You are on page 1of 6

VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ

VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
a) Khái niệm giai cấp
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm giai cấp dùng để chỉ "những tập đoàn to
lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng"1.
Theo khái niệm trên đây, thực chất của sự phân hóa những con người trong một
cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau chính là do có sự khác nhau
và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định và do đó có
khả năng khách quan dẫn đến một thực tế là "tập đoàn này có thể chiếm đoạt được lao
động của tập đoàn khác". Do vậy, theo V.I.Lênin: "Giai cấp là những tập đoàn người mà
tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định"2. Vậy, thực chất của sự phân
hóa giai cấp trong xã hội chính là sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã
hội thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột. Thực tế lịch sử nhân loại mấy ngàn
năm qua đã chứng minh điều này, đó là sự phân hóa những con người trong cộng đồng xã
hội thành các giai cấp đối kháng nhau: chủ nô và nô lệ trong lịch sử thời cổ đại, chúa đất
và nông nô thời trung cổ, tư sản và vô sản từ thời cận đại đến nay.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực
chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống
trị xã hội, thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của giai cấp khác và duy trì được tình
trạng tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện có đối kháng giai cấp
Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa học chính trị mà đó
còn là một khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế - chính trị giữa các tập đoàn người
trong một điều kiện lịch sử nhất định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà
còn có tính chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Từ đó cho thấy:
việc phân tích những vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết
cấu kinh tế của xã hội theo quan điểm lịch sử, cụ thể.
Để phân tích và xử lý chính xác những vấn đề về kết cấu chính trị - xã hội không
những cần nắm vững khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mà

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 39, tr. 17-18.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 39, tr. 18.
còn cần phải nắm vững khái niệm tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp xã hội thường
được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong
cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng
lớp công nhân làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia, v.v.;
mặt khác, khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các
giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức, tiểu nông, v.v..
b) Nguồn gốc giai cấp
Việc phát hiện ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là
phát hiện mới trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một trong những phát hiện mới
và cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp, đối
kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của nhân loại, cũng không phải là sự
tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, tức là chỉ gắn liền với những giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định của sản xuất, của lịch sử nhân loại. C.Mác khẳng định: "Sự tồn tại
của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất"3.
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và
tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan
làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản
xuất xã hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư
của tập đoàn khác. Tuy nhiên, chỉ có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn
chưa đủ làm phát sinh giai cấp trong xã hội nếu chưa có sư phát triển của lực lượng sản
xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, do vậy mà thời gian lao động
đã có thể chia thành hai phần là lao động tất yếu và lao động thặng dư với biểu hiện trực
tiếp của nó là sự dư thừa của cải tương đối trong cộng đồng xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại
của chế độ chiếm hữu tư nhân hay cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất lại không phải là
theo ý muốn chủ quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự
phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt đến trình
độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ xã
hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh
giai cấp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của xã
hội xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra với những hình
thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác
động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển
của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai
cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản, đó là: hình thức hình
thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của nhân tố bạo lực và hình
3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 28, tr. 662.
thức hình thành phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế
phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài ra, trong
thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
c) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
Theo V.I.Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi,
bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”4. Theo khái niệm
này, thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm
thuê, những người nô lệ bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại
sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính
trị - xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã
hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ
khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị,... Trong thực tế
lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn
giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động
làm thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của nó, các giai
cấp thống trị trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cấp chúa đất phong kiến, giai cấp tư sản)
tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước với những đội vũ
trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp. Vì vậy,
vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu chưa giải
quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được những vấn
đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh
giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung
tâm của nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới trình độ đấu tranh chính
trị thì vấn đề đó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản của nó - đó cũng là vấn đề cơ
bản của mọi cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự phát triển đấu tranh giai
cấp.
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội
có đối kháng giai cấp. Khi mà các mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải
quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã
hội trong vòng một "trật tự ' theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn
tại của nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong
điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm qua đã
từng tồn tại các kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời

4
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t. 7, tr. 237-238.
trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận đại đến nay. Đây là những kiểu
nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao động. Cho dù các hình thức của mỗi
kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền hoặc
phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng
thống, v.v.) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một - đó là công cụ chuyên chính
giai cấp của các giai cấp bóc lột trong lịch sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác
với các kiểu nhà nước nói trên, nhà nước chuyên chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu
mới, là "nửa nhà nước", "nhà nước không còn nguyên nghĩa đen của nó", tồn tại trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý
kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xã
hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có sự phân
hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được
biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái
khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai cấp
chủ nô; cuộc đấu tranh của những người nông nô, những người nông dân làm thuê chống
lại sự áp bức và bóc lột của bọn chúa đất, địa chủ; cuộc đấu tranh của những người công
nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của
những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của một phương thức sản xuất mới thông
qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ
có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những
mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này,
đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức
của sự tiến bộ và phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự
tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong
bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa
giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các
giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng
trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối
kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị xã hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh
giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức
sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sự phát triển của xã hội.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng
giai cấp
a) Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về
chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình
thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao
hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là sự lật đổ chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết
lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, cách mạng xã hội được đặc trưng bằng việc giai
cấp cách mạng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền nhà nước, đồng thời tiến hành tổ
chức, xây dựng và sử dụng nhà nước mới của nó để cải tạo căn bản, toàn diện mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, tức là xây dựng một hình thái kinh tế - xã hoi mới. Do đó, có thể
thấy vấn đề chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Đồng thời, cuộc cách mạng nào cũng phải trải qua hai giai đoạn là: giai đoạn giành chính
quyền và giai đoạn tổ chức xây dựng chính quyền mới, xây dựng xã hội mới.
Cách mạng xã hội khác với khái niệm cải cách. Khái niệm cải cách dùng để chỉ
những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm
vi một hình thái kinh tế - xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế xã hội đồ, như cải
cách thể chế kinh tế, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách nền giáo dục, v.v.. Khái
niệm cách mạng xã hội cũng khác với khái niệm đảo chính. Khái niệm đảo chính dùng để
chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị
(thường là trong cùng một giai cấp) và với chủ trương không thay đổi bản chất chế độ
hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình thức bạo lực hoặc phi bạo lực vũ trang.
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân
nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà
không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó
biểu hiện về mặt chính trị xã hội thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát triển của
cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng. Đây cũng chính là
nguyên nhân khách quan của các cuộc cách mạng xã hội. Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng
xã hội còn có nguyên nhân chủ quan của nó, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của
giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, từ
đó tạo ra sự phát triển của phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có
sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách
mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.
b) Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai
cấp
Cách mạng xã hội giữ vai trò là phương thức, động lực của sự phát triển xã hội.
Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay
thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Với ý
nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là những "đầu tầu của
lịch sử”, tức vai trò là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời
sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải quyết triệt để, từ đó
tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng,
năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch
sử mới với một sức mạnh phi thường: "một ngày bằng hai mươi năm"!.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách mạng xã
hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua, đó là: cuộc cách mạng xã hội thực
hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội
chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong
kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa;
cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyên chính tư sản, xác lập chế độ
xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại,
làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế
độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân
loại.

You might also like