Professional Documents
Culture Documents
2: Thiocrown ether:
So với số lượng lớn các bài nghiên cứu về tổng hợp và ứng dụng của oxo và azocrown ether,
thiocrown ether thu hút được ít sự chú ý hơn. Nguyên nhân chính của sự khác nhau này là do sự
thiếu con đường thích hợp để tổng hợp thiocrown ether với năng suất cao. Vấn đề chính trong
việc tổng hợp hợp chất crown ether là bước tạo vòng. Vòng kín thường bị tác động bởi các phản
ứng thế nội phân tử. Khi vòng lớn được tạo thành, sự nhị trùng hóa thường cạnh tranh với sự
mong muốn tạo vòng các nội phân tử. Trong việc tổng hợp oxo và azacrown ether vấn đề này có
thể được xử lý bằng cách áp dụng mẫu (xem ở chapter 2.3). Dù vậy, cách tiếp cận này lại cho ra
hiệu suất kém hơn rất nhiều trong việc tổng hợp thiocrown ether. Do tính mềm dẻo của sulfur,
nguyên tử này không có ái lực đáng kể cho ion kim loại kiềm có thể áp dụng như mẫu trong
tổng hợp oxo và azacrown ether. Những nỗ lực để áp dụng ion kim loại chuyển tiếp làm mẫu
cũng không được thành công, họ không đưa ra cách thích hợp để tổng hợp thiocrown ether với
năng suất cao. Chính mặt hạn chế chính này cùng với mùi khó chịu và độ độc của chất trung gian
(thường là B-haloethyl sulfides- là chất vescicant mạnh) được sử dụng trong suốt quá trình tổng
hợp, ngăn cản sự cố gắng tổng hợp thiocrown ether. Tuy nhiên, vấn đề tổng hợp thiocrown ether
đã được khắc phục vào năm 1980, Kellogg và Butter giới thiệu Cs2CO3/ DMF phương pháp tạo
vòng. Phương pháp này bao gồm sự tạo vòng của dithiol với dihalide, và sử dụng Cs2Co3 làm
bazơ trong dung môi dimethyl formamide DMF (xem ở Chapter 2.2 và 2.3). Phương pháp này
trở thành phương pháp chung thích hợp để tổng hợp thiocrown ether với hiệu suất cao.
Thiocrown ether 1.19 và 1.20 được áp dụng bởi Vriesima bằng phối tử trong xúc tác Ni(II) liên
kết đối phản ứng của thuốc thử Grignard với vinyl bromide (Hình 1.9). Tuy hiệu suất hóa học
trong phản ứng này tốt đến tuyệt vời, nhưng độ cảm ứng bất đối xứng chỉ thấp đến trung bình.
Trong 0.5 mol % thiocrown ether hiện có e.e 1.24 và 1.19 a-d và 1.20 lần lượt là 2.7, 16.9, 2.0,
3.8 và 46%.
Bên cạnh phản ứng liên kết đối bất đối xứng, có duy nhất một ví dụ khác được biết đến trong tài
liệu ứng dụng của chiral thiocrown ether ở xúc tác bất đối xứng là Zn(II)- hỗn hợp xúc tác liên
hợp của isopropylmagnesium bromide đến cyclohexenone. Trong phản ứng này, 1.19b và 1.21
được sử dụng làm phối tử kết quả trong hiện tượng cảm ứng bất đối xứng lần lượt là 16 và 17%
e.e. Tuy hiện tượng cảm ứng bất đối xứng trong cả 2 phản ứng thấp đến trung bình, nó vẫn đáng
giá để các cuộc nghiên cứu sâu hơn về phạm vi và giới hạn của thiocrown ether. Trong luận án
này sự cố gắng của chúng tôi trong việc tổng hợp chiral thiocrown ether và ứng dụng của các
hợp chất này như là phối tử trong hàng loạt các phản ứng bất đối xứng (xúc tác kim loại chuyển
tiếp) sẽ được mô tả.
Hình 1.10: Aspartame (1.25) và đồng phân đối hình của nó lần lượt có vị ngọt và đắng
Khả năng của hệ sinh vật trong việc phân biệt giữa các đồng phân đối hình đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc phát triển tổng hợp các dược phẩm đối hình tinh khiết. Khi dược phẩm đối
hình tinh khiết được quản lý như racemates cả hai đồng phân đối hình sẽ có các hiệu ứng riêng
của chúng trong hệ sinh vật. Nhìn chung, một đồng phân đối hình muốn có tác dụng chữa bệnh,
trong khi đó có duy nhất một đồng phân khác lại làm giảm đi tác dụng đó, điều đó có thể gây ra
tác dụng phụ không mong muốn, hoặc có thể gây ra một tác dụng hoàn toàn khác (hoặc có tính
độc). Ví dụ như (S)- propranonol (1.27), được giới thiệu vào năm 1960 là một B- blocker cho
việc điều trị bệnh tim. Đồng phân đối hình của nó lại gây ra tác động tránh thai. Thêm nữa, ai
cũng biết ví dụ về thalidomide (1.28 bán như Softenon). Thuốc này đầu tiên bán như racemate vì
các đồng phân đối hình đều biểu hiện có tác dụng giảm đau. Tuy nhiên, đồng phân đối hình (S)
lại được phát hiện gây ra tác dụng phụ dị dạng thai.
Những ví dụ này cho thấy rõ rằng nó thường có khả năng cung cấp dược phẩm đối hình tinh
khiết. Kể cả chiral hóa chất nông nghiệp, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ cũng nên ưu tiên các đối
hình tinh khiết. Dù khi đồng phân đối hình không hoạt động không biểu thị tác dụng độc, sự tồn
tại của nó là không mong muốn theo quan điểm xung quanh, vì nó có thể coi như là chất thải hóa
học. Vì vậy nhiều nghiên cứu hóa học trong các thập niên gần đây tập trung vào cách thu được
các hợp chất đồng phân đối hình tinh khiết.