You are on page 1of 4

Lời nói đầu

Lý thuyết và kỹ năng phát ngôn của hệ thống liệu trình huấn luyện tính
mạnh dạn là sản phẩm tự nhiên của quá trình làm việc với những con
người bình thường trong nỗ lực dạy cho họ cách đối phó hiệu quả với
những xung đột chúng ta đều có khi chung sống với người khác. Động
lực ban đầu của tôi khi phát triển phương pháp tiếp cận có hệ thống trong
việc rèn luyện tính mạnh dạn bắt đầu khi tôi được bổ nhiệm vào vị trí Cán
bộ Đánh giá Hiện trường tại Trung tâm Đào tạo và Phát triển Đoàn hòa
bình ở những ngọn đồi gần Escondido, California, mùa hè và mùa thu
năm 1969. Trong giai đoạn này, tôi phiền lòng khi nhận thấy các kỹ thuật
truyền thống - được mệnh danh là những "vũ khí chiến thuật" của các nhà
tâm lý học lâm sàng (hay của bất cứ chuyên ngành trị liệu nào) ít nhiều bị
hạn chế trong bối cảnh huấn luyện này. Can thiệp khủng hoảng, tư vấn
cá nhân hay tâm lý trị liệu và liệu trình tập thể bao gồm phương pháp tập
huấn nhạy cảm hay các phương pháp tăng trưởng - đối đầu không giúp
gì nhiều cho những học viên bình thường khoẻ mạnh của Đoàn hòa bình
đối phó với những vấn đề trong giao tiếp hàng ngày mà hầu hết các cựu
tình nguyện viên gặp phải khi hoạt động tại các nước sở tại. Chúng tôi đã
thất bại trong nỗ lực giúp đỡ những chàng trai và cô gái trẻ đầy nhiệt huyết
và điều này trở nên rõ ràng sau 12 tuần tập huấn và tư vấn chuyên sâu,
chẳng hạn như khi họ tham gia buổi tập huấn thuyết trình đầu tiên với một
chiếc máy phun thuốc trừ sâu di động. Nhấp nhổm trên nền đất bụi bặm
trong vai một nhóm nông dân Mỹ Latinh quê mùa là một loạt các nghiên
cứu sinh, nhà tâm lý học, chuyên gia tâm thần học, giáo viên ngôn ngữ,
và các tình nguyện viên kỳ cựu trong những chiếc mũ rơm, quần short,
dép xăng đan, bốt GI, giày tennis hay trên những đôi chân trần. Khi các
học viên tiến hành trình bày, những người nông dân đóng thế tỏ ra không
mấy quan tâm tới chiếc máy phun thuốc trừ sâu mà chú ý hơn đến sự
xuất hiện của những kẻ lạ mặt trên cánh đồng làng của họ. Cho dù các
học viên có thể trả lời đầy đủ các câu hỏi về nông học, kiểm soát sâu
bệnh, thủy lợi hay phân bón, không ai đưa ra một câu trả lời đáng tin cậy
cho các câu hỏi mà những người họ muốn giúp đỡ có thể sẽ hỏi đầu tiên:
"Ai đã đưa anh đến đây để bán chiếc máy này cho chúng tôi? Vì sao anh
lại muốn chúng tôi sử dụng nó? Vì sao anh đi suốt từ Mỹ đến đây chỉ để
nói với chúng tôi những điều này? Anh có lợi gì từ chuyện này? Tại sao
anh lại đến làng của chúng tôi đầu tiên? Tại sao chúng tôi cần phải gieo
trồng tốt hơn? Vân vân và vân vân. Các học viên cố gắng thuyết trình về
chiếc máy phun thuốc trừ sâu trong cơn bực dọc còn những người nông
dân đóng thế liên tục đặt câu hỏi về lý do những học viên này tìm đến họ.
Theo như trí nhớ cùa tôi, không một học viên nào có thể trả lời một cách
quyết đoán với nội dung đại loại như: "Quien sabe... Ai mà biết trả lời hết
câu hỏi của các anh, các chị chứ? Tôi chẳng biết đâu. Tôi chỉ biết rằng tôi
muốn đến ngôi làng này, cho anh chị xem chiếc máy này có khả năng
giúp anh chị trồng và thu hoạch được nhiều hơn. Nếu anh chị muốn vụ
mùa bội thu hơn thì tôi có thể giúp đỡ.” Do giữ thái độ phòng thủ và thiếu
đi những câu trả lời quyết đoán, phần lớn các học viên đã có một trải
nghiệm bối rối khó quên khi họ rơi vào tình thế bị tra hỏi về những động
cơ đáng ngờ mà họ không tài nào bao biện được.

Trong khi dạy cho họ đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ, văn hóa và kĩ thuật,
chúng tôi không hề trang bị chút gì để họ có thể đối phó với đám đông
một cách tự tin và mạnh dạn với quá trình suy xét kiểm điểm những động
cơ, khao khát, điểm yếu và ngay cả những điểm mạnh của họ - nói tóm
lại là quá trình tự tra xét bản thân họ trong tư cách cá nhân. Chúng tôi đã
không dạy họ cách đối phó trong tình huống mà học viên thì muốn trình
bày về nông học còn các những nhà nông đóng thế (hẳn như thể với lòng
thương cảm thực sự) thì muốn nói về các học viên. Chúng tôi đã không
dạy họ cách phản ứng trong những tình huống như vậy bởi khi đó chúng
ta chẳng biết phải dạy họ điều gì. Tất cả chúng tôi đều mang những ý
tưởng mơ hồ về tình huống ấy nhưng không ai giúp được gì đáng kể.
Chúng tôi đã không dạy cho học viên làm thế nào để tự khẳng định mình
mà không cần phải bào chữa hay đưa ra lý do cho hành động của anh ta
và những gì anh ta muốn thực hiện. Chúng tôi đã không dạy cho học viên
chỉ cần nói một cách đơn giản rằng: "Bởi vì tôi muốn..." và để mọi chuyện
còn lại cho họ, những người anh ta đang cố gắng giúp đỡ, tự suy diễn.

Trong vài tuần còn lại trước khi họ tuyên thệ và rời đi, tôi đã thử nghiệm
với đủ loại hình đào tạo trị liệu đa dạng và ứng tác với toàn bộ số học viên
sẵn sàng tham gia mà tôi có được. Càng gần đến tuần cuối cùng, càng
có nhiều học viên né tránh tôi hơn. Tuy không nảy ra trong đầu bất kỳ ý
tưởng nào cho thấy thành quả hay hứa hẹn, quả thật tôi đã tìm ra một
phát hiện quan trọng: những học viên gặp khó khăn nhất trước sự tra xét
phê bình cá nhân thường xử sự với người khác như thể họ không thể
thừa nhận thất bại - họ dường như cảm thấy mình phải trở nên hoàn hảo.

Một lần nữa tôi lại rút ra quan sát này trong cuộc thăm khám vào năm
1969 và 1970 tại Trung tâm Trị liệu Hành vi ở Beverly Hills, California, và
Bệnh viện Cựu chiến binh ở Sepulveda, California. Khi quan sát và điều
trị các bệnh nhân có chẩn đoán từ các hội chứng ám ảnh sợ hãi thể nhẹ
hay bình thường cho đến các chứng rối loạn thần kinh trầm trọng, thậm
chí tâm thần phân liệt, tôi nhận thấy nhiều người trong số họ đều thiếu
khả năng thích nghi giống như những học viên Đoàn hòa bình trẻ tuổi,
mặc dù ở mức độ nghiêm trọng hơn rất nhiều. Nhiều bệnh nhân trong số
này dường như không thể tiếp nhận những lời phê bình hay những câu
hỏi nhắm đến họ do người khác đặt ra. Một bệnh nhân đã cho thấy sự
kháng cự ghê gớm mỗi khi phải nói về chính mình, đến mức 4 tháng trị
liệu tâm lý theo phương pháp truyền thống chỉ khiến anh ta thốt lên dăm
ba câu. Vì sống thu mình với mọi người một cách thầm lặng và cho thấy
chứng lo âu rõ rệt khi ở gần người khác, anh được chẩn đoán mắc chứng
rối loạn lo âu nghiêm trọng. Linh cảm rằng đây chỉ là một trường hợp cực
đoan của hội chứng mà các học viên Đoàn hòa bình mắc phải, tôi đã
chuyển chủ đề "trò chuyện" từ anh ta sang những người đã đem lại cho
anh nhiều rắc rối nhất trong cuộc đời. Sau nhiều tuần tìm hiểu, tôi biết
được rằng anh ta vừa sợ hãi vừa thù địch với người cha dượng, một
người có liên hệ với anh ta theo một trong hai cách - hoặc phê bình chỉ
trích hoặc đỡ đầu chiếu cố. Bệnh nhân trẻ tuổi của chúng ta, thật không
may, không biết liên hệ với người cha dượng theo cách nào khác ngoài
việc trở thành đối tượng của sự phê bình và lên lớp này. Do đó, trước sự
hiện diện của nhân vật uy quyền này, người bệnh chỉ còn biết câm lặng.
Sự im lặng hầu như ngoài ý muốn của anh, sản sinh từ nỗi lo sợ bị chỉ
trích và biết rằng mình không thể tự bào chữa cho chính mình, trở nên
phổ quát và xuất hiện khi anh tiếp xúc với bất kỳ người nào dẫu người đó
chỉ tự tin đôi chút. Khi tôi hỏi chàng thanh niên sợ sệt liệu anh có muốn
học cách đối phó với những phê bình của người cha dượng, anh bắt đầu
trò chuyện với tôi như giữa hai người với nhau. Chúng tôi đã thử nghiệm
quá trình giải mẫn cảm anh ta khỏi những lời chỉ trích từ người cha dượng,
gia đình anh và mọi người nói chung. Sau hai tháng, "bệnh nhân loạn
thần câm lặng" này được cho xuất viện, sau khi dẫn một nhóm các bệnh
nhân trẻ khác ra ngoài uống rượu và gây ra một cuộc náo loạn nho nhỏ
trong phòng bệnh khi họ trở về phòng. Báo cáo sau cùng cho thấy anh đã
nhập học ở một trường đại học, mặc những trang phục theo ý thích và có
thể làm nhiều điều anh muốn bất chấp sự phản đối từ người cha dượng,
chẩn đoán cũng cho rằng khả năng tái nhập viện của anh là rất thấp. Sau
ca điều trị thành công và mới mẻ này, bác sĩ Matt Buttiglieri, trưởng khoa
tâm lý học của Bệnh viện Cựu chiến binh Sepulveda, đã khuyến khích tôi
thử nghiệm phương pháp điều trị này với các bệnh nhân tương tự và từ
đó phát triển chương trình điều trị hệ thống cho những người thiếu tự tin
mạnh dạn. Vào mùa xuân và mùa hè năm 1970, những kỹ năng trị liệu
tính mạnh dạn được mô tả trong bản thảo này đã được đánh giá lâm sàng
tại Bệnh viện Cựu chiến binh Sepulveda và Trung tâm Trị liệu Hành vi với
người đồng nghiệp và chuyên gia bậc thầy, bác sĩ Zev Wanderer. Kể từ
đó, các kỹ năng có hệ thống này đã được mở rộng và sử dụng bởi chính
tôi, sinh viên và đồng nghiệp của tôi khi dạy những người thiếu mạnh dạn
cách đối phó hiệu quả với người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Những kỹ năng mạnh dạn này đã được giảng dạy trong các trường đại
học, quận hạt và các phòng khám ngoại trú tư nhân, các chương trình và
lớp đào tạo đại học, các khóa học ngành tâm lý bậc đại học và sau đại
học, các hội thảo huấn luyện cuối tuần và hội thảo chuyên môn, cũng như
quản chế, phúc lợi xã hội, trại giam, trại phục hồi chức năng, các chương
trình đào tạo tại trường công và kết quả của các hoạt động này đã được
báo cáo trong các cuộc họp chuyên môn.

Những người được hưởng lợi từ liệu pháp trị liệu tính mạnh dạn có hệ
thống: cho dù họ được coi là những người bình thường gặp khó khăn khi
giao tiếp với người khác (trường hợp học viên Đoàn hòa bình) hay là
những người bệnh mắc chứng loạn thần kinh (trong trường hợp bệnh
nhân "câm lặng") thì với tôi đều không quan trọng. Điều mật thiết và quan
trọng là học cách đối phó với các vấn đề và mâu thuẫn trong cuộc sống
và những người mang lại những điều này cho chúng ta. Nói tóm lại, điều
này bao hàm ý nghĩa của liệu pháp trị liệu tính mạnh dạn cũng như lý do
cuốn sách này được viết ra. Các kỹ năng thể hiện tính mạnh dạn được
mô tả trong nghiên cứu này được đúc rút từ 5 năm kinh nghiệm lâm sàng
của riêng tôi và các đồng nghiệp trong việc giảng dạy mọi người cách xử
lý tình huống. Mục tiêu của tôi khi viết về lý thuyết và thực hành của hệ
thống liệu pháp trị liệu tính mạnh dạn là giúp càng nhiều người càng tốt
để họ hiểu hơn về những gì xảy ra khi chúng ta trở nên lúng túng khi đối
phó với người khác và những gì chúng ta làm được để khắc phục điều
này.

M.J.S.
Làng Westwood
Los Angeles

You might also like