn Hội đồng tộc
biểu giống như “quốc hội” của làng, gồm đại diện các họ tộc, giám sát hoạt động của Hội
đồng kỳ biểu. Do đó, thiết chế này cũng góp phần ngăn chặn những điều tàn tệ trong cách
đối xử với bần cố nông nghèo khổ của các hào lý và địa chủ trong làng, trong tổng. Ở
đồng bằng sông Hồng, theo kết quả nghiên cứu của P.Gourou, đến nửa đầu thế kỷ 20, có
7.000 làng, diện tích cỡ 200 ha, làng lớn nhất 500 ha, nhỏ nhất 50 ha. Dân số mỗi làng cỡ
1.000 người, làng lớn có thể tới 5.000, thậm chí 10.000 người. Với những đặc điểm như
vậy, theo các học giả trong và ngoài nước đã nói ở trên, sự tích tụ ruộng đất vào tay các
nhà giàu là không lớn, có thể nói là rất nhỏ so với ở Trung Quốc hoặc đồng bằng sông
Cửu Long ở miền Nam. Sai lầm tệ hại nhất của CCRÐ, cũng là nguồn gốc sâu xa của
nhiều sự kiện bi thảm, nghịch cảnh trớ trêu, xảy ra ở nông thôn miền Bắc trong giai đoạn
này, là sự giáo điều áp đặt một cách ấu trĩ tỉ lệ 5% (hộ dân) là địa chủ ở mỗi làng theo
kinh nghiệm của Trung Quốc. Cùng với việc quy chuẩn thành phần địa chủ là có tài sản 3
mẫu ruộng/đầu người thì 5% địa chủ lại càng vô lý. Vào thời đó, mỗi gia đình giàu có ở
nông thôn miền Bắc thường có từ 5-7 con, cộng với cha mẹ là 7-9 người/1 hộ. Như vậy,
muốn xếp họ vào thành phần địa chủ, sở hữu ruộng đất của mỗi hộ phải có 20-30 mẫu.
Cần lưu ý, mức tích tụ ruộng đất 20-30 mẫu/1 hộ cũng vẫn là nhỏ so với Nam Bộ, chưa
đáng quy kết vào giai cấp địa chủ, nhưng ở nông thôn miền Bắc vào thời điểm 1955-
1956, không dễ gì tìm cho đủ 5% hộ dân của mỗi làng đạt được con số đó. Các “ông Ðội”
đa số vô học, lại được giao quyền lực vô biên, muốn có thành tích với cấp trên, nên đã
tìm mọi cách xúi giục bần cố nông tố điêu, ăn không nói có, đổi ơn thành oán… và thậm
chí ép buộc ngay con dâu tố bố chồng, con rể vu oan cho nhạc phụ…, kết cục là tiếng oan
dậy đất, tội ác ngất trời.

Xét từ nguồn vốn tích tụ ruộng đất, theo điều tra, phỏng vấn của chúng tôi, có mấy loại
đối tượng oan khuất trong CCRÐ như sau:

a) Những người đã từng làm việc trong hệ thống chính quyền cấp cơ sở ở nông thôn thời
thuộc Pháp, có của ăn của để. Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ là quan huyện, chánh
tổng, lý trưởng…; ở vùng thượng du là các quan châu, quan lang, phìa, tạo… Xét theo
quan điểm đấu tranh giai cấp của những người cộng sản, và trong thiết chế xã hội lấy
chuyên chính vô sản làm nền tảng, thì nhóm đối tượng này cần phải thẳng tay chuyên
chính. Tuy nhiên, trong số đó vẫn có người làm việc cho Pháp chỉ vì bị ép buộc, hoặc có
nhiều người do chính tổ chức cách mạng ở địa phương bố trí ra làm việc để che chở cho
cán bộ Việt Minh và du kích. Những người này vẫn bị quy là địa chủ cường hào ác bá chỉ
vì họ giàu hơn người khác, bị đem ra đấu tố, đánh đập có khi đến chết, hoặc bị xử bắn,
treo cổ như trường hợp ông nội của nhân chứng NÐT (đã dẫn ở Bài 1, phần I, mục 1).
Trong nhóm này còn có những địa chủ kháng chiến, hết lòng ủng hộ Việt Minh, nuôi
giấu cán bộ hoạt động bí mật thời kỳ tiền khởi nghĩa cũng bị đấu tố, đánh đập, thậm chí
xử bắn như bà Nguyễn Thị Năm đã nói ở trên. Liên quan đến mẫu đối tượng địa chủ như
bà Năm lại có cả hàng ngàn con cái họ đi theo cách mạng, lập nhiều thành tích, đã bị đối
xử bất công, phi nhân tính. Kết quả là vào thời đó có khoảng 800 đảng viên trung kiên, có
trình độ học vấn, bị sát hại và các “ông Ðội” tùy tiện kết nạp thêm 2 vạn đảng viên bần cố
nông, trong đó có không ít đảng viên cố nông thuộc dạng vô sản lưu manh ở nông thôn,
đúng theo nghĩa của từ này theo chính định nghĩa của học thuyết Mác. Sau CCRÐ, số này
nắm quyền lực, lộng hành còn hơn hào lý ngày xưa. Con cái họ được học lên cao, mang
nhãn trí thức, nhưng cái chất lưu manh, “chất hủi” thì có sẵn trong máu. [Ðó cũng là nội
dung tư tưởng truyện ngắn “Thằng Hủi” của tôi công bố năm 1998, trong thời gian tôi
tiến hành điều tra về nông thôn.]

Ông NVL, sinh năm 1934, ở thôn Chúc Ðộng, thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ - Hà
Tây, kể:

“Cha tôi là người có uy tín không chỉ trong làng mà khắp cả vùng, từ bến đò Mai Lĩnh
đến chợ Cống dọc đường quốc lộ 6 dài hơn 10 km đều biết tiếng, vì cụ học vấn uyên
thâm, ăn ở đức độ. Năm 1947, cụ được Cách mạng vận động ra làm lý trưởng để che mắt
địch, giúp đỡ rất nhiều cho kháng chiến. Ruộng đất nhà tôi chỉ có 5 mẫu, 3 sào, sân vườn
và ngôi nhà mái ngói hiên Tây chừng 2 sào nữa. Năm 1955 cụ bị đấu tố, tra tấn dã man
đến chết trong nhà giam ở hậu cung đình làng. Tài sản bị tịch thu hết từ cái nồi đồng trở
đi. Anh tôi đang làm cán bộ cấp huyện cũng bị mất chức, trói tay dẫn giải về làng chịu
đấu tố. Hai chị gái tôi phải đi mò cua bắt ốc kiếm ăn rất cơ cực và phải ở vậy đến già.”

b) Những người từng đi lính thuộc địa cho Pháp, sang châu Âu tham gia thế chiến thứ
nhất (1914-1918). Khi hồi hương về nước họ được lĩnh một số tiền khá lớn nên tậu ruộng
đất ở quê, nhà cửa xây theo lối kiến trúc ảnh hưởng của miền Nam nước Pháp khá đẹp.
Họ được chánh tổng, lý trưởng ở quê vị nể, lại biết nói tiếng Tây (tuy giọng bồi) nên lính
Pháp cũng không dám gây sự. Vì có thời gian ở bên Pháp, chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do
dân chủ của châu Âu, nên họ đối xử khá thân thiện, bình đẳng với người nghèo đến làm
thuê, hay người nhận ruộng cấy rẽ, nộp tô. Nói chung họ chỉ giàu có trên mức bình
thường ở làng, không gây tội ác, nhiều người còn đóng góp cho làng xóm, cho kháng
chiến, nhưng họ hoặc con cái vẫn bị quy là địa chủ, có nhiều liên quan đến đế quốc,
phong kiến.

Ông VHT, sinh năm 1944, giảng viên đại học, quê ở làng Ngọc Thành, xã Vĩnh Thành,
huyện Yên Thành – Nghệ An, hiện sống ở Mai Dịch – Hà Nội, kể:

“Quê tôi ở miền Tây Nghệ An có sông Dinh, rú Gấm, đất đai phì nhiêu, lâm sản phong
phú, nhưng dân lại rất đói nghèo. Ông nội tôi (sinh năm 1886) cùng hai em trai bị bắt lính
sang đánh thuê cho nước Pháp trong thế chiến thứ nhất, sau đó ở lại nước Pháp, đến năm
1922 cả 3 cụ mới hồi hương. Về quê, các cụ bỏ tiền ra khai hoang làm giàu cho cả họ Võ
ở làng Ngọc Thành. Người họ Võ ai cũng được học hành đỗ đạt cao, được dân làng kính
trọng. Hàng năm, vào kỳ giáp hạt (tháng 3, tháng 8 âm lịch) ông tôi thường tổ chức phát
chẩn, cứu đói cho cả làng. Kẻ ăn, người ở vào làm thuê cho nhà họ Võ vài năm là có
quần áo đẹp, tiền vàng tích cóp để về quê xây dựng cuộc sống mới. Năm diễn ra CCRÐ,
làng tôi có 200 hộ, không tìm đâu ra người có chút máu mặt để quy thành phần địa chủ,
ngoài các gia đình họ Võ. Nhưng cả làng ai cũng chịu ơn họ Võ nhà chúng tôi, không ai
muốn đấu tố trong cuộc họp phát động đấu tranh của các “ông Ðội”. Ban chỉ huy đội cải
cách liền tỏa đi vào các nhà dân vừa xúi giục, kích động vừa ép buộc một số người dựng
đứng lên các tội tày đình, đến con nít trong làng cũng không thể tin được, gán cho các gia
đình họ Võ. Nực cười nhất là ông bác tôi bị mắc bệnh liệt dương từ năm 1936 mà có chị
cố nông năm ấy mới 17 tuổi lại vu cáo ông hãm hiếp mẹ mình, đẻ ra chị ta rồi độc ác cho
bà ấy ăn bả chuột để phi tang, để chị ta chịu cảnh mồ côi, tứ cố vô thân. Cuối cùng họ
cũng tìm đủ mọi cách đưa 10 hộ họ Võ vào diện địa chủ, tay sai đế quốc cho đủ 5%, 3
trong số 10 người bị xử bắn, số còn lại bị đánh đập dã man, có hai người chịu đựng
không nổi và vì uất quá mà đập đầu tự tử.”

c) Ðối tượng thứ ba có khả năng tích tụ ruộng đất là các thầy lang hoặc giáo chức trường
làng, trưởng tổng. Họ là những người làm nghề lương thiện, chỉ có một tội duy nhất là
giàu hơn người khác, ăn mặc đẹp, nhà cửa khang trang, có ruộng đất nhưng không nhiều,
thường là 5-7 mẫu ruộng/1 hộ. Ðể đạt hoăc vượt chỉ tiêu 5%, các “ông Ðội” thường xúi
giục quần chúng quy họ là Việt gian, chỉ điểm cho Tây, tham gia quốc dân Ðảng… Oan
nghiệt ở chỗ vì không quy vào tội địa chủ cho họ được nên đánh tráo sự thật, vu họ là
Việt gian, thì họ lại càng dễ chết một cách thê thảm.

Ông NVV, sinh năm 1947, hiện sống ở làng Ðông Thái, nay thuộc phường Bưởi, quận
Tây Hồ - Hà Nội, kể:

“Làng Ðông Thái xưa thuộc tổng Bưởi, năm CCRÐ thuộc xã Thái Ðô, ngoại thành Hà
Nội, nên tôi được chứng kiến mọi sự khiếp đảm của CCRÐ ở nông thôn. Hồi ấy tôi còn ở
tuổi thiếu nhi, đi đánh trống ếch khắp làng, cổ động mọi người ngồi xếp hàng nghe đấu tố
và xét xử tại chỗ các đối tượng. Xã Thái Ðô ruộng ít, chủ yếu sống bằng nghề thủ công:
An Phú có nghề làm kẹo mạch nha; các làng Nghĩa Ðô, Bái Ân, Trích Sài, Võng Thị có
nghề dệt; các làng Yên Thái, Ðông Thái, Hồ Khẩu có nghề làm giấy. Vì ít ruộng nên
chẳng có hộ nào là địa chủ cả. Ðối tượng bị đấu tố ngoài cụ Chánh Khiêm là các ông lang
Bách, lang Dương, giáo Bảy, giáo Ngọ… Nơi đấu tố và xét xử là bãi chợ Bưởi và bãi
nhãn ở Nghĩa Ðô. Ai họ cũng kết tội Việt gian chỉ vì người ta giàu có, ở nhà 2 tầng mà
thôi. Phiên tòa xét xử cũng có đủ chánh tòa, công tố viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân,
nhưng chánh tòa và công tố viên là các “ông Ðội”, còn lại các vị khác đều là phụ nữ, chữ
nghĩa bẻ đôi không biết, giỏi ăn điêu, nói hớt như các bà Lợi môi thâm, bà Tư Ðối mắt
trắng dã, bà Hai Bình móc cống… Những người lên tố khổ, kể tội đa phần là loại người
có tiếng lưu manh trộm cắp hay kẻ nát rượu, quen ăn vạ giữa làng. Một số đang còn tuổi
thiếu nhi, hỷ mũi chưa sạch mà sao chúng nó biết lắm chuyện của người lớn thế. Tệ nhất
là thằng H, chỉ hơn tôi 2 tuổi, mà có lẽ do các “ông Ðội” mớm lời, cứ xưng xưng kể tội
ông lang Bách, cụ Chánh Khiêm (là ông ngoại của H) và ông giáo Bảy (chú họ xa của H).
Cuối phiên tòa, bà Lợi môi thâm cầm giấy do ai viết sẵn hóa thành đọc ngược, sao vẫn
đọc trôi chảy mới lạ. Sau đó một “ông Ðội” dõng dạc tuyên án tử hình cụ Chánh Khiêm
và ông lang Bách. Thương nhất là ông lang Bách 60 tuổi, đứa trẻ ranh lên kể tội gì cũng
đáp: “Bẩm ông, con trót dại ạ! Con xin nhận hết tội”. Ngỡ là nhận thì được khoan hồng,
đến khi tòa tuyên bố tử hình, mặt ông xám ngắt, chân cứng lại, du kích phải xách nách lôi
ra cuối bãi nhãn bắn đòm mấy phát. Ngôi nhà ông lang Bách ở ngay bến xe điện nơi cổng
làng Hồ bây giờ vẫn còn. Nghe nói đêm nào ma cũng hiện về ngôi nhà ấy khóc lóc, đòi
mạng…”

d) Truyền thống bám ruộng, nhớ làng của những người nông dân rời quê ra thành phố
làm ăn cũng dẫn đến tích tụ ruộng đất ở nông thôn. Những người khá giả về làng tậu
ruộng (thường là 5-10 mẫu), xây nhà thờ tổ to đẹp rồi chọn người ruột thịt, thật thà, hiền
lành ở quê giao cho quản lý tài sản. Khi giải phóng miền Bắc, họ di cư vào Nam thì
người thân trực tiếp quản lý nhà thờ và ruộng đất bị quy thành phần địa chủ hay Việt
gian, phản động.

Ông PHT, quê ở huyện Ninh Giang-Hải Dương, hiện sống ở Hà Nội, kể:

“Quê tôi gần nhà thờ Sặt, là đất công giáo, dân khá giàu vì có nghề kim hoàn và phụ nữ
còn rất giỏi buôn bán. Người làng ra Hà Nội làm ăn khá giả rất đông, đa số ở phố Hàng
Bạc và nhà nào cũng có 5-10 mẫu ruộng ở quê. Trong họ nhà tôi có cụ PVL thật thà như
đếm, nhút nhát đến mức không dám cầm dao cắt tiết gà bao giờ. Cụ L được em trai ở phố
Hàng Bạc giao cho việc quản lý 12 mẫu ruộng, nên cụ bị quy là địa chủ cường hào ác bá
giết nhiều Việt Minh, du kích và bị xử bắn.”

Trên đây là những khảo sát của chúng tôi về 4 nhóm đối tượng tích tụ ruộng đất điển hình
bị kết tội oan sai trong CCRÐ. Ở thời điểm cuối thế kỷ 20, nông thôn Việt Nam lại đang
diễn ra quá trình tích tụ ruộng đất, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng trung du
Bắc Bộ. Nó thật giống như trường hợp của ông nội nhân chứng VHT (Yên Thành – Nghệ
An) bị đánh cho đến chết (1955), hay trường hợp bà Nguyễn Thị Năm (Ðại Từ-Thái
Nguyên) bị xử bắn (1953). Nhưng giờ đây, những ông chủ tích tụ ruộng đất như thế lại
được coi là điểm sáng của mô hình kinh tế trang trại, có người được tuyên dương là anh
hùng lao động, chiến sĩ thi đua thời kỳ đổi mới. Ðiều đó càng chứng tỏ sai lầm tệ hại
trong CCRÐ dưới góc nhìn thuần túy kinh tế học, xã hội học là trái với quy luật và đạo lý
dân tộc. [Có một điều khó hiểu là trong tác phẩm Cát bụi chân ai, nhà văn Tô Hoài kể lại
là vào thời đó ông và khá nhiều nhà văn được cử đi tham gia các đội CCRÐ, sao không
thấy ai bằng sứ mạng của văn chương lên tiếng trước thực trạng bi thảm này?]

3. Mức sống và chất lượng sống

Như đã phân tích, cuộc cách mạng ruộng đất ở nông thôn Bắc Việt Nam với khẩu hiệu
“Người cày có ruộng” mặc dù có nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhưng xét toàn cục về mặt
kinh tế vẫn là một sự kiện tiến bộ. Việc đem 81 vạn ha ruộng và hàng triệu trâu bò chia
cho 222 vạn hộ (cỡ hơn chục triệu nông dân), tiếp theo đó là phong trào đổi công, vần
công và mô hình hợp tác xã giản đơn cấp xóm, cấp thôn, đã có tác dụng kích thích sản
xuất nông nghiệp rõ rệt, nâng cao mức sống cho các hộ nông dân nghèo khổ. Trong các
tài liệu, sách báo còn lưu giữ được ở Thư viện Quốc gia, tôi thấy hứng thú và tin tưởng
một tài liệu điều tra, khảo sát của tác giả Lê Nghiêm, Cuộc sống mới của nông dân sau
CCRÐ (Nxb Sự thật, 1955). Vùng Thái Nguyên là địa bàn thuộc khu căn cứ kháng chiến
nên CCRÐ diễn ra sớm hơn các nơi khác. Tác giả Lê Nghiêm đã khảo sát vụ mùa đầu
tiên sau CCRÐ (10/1955). 53 xã thuộc các huyện Ðồng Hỷ, Ðại Từ, Phú Bình đều đạt
năng suất cao hơn vụ mùa năm 1954 (đạt khoảng 70-75 kg thóc/sào). Những nông dân
trước đây không một tấc đất cắm dùi, nay được chia mỗi khẩu 5 sào ruộng, lại có trâu
cày, nhà ở. Tính chung cả huyện Ðại Từ, sản lượng vụ mùa năm 1955 tăng 10-20% so
với năm 1954. Anh Khoan ở xã Hùng Sơn năm 1954 cấy 2 mẫu 7 sào chỉ thu được 47
nồi, năm 1955 tăng lên 67 nồi (một nồi là 10 ca hay 15 kg thóc).

Những đoạn văn dưới đây của tác giả Lê Nghiêm đã mô tả khá sinh động và chi tiết mức
sống của cư dân nông thôn trong 53 xã thuộc vùng ông khảo sát:

“Chiều hôm đó, tôi ăn cơm ở nhà bà cụ Ðám, xã Hoàng Sơn, bữa ăn có thịt lợn, có cá
mắm, có hoa chuối nấu. Một nồi đồng cơm trắng tinh, thơm phức mùi lúa mới. Chẳng bù
cho ngày xưa, bà chỉ muốn mua mấy đấu muối làm dưa mà không bao giờ có đủ tiền mua
một đấu muối đầy. Năm nay thóc lúa gặt về không phải nộp tô cho địa chủ, bà cụ Ðám lại
có đủ tiền mua hẳn một nồi (10 đấu) muối…

Tôi đến nhà bà Thủ, một bần nông, rồi bác Lan, một trung nông, đều theo công giáo. Mọi
người đều vui vẻ, phấn khởi vì đủ cơm ăn, áo mặc, ruộng cày. Bà Thủ từ ngày cải cách
đến giờ cũng sắm được 2 cái màn, 1 cái cuốc, 1 cái cày, 1 con dao quắm, 1 nồi đồng và 3
bộ quần áo mới bằng vải trúc bâu, 1 đôi chiếu, 1 chăn bông bọc vải hoa, 1 con lợn giống
Móng Cái. Bà lại được chia thêm con nghé, có tiền cưới vợ cho thằng con trai lớn… Bác
Lan là trung nông nhưng vẫn cấy rẽ nộp tô cho địa chủ, trong cải cách bác được chia
thêm một mẫu ruộng và 70 nồi thóc.”

Quan sát mức sống và nhịp sống ở nông thôn sau CCRÐ có lẽ rõ nét nhất là qua các chợ
quê. Nhà bác học Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ 17) từng nói rất chí lý: “Cứ xem nét mặt
đàn bà, con gái ở quê đi chợ sẽ biết lẽ thịnh suy của nước”. Trong sách đã dẫn của tác giả
Lê Nghiêm, có đoạn về chợ quê thời đó khá chân thực và lý thú:

“Phiên chợ Mụ họp giữa ban ngày [thời chiến tranh phải họp đêm – VNT chú giải], người
đông ngàn ngạt, chen vai thích cánh nhau như phiên chợ cuối năm. Bà con nông dân từ
xã Ðộc Lập, xã Tân Thái đổ về, xã Hùng Sơn kéo ra. Hàng hóa bày la liệt cầu chợ. Từng
dãy hàng tạp hóa, hàng nồi đồng, hàng chiếu, hàng bát đĩa, gà vịt, cá tôm, mắm muối…
Các bà lão, các chị nông dân, các em nhỏ gọn gàng trong bộ quần áo mới, tấp nập gánh
gạo, nồi cám, buồng cau, nải chuối ra chợ bán. Tiếng cười nói ồn ào, huyên náo. Họ kháo
nhau:

* Gạo vẫn vững giá, lại có phần hạ đi rồi đấy.


* Nông dân sau cải cách được mùa có khác.
* Thật các bà buôn bán ở thị trấn giờ ăn đong cũng sướng.
* Cứ đà này chẳng mấy chốc dân ta giàu, nước ta mạnh.”

Thật ra, mức sống của nông dân miền Bắc thời ấy, qua những điều mô tả trong cuộc điều
tra của Lê Nghiêm, vẫn còn rất thấp, chỉ đủ ăn no và mua sắm vài dụng cụ lao động,
phương tiện sinh hoạt tối thiểu. Song cũng không thể phủ nhận, vào thời điểm 1955, đó là
sự tiến bộ không nhỏ. Từ năm 1959-1960, các số liệu của ngành thống kê tuy còn rất sơ
lược, kém chính xác, nhưng đã cung cấp cho ta một vài chỉ báo khá lý thú về mức sống,
chất lượng sống của nông dân miền Bắc. Năm 1960, thu nhập bình quân thực tế theo đầu
người của các hộ nông dân đạt 10,9 đồng/tháng. Mức thu nhập này mới chỉ bằng 51,7%
so với các hộ viên chức ở thành phố. Tuy nhiên, do được làm chủ ruộng đất canh tác, tự
do chăn nuôi và buôn bán ngoài chợ nên cơ cấu khẩu phần ăn từng người nông dân trong
một tháng đã có sự cải thiện: lương thực quy gạo 16,03 kg, thịt các loại 0,44 kg, cá 0,38
kg, trứng 0.4 quả, nước chấm 0,15 lít.

Về điều kiện ở, trước năm 1954 có đến 90% nông dân sống trong các nhà gianh vách đất,
nơi ngủ là các chõng tre hay ổ rơm, đặc biệt khổ là nông dân ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.
Ðến năm 1960, ở đồng bằng sông Hồng đã có 20-25% số hộ có nhà lợp ngói, 30% nhà
gianh vách đất đã có sân gạch, bể nước.

Ông NÐT (Bắc Ninh, đã dẫn) nói:

“Từ những năm 1958-1960, dân Ðình Tổ nói riêng và cả huyện Thuận Thành-Bắc Ninh
nói chung đã bắt đầu mơ đến nhà ngói, sân gạch, bể nước, điều mà suốt 50 năm đầu thế
kỷ ít ai dám nghĩ đến”.

Lời ông NÐT thay cho kết luận về đời sống nông thôn miền Bắc vào giai đoạn nhạy cảm
sau cuộc sửa sai CCRÐ.

Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống nông thôn Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Kì 2/3

II. Giai đoạn 1961-1965: Tiếng gà thay bằng tiếng kẻng

1. Khí thế nông dân

Người nông dân Việt Nam vốn hiền lành, thuần phác, cả tin. Nếu được phát động phong
trào gì đem lại lợi ích, họ sẽ đồng loạt hưởng ứng với khí thế ngất trời. Lịch sử ghi nhận
những năm nửa cuối thập niên 50, với khí thế “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, “vắt đất
ra nước, thay trời làm mưa”, nông dân các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ đã nô nức
đi lao động công ích trên công trình đại thủy nông Bắc – Hưng – Hải. Ðây là hệ thống
công trình thủy nông cực kỳ quan trọng, giải quyết việc tưới tiêu cho nhiều tỉnh, và là
công trình khắc đậm vào lòng dân niềm tin yêu, hy vọng vào chế độ mới.
Như đã trình bày trong Bài 1, phần II, mục 1, bước vào mùa xuân Tân Sửu (1961), phong
trào hợp tác hóa nông thôn phát triển thành cao trào với khí thế dời non lấp biển, sôi động
khắp các làng quê. 2.404.800 hộ vào hợp tác xã, đạt 85,83% số hộ ở nông thôn. Bối cảnh
này đã giúp cho nhà văn Ðào Vũ viết cuốn tiểu thuyết Cái sân gạch và trở nên nổi tiếng.
Ngày nay đọc tiểu thuyết của ông, có thể không ít người ngờ rằng tác giả đã tô hồng cuộc
sống, nhưng lịch sử sẽ ghi nhận ông là cây bút trung thực. Ta hãy nghe lời kể của các
nhân chứng thời đó.

Ông NÐT (Bắc Ninh, đã dẫn) kể:

“Xã tôi là vùng quê trù phú, bờ xôi, ruộng mật và là cơ sở du kích mạnh thời chống Pháp.
Bản thân tôi cũng đã từng là du kích, sau đôn lên bộ đội địa phương quân. Năm 1955,
CCRÐ, mỗi nhân khẩu được chia 8 thước trong đồng và 12 thước ngoài bãi, vị chi là 1
sào 5 thước. Hồi CCRÐ, thôn tôi cũng không tránh khỏi sai lầm. Ông Ðoàn ở xóm tôi là
cán bộ Việt Minh khét tiếng anh hùng, giặc treo giải mấy vạn tiền Ðông Dương nếu ai lấy
được đầu ông ấy. Ông Ðoàn đang làm đội trưởng cải cách ở ấp Thái Hà ngoài Hà Nội thì
bị gọi về quê chịu đấu tố vì mẹ là địa chủ. Người ta hành hạ mẹ con ông cơ cực lắm. Hai
năm trời ông Ðoàn chỉ đi mót khoai, mò cua bắt ốc để nuôi mẹ. Năm 1958 sửa sai, ông
Ðoàn được phục hồi đảng tịch, được đề bạt làm phó chủ tịch huyện Thuận Thành và
chính ông là người nhiệt thành vận động bà con vào hợp tác xã. Ông lăn lộn cùng với bà
con khắp làng trên xóm dưới, nói gì nông dân cũng tin tưởng làm theo. Thôn tôi có 4
xóm, năm 1959 thí điểm đầu tiên ở xóm Ðình của tôi và ông Ðoàn, 100% hộ nhất loạt xin
vào hợp tác xã. Tiếp theo đó, các xóm Nghè, xóm Sông, xóm Chùa nô nức theo gương
xóm Ðình lập hợp tác xã cấp xóm. Hai năm liền hợp tác xã cấp xóm được mùa nên cuối
năm 1960 lại học tập và phát động để 100% xã viên 4 xóm tình nguyện sáp nhập thành
hợp tác xã cấp thôn. Sang đến vụ mùa năm 1961 lập hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã.”

Câu chuyện kể của ông NÐT vừa nêu không phải là cá biệt. Những nhân chứng khác:
ông HTP, dân tộc Tày, sinh năm 1934, ở xã Tam Lung, huyện Văn Lãng – Lạng Sơn; ông
NVÐ, dân tộc Tày ở xã Lương Thượng, huyện Na Rì- Bắc Cạn; bà NTL, sinh năm 1939
ở Phố Tăng, huyện Tiên Hưng, Thái Bình; bà NTC, sinh năm 1940 ở xã Ðông Thọ,
huyện Yên Phong - Bắc Ninh… đều khẳng định họ và gia đình đều một lòng tin tưởng
chính sách hợp tác hóa sẽ đưa nông dân đến ấm no, hạnh phúc. Hình tượng tiếng gà gáy
sáng biểu trưng cho nét đẹp, sự yên bình của làng quê giờ thay bằng tiếng kẻng hợp tác
xã.

Ông NVX, sinh năm 1944, cựu chiến binh ở thôn Trung, xã Xuân Ðỉnh, huyện Từ Liêm
– Hà Nội, kể:

“Một hôm bố mẹ tôi xem họa báo Trung Quốc, thấy 5 đứa trẻ con đứng trên thảm lúa
vàng mà cây lúa không đổ, các cụ hồ hởi bảo con cái: ‘Vào hợp tác xã rồi có người lo
phân, lo giống, lo nước, mình chỉ phải góp chữ ‘cần’ thôi (cần cù). Nhà mình đông lao
động, nhất định sẽ sung sướng’. Có lẽ bức ảnh đó chỉ là nghệ thuật ghép hình để tuyên
truyền của người Trung Quốc, nhưng tôi đảm bảo rằng thế hệ tôi ở làng năm ấy say sưa
tập hát bài “Công xã nhân dân là mặt trời, xã viên là hoa hướng dương” với niềm tin và
hy vọng khôn tả xiết.”

2. Mức sống và chất lượng sống

Tài liệu thống kê về nông thôn lúc này đã được quan tâm nên trước hết, ta xem xét bức
tranh đời sống qua các số liệu chính thống:

Thu nhập bình quân đầu người của các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp, nếu tính bằng
tiền, chỉ bằng già nửa các hộ công nhân viên trong biên chế nhà nước. Cụ thể: năm 1961
là 11,50 đồng, 1963 là 12,56 đồng, và năm 1965 là 13,04 đồng. Nếu xét về cơ cấu thu
nhập thì năm 1961 thu nhập trong hợp tác xã là 4,50 đồng, ngoài hợp tác xã là 7,00 đồng.
Tương ứng các năm sau: 1963 là 4,80 đồng và 7,76 đồng; 1965 là 5,11 và 7,93 đồng.
Nguồn thu nhập ngoài hợp tác xã bao gồm thu từ ruộng 5%, sản xuất phụ (đan lát mây
tre, làm thảm bẹ ngô…), chạy chợ ngày nông nhàn hay đi làm thuê ngoài thành phố, thị
xã. Như vậy thu nhập tổng cộng theo đầu người trên tháng đã thấp, nhưng phần thu nhập
ngoài hợp tác xã lại lớn hơn nhiều so với thu nhập trong hợp tác xã. Ðây là một thực tế
quái dị mà các học giả nước ngoài khi xem xét tài liệu thống kê không thể hiểu nổi!

Về cơ cấu tiêu dùng của người nông dân, lấy mức thu nhập cả trong và ngoài hợp tác xã
theo đầu người trên tháng của năm 1963 là 12,56 đồng để xem xét, ta thấy như sau: chi
về ăn 8,27 đồng, mặc 0,87 đồng, ở 0,48 đồng, giải trí tinh thần 0,26 đồng, y tế 0,34 đồng,
chi khác 1,39 đồng (chủ yếu là học tập cho con cái). Tổng các khoản chi là 11,61 đồng.
Tích lũy chỉ có 0,95 đồng.

Trong Bài 1 viết về đời sống thành thị, khi phân tích cơ cấu thu nhập của xã viên hợp tác
xã thủ công nghiệp, tôi đã dẫn lời ông Nguyễn Văn Cược để chỉ ra nguyên nhân của sự
bất hợp lý trong cơ cấu thu nhập của các xã viên nói chung (cả nông thôn và thành thị).

Lời kể của ông Nguyễn Văn Cược (Thuận Thành, Bắc Ninh):

“… Ba năm đầu tiến lên hợp tác xã cấp cao, khí thế xã viên đang còn hừng hực, lãnh đạo
hợp tác xã chưa bị tha hóa, cung cách làm ăn của ban chủ nhiệm khá quy củ và tương đối
có hiệu quả. Về trồng trọt, ngoài bãi có 50 mẫu ruộng chuyên canh mía, cung cấp cho nhà
máy đường của tỉnh, còn lại 230 mẫu hè-thu trồng đay xen ngô, đỗ và đông-xuân trồng
rau. Khu vực 176 mẫu ruộng trong đồng cấy lúa chiêm mùa 2 vụ là chính, còn một phần
thí điểm cấy xen thêm vụ lúa “ba giăng”, năng suất, sản lượng đều khá cao nhờ công tác
thủy lợi và làm cỏ bón phân tốt, giá trị ngày công lao động của xã viên khi ấy (1961-
1963) là 8 hào đến 1 đồng/1 ngày. Vụ thu hoạch nhà nào cũng đầy thóc, ngô, khoai và
đống rơm nào cũng cao to, đánh lên như ngọn tháp vàng ở đầu nhà, nom rất đẹp mắt. Gia
đình nhiều lao động hay cán bộ trong ban chủ nhiệm thường đủ gạo ăn quanh năm, thỉnh
thoảng có miếng thịt, con cá. Gia đình đông con nhỏ, ít lao động cũng tạm đủ ăn, chỉ phải
ăn độn mấy tháng giáp hạt. Ðời sống đã đủ ăn thì chỗ ở cũng được cải thiện dần. Số nhà
ngói mọc lên trong thôn khá nhiều, nhất là ở xóm Nghè, rồi đến xóm Ðình. Nhưng bắt
đầu từ vụ Ðông Xuân năm 1964, hợp tác xã có xu hướng tụt dốc không phanh do tham
nhũng, lãng phí, quản lý lỏng lẻo… Ðời sống xã viên theo đó mà thấp dần, nhiều nhà bị
túng đói. Giá trị ngày công từ 0,8-1,0 đồng tụt xuống 6 hào, 4 hào rồi đến mức thảm hại 2
hào 7 xu/ngày. Trừ một vài gia đình cán bộ ra, đa số dân trong thôn chỉ đủ gạo ăn 7-8
tháng trong năm, còn thì phải ăn độn, già nửa là ngô khoai, có nhiều nhà phải ăn độn
quanh năm vì phải bán bớt gạo lấy tiền cho con đi học. Nếu 3 năm đầu (1961-1963), hợp
tác xã đảm bảo thu nhập cho xã viên được 70-80% thì từ năm 1964 chỉ đảm bảo 35-40%.
Lợn ở trại chăn nuôi bị bỏ đói, còi cọc, nuôi cả năm không được 40-50 kg một con. Ao cá
chẳng ai trông nom bị mất cắp hoặc vỡ bờ, cá bơi ra ruộng. Dân chán nản chẳng thiết tha
với đồng ruộng. Sáng 8 rưỡi-9 giờ mới lững thững đi làm, chiều 3 giờ - 3 rưỡi đã bỏ về.
Tiếng kẻng hợp tác xã thời còn ở quy mô cấp xóm (1959) là nét đẹp, sự đổi mới của làng
quê, rộn rã gọi xã viên đi làm vào 5 giờ lúc gà gáy sáng, nay nghe buồn thảm uể oải vào 7
giờ mà chẳng thấy ai hưởng ứng. Nhìn ra các xã bên cạnh như Trà Lâm, Trí Quả, Ðại
Ðồng Thành trong huyện đều thấy na ná như vậy cả thôi. Tôi tham gia hợp tác xã từ ngày
đầu thành lập, từng kinh qua các chức vụ đội trưởng sản xuất, ủy viên ban kiểm soát, phó
chủ nhiệm hợp tác xã (1962-1972) nên những lúc đi họp trên tỉnh nghe nhiều nơi còn tệ
hại hơn thế, công lao động chỉ đạt 1,4-1,8 hào/ngày…”

Nhà thơ K, sinh năm 1938, công tác tại Nxb Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã
nghỉ hưu, hiện sống ở phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân – Hà Nội, kể:

“Tôi quê ở làng Mão Ðiền, cùng huyện Thuận Thành với ông Nguyễn Văn Cược và ông
Hà Sỹ Phu. Tình hình thu nhập trong hợp tác xã của xã viên những năm 60 đúng là rất
thấp, chủ yếu là thu nhập ngoài hợp tác xã. Nguyên nhân tham nhũng thời đó có nhưng
chưa trầm trọng, chủ yếu là lãng phí. Thóc thu hoạch về nằm kho chờ nộp cho Nhà nước,
có khi cả năm đợi vẫn chưa có xe về để giao, vụ nọ chồng lên vụ kia. Ðến khi dỡ ra thì ôi
thôi, lớp dưới dày cỡ 1m đã bị mốc xanh mốc đỏ. Dân không có gạo mà ăn, còn Nhà
nước và hợp tác xã có lúc đổ đi hàng trăm tấn thóc. Lãng phí lớn nhất là sức lao động.
Các công trình thủy lợi, đê điều, lúc thi công các hợp tác xã huy động hàng vạn, có khi
hàng triệu công lao động hóa thành bỏ đi, công cốc công cò, vì khi thiết kế không tính kỹ.
Liên hoan chè chén lu bù cũng là một hình thức lãng phí khác. Tuy nhỏ, nhưng lại trực
tiếp đập vào mắt xã viên, gây bất mãn, lãn công. Nhưng ở quê tôi có một sự thật lạ đời,
gạo ở ruộng 5% của nông dân chỉ được ăn, cấm mang ra chợ bán. Quê tôi là đất hiếu học,
một làng có hơn chục nhà văn, nhà thơ và rất nhiều người thi đỗ vào đại học. Nông dân
ăn độn ngô khoai để dành gạo bán đi lấy tiền nuôi con ăn học thì bị cấm đoán, đến khi họ
tìm cách làm bánh chưng, bánh nếp, bánh tẻ đem ra chợ bán cũng thành vi phạm chính
sách lương thực và bị tịch thu. Một bà nhà ở đầu làng mấy lần đem bánh đi bán bị các vị
tịch thu sạch, mang vào văn phòng ngồi ăn với nhau. Bà ta uất quá, lần sau cũng gói
bánh, nhưng bên trong nhân bánh toàn ***** trâu, ***** bò. Các vị tịch thu của bà xong
đem vào văn phòng ăn với nhau hóa ra mình là thằng ăn *****!”

Ông NNT, kỹ sư địa vật lý ngành dầu khí, hiện đã nghỉ hưu sống tại thành phố Vũng Tàu,
kể:

“Năm 1962 ta bắt đầu triển khai phương án thăm dò dầu khí ở tam giác châu thổ sông
Hồng nên chúng tôi đi đo trọng lực và địa chấn ở nhiều tỉnh đồng bằng và trung du Bắc
Bộ. Một lần đi qua huyện Thanh Hà-Hải Dương gặp chuyện rắc rối không thể nào quên.
Ðất Thanh Hà nổi tiếng với đặc sản vải thiều, bọn tôi đến vào dịp tết Ðoan Ngọ (5/5 âm
lịch) giữa mùa thu hoạch quả, mỗi người mua 10 kg về làm quà cho gia đình, bạn bè ở Hà
Nội. Cả xe có 8 người với lái xe là 9 nên trên xe chở ước chừng 1 tạ vải thiều. Xe ra khỏi
làng chừng 500 m thì bị dân quân giữ lại. Nhà nước cấm bán vải thiều ra thị trường tự do,
phải bán cho công ty xuất nhập khẩu của tỉnh, giá rẻ như bèo. Họ quy định khách ra vào
xã chỉ được mang ra khỏi địa bàn mỗi người 1 kg vải thiều. Chúng tôi cãi lý rằng đây là
cán bộ đi công tác mua về làm quà nhưng không được. Hỏi họ rằng, vải thiều là sản phẩm
đất vườn nhà, thuộc diện tích 5% của xã viên, quyền bán hoặc cho là của xã viên, sao lại
cấm? Không được trả lời! Ðiên tiết, chúng tôi hò nhau trói mấy anh dân quân ném lên xe
chạy chừng 10 km rồi thả xuống bắt đi bộ về cho bõ tức. Vụ này khiến tôi là kỹ sư,
trưởng đoàn bị kỷ luật hạ một bậc lương.”

Bản thân người viết những dòng này năm 16 tuổi (1962) đã chứng kiến cảnh 2 ông trong
ban quản lý thị trường ở chợ Bưởi xô một bà cụ già trên 60 tuổi ngã sóng soài, chỉ vì bà
cụ mang hơn chục ca lạc ra chợ bán. Lạc là mặt hàng cấm bán tự do, chỉ dành để thu mua
xuất khẩu. Có người thợ cắt tóc tên là Tư Ất cũng chứng kiến cảnh đó, ra can ngăn, nói
lời phải trái không được, đã nổi đóa tung chân đá cán bộ quản lý thị trường gãy mất hai
cái răng để giúp bà cụ chạy thoát. Tư Ất là học trò của võ sư lang Dương, bị quy thành
phần địa chủ thời CCRÐ (đã dẫn trong lời kể của nhân chứng NVV). Vì việc đó, ông Tư
Ất bị bắt giam 4 tháng về tội đánh người thi hành công vụ.

Có lẽ những bất cập của mô hình kinh tế Stalin ở nông thôn miền Bắc đã thúc đẩy một
vài nhà khoa học cấp tiến ở viện kinh tế học viết bài đặt lại vấn đề cơ chế và giá thu mua
nông sản. Ông Bùi Công Trừng và hai tác giả khác bị quy vào phần tử xét lại. Ðứng trước
thực tế đời sống nông thôn ngày một đi xuống, một số nhà lãnh đạo cấp tiến ở các địa
phương với lòng thương dân, trách nhiệm với vận mệnh quốc gia, với nhãn quan sâu sắc
và lòng quả cảm, đã mạnh dạn thí điểm mô hình quản lý mới. Ngày nay nhiều học giả
trong và ngoài nước biết đến ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, xem ông như
người tiên phong mở đường cho cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Thật ra, một
sự kiện phá rào bằng cơ chế khoán đã từng diễn ra năm 1962, ở hai huyện Vĩnh Bảo và
Kiến Thụy, thuộc tỉnh Kiến An cũ (nay nhập vào thành phố Hải Phòng). Cơ chế khoán
ruộng đến từng hộ nông dân được tiến hành một cách bí mật do ông Hoàng Hữu Nhân, Bí
thư tỉnh ủy khởi xướng, được lãnh đạo hai huyện nói trên ủng hộ. Năm 1963, hội nghị
tỉnh đảng bộ cho phép thực hiện lối khoán đó như một mô hình thí điểm. Lập tức ông
Hoàng Hữu Nhân bị Trung ương (Ðảng) kiểm điểm, điều về Hà Nội giữ những chức vụ
hữu danh vô thực đến khi nghỉ hưu và chết, không được minh oan. Ðến tháng 9/1966,
ông Kim Ngọc (Vĩnh Phú) lại quyết tâm làm thử cuộc phá rào, thí nghiệm khoán sản
phẩm theo ruộng đến từng hộ gia đình trên phạm vi cả tỉnh. Ông Kim Ngọc cũng bị phê
bình, cách chức (1968) và không được công khai minh oan trên phương tiện thông tin đại
chúng cho đến những năm đầu đổi mới. Thế nhưng tháng 9/1980, ông Ðoàn Duy Thành
khuấy động lại phong trào khoán Kiến An năm xưa của ông Hoàng Hữu Nhân trót lọt, và
lần này ông đã đã trở thành người tiên phong đổi mới. Với cương vị Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân, rồi Bí thư thành ủy Hải Phòng, ông Thành cho thí nghiệm khoán ở Ðồ Sơn,
nơi có khu nghỉ mát của các vị trong Bộ Chính trị để các vị thấy tận mắt hiệu quả. [Nhờ
thành tích này, ông Ðoàn Duy Thành được thăng chức lên Phó Thủ tướng phụ trách kinh
tế.]
Trở lại vụ xét lại của nhóm Bùi Công Trừng, khi nghiên cứu hồ sơ tài liệu về ông, tôi vô
cùng khâm phục sự uyên bác và lòng quả cảm của nhà khoa học chân chính này. Ông vốn
là trí thức du học ở Pháp, vào Ðảng Cộng sản Pháp, rồi đi học Ðại học Cộng sản Phương
Ðông ở Matxcơva, tham gia Quốc tế Cộng sản. Không chỉ dừng ở bài báo xét lại giá thu
mua nông sản, hồ sơ tài liệu cho thấy ông Trừng đặc biệt quan tâm đến phát triển làng
nghề trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo quan điểm của ông Trừng, cần tổ chức tốt
lại lao động của các nghệ nhân, đầu tư khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất và phải tham
gia tích cực vào phân công lao động và thị trường quốc tế. Lần theo mạch tư duy khoa
học rất đáng trân trọng của ông Bùi Công Trừng, cuộc điều tra nông thôn của tôi đã dừng
chân ở một số làng nghề để nghiên cứu. Theo các tài liệu của nhà nghiên cứu Pháp
P.Gourou còn để lại, đầu thế kỷ 20, chỉ riêng khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ đã
có hơn 400 làng nghề nổi tiếng: nghề đúc đồng ở Ngũ Xã (Hà Nội), Văn Môn (Bắc
Ninh), chợ Cồn (Nam Ðịnh); nghề tơ tằm ở Vạn Phúc, Song Phượng (Hà Ðông), Ðại Mỗ
(Hà Nội), Xuân Hồng (Nam Ðịnh); nghề gỗ khảm trai ở Ðồng Kỵ, Phù Khê (Bắc Ninh),
Phủ Lý (Hà Nam); nghề cói ở Nga Sơn (Thanh Hóa), Kim Sơn (Ninh Bình); nghề dệt ở
Nghĩa Ðô, Triều Khúc, Bái Ân, Trích Sài (Hà Nội), Tân Lập (Hà Ðông)… Nhiều nơi như
ở Nam Ðịnh, nằm giữa các cụm làng nghề, đã hình thành thị trường mua bán nguyên liệu
rất sầm uất như chợ sắt ở Vân Tràng, chợ sợi ở Hòa Hậu, chợ kén tơ tằm ở Cổ Chất và
Nhà Xá… Mô hình kinh tế mới (1961-1965) đã xóa bỏ các chợ nói trên, coi đó là sự phục
hồi của chủ nghĩa tư bản. Trong các hợp tác xã nông nghiệp, mô hình chung của các nơi
có làng nghề truyền thống bao gồm: các đội sản xuất nông nghiệp, tổ thủy lợi, tổ kỹ thuật,
đội chăn nuôi và đội sản xuất thủ công nghiệp, trực thuộc quyền điều hành của ban chủ
nhiệm hợp tác xã mà thông thường là những người có ít hiểu biết về nghề thủ công. Lao
động của các nghệ nhân không được coi trọng. Xã viên làm nghề thủ công cũng hưởng
theo công điểm như các xã viên trồng trọt, chăn nuôi. Ðầu ra của sản phẩm làng nghề lại
bị động, gần như phụ thuộc vào các hợp đồng đổi hàng với Liên Xô và Ðông Âu, nên giá
cả và tiến độ, khối lượng giao hàng rất tùy tiện. Ở thời điểm 1962-1963, ông Bùi Công
Trừng dám công khai lên tiếng đòi tham gia phân công lao động và hòa nhập thị trường
quốc tế, ngầm ý muốn đột phá đầu ra cho các làng nghề đến với trường Tây Âu, quả là
sáng suốt và dũng cảm. Sau này, kể từ 1990, các làng nghề thủ công mỹ nghệ như Ðồng
Kỵ, Bát Tràng, Vạn Phúc đột biến thăng hoa, xuất hiện nhiều tỷ phú nhờ hòa nhập với thị
trường thế giới, ta càng thêm kính phục ông Bùi Công Trừng và các cộng sự trong vụ bị
quy kết là phần tử xét lại. Còn vào thời đó, các làng nghề bị mai một dần, đời sống của
nông dân các làng nghề cùng chịu chung số phận nghèo đói như các làng thuần nông.
Một làng nghề gốm sứ nổi tiếng như Bát Tràng lại chỉ cho ra đời thứ sản phẩm là những
chiếc bát đĩa sành cong vênh, méo mó!...

Về mặt đời sống tinh thần, khi xem xét tài liệu thống kê năm 1963, trong cơ cấu tiêu
dùng theo người/tháng chỉ có 0,26 đồng cho giải trí, 0,34 đồng cho y tế, 1,39 đồng cho
chi khác (chủ yếu là học tập của con cái)… ta thấy còn rất thấp. Tuy nhiên, trên thực tế
những năm 1961-1965, mạng lưới y tế, giáo dục ở nông thôn miền Bắc phát triển rất
mạnh (xem Bài 1, phần II, mục 2). Nhìn chung người nông dân miền Bắc được xem phim
1 lần/tháng, xem hát chèo, tuồng hoặc cải lương 1 lần/3 tháng. Ở các vùng núi cao, Nhà
nước cũng đặc biệt quan tâm thành lập các đội chiếu bóng lưu động, phục vụ đồng bào
dân tộc ít người.
Nói đến đời sống nông thôn, không thể bỏ qua cuộc vận động đi khai hoang lập nghiệp ở
miền núi. Ðối tượng đưa gia đình đi khai hoang, trừ các gia đình tự nguyện, là các hộ lý
lịch “bất hảo”, và còn có một số hộ vốn là cán bộ trong hợp tác xã dám dũng cảm đấu
tranh với tham nhũng, lãng phí, đòi thay đổi cách quản lý. Tuy nhiên, khác với các hộ ở
đô thị đi xây dựng vùng kinh tế mới, những hộ nông dân thường sớm thích nghi với hoàn
cảnh, yên tâm làm ăn lâu dài. Ở Bát Sát (Lao Cai), Mai Châu (Sơn La) hiện có hàng
nghìn hộ dân gốc quê Nam Ðịnh, Thái Bình lên khai hoang vào những năm 1962-1964.

Vũ Ngọc Tiến
Ðiều tra đời sống nông thôn Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Kì 3/3

III. Giai đoạn 1966-1975: Nguồn lực vô tận của chiến tranh

1. Nông dân là quân chủ lực

“Nông dân là quân chủ lực, đội quân hùng cường, không có nông dân thì kháng chiến ta
không hề thành công”- đó là đoạn ca từ mở đầu cho một bài hát tuyên truyền thời kháng
chiến chống Pháp. Thế hệ chúng tôi khi hòa bình mới được lập lại (1954), tuổi còn thiếu
nhi, nhưng cũng được tập hát ra rả suốt ngày. Thời gian qua đi, không còn mấy ai thuộc
lời, nhớ tên tác giả bài hát tuyên truyền ấy nữa. Chỉ khi điều tra về đời sông nông dân
thời chiến (1966-1975), bỗng nhiên tôi nhớ lại câu đầu của bài hát và nó cứ vang vọng
ám ảnh tôi mãi.

Ở miền Bắc, những người lính đi B đầu tiên vào năm 1959 là người miền Nam tập kết, do
ông Võ Bẩm dẫn đầu, khai sinh ra đường mòn Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn. Tiếp
sau đó, vào năm 1962 trở đi, những chàng trai trẻ nông thôn miền Bắc ở mọi miền quê
tấp nập ra trận, đông nhất là nông dân các tỉnh Thái Bình, Hà Tây, Hà Bắc cũ. Thanh niên
Hà Nội và các thành phố đi B không nhiều, chủ yếu vào những năm 70. Theo số liệu
thống kê của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, năm 1993, cả nước có 1,4 triệu
thương binh và gia đình liệt sĩ, trong đó 84,7% là người miền Bắc, bị thương hoặc hy
sinh thời chống Mỹ. Con số ấy vẫn còn xa với sự thật vào năm 1975, bởi đến thời điểm
1993, có nhiều trường hợp thân nhân liệt sĩ đã chết, gia đình không còn được hưởng
chính sách, hoặc khi người thương binh qua đời thì các chế độ của họ cũng hết, không
nằm trong sự theo dõi của Bộ nữa. Ở bất cứ chế độ chính trị nào, người nông dân Việt
Nam trong suốt tiến trình lịch sử luôn phải chịu nhiều thua thiệt nhất về quyền lợi, nhưng
khi có chiến tranh, họ lại là nguồn lực vô tận về sức người, sức của. Với khẩu hiệu “thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, làng quê miền Bắc vắng bóng các
trai làng, phụ nữ khỏe mạnh cũng đi thanh niên xung phong, nhất là các cô thanh nữ
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Lương thực ùn ùn chở về kho Nhà nước theo chế độ thu
mua bắt buộc. Các hợp tác xã thiếu hụt lao động nghiêm trọng, khẩu hiệu “Mỗi người
làm việc bằng hai” ra đời trong hoàn cảnh đó.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, những hiện tượng quản lý kinh tế lỏng lẻo, quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền và tham ô, lãng phí của ban chủ nhiệm hợp tác xã có điều kiện bùng
phát. Khẩu hiệu “Mỗi người làm việc bằng hai” được nông dân diễn nôm thành ca dao
truyền khẩu:

Mỗi người làm việc bằng hai


Ðể cho chủ nhiệm mua đài, mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba
Ðể cho chủ nhiệm xây nhà, liên hoan.

Phải thừa nhận mô hình kinh tế Stalin ở nông thôn đã phát huy hiệu quả tuyệt vời trong
thời chiến về việc huy động sức người, sức của cho mặt trận. Mặt tiêu cực của nó âm ỉ lan
rộng, nhưng lại bị nhòa lấp bởi khí thế cách mạng, lòng yêu nước và sự nhẫn chịu phi
thường của những người nông dân thuần phác.

2. Ðời sống thời chiến qua số liệu thống kê

Ở Bắc Việt Nam những năm chiến tranh có 2 cách để xem xét giá trị đồng tiền là giá gạo
và giá vàng. Lấy giá cả năm 1959 làm chuẩn thì giá gạo và giá vàng những năm chiến
tranh biến động như sau:

Năm 1959 giá gạo quê là 0,65 đồng/1kg, giá vàng là 55-60 đồng/1 chỉ.

Các năm chiến tranh giá cả tương ứng:

Năm 1966 là 0,70-0,80 đồng và 75-80 đồng.


Năm 1970 là 0,85-0,90 đồng và 90-100 đồng.
Năm 1974 là 0,95-1,00 đồng và 110-120 đồng.

Như đã trình bày ở Bài 1 (phần III, mục 3), do chiến tranh, vật phẩm khan hiếm, giá cả
tăng, Nhà nước liên tục tăng lương cho khối cán bộ công nhân viên trong biên chế bằng
việc lạm phát tiền, đẩy khó khăn này về cho nông dân. Thật vậy, khi đồng tiền lạm phát,
lẽ ra giá gạo và giá vàng tăng đều nhau, nhưng trên thực tế, chỉ có năm 1966 (bắt đầu
cuộc chiến) diễn biến như vậy, còn các năm sau giá vàng tăng mạnh hơn giá gạo. Kết quả
là thu nhập của người hưởng ngân sách được giữ vững, nông dân chịu thua thiệt, và kẻ
hưởng lợi là những người giàu ở đô thị (lớp người này thời đó không đông, chưa đại diện
cho một giai tầng xã hội như thời đổi mới hiện nay). Ðộng thái khôn ngoan và rất tinh vi
này chỉ có thể thực hiện trong mô hình kinh tế Stalin. Ði sâu vào phân tích số liệu thống
kê ta sẽ càng thấy rõ.

Năm 1966, thu nhập bình quân đầu người/tháng của nông dân bằng tiền là 13,54 đồng,
nhưng theo giá cả sinh hoạt năm1959 chỉ còn là 11,4 đồng. Tương ứng các năm sau:

Năm 1968 là 14,86 đồng và 10,6 đồng.


Năm 1970 là 15,69 đồng và 12,3 đồng.
Năm 1972 là 16,96 đồng và 13,1 đồng.
Năm 1974 là 18,68 đồng và 14,1 đồng.
Về cơ cấu thu nhập của nông dân giai đoạn này cũng có nhiều biến động lớn, cụ thể:

Trước chiến tranh (1961-1965), thu nhập từ hợp tác xã trung bình là 40,39%, thu nhập từ
ruộng 5% là 51,30%, thu nhập từ các nguồn khác (chạy chợ, làm thêm nghề thủ công,
làm thêm ngoài thị trấn, thị xã thành phố….) là 8,31%. Thời kỳ chiến tranh, tôi chia
thành 2 giai đoạn với các số liệu tương ứng:

1966-1970: 34,53%, 54,48% và 10,99%


1971-1975: 35,45%, 52,40% và 12,15%

Chia 2 giai đoạn theo mức độ ác liệt của chiến tranh đất đối không ở miền Bắc, đồng thời
so sánh nó với cơ cấu thu nhập trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, ta càng thấy rõ mức độ
thua thiệt của nông dân. Trước chiến tranh, Nhà nước thông qua cơ chế hợp tác xã, dùng
chính sách thu mua nông sản giá thấp, bán hàng công nghiệp giá cao, để huy động vốn
cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Ðộng thái này cộng với yếu kém trong
quản lý hợp tác xã khiến thu nhập của xã viên trong hợp tác xã chỉ đạt 40,39%. Bước vào
chiến tranh, người nông dân vẫn tiếp tục phải chịu thiệt thòi trong cơ chế ấy. Mặt khác,
họ phải san sẻ thu nhập cho các gia đình có con em đi chiến trường, cho các đội dân quân
trực chiến ở địa phương, cho bộ phận phi sản xuất của hợp tác xã ngày càng phình to ra…
Vì vậy thu nhập từ hợp tác xã trong giai đoạn chiến tranh ác liệt chỉ đạt 34,53%, đến giai
đoạn sau có khá lên một chút, đạt 35,45%. Chúng tôi tách thu nhập ngoài hợp tác xã ra
thành 2 phần để thấy ngoài ruộng 5% ra, phần thu nhập khác nhờ bươn bả kiếm sống
cũng tăng dần lên qua 3 giai đoạn. Sức chịu đựng và khả năng thích ứng của nông dân
miền Bắc thật phi thường!

Tóm lại, số liệu thống kê đã chứng minh rằng chính sách tiền tệ và giá cả của Nhà nước
thiên về ưu tiên cho khối hưởng lương biên chế (trong đó bao gồm rất nhiều sĩ quan quân
đội và công an), cộng với những điều phân tích về xã hội nông thôn thời chiến vừa nêu,
mới chính là nguồn gốc sâu xa, to lớn của nỗi khổ mà nông dân thời chiến phải gánh
chịu. Trên văn đàn và các cuộc hội thảo kinh tế học, xã hội học, một số văn nghệ sĩ, nhà
nghiên cứu tự vỗ ngực mình là người cấp tiến, đã quá thổi phồng mặt tiêu cực của mô
hình quản lý hợp tác xã và hệ thống chính quyền cơ sở ở nông thôn, coi đó là nguyên
nhân chính của mọi nỗi thống khổ, là chưa công bằng và chuẩn xác. Thật ra, mọi sự tham
ô, lãng phí, độc đoán, chuyên quyền ở nông thôn là có nhưng không lớn. Nó nhiều lắm
cũng chỉ là những cuộc chè chén, thu vén cho riêng mình ngôi nhà ngói, sân gạch, bể
nước, cái đài, cái xe… Công bằng mà nói, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở nông thôn có công
hơn là có tội. Một chút thất thoát ấy cũng không đáng là bao so với khối lượng huy động
khổng lồ về sức người sức của cho mặt trận mà họ đã hoàn thành một cách xuất sắc hơn ở
bất kỳ một cuộc chiến tranh hiện đại nào trên thế giới. Việc làm của họ, nếu so sánh với
sự tham nhũng, lãng phí thời kỳ đổi mới hiện nay lại càng nhỏ bé, như hạt cát so với quả
núi. Thật vậy, chỉ cần một nhóm quan chức địa phương hôm nay ở nông thôn tham ô vài
miếng đất tại khu vực có triển vọng đô thị hóa là họ có thể chia nhau bỏ túi hàng triệu,
thậm chí chục triệu, trăm triệu USD dễ như trở bàn tay. Một cuộc nhậu nhẹt hay ăn chơi
xả láng của họ cũng đủ xây vài ngôi nhà tình nghĩa cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng ở
các làng quê hẻo lánh.
Ðời sống nông dân về y tế, giáo dục và văn hóa, nghệ thuật bạn đọc có thể tham khảo Bài
1 (phần III, mục 3) hay phụ lục kèm theo, gồm các biểu đồ, bảng thống kê. Ở đây chỉ
nhấn mạnh một điểm, do chiến tranh nên có vài năm việc tuyển sinh vào đại học không
qua thi, nhờ đó con em nông dân, nhất là ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, có nhiều cơ hội học
lên cao. Bước vào đổi mới, thế hệ trí thức xuất thân từ nông thôn trong giai đoạn này
nhiều người là giáo sư, tiến sĩ hay cán bộ quản lý cấp cao. Ðó cũng là một nét độc đáo
của Việt Nam trong thế kỷ văn minh và hội nhập với cộng đồng thế giới.

3. Ðời sống thời chiến qua điều tra, phỏng vấn

Trước khi ngồi viết lại phần này, tôi thắp nén nhang tưởng nhớ người bạn tâm giao, anh
Lưu Xuân Viện, nhà ở phố Cửa Bắc-Hà Nội, quê ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Phụ -
Thái Bình. Năm CCRÐ, cha và ông nội của anh đều bị quy sai là địa chủ cường hào ác
bá. Có lẽ vì vậy nên anh say mê nghiên cứu về CCRÐ và tình hình nông thôn miền Bắc.
Là kỹ sư, công tác ở Bộ Ðiện than cũ, nhưng anh Viện am hiểu các môn khoa học xã hội.
Chúng tôi đôi khi có dịp đàm luận với nhau suốt đêm về văn học, triết học, mỹ học, xã
hội học, lịch sử… Anh giao du rộng với nhiều nhà văn, nhà báo và nổi tiếng trong số họ
là người cao đàm khoát luận. Tôi vốn sinh ra trong một gia tộc lâu đời ở Hà Nội nên kiến
thức về nông thôn còn rất hạn chế, chính anh là người giúp tôi hiểu về nông thôn. Nếu
anh còn sống chắc sẽ bổ sung cho bài viết lần này của tôi nhiều điều lý thú (anh Viện mất
năm 2003 vì bạo bệnh).

Một may mắn khác nữa là tôi được quen biết qua công việc với ông Hồ Ðắc Hoài. Ông
Hoài là chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học lão thành về dầu khí. Khi tôi kể với ông về
dự định nghiên cứu của tôi và khó khăn trong mảng nông thôn, ông khuyên tôi nên đi tìm
các nhân chứng là công nhân, kỹ sư dầu khí của Liên đoàn địa chất 36, tiền thân của
Tổng Công ty dầu khí hiện nay. Ðể tìm kiến thăm dò dầu khí, suốt từ năm 1962-1976, họ
đã “cày nát” các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phụ cận (Phú Thọ, Vĩnh Phúc,
Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Phòng). Nhờ thế tôi có nhiều thông tin từ họ.
Những người này hiện nay họ sống ở Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu… Xin
cám ơn vong linh anh Lưu Xuân Viện, cám ơn nhà khoa học lão thành Hồ Ðắc Hoài!

Ðời sống nông dân thời chiến có lẽ được thể hiện đầy đủ, rõ nét nhất ở đồng bằng và
trung du Bắc Bộ. Ở các nơi này, phong trào hợp tác xã cấp cao diễn ra nhanh, mạnh, và
triệt để nhất. Trong chiến tranh, đây cũng là vựa lúa và nguồn nhân lực chủ yếu cho chiến
trường miền Nam. Do đặc thù của chiến tranh nên nhiều nơi ban chủ nhiệm hợp tác xã
đảm nhận cả một số chức năng của chính quyền xã, như vấn đề tổ chức và chu cấp kinh
phí cho các hoạt động từ văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đến tuyển quân, tổ chức dân
quân trực chiến và mạng lưới an ninh nông thôn. Ông đội trưởng sản xuất gần như đảm
đương cả chức vụ trưởng thôn, trưởng xóm. Sau lũy tre làng, người quyết định đời sống
nông dân thông qua số lượng, giá trị ngày công và phân phối nhu yếu phẩm (dầu hỏa,
đường, vải, quần áo may sẵn, giấy viết học sinh, khăn mặt, xà phòng…) là ông đội trưởng
và ông thư ký đội. Việc xác nhận lý lịch cho đi học, đi “thoát ly” cũng phải do ông đội
trưởng viết rồi mới chuyển lên cho Ủy ban Nhân dân xã ký và đóng dấu.
Ông NVT, sinh năm 1959, quê huyện Tiền Hải-Thái Bình, hiện đang sống ở Hà Nội, kể:

“Anh tôi sinh năm 1948. Năm 1967 Liên đoàn địa chất 36 cử người về làng tuyển công
nhân khai thác dầu khí, nhưng vì gia đình tôi có hiềm khích với ông đội trưởng nên bị
ngăn cản. Chuyện là hai nhà liền rào nhau, con gà mái nhà tôi đẻ lang sang chuồng nhà
bên ấy, họ lấy trứng ăn bị mẹ tôi chửi bới suốt mấy ngày. Từ đó ông đội trưởng rất thù
mẹ tôi, phê vào lý lịch anh tôi rất xấu. May nhờ có một ông tuyển người tốt bụng, biết
chuyện mâu thuẫn, thuyết phục ông đội trưởng viết lại cho nhẹ đi. Anh tôi giờ đã học
thêm đại học tại chức, làm kĩ sư ở một giàn khoan trên biển Côn Sơn, sống tại Vũng
Tàu.”

Mức sống nông dân trước hết thể hiện qua bữa ăn thường nhật. Nhìn chung, có một ưu
điểm nổi bật trong những năm chiến tranh là không có ai bị chết đói, nhưng khẩu phần ăn
thì hết sức đạm bạc. Lương thực chính là gạo chỉ đủ ăn 7-8 tháng trong năm, ngay cả
vùng quê 5 tấn Thái Bình (sản lượng 5 tấn thóc/ 1 ha- năm) cũng chỉ đủ gạo ăn 8.5- 9
tháng là cùng. Những tháng giáp hạt, lương thực chính là ngô, khoai, dong riềng. Ðôi chỗ
ở Thái Bình như các huyện Tiên Hưng, Vũ Tiên, Hưng Nhân, Duyên Hà vì gạo ít, không
đủ nhiệt làm chín thức độn, nên có nhiều nhà ăn cháo kèm với ngô luộc, khoai luộc hoặc
củ đậu ăn sống, kéo dài suốt 3 tháng liền. Có lẽ vì thế nên ở thị xã Thái Bình có nhà máy
xay xát rất lớn, dân gian gọi chệch đi là “nhà máy cháo”. Bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ
Hoàng Vân thời đó có câu “Cô Ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh, chị Hai năm tấn quê ở Thái
Bình…”, bị lũ trẻ học trò tinh nghịch hát trẹo đi thành “Cô Ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh,
chị Hai ninh cháo quê ở Thái Bình…” Giai điệu bài hát nghe giống như tiếng gõ đũa vào
thành bát chờ cơm của các chàng trai trẻ háu đói. [Không ngờ gần đây, khi nhà báo
Nguyễn Phú Cương đi viết bài về chân dung nghệ sĩ Hoàng Vân, được nghe ông kể:
“Năm ấy tôi cùng một nhóm văn nghệ sĩ đi thực tế sáng tác ở Thái Bình, đói lắm. Cả
đoàn thường phải ngồi chờ cơm ở bếp ăn tập thể của cơ sở có khi tới hàng giờ. Ngồi
buồn, anh em vừa gõ bát vừa tán dóc đủ thứ chuyện. Âm hưởng của tiếng gõ bát cứ lặp đi
lặp lại, nghe vui tai, làm tôi chợt nảy ra ý tưởng lấy nó làm giai điệu chính, sáng tác bài
hát về quê hương 5 tấn…”]

Thực phẩm trong bữa ăn chủ yếu là rau muống, rau dền, rau lang, rau má. Nước chấm
thường là tương, mắm tôm, mắm cáy, mắm cua. Ngay cả những xã ven biển làm ra nước
mắm chỉ để cung cấp cho Nhà nước phục vụ dân đô thị và cán bộ công nhân viên trong
biên chế, phần để lại dùng rất ít, chờ khi có khách hoặc giỗ tết mới mang ra dùng. Các
loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng và trứng phải mang ra chợ huyện bán để mua giấy
bút, quần áo cho con đi học. Lợn nuôi được phải bán cho Nhà nước theo chỉ tiêu bắt buộc
phân về từng hợp tác xã, đến lượt hợp tác xã lại phân về hộ gia đình. Trâu bò tuyệt đối
cấm giết mổ để bảo vệ sức kéo. Mì chính là thứ gia vị đánh lừa cảm giác trong bữa ăn
thiếu đạm, thời đó ở nông thôn rất quý hiếm. Những chàng công nhân trẻ, láu cá của Liên
đoàn 36 tìm kiếm dầu khí mỗi tháng được cấp 2 gói mì chính (loại 25 gram/1 gói),
thường không ăn mà để dành, thủ sẵn trong túi áo. Chờ đợt đi dã ngoại đo máy, các
chàng nhắm các cô gái xinh đẹp lân la tán tỉnh. Khi đã bén gót được cửa nhà nàng, họ
kính biếu thầy u cô gái 1 gói mì chính, liền được “các cụ” quý như vàng.

Ðời sống kham khổ quanh năm, muốn có bữa ăn tươi, có thịt, có cá, có rượu, người nông
dân thuần phác chỉ biết trông chờ vào các dịp giỗ tết, cưới hỏi, ma chay hoặc các bữa liên
hoan tập thể. Mâm cỗ ở nông thôn thời đó phổ biến là thịt lợn luộc, canh khoai sọ nấu
xương, rau các loại xào với thịt băm nhỏ hoặc lòng lợn. Thịt gà, măng, miến chỉ có ở
mâm cỗ các gia đình cán bộ hoặc có con đi học nước ngoài. Ở nhiều nơi, nhất là Hà Bắc,
Hải Hưng, Ninh Bình, thịt lợn luộc là món sang nhất mâm cỗ lại thường không bày vào
đĩa mà đựng trong lá sen hay lá chuối thật to. Phụ nữ ngồi vào mâm không ai dám đụng
đũa, đợi lúc đứng lên họ xé tầu lá chia đều cho từng người đem về cho con.

Cũng một kiếp người nhưng đôi khi quá nghèo, miếng ăn là miếng nợ. Mâu thuẫn giữa
cộng đồng nhiều khi xuất phát từ nợ miệng mà ra, nhiều chuyện cười ra nước mắt.

Ông NHT, sinh năm 1947, công nhân dầu khí, quê ở Hưng Yên, hiện sống ở TP. HCM,
kể:

“Năm 1971, chúng tôi “đóng quân” ở một xã thuộc huyện Ninh Giang – Hải Dương để
đo máy suốt 8 tuần, lại đúng vào mùa cưới. Cỗ cưới ở đây rất đơn giản, chỉ có thịt lợn
luộc, 2 bát canh, 2 đĩa rau xào, nhưng phải làm cỡ 100 mâm trả nợ miệng cả làng. Lần ấy
tôi đi dự đám cưới ở nhà ông L xóm 7 thôn Ðình, đang vui vẻ thì có mấy người trèo
tường vào đòi ăn cỗ. Họ cãi nhau ầm ĩ với gia chủ. Hóa ra năm trước nhà họ có đám cưới
mời cả nhà gia chủ, nay gia chủ quên mời nên họ trèo tường vào đòi nợ!”

Tết Nguyên đán là ngày hết sức hệ trọng. Từ xã viên đến ban chủ nhiệm hợp tác xã đều
phải tính toán, chuẩn bị từ vụ gặt lúa mùa vào tháng 10 âm lịch. Tiêu chuẩn mỗi hộ gia
đình được chia từ 5-10 kg thịt lợn móc hàm (tính cả xương). Gạo nếp, đường, mật, đỗ,
các gia đình rậm rịch chuẩn bị vài tháng trước Tết. Ba món ăn phổ biến trong ngày Tết là
bánh chưng, thịt đông, vài cặp giò xào. Ở một số nơi người ta gói bánh chưng Tết làm 2
đợt vào 23 tháng chạp và 15 tháng giêng, mỗi đợt từ 20-30 cái, nhiều là 50 cái. Sự hào
phóng trong những ngày Tết thật ra cũng là để bù đắp cho cả năm ăn uống đạm bạc mà
thôi. Tuy nhiên, với bản tính lo xa, mỗi nhà khi làm cỗ đều cố gắng lọc thịt mỡ để dành
khoảng 2 kg mỡ nước trong liễn sành treo trong buồng, dùng ăn dần tháng giêng, tháng
hai. Tóp mỡ cũng cất đi để dành, đem nấu canh dưa hoặc xào với rau cải, su hào, mỗi bữa
đôi thìa.

Ông NVG, công nhân đo từ và trọng lực ngành dầu khí, sinh năm 1944, quê ở Hải Phòng,
hiện sống ở khu Nam Thành Công – Hà Nội, kể:

“Ở các vùng Yên Dũng, Quế Võ, Tiên Sơn (Hà Bắc) có 2 dấu hiệu để nhận biết năm ấy
hợp tác xã cho xã viên ăn Tết to hay bé. Nếu ăn Tết to thì ngày mồng 3 hoặc 5 Tết, mỗi
nhà còn dư thịt để nấu một nồi cháo thái - cháo bột nấu với xương, “cái” là bột gạo nếp
nhào thật dẻo lẫn với thịt nạc rồi thái ra. Nếu ăn Tết bé do hợp tác xã khó khăn, mất đoàn
kết hay mất mùa thì nồi cháo thái sẽ được thay bằng vài chục chiếc bánh khoai – khoai
lang thái lát mỏng với ít tóp mỡ băm nhỏ làm nhân, gói trong vài lớp lá chuối khô rồi
đem hấp, khi ăn bánh thấy sần sật, bùi và béo, cũng đỡ nhớ nồi cháo thái theo tục lệ cổ
truyền.”

Có lẽ sự thiếu hụt thịt, cá trong bữa ăn thường nhật đã làm nảy sinh tệ nạn liên hoan, chè
chén lu bù ở các hợp tác xã. Người ta tổ chức ăn liên hoan bằng đủ mọi lý do: đại hội xã
viên, đại hội đảng bộ hoặc chi bộ, đại hội đoàn, đại hội phụ nữ, lễ ra quân, lễ tổng kết
phong trào ba đảm đang, lễ sơ kết 6 tháng hay cả năm, lễ đón mừng các danh hiệu thi
đua… Thậm chí có những bữa liên hoan phát động chị em đặt vòng tránh thai hay tổng
kết chiến dịch phun thuốc trừ muỗi, tiêm chủng phòng bệnh sởi, bệnh cúm, bệnh ho gà
cho trẻ em cũng lu bù vài chục mâm.

Ông QTK, sinh năm 1942, cán bộ kỹ thuật Liên đoàn 36, hiện sống ở Gia Lâm-HN, kể:

“Ðơn vị tôi đóng trụ sở ở thôn Bối Khê, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi- Hưng Yên gần 7
năm. Tính ra, riêng một năm 1968, cộng tất cả các cuộc liên hoan từ cấp đội sản xuất đến
ban chủ nhiệm hợp tác xã, các đoàn thể chính trị, có tới trên dưới 100 cuộc. Liên hoan
nhỏ thì mổ một con chó hoặc con lợn, còn to thì có khi đến cả chục con lợn, trăm con vịt.
Người ăn đã đông, nhưng trẻ con trong làng đứng chầu chực để người lớn cho nắm xôi,
miếng thịt còn đông gấp mấy lần.”

4. Phân hóa giàu nghèo sau lũy tre làng

Chỗ ở và tiện nghi sinh hoạt là bề nổi rõ nhất của sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn,
bởi thời đó tiền hoặc vàng ở nông thôn rất ít. Có thể chia làm 3 đối tượng giàu nghèo
khác nhau từ yếu tố quyền lực và sức lao động nhiều ít ở mỗi hộ.

Nhóm nhà giàu gồm có: cán bộ từ các đội trưởng, thư ký đội đến ban chủ nhiệm hợp tác
xã; chánh phó chủ tịch xã và bí thư đảng ủy xã; nhà có con đi học nước ngoài hoặc có
người làm việc trên huyện, trên tỉnh. Các gia đình này thường có nhà ngói 5 gian, 3 gian
chính ở giữa, 2 buồng đầu hồi xây lồi ra 2m để đỡ lấy mái hiên của 3 gian chính. Nền nhà
cao, đủ tam cấp (3 bậc). Sân gạch rộng chừng 60-100m2 với một bên là dãy nhà bếp, cối
xay thóc, chuồng lợn, và một bên là giếng, bể nước, nhà tắm. Sau lưng nhà là vườn rau
hoặc cây ăn quả, rộng chừng 1 sào đất. Chính giữa nhà là bàn thờ gia tiên, 2 bên là 2 cỗ
phản gỗ tốt dày 6-8 cm. Rất ít nhà dùng giường gỗ kiểu Ðức hoặc giường “mô-đéc” như
ở thành phố. Bàn ghế tiếp khách thường là bộ trường kỷ bằng gỗ lim. Nhà nào khá giả
hơn thì kê thêm một tủ chè khảm trai hoặc 1 tủ “buýp-phê”. Trên tường treo nhiều huân
huy chương, bằng khen và khung ảnh. Mỗi nhà thường có 2 chiếc xe đạp, 1 chiếc đài bán
dẫn của Liên Xô hoặc Trung Quốc. Như vậy, nhà giàu sau lũy tre làng thời đó mới chỉ
dừng ở mức đủ ăn, đủ mặc, có phương tiện đi lại thô sơ và phương tiện giải trí, cộng với
chút quyền uy mà thôi. Nhóm gia đình này chiếm khoảng 7-10% trong làng.

Ông LTC, sinh năm 1946, kỹ sư địa vật lý dầu khí, hiện công tác tại liên doanh
VietsovPetro ở Vũng Tàu, kể:

“Hồi tôi đi thực địa ở Phố Tăng, huyện Tiên Hưng – Thái Bình (1970) để đo carotar lỗ
khoan khoảng 1 tháng, có biết một chuyện kể ra ngỡ tiếu lâm hiện đại. Bà con ở đây kiểm
điểm ông chủ nhiệm và bà kế toán hợp tác xã rất gay gắt về tội tham ô, hủ hóa. Thế
nhưng khi bầu lại chủ nhiệm và kế toán cho khóa sau, họ vẫn bầu cho 2 vị ấy. Ông lãnh
đạo huyện về dự đại hội xã viên hỏi: ‘Vì sao lại như vậy?’ Bà con đáp: ‘Chuyện hủ hóa
thì bà kế toán có cái ấy, tùy bà ta giữ hay cho ai thì cho. Còn như chức chủ nhiệm và kế
toán, chúng tôi thấy họ đã tham ô đủ nhà, xe, đài rồi, làm tiếp khóa nữa bất quá chỉ thêm
vài bữa nhậu. Nếu bầu người khác họ lại cấu véo của tập thể mua đài, mua xe, xây nhà,
còn tệ hơn’”.

Ông LTC nhận xét:

“Một ngôi nhà xây hồi đó cỡ 4.000 đồng, 2 cái xe và một cái đài cỡ 1.000 đồng. Tổng
cộng tài sản tham ô hết 5.000 đồng. Xem ra mục tiêu và mức độ tham nhũng ở nông thôn
thời chiến chưa lớn.”

Nhóm gia đình có mức sống trung bình ở nông thôn chiếm khoảng 50-60%. Chỗ ở của họ
là ngôi nhà xây 3 gian hoặc 5 gian, nhưng hẹp và thấp. Vùng Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng,
nhà thường lợp ngói, khung nhà bằng gỗ xoan và tre ngâm. Ở vùng biển Thái Bình, Hà
Nam Ninh dân ít lợp ngói mà lợp bằng cói rất dày. Nền nhà một số láng xi măng, còn một
số chỉ đầm đất với tro thật đanh và phẳng. Sân gạch và bể nước to bằng khoảng một nửa
nhà giàu. Ưu điểm nổi bật của nhóm này là có tới 90% gia đình có hố xí hai ngăn hợp vệ
sinh. Chuồng lợn và bếp thường bố trí sau nhà hoặc sát đầu hồi. Bàn ghế tiếp khách có
nhà dùng bộ trường kỷ, có nhà dùng ngay cỗ phản gỗ kê ở giữa nhà. Ðối tượng thuộc các
nhóm này là các nhà có nhiều lao động khỏe, có con cái đi “thoát ly”, vợ chồng hoặc con
gái lớn thạo buôn bán ở các chợ quê. Rất ít nhà trong nhóm này có đài bán dẫn, còn xe
đạp thường chỉ có một cái đã cũ. Ông LTC (đã dẫn) cho biết, ở Thái Bình, Hưng Yên cứ
30 nhà trong nhóm này mới có 1 chiếc đài bán dẫn Sông Hồng của VN lắp, 5 nhà có 1
chiếc xe đạp Thống Nhất cà tàng.

Nhóm gia đình nghèo chiếm 20-30%. Họ ở nhà tranh vách đất, không có sân gạch, bể
nước. Ðó là những gia đình ít lao động, gia đình địa chủ cũ bị ngược đãi, một số khác do
chủ hộ ốm đau, bệnh tật hoặc có dị tật. Nhóm này tiện nghi sinh hoạt không có gì đáng
giá.

Thay lời kết

Ta vừa xét đến sự phân hóa giàu nghèo sau lũy tre làng là do những yếu tố quyền lực, cơ
may và số lượng lao động trong một hộ gia đình. Còn có một hiện tượng giàu lên theo
đúng nghĩa của quy luật kinh tế thị trường, rất hiếm hoi, bắt nguồn từ sự bứt phá để thay
đổi cơ cấu thu nhập vốn rất vô lý của mô hình hợp tác xã cấp cao. Như đã biết, thu nhập
của nông dân từ hợp tác xã chỉ đạt khoảng 40%, số còn lại dựa vào nguồn thu từ ruộng
5% và thu khác. Cái nguồn “thu khác” ấy chính là sự vận động của quy luật kinh tế thị
trường ngay trong mô hình kinh tế Stalin ở nông thôn. Vì vậy, thay cho lời kết, tôi sẽ đưa
ra 2 câu chuyện làm ăn của ông NÐT (nhân chứng đã dẫn ở đầu bài viết). Nó mách bảo ta
sức sống mãnh liệt của kinh tế thị trường, gợi nhiều điều suy gẫm.

Ông NÐT (xã Ðình Tổ, huyện Thuận Thành - Bắc Ninh) kể:

Câu chuyện thứ nhất:


“Bắt đầu từ năm 1964, thu nhập của bà con nông dân thôn tôi nếu dựa vào hợp tác xã chỉ
đạt một nửa, dần dà không được một nửa. Tất cả mọi thứ chi tiêu về dầu đèn, sách vở cho
con, may sắm và sửa chữa nhà cửa đều trông vào mảnh ruộng 5% của gia đình. Quê tôi
vừa có đồng, vừa có bãi. Số đất bãi chiếm 2/3 nên sản phẩm phụ của bà con trông cả vào
vụ rau mấy tháng giáp tết ngoài bãi sông Ðuống. Nhà nào giỏi lại chịu khó thì có thu
nhập cả rau giống và rau ăn. Hạt giống su hào của Trung Quốc Nhà nước chỉ bán rất hạn
chế cho hợp tác xã. Nhà nào trồng su hào giống phải mua chợ đen với giá 200 đồng/lạng,
tương đương 3 chỉ vàng (1964). Năm 1968, Nhà nước đột nhiên bán ruộng rãi hạt giống
su hào với giá 60 đồng/lạng, lại chia từng gói nhỏ 30-50 gam cho vừa túi tiền của nông
dân. Các nhà trồng cây giống su hào đều ngừng hết vì nghĩ ai có ruộng cũng mua hạt
giống của Nhà nước, mình gieo hạt rồi bán cho ma. Tôi với ông bạn NVD bên xóm Chùa
bàn nhau, thiên hạ sợ và bỏ cả thì ta gieo sẽ lãi to, vì người trồng rau họa hoằn mới có
người biết gieo giống. Năm ấy tôi và ông bạn vay tiền ngân hàng gieo giống su hào đại
trà, thuê cả ruộng của các nhà quen biết trong thôn. Kết quả năm ấy khắp các chợ Dâu,
Keo, Phủ Hồ, Ðiện Tiền, Yên Nhuế, Lạc Ðạo, Bần Yên Nhân chỉ có cây giống su hào của
anh em chúng tôi, bán đắt như tôm tươi. Giá một mớ su hào giống mọi năm có hào rưỡi,
nay lên tới hai hào, hai hào rưỡi, có hôm “cháy chợ” lên tới ba hào. Vụ rau giống su hào
năm 1968 tôi thu lãi hơn 2.000 đồng, đủ tiền xây nhà cho cô em gái có chồng đi B. Ông
D bạn tôi qua vụ này mua xe đạp, đài bán dẫn rồi vẫn còn tiền xây lại bếp và đào giếng.”

Câu chuyện thứ hai:

“Quê tôi cách trường đại học Nông nghiệp Hà Nội khoảng 18 km. Tôi và ông bạn NVD
nghe tin ở đó có nhu cầu dựng nhanh mấy trăm gian nhà tranh cho cán bộ và sinh viên đi
sơ tán về vào cuối năm 1969. Biết họ cần 10 vạn tấm gianh lá mía, chúng tôi liền lân la
tìm đến, đãi đằng mấy ông ở phòng kế hoạch để xin ký hợp đồng. Hồi ấy, cá nhân không
có tư cách ký hợp đồng với cơ quan nhà nước nên tôi phải vất vả, tốn kém rất nhiều với
ban chủ nhiệm hợp tác xã, mới xin được con dấu và chữ ký. Mọi việc xong xuôi, tôi với
ông bạn ngồi bàn triển khai hợp đồng mới thấy mình liều: vốn liếng 2 nhà góp lại được
gần 3.000; giá trị hợp đồng 70.000 đồng (0,7đ x 100.000 tấm) mà cơ quan chỉ tạm ứng
cho 2.000 đồng, còn đâu giao hàng đợt nào lấy tiền đợt ấy, nhưng chậm nhất 3 tháng phải
giao đủ 10 vạn tấm gianh. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã tìm được cách tháo gỡ khó
khăn. Ðể làm một tấm gianh cần có lá mía, hom tre và thợ chẻ hom, đánh gianh. Bãi mía
bạt ngàn bên sông Ðuống là nguồn cung cấp lá mía trả chậm cho hợp tác xã nên khỏi lo,
chỉ cần “tế nhị” với ban chủ nhiệm. Thợ đánh gianh, chẻ hom có sẵn ở mấy làng bên tỉnh
Hưng Yên, đang mùa nông nhàn, gọi sang vài trăm người không khó. Cái vướng nhất là
tiền ăn cho thợ và tiền mua tre để chẻ hom. Năm ấy có biểu hiện nước sông sẽ lên to, tất
cả các bụi tre bên sông Ðuống từ thôn Lệ Chi qua Ðình Tổ, Ðại Trạch, Phú Mỹ, Á Lữ lên
đến phủ Thuận Thành đều có khả năng bị Nhà nước trưng dụng để hộ đê. Chúng tôi đã
tính toán kỹ khối lượng tre dùng cho hợp đồng không ảnh hưởng gì đến kế hoạch hộ đê
nếu lũ lụt xảy ra. Song người nông dân sẵn tâm lý tư lợi, xót của vì giá trưng dụng hộ đê
thấp gần như cho không, mà số tiền ít ỏi còn lại rất lâu mới nhận được. Nắm được tâm lý
ấy, chúng tôi dùng tiền đãi ngộ chính quyền các xã có tre, thông qua họ bảo lãnh để mua
chịu tre của nông dân với giá đắt hơn ngoài thị trường 5-7%. Có được tre mua về, chúng
tôi xử lý cho cắt 1,2 m ngọn tre bán cho xí nghiệp sản xuất nông cụ làm cán cuốc, cán
xẻng. Ðoạn 0,8 m gốc tre chúng tôi huy động nhân lực 2 gia đình, họ hàng, xóm giềng
làm chổi tre bán cho cửa hàng bách hóa trên huyện, trên tỉnh và giao đi các chợ ở Hà Nội.

Từ hai khoản tiền thu được từ các sản phẩm đơn giản này, cộng với số vốn ít ỏi đã có,
chúng tôi đủ tiền mua gạo, thực phẩm và tạm ứng cho 120 thợ bên Hưng Yên mỗi người
15 đồng để họ khẩn trương thu xếp việc nhà sang chẻ hom, đánh gianh. Suốt đoạn đê
sông Ðuống gần chùa Bút Tháp dài 2 km biến thành “xí nghiệp” sản xuất cơ động của tôi
và anh bạn, tấp nập hơn 2 tháng. 10 vạn tấm gianh chứ 20 vạn chúng tôi cũng dư sức
hoàn thành đúng tiến độ của hợp đồng.

Chưa hết, ở khâu vận chuyển lại nảy ra sáng kiến mới. Hàng ngày đội máy kéo của huyện
có 3-5 xe công nông ra thị trấn Trâu Quỳ ở quốc lộ 5, gần trường Ðại học Nông nghiệp
để chở phân đạm bón ruộng hay xi măng làm thủy lợi cho huyện. Trên đường đi về họ
phải qua chợ Dâu, cách chỗ chúng tôi 4 km. Nếu bình thường, chúng tôi thuê xe chở
gianh lá mía giao cho chủ hợp đồng phải mất 1,2 hào/1 tấm gianh. Thuyết phục đội
trưởng đội máy kéo của huyện, chúng tôi ký được hợp đồng vận chuyển chỉ mất 0,6
hào/1 tấm và đôi bên lại cùng có lợi. Tính riêng tiền vận chuyển 10 vạn tấm gianh, chúng
tôi đã tiết kiệm 600 đồng. Tổng cộng các khoản lợi nhuận sau 3 tháng hợp đồng, tôi và
ông NVD chia nhau mỗi người 24.000 đồng (khoảng 25 cây vàng). Chằng những thế,
chúng tôi còn đem lại việc làm cho 120 lao động ở Hưng Yên và 80 lao động ở thôn Ðình
Tổ, giá trị ngày công là 1,4 đồng/ngày, tương đương với lao động công nhật ngoài thành
phố (giá công lao động ở hợp tác xã Ðình Tổ lúc đó chỉ đạt mức rẻ mạt 2 hào 7 xu/ngày).
Ngoài ra, đội máy kéo của huyện nhờ hợp đồng với chúng tôi mà có thu nhập thêm 600
đồng.

Năm 1969, sau khi Mỹ tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 19 trở ra, các cơ
quan, xí nghiệp, trường học từ khu sơ tán lục tục kéo về thành phố nên nhu cầu dựng nhà
tạm tranh tre nứa lá rất lớn. Nhưng tôi không được ký tiếp những hợp đồng kinh tế khác
nữa vì địa phương ganh ghét, quy chụp tôi và ông NVD là đảng viên mà có tư tưởng phục
hồi chủ nghĩa tư bản, điều tôi ra trông coi bến đò Lệ Chi, không cho làm trưởng trại chăn
nuôi rất nhàn hạ nữa. Nếu từ hồi ấy, họ để tôi tự do mở một công ty hay xí nghiệp, biết
đâu tôi và ông NVD đã thành ông chủ lớn, chẳng đến nỗi làm ông già nông dân 72 tuổi
chân đất, mắt toét như bây giờ…”

Những người như ông NÐT, ông NVD thời nào cũng hiếm, trong chiến tranh, giữa cơ
chế hợp tác xã theo mô hình Stalin càng cực hiếm. Nhưng đất nước muốn phát triển
không thể thiếu họ. Ðó là quy luật tất yếu, cũng là hiện thực đời sống. Họ là tia chớp giữa
bầu trời đêm, báo hiệu sự đào thải của mô hình Stalin ngay cả khi nó tưởng như đang cực
thịnh bởi chiến tranh làm cho mặt ưu việt phát huy đến mức tuyệt vời, mặt tiêu cực bị
nhòa lấp bởi lòng yêu nước và sức chịu đựng phi thường của nông dân Việt Nam. Kinh tế
thị trường chỉ có một tên gọi duy nhất. Những cách gọi khác đi như kiểu “Chủ nghĩa Xã
hội mang màu sắc Trung Quốc” hay “Kinh tế thị trường theo định hướng…” chỉ là sự níu
kéo những đặc quyền, đặc lợi của một nhóm người do mô hình Stalin mang lại mà thôi.

You might also like