You are on page 1of 5

Tích hợp giữa Femtocell và mạng thông tin di động 2G/3G

TS. Nguyễn Vương Quốc Thịnh

Femtocell là một trạm phát sóng nhỏ của mạng thông tin di động tế bào được dùng để nâng
cao chất lượng dịch vụ và cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng ở phạm vi gia đình hay văn
phòng, công sở. Femtocell được xem như trạm phát sóng trong nhà (home base station) hay
điểm truy nhập mạng tế bào giống điểm truy nhập WiFi. Femtocell là cổng kết nối của mạng
thông tin di động tế bào đặt tại nhà khách hàng. Sự khác biệt lớn của femtocell so với các
macrocell hay microcell truyền thống là femtocell kết nối với mạng của nhà cung cấp dịch vụ
thông qua mạng cố định băng rộng như DSL hay cáp, thay vì thông qua mạng riêng của nhà
cung cấp dịch vụ di động.
Femtocell là một giải pháp cho hội tụ cố định – di động, cung cấp kết nối tốc độ cao cho
người dùng trong nhà. Những tiềm năng về dịch vụ đa phương tiện trong tương lai chính là
đòn bẩy cho việc triển khai femtocell. Đây là một giải pháp thay thế cho giải pháp hội tụ cố
định-di động UMA (Unlicensed Mobile Access) hiện gặp không ít khó khăn trong việc thu hút
người dùng. Sự khác biệt lớn nhất giữa UMA và femtocell là femtocell sử dụng cùng giao
diện vô tuyến như mạng thông tin di động thay vì dùng WiFi. Do vậy, người dùng femtocell
không nhất thiết phải trang bị điện thoại dual-mode (có thể kết nối với WiFi và GSM/UMTS).

2) Động lực cho giải pháp femtocell

Dự báo thị trường

Theo nghiên cứu gần đây của ABI Research thì đến hết năm 2011, sẽ có hơn 70 triệu
femtocell được bán ra thị trường, cung cấp dịch vụ cho khoảng 150 triệu người. Con số này
tương đương với một phần ba doanh thu của thị trường Wi-Fi, tức tầm 2 tỷ đôla. Còn theo một
dự báo của công ty tư vấn OVUM thì riêng ở Tây Âu, tính đến 2011 sẽ có khoảng 11 triệu
femtocells được cài đặt. Thực tế cho thấy có hơn 30% cuộc gọi di động và hơn 35% người
dùng dịch vụ Tivi di động khi đang ở tại nhà. Theo một điều tra gần đây của Quality Resource
Associates ở California, 43% số người trong cuộc điều tra này trả lời sẽ xem xét việc dùng
giải pháp femtocell để có một kết nối tốt hơn trong phạm vi gia đình.

Lợi ích mà công nghệ hứa hẹn mang đến cho người dùng:
 Giảm chi phí gọi điện thoại di động tại nhà.
 Có một kết nối tốt, chất lượng dịch vụ tốt hơn, tốc độ cao hơn
 Tiết kiệm năng lượng tiêu tốn
 Cuối tháng chỉ cần chi trả một hóa đơn duy nhất cho cả điện thoại cố định và di động
 Nhiều người có thể cùng dùng chung một femtocell (femtocell hiện tại có thể hỗ trợ
đồng thời 5-6 kết nối di động ).

Lợi ích cho nhà cung cấp mạng di động:


 Cạnh tranh cũng như giảm mối đe dọa từ các dịch vụ VoIP của nhà cung cấp dịch vụ
Internet.

1
 Tăng sự trải nghiệm của khách hàng và giảm việc khách hàng bỏ sang dùng mạng của
nhà cung cấp khác.
 Tăng chất lượng phủ sóng trong các công trình cũng như tăng dung lượng và các dịch
vụ giá trị gia tăng cho người dùng.
 Tăng doanh thu bình quân của một thuê bao/tháng ARPU
 Khuyến khích người dùng sử dụng 3G hay WiMAX, từ đó tăng số thuê bao 3G,
WiMAX trong tương lai.
Như vậy, giải pháp femtocell hứa hẹn mang lại lợi nhuận và tiện ích cho cả nhà cung cấp dịch
vụ lẫn người sử dụng dịch vụ.

3) Các giải pháp cho phép kết nối từ femtocell đến mạng lõi di động (core network –CN)
Trong bài viết này, tác giả tập trung trình bày quá trình tích hợp femtocell vào mạng 3G
UMTS và dịch vụ thoại trên mạng chuyển nối mạch (circuit-switched) sẽ được lấy làm ví dụ
minh họa. Điều này không ngăn cản việc dùng giải pháp femtocell để tích hợp với mạng
GSM/GPRS hay cả mạng WiMAX, cũng như việc dùng các dịch vụ đa phương tiện trên mạng
chuyển nối gói thông qua femtocell. Trên thực tế, chính các dịch vụ chuyển nối gói này mới là
động lực lớn thúc đẩy người dùng đón nhận femtocell.
Trong mạng thông tin di động thế hệ thứ 3G UMTS, các trạm phát sóng Node B (bao gồm các
macro-cell, micro-cell hay cả pico-cell) kết nối trực tiếp với khối điều khiển mạng vô tuyến
RNC (Radio Network Controller) bằng đường truyền dành riêng như E1/T1. Các RNC ghép
các lưu lượng dữ liệu từ các Node B trước khi gửi chúng đến mạng lõi di động. RNC phân
phát lưu lượng thoại (của mạng chuyển nối mạch) đến các tổng đài MSC (Mobile Switching
Center) thông qua giao diện Iu-CS và dữ liệu gói (của mạng chuyển nối gói) đến SGSN
(Serving GPRS Support Node) thông qua giao diện Iu-PS.
Vì lý do giá thành và tiện lợi sử dụng, femtocell phải đáp ứng tính năng cắm và chạy (plug-
and-play) giống như cách mà người ta cài đặt và sử dụng một trạm truy nhập WiFi. Trong
tương lai, hàng ngàn femtocell sẽ được nối kết với kiến trúc mạng lõi di động thông qua mạng
công cộng Internet. Điều này đặt ra bài toán về khả năng mở rộng (scalability), tính bảo mật
và sự chuẩn hóa của các thiết bị và giải pháp. Dưới đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu 4 giải pháp
đã được đề nghị để kết nối thiết bị femtocell đến mạng lõi di động.

a) Kiến trúc dựa trên UMTS


Giải pháp đầu tiên đi theo hướng giữ nguyên hạ tầng mạng nằm phía sau RNC. Việc liên lạc
từ các femtocell về mạng lõi sẽ thực hiện bằng đường hầm IP được bảo mật thông qua mạng
IP băng rộng công cộng. Chúng ta có thể phân ra 2 loại: Iub trên IP (nếu đường hầm IP được
thiết lập giữa femtocell và RNC) và Iu trên IP (nếu đường hầm được thiết lập giữa RNC và
MSC/SGSN). Trong khung giải pháp này, Iu-concentrator (còn được gọi là Femtocell
Gateway - FGW) được đề nghị để như điểm tập trung lưu lượng thông tin từ hàng nghìn
femtocell trước khi đi vào mạng lõi di động để tăng khả năng mở rộng (scalability).
Giải pháp Iub trên IP
Trong giải pháp này, femtocell đóng vai trò của một Node B, còn FGW sẽ nằm giữa femtocell
và RNC như minh họa ở hình 1. Giải pháp này thích hợp khi có ít người kết nối với femtocell
cùng lúc (ví dụ trong gia đình hay văn phòng ít người). Tùy theo số lượng femtocell kết nối
với FGW mà FGW và RNC có thể thiết kế trong cùng một thiết bị hay 2 thiết bị riêng lẻ. Ở

2
đây ta xét trường hợp chúng tách biệt nhau và liên lạc giữa FGW và RNC thực hiện trên giao
diện Iub.

Hình 1 : Kiến trúc giải pháp Iub-trên-IP

Hình 2 : Bộ giao thức của giải pháp « Iub trên IP »

Femtocell có số xác thực gồm 16 bit như một cell-ID. FGW có nhiệm vụ ghép lưu lượng từ
nhiều femtocell đến và chuyển tiếp chúng đến RNC dùng giao thức FP (Framing Protocol).
Giao thức Iub được đóng gói trong các gói IP (còn gọi là đường hầm Iub). Bảo mật sẽ được
đảm bảo bởi giao thức IPSec. Ngay lúc đầu lắp đặt, femtocell sẽ tạo một liên hiệp bảo mật với
FGW để tránh những thông tin thuê bao giả đến từ mạng IP công cộng. Femtocell dùng TR-
0691 hay một cơ chế tương tự để cấu hình địa chỉ IP của nó từ một máy chủ cấu hình tự động
ACS (Auto Configuration Server). RNC và FGW sẽ cùng nhau thực hiện chức năng quản lý
tài nguyên, đặc biệt dành riêng cho các chuyển giao giữa femtocell và macrocell. Nếu mạng
lõi không hỗ trợ truyền tải IP, RNC sẽ làm nhiệm vụ chuyển đổi IP-sang-ATM và ngược lại.

Các chức năng như quản lý di động MM (Mobility Management) và điều khiển cuộc gọi CC
(Call Control) được thực hiện bởi mạng lõi. Với giải pháp này, nếu femtocell và macrocell
cùng thuộc sự quản lý của một RNC, sự chuyển giao giữa femtocell và macrocell sẽ thuộc
loại intra-RNC. Trong trường hợp ngược lại, sự chuyển giao giữa femtocell và macrocell sẽ là
inter-RNC. Khi chuyển giao từ macrocell sang femtocell, the CN và UE sẽ chọn femtocell
1
Một giao thức ở lớp ứng dụng định nghĩa bởi DSL Forum cho quản lý từ xa của người dùng đầu cuối.

3
thích hợp, thiết lập báo hiệu Iub và tạo đường hầm vận tải thông qua mạng IP công cộng giữa
FGW và femtocell. Tài nguyên vô tuyến giữa femtocell và UE được quản lý bởi giao thức
RRC (Radio Resource Control) ở RNC. Một khi việc thiết lập đường hầm Iub hoàn tất, mạng
lõi sẽ chuyển cuộc gọi sang femtocell. Trong chuyển giao từ femtocell sang macrocell, RNC
sẽ tiến hành thiết lập kết nối với macrocell trước khi chuyển cuộc gọi sang macrocell. Trong
chuyển giao giữa 2 femtocell, RNC sẽ đóng vai trò là nút neo (anchor) trong quá trình thiết
lập đường hầm Iub tới femtocell đích đến.

Trở ngại của giải pháp này nằm ở giới hạn mở rộng của RNC để đáp ứng hàng ngàn Node-B
(bao gồm các femtocell). Để khắc phục phần nào tình trạng này, FGW đã được đề nghị. Mặc
dù giao diện Iub là một giao diện chuẩn nhưng nó lại có thêm nhiều đặc tính riêng tùy thuộc
theo giải pháp của nhà cung cấp thiết bị mạng. Chính vì thế, nó thiếu một sự nhất quán chung
giữa những nhà sản xuất thiết bị khác nhau.

Giải pháp Iu trên IP


Trong giải pháp này, các femtocell sẽ được tích hợp với mạng lõi di động thông qua các FGW
như minh họa ở hình 3. Những chức năng của RNC và Node B sẽ được cài đặt trên femtocell
và do đó femtocell sẽ liên lạc với FGW thông qua giao diện 3G Iu trên IP. Số nhận diện của
femtocell trong trường hợp này khi liên lạc với FGW có dạng địa chỉ của một RNC (12
bits). FGW tạo đường hầm cho các thông điệp báo hiệu RANAP từ femtocell đến mạng lõi.
Nếu mạng lõi không hỗ trợ vận tải IP, FGW sẽ đảm nhiệm việc chuyển đổi giữa truyền tải IP
và truyền tải ATM nhờ vào giao thức truyền tải báo tin SIGTRAN. Cũng giống như trên,
trong giải pháp Iub trên IP, ngay khi lắp đặt, femtocell sẽ tạo một liên hiệp bảo
mật với FGW và dùng TR-069 hay một cơ chế tương tự để cấu hình địa chỉ IP của nó. Thêm
vào đấy, femtocell sẽ sử dụng ACS để cấu hình các thông số quản lý tài nguyên cũng như
thuật toán thực hiện trong môi trường femtocell.

Hình 3: Kiến trúc giải pháp Iu trên IP


FGW là điểm tập trung lưu lượng từ hàng ngàn femtocell gửi đến và tách gửi lưu lượng thoại
và dữ liệu đến tổng đài MSC và SGSN giống như chức năng của một RNC. Ví dụ, thông tin
thoại sẽ được gửi từ femtocell đến FGW dùng RTP trên UDP, sau đó FGW sẽ chuyển đổi
thông tin thoại này sang IP, ATM hay DTM tương ứng với truyền tải của mạng lõi. Tóm
lại, FGW giả lập vai trò của mạng lõi di động đối với các femtocell và giả lập RNC đối với
mạng lõi di động. Do vậy, với giải pháp này ta không cần bất cứ sự thay đổi nào ở hạ tầng
mạng lõi. Để bảo mật thông tin gửi từ femtocell đến FGW qua mạng IP công cộng, giao thức
IPSec được chọn dùng. Một cổng bảo mật sẽ được cài đặt cùng với FGW . Đây cũng chính
là điểm kết thúc của các đường hầm IPSec đến từ các femtocell.

4
Hình 4: Bộ giao thức của giải pháp « Iu trên IP »
Khi người dùng chuyển giao từ femtocell sang một macrocell, nếu cả 2 đều cùng thuộc sự
quản lý của một MSC/SGSN, chuyển giao này sẽ thuộc loại inter-RNC. Nếu không, chuyển
giao giữa femtocell và macrocell sẽ được thực hiện như một chuyển giao inter-
MSC/SGSN. Khi chuyển từ một macrocell sang một femtocell, UE và CN sẽ xác định
femtocell thích hợp dựa vào danh sách các cell cận kề, thiết lập báo hiệu Iu và đường
hầm truyền tải giữa femtocell và FGW thông qua mạng IP. Việc quản lý tài nguyên giữa
femtocell và UE được thực hiện nhờ sự phối hợp của giao thức RRC và RANAP (như hình
4). Một khi đường hầm Iu được thiết lập, mạng lõi sẽ chuyển cuộc gọi thoại tới femtocell sử
dụng giao thức quản lý di động MM và giao thức quản lý cuộc gọi CC ở MSC và UE. Trong
quá trình chuyển giao theo chiều ngược lại, tức từ femtocell sang macrocell, giao thức
RANAP tại MSC và giao thức RRC tại RNC đích đến thiết lập kết nối ở macrocell trước khi
cuộc gọi được chuyển giao. Đối với chuyển giao giữa 2 femtocell, MSC/SGSN đóng vai trò
như một điểm neo để thiết lập đường truyền và đường hầm Iu mới tới femtocell đích đến.

Femtocell có chức năng quản lý tài nguyên cục bộ giữa femtocell và những người dùng. Tuy
nhiên, chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào sự kết nối với mạng IP công cộng. Những vấn đề như
độ trễ IP hay mất gói tin dĩ nhiên sẽ ảnh hướng đến chất lượng dịch vụ trên femtocell. Đây là
một giải pháp nhanh nhất và đơn giản nhất để triển khai femtocell. Tuy nhiên, do tất cả dung
lượng từ các kết nối femtocells sẽ đổ về mạng lõi, điều này có thể sẽ dẫn đến yêu cầu phải
nâng cấp mạng lõi.

(Còn nữa)

You might also like