Professional Documents
Culture Documents
Tu VI Tinh Dien
Tu VI Tinh Dien
Sưu Khảo
TỬ VI TINH ĐIỂN
TỬ VI TINH ĐIỂN
LUẬN VỀ CÁC SAO TRONG TỬ VI
VŨ TÀI LỤC
Lập luận trên là sai lầm! Vì chỉ bằng quan điểm khoa học, xem
mệnh tướng là hoang đường và mê tín vì đã chẳng hiểu sâu xa những
kiến thức đến từ số mệnh học. Lưới tin học giăng xa khắp thế giới, cho
con người đủ mọi tin tức và hiểu biết ngay tức khắc khi một sự việc xảy
ra ở bất cứ nơi nào trên địa cầu. Duy có một hiểu biết mà “hệ thống
internet” không thể cung cấp được là hiểu biết và nhận thức về chính
bản thân mỗi người trong chúng ta.
Tại một ngôi đền ở thành Athens có khắc một câu châm ngôn của
các nhà hiền triết Hy Lạp cổ thời “HÃY NHẬN THỨC BẢN THÂN MÌNH”.
Châm ngôn ấy chính là cơ sở của tất cả các loại mệnh số học từ trước
tới nay, ở bất cứ đâ. Tôi nhắc lại ba chữ mệnh số học để nói rằng
những khoa thuộc loại này đã được kể là một học vấn tồn tại lưu truyền
từ mấy ngàn năm, được phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng. Xã hội loài
người càng tiến hoá càng phức tạp. Thời hồng hoang chưa có số mệnh
nhưng chưa có đạo đức, chưa có văn hóa, chưa có hệ thống cơ chế,
vẫn có số mệnh nhưng chưa có số mệnh học vì con người chỉ biết vái
trời mà cầu đảo, mọi sự trông vào lối giả quyết của những cúng kiến
mang tính chất thuần tôn giáo, mê tín.
Thoát khỏi cuộc sống ăn lông ở lỗ, bước vào sinh hoạt văn hóa,
đạo đức và cơ chế, đường đi nước bước của hành động dần dần thay
thế tình trạng tuyệt đối tùy thuộc ông trời và bọn thầy cúng, số mệnh con
người được đưa ra xem xét cặn kẽ để hình thành khoa số mệnh học.
Kinh dịch chính là một trong những bộ sách cổ của số mệnh học trong
cái tinh thần “Hãy nhận thức bản thân mình”. Khi Văn Vương lập Bát
quái bắt nguồn từ tìm thấy ở Lạc thư hà đồ, một công thức toán nguyên
thủy viết trên những ô vuông như mai con rùa gồm chín ô (như bàn cờ
tướng). Mỗi ô viết một chữ số thành ra số 15 gồm mỗi ô cộng lại, cho
bất cứ hướng nào, ngang dọc chéo như sau:
4 9 4
3 5 7
8 1 6
Tổ chức xã hội với các mặt cơ chế chính trị, kinh tế, giáo dục, văn
hóa tinh vi bao nhiêu thì số mệnh học con người càng hiện rõ bấy
nhiêu. Quyền cao chức trọng, luân lạc giang hồ, giai nhân mệnh bạc,
bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mói được phần thanh
cao. Vương Khải, Thạch Sùng, Bill Gates, Turner, công nương Diana…
đều mang số mệnh riêng biệt.
Dịch là chuyển biến, thay đổi không ngừng. Toàn vũ trụ không lúc
nào không chuyển dịch, biến đổi. Chuyển đổi là nguyên động lực đẩy
quay bánh xe số mệnh và con người ở trần thế này. Tốc độ biến dịch
mỗi thời kỳ một mau hơn. Con người cần nhận thức được bản thân để
thích ứng hoặc trực diện đương đầu, hoặc tránh né để chờ thời mà thực
hiện tốt cuộc tranh sống với hoàn cảnh thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội.
Khả năng của lưới tin thời đại chỉ lan xa, mở rộng và chỉ xuất hiện
mới đây, nhưng tấm lưới của số mệnh đã có từ khi hình thành vũ trụ,
chẳng những bao la, xa rộng mà còn thấm sâu vào đời sống vạn vật.
Lưới tin chỉ có thể cho ta biết những gì đang xảy ra, đã xảy ra nhưng
lưới của số mệnh Nostradamus phát hiện được những gì sẽ đến sau
cả trăm năm. Nếu không dùng số mệnh học để giải đáp, chúng ta
không thể hiểu tại sao?
Vở kịch La Moueette của Anton Tchkoov lần đầu trình diễn là một
thất bại thê thảm đến nỗi tác giả phải bỏ trốn để không bị nghe những
lời mạt sát, công kích. Nhưng chỉ ba tháng sau thôi, hào quang của vở
kịch những những bao trùm nước Nga mà còn chiếu sang ra toàn thế
giới, mà làn trình diễn thứ hai vở kịch không hề được gọt dũa hay thay
đổi dù một chữ.
Gần hai chục năm, mạng lưới số mệnh đã bủa vây công nương
Diana, từng lớp từng lớp, cuối cùng đưa tới cái chết thê thảm của bà
Diana, từng lớp từng lớp, cuối cùng đưa tới cái chết thê thảm của bà
giữa lúc mà kỹ thuật lưới tin phát triển rầm rộ. Vậy thì nói chuyện số
mệnh vào lúc này khi nhân loại bước sang kỷ nguyên kỹ thuật lên cao
nhất, kinh tế toàn cầu phức tạp nhất trong lịch sử lại là hợp thời.
Phương Đông không dùng hai chữ định mệnh mà dùng số mệnh.
Như Tử Vi Đẩu Số, Mai Hoa Dịch Số, mở đầu bộ Kinh Dịch là thấy ngay
những con số như Thái Cực Sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng và sáu mươi bốn quẻ dịch. Ngôi vua được gọi là ngôi Cửu Ngũ,
căn cứ và hệ tử qua quẻ càn “Cửu Ngũ, Phi Long tại Thiên”. Dùng số
cốt để chỉ một bài toán có thể tính ra, tìm thấy. Nếu kể là định mệnh thì
đành chỉ bó tay chịu thôi.
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa kể mấy chuyện về trận Xích Bích như
Gia Cát Lượng đã tính ra ngày sương mù để sản xuất ra những mũi tê
lấy từ kho vũ khí của Tào Tháo; tính thời gian có gió đông để đánh chiến
thuyền của quân Ngụy bằng hỏa công và còn rất nhiều chuyện tương tự
rải rác ở các sách khác hoặc từ văn học dân gian.
Lịch sử nước ta có mấy câu kể vào loại “nhất ngôn hưng bang” ảnh
hưởng lâu dài đến vận mệnh của cả nước đều bắt nguồn từ tính toán
mệnh số:
- Lúc họ Trịnh toan cướp ngôi Lê sai người vào hỏi ông Trạng
Trình. Ngài trầm ngâm chẳng muốn bàn thảo thẳng vào vấn đề.
Các sứ gia của Trịnh lặng yên ngồi chờ thì bỗng Trạng Trình sai
bảo người nhà một điều: “Hẵng quét dọn sạch sẽ nơi thờ tự vào
chùa thờ Phật thì được ăn oản” chỉ một câu ấy thôi rồi ngài xin phép
các sứ giả vào nghỉ. Sứ giả về tâu trình lại với chủ, họ Trịnh hiểu ý,
không đoạt ngôi Lê nữa mà chỉ xưng là chúa nhưng quyền hành đã
nắm hết trong tay. Câu vào chùa thờ Phật thì được ăn oản đã khiến
cho nước hết loạn, dân được yên. Nếu tranh đoạt ngôi Lê thì cái thù
của dòng họ còn kéo dài và giết chóc chưa chấm dứt.
- Một lần khác khi Nguyễn Hoàng bị chúa Trịnh chèn ép bèn sai
gia nhân đến thỉnh ý Trạng Trình. Ngài bảo: “Hoành Sơn nhất đái
vạn đại dung thân” (Dãy núi Hoành Sơn có thể dung thân vạn đời).
Nguyễn Hoàng hiểu ý xin với chúa Trịnh cho mình đi trấn thủ phía
Nam, một nơi mà chúa Trịnh coi là tử địa cho Nguyễn Hoàng. Thế
nhưng Nguyễn Hoàng từ đấy đã mở mang bờ cõi cho nước ta, trải
nhưng Nguyễn Hoàng từ đấy đã mở mang bờ cõi cho nước ta, trải
dài tới đến Cà Mau.
- Trạng Trình một nhà số mệnh học uyên thâm, cụ đã tính và nhìn
thấy rõ chẳng những tương lai của một người, một dòng họ àm còn
tương lai của một dân tộc. “Vào chùa thờ Phật thì được ăn oản” là
câu nói tạo nên một thời an dân. “Hoàng Sơn nhất đái vạn đại dung
thân” là câu nói hưng bang, mở mang bờ cõi
- Các lời tiên tri của Nostradamus thiết tưởng tất cả mọi tin tức của
ngành tin học cho dù có lúc nó phát triển cao độ nhất chắc chắn
cũng vẫn chẳng theo kịp. Họ Trịnh, họ Nguyễn đã được Trạng Trình
chỉ bảo mà nhận thức ra chính mình dối với tình thế trước mặt.
Nhận thức ấy đã ảnh hưởng rất lớn cho đất nước đương thời và
những thế hệ mai sau. Alexandra không chết tại trận tiền đẫm máu
và đầy thây người nhưng đã lìa đời bởi một căn bệnh khônglấy gì
làm độc hại. Cesar đã gục ngã ngay ngưỡng cửa thượng viện bởi
những lưỡi dao của người bạn mà ông rất tin cậy, quí trọng Brutus.
Napoleon tạ thế trong trại giam khi bị lưu đầy ra đảo Saint Heleneb
bởi chứng đau bao tử (cũng có giả thuyết nói ông bị đầu độc).
Napoleon từng nói: “Giữa cái ngố nghếch lố bịch và cái vĩ đại huy
hoàng chỉ cách nhau gang tấc”
- Sau khi họp với các tướng lãnh đạo thảo luận về chiến dịch tấn
công Nga Xô Viết, Hitler lên máy bay trở về đại bản doanh tại tư
dinh ông ở Rastenburgus, bay gần đến nơi thì máy bay ngộ nạn.
Một số tùy tùng chết, riêng ông thì hôn mê nửa năm. Cuộc chiến với
Nga ngay lúc khởi sự đã gặp trục trặc, ảnh hưởng đến cả tương lai
lịch sử thời ấy. Thiếu Hitler các tướng không đồng ý chặt chẽ được
với nhau, các tướng cũng không phục thống chế Goering mà Hitler
có ý định chọn làm người kế vị. Bởi thế chiến dịch Barbarossa đã
không thành công trước mùa đông để rồi thất bại.
- Ông Buachau người Thái Lan được cả thế giới coi là ông vua rắn.
Nhưng ông lại đã chết vì rắn cắn sau khi hưởng danh hiệu vua
chưa đầy 3 năm. Lý do ông chết chỉ tại người thân thuộc không đưa
ông tới nhà thương ngay vì họ nghĩ ông là vua rắn, làm saio chết
bởi rắn cắn được.
Thời cùng thế kiển chi nhân, đương nguyên kỳ thực tâm
(Người ở vào cái thế cùng kiệt mà không đánh mất nhiệt tâm phấn
đấu
Người đang lúc công thành danh toại hãy nhìn ra lúc mạt lộ của
mình)
Câu này đáng để ta suy ngẫm về cái triết lý của mệnh số. Ba Khải
quốc công thần đời Hán: Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương
Sở dĩ Trương Lương sắp xếp an toàn tình cảnh mạt lộ của mình
chính là nhờ ông giỏi khoa toán mệnh.
LỜI DẪN
Luận đoán một lá số phải căn cứ vào các sao đã an qua lề lối
được ấn định bởi ngày giờ năm tháng sinh. Ta thấy hơn một trăm sao
từ chính tinh đến phụ tinh như Tử Vi, Thiên Phủ, Kình Dương, Đà La,
Văn Xương, Văn Khúc, Cô Thần, Quả Tú…
Văn Xương, Văn Khúc, Cô Thần, Quả Tú…
Như vậy có phải khoa Tử Vi liên hệ đến thiên văn không? Nhất là lại
nhắc tới các hệ nam đẩu với bắc đẩu tinh.
Khoa Tử Vi không dính dáng gì đến thiên văn. Những sao ấy chỉ là
những hư tinh dùng làm ký hiệu cho sự lập thành lá số, cũng như trong
khoa kham dự (địa lý) dùng Phá Quân, Liêm Trinh, Cự Môn để chỉ hình
thù của một trái đất. Nhiều người vẽ rắn thêm chân cho rằng tinh hệ của
Tử Vi đẩu số còn liên quan cả đến từ trường…
Cuốn sách này chỉ diễn dịch cho rõ rằng cổ nghĩa đã ghi ở các bài
phú của cổ nhân mà thôi. Tỉ dụ khi nói về Hỏa Tinh Linh Tinh, người
xưa bảo “Hỏa Minh Linh Ám” thì thế nào là minh, thế nào là ám cho rõ
trắng đen để người đọc dễ dàng nắm được then chốt. Ở đây cũng tìm
hiểu thêm lý do tại sao Không Kiếp lại khởi từ cung Hợi mà tính đi, tại
sao Xương Khúc lại từ Thìn Tuất, tại sao Tứ Hóa lại bắt đầu từ Hóa Lộc
đến Quyền đến Khoa và sau cùng là Kị.
Ngoài ra là ít nhiều tìm tòi về những sao có ghi trong sách vở bên
Trung Quốc mà không hề được nhắc tới khi Tử Vi truyền qua nước ta
như: Âm Sát, Quan Sát, Tuế Dịch, Phan Án, Tức Thần, Thiên Sát, Chỉ
Bối, Nguyệt Sát, Vong Thần….
Rồi đến các sao cấp hai như Xương Khúc, Tứ Hóa, Kình Đà, Linh
Hỏa, Tuần Triệt không vong, bộ tam minh Đào Hồng Hỉ…
Sao cấp bốn như Riêu Hình, Kiếp Sát, Long Phượng, Thai Tọa…
Sao tính theo năm, theo tháng, theo ngày và theo giờ.
Sao tính theo năm còn chia ra Can với Chi, như Lộc Tồn theo Can,
Linh Hỏa theo Chi.
Thời cổ lập luận lấy năm làm gốc rễ, tháng là mầm mống, ngày là
hoa, giờ là quả, cho nên năm được coi làm thần dẫn đạo. Đến đời Tử
Bình mới bác bỏ luận cứ trên vì năm làm thần dẫn đạo tính số không
được chính xác, phải lấy ngày làm thần dẫn đạo mới đúng. Từ đấy đến
nay không được thay đổi nữa.
Khoa Tử Vi cũng lấy ngày làm chủ như Tử Bình. Lập cục rồi tìm Tử
Vi theo ngày. Cõi nguồn của lý số là Đạo gia không phải Nho gia vì Nho
gia không đặt nặng lẽ chí huyền chí vi. Âm Dương Ngũ Hành gần với
Đạo gia hơn Nho gia. Khi Khổng Khâu giảng Kinh dịch, ông bẻ công
vào khuynh hướng chính trị và nhân luận vốn là tư tưởng căn bản của
Nho. Dịch vào lý số lại đi theo con đường khác hẳn. Nhưng không phải
Nho gia không ảnh hưởng vào lý số. Mười hai cung trên lá số gồm
Mệnh, Bào, Tử, Tài, TẬt, Thiên, Nô, Quan, Điền, Phúc, Phụ chính là tổ
chức của Nho gia. Ý nghĩa nhân luận của Nho gia được dùng làm cơ
sở thực tế để luận về số mạng. Nho gia có lục nghệ: Lễ, Nhạc, Sạ, Ngự,
Thư, Số để phân định văn với vũ, các sao của khoa Tử Vi cũng chia ra
văn và vũ. Sự suy đoán một lá số Tử Vi xuất hiện khá nhiều sắc thái
Nho.
LUẬN VỀ SAO T Ử VI
Tử Vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi,
đứng bậc chí tôn còn gọi là đế toà (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm
tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như
cổ ca viết:
Võ tướng vi cô quân
Những sao tá tinh đứng ở đâu? Ở hai bên hoặc theo tam hợp
chiếu gọi là giáp hay hiệp, hoặc đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi đứng giữa hai
cung bên có Tả Phụ Hữu Bật Xương Khúc. hoặc Tử Vi cùng Tả Hữu
đứng chung một cung, hoặc tam hợp xung chiếu là Tả Hữu.
Nếu không có quần thần lại còn gặp nhiều hung tinh tức là đế ngộ
hung đồ (vua gặp kẻ cướp) hoặc “quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” (vua bị
đám gian thần tiểu quân uy hiếp). Đế tinh trở nên vô dụng còn gặp nguy
hại nữa.
Hung đồ tiểu nhân là những sao nào? Kình Dương, Đà La, Linh
Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Tham Lang, Tuần Triệt. Đừng
quên rằng những sao kể trên chỉ là hung đồ tiều nhân đối với Tử Vi thôi.
Ở một số trường hợp khác, chúng lại thành cực tốt.
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: Quần thần khánh hội, phú quí
song toàn (vua tôi hợp hội giàu sang)
Cách này là cách Tử Vi gặp đầy đủ sao phò trợ, như Tả Hữu làm
tướng súy, Thiên Tướng Xương Khúc làm phụ tá, Khôi việt làm quan
truyền lệnh, Thiên Phủ làm quan coi kho, binh lương, Lộc Mã làm quan
giữ sổ bộ phong chức tước.
Trong “Chư tinh vấn đáp”, Trần Hi Di tiên sinh viết: “Tử Vi là đế hoa
ở mọi cung đều có khả năng giáng phúc tiêu tai, hóa giải những hung
ác của các sao khác, khả dĩ chế ngự Hỏa Tinh, có năng lực biến Thất
Sát thành quyền, hợp cùng với Thiên Tướng, Thiên Phủ đều thành sang
quí, nếu không thế lực thì cũng giàu có, dù gặp Tứ Sát phá vẫn xem là
trung cục hoặc bình thường chứ không đến mức thấp kém, hạ tiện.
Sang đến “Cổ Ca” lại thấy một câu khác: “Tụ hội với Kình Dương
Hỏa Linh biến thành loại ăn trộm, ăn cắp vặt”. Thế là thế nào? Hai câu
mâu thuẫn nhau? Thật ra không mâu thuẫn. Tử Vi phải đi cùng với các
sao tốt khác đã, rồi gặp Tứ Sát mới là trung cục. còn như gặp toàn sát
tinh không tất nhiên thấp kém, hạ tiện.
Trường hợp Tử Vi đứng một mình tại Ngọ cung và Tí cung (đứng
Ngọ đẹp hơn) tất có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu lên hội họp, sách
gọi bằng cách Cực Ưỡng Ly Minh (Cực là tên gọi khác của Tử Vi, Ly là
cung Ngọ). Cách Cực Ưỡng Ly Minh dù không đến nỗi ra cái thân phận
cô quân.
Chỉ xem thê cung mà thấy nhiều đào hoa tinh thì dễ bị vợ lừa. Vào
số nữ thì khác, thường chỉ là chồng kém mình trên địa vị học vấn hoặc
tiền bạc. Phủ, Tướng trong cách “Cực Ưỡng Ly Minh” đã góp phần nào
cho sự cân bình lực lượng chống với hung sát tinh. Căn cứ vào câu
phú: “Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ”, Tử Vi Tí Ngọ gặp
thêm Khoa Quyền Lộc thì cán cân lực lượng ngã về Tử Vi, ác thế lực
cũng phải nhường bước.
cũng phải nhường bước.
Tử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ
chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu
Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào
Thiên La địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất
vả.
Tử Vi Phá Quân, Tử Vi Thiên Tướng thủ Mệnh nữ, việc trăm năm
không suôn sẻ, lận đận chồng con. Tử Vi Phá Quân đóng Mệnh bị Liêm
Tham Tỵ hoặc Hợi xung chiếu. Tử Vi Thiên Tướng đóng Mệnh, Phu
cung Tham Lang hội Liêm Trinh ở Dần hoặc Thân. Liêm Tham là hai
sao mang tính chất sắc tình rắc rối, bởi vậy nên vấn đề gia thất không
êm.
Bây giờ bàn riêng về Tử Vi Phá Quân. Tử Vi Phá Quân đi cặp chỉ
thấy ở hai cung Mùi và Sửu. Phá Quân là sao xung phong hãm trận, đi
với Tử Vi được tính như vị tướng dũng mãnh. Tử Vi ra hiệu lệnh, Phá
Quân thi hành.
Muốn khống chế Phá Quân, Tử Vi cũng cần một trí lực cao. Do đó
Tử Phá đóng Mệnh bất luận nam hay nữ đều là con người quyết đoán,
chí phấn đấu sôi nổi, can trường lì lợm, phiêu lưu, không thủ cựu, có
đời sống hiếu động nhiều màu sắc.
Số trai Tử Phá dễ đi vào chính giới hay quân giới nếu gặp cơ
duyên. Được Hóa Quyền Tả Hữu Kình Dương là thành công. Tuy nhiên
cuộc sống bôn ba thăng trầm. Tử Phá ra kinh doanh cũng đắc lực
nhưng không bền vì nguyên tắc tiền bạc cần phải an định mới tụ để
phát triển lớn.
Tử Phá và Tử Vi Tham Lang (tức các Đào hoa phạm chủ). Nam
mạng Tử Phá mà tuổi Sửu, Mùi, Thìn, Tuất vào quân giới chính trị hay
hơn các tuổi khác (Qua kinh nghiệm thôi, sách vở không nêu lý do tại
sao).
Tử Phá nữ mệnh đối với hiện đại tốt hơn thời xưa vì hiện đại người
đàn bà được trọng qua sự nghiệp hơn là qua hôn nhân theo quan niệm
tự do phóng khoáng là hạnh phúc.
Về cách Tử Vi Tham Lang đóng Mão và Dậu, cách này cổ thư gọi
bằng Đào hoa phạm chủ. Tử Vi là chủ, Tham Lang là Đào hoa. Tham
Lang ví như Đắc Kỷ, Tử Vi ví như Trụ Vương. Tham Lang như Tây Thi,
Tử Vi như Phù Sai.
Tử Tham Tứ Sát tâm thần sinh ra chán nản thường trực. Không cứ
phải cạo trọc đầu hay khoác áo nhà tu mới là thoát tục, mới là tăng lữ.
Cách Tử Tham nếu chỉ gặp Hỏa hay Linh tinh tránh được Kình Đà
Không Kiếp thì tốt hơn. Trong khi cách Tử Vi Phá Quân gặp Linh Hỏa lại
không tốt mà gặp Kình Đà lại hay, như câu phú: Tử Phá thủ Mệnh ngộ
Dương Đà, tiện khứ kinh thương (hội Dương Đà vào kinh thương
hoạnh phát)
Cổ nhân còn đưa ra câu phú sau đây:
Tử Vi ngộ Phá Quân ư Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ cung, vi thần bất
trung, vi tử bất hiếu
(Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm bề tôi bất
trung, làm con bất hiếu)
Tử Vi Thiên Tướng tại Thìn hay Tuất đều gặp Phá Quân ở Tuất hay
Thìn. Còn Tử Vi Sửu Mùi đương nhiên đứng bên Phá Quân.
Tử Phá Sửu Mùi vào quân giới, chính trị đạt ước nguyện, hai giới
này sự phản phúc bất trung chẳng khác gì chất dẫn hỏa chỉ chờ có lửa
liền bốc cháy, bởi vậy không nên dùng người mang số Tử Phá làm tâm
phúc.
Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ
khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe
theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào
ngả chiều ấy.
Còn vấn đề làm con bất hiếu? Bản chất con người Tử Phá không
bao giờ chịu ước thúc trói buộc, làm việc chỉ hoàn toàn tự ý, vì lợi hay vì
vợ dụ mà bất hiếu do cái lòng ích kỷ và ba phải.
Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm
tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà
quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương
gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền
không được.
Nói đến Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung. Cách này hiện lên chỉ ở hai
cung Dần và Thân. Phú ghi mấy câu:
Tử Vi Nam Hợi Nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh thân phú quí đồng
Tử Phủ, Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí
Câu thứ nhất Tử Vi Nam Hợi không có Thiên Phủ đồng cung, đó là
cách Tử Vi Thất Sát với cung xung chiếu là Thiên Phủ. Chỉ có Dần cung
mới đứng cùng Thiên Phủ thôi.
Vậy thì số gái Tử Phủ mà tuổi Nhâm Giáp giàu sang là bởi tại tuổi
Giáp Lộc Tồn đóng Dần, hội với Hóa Lộc đứng bên Liêm Trinh và Hóa
Khoa đứng với Vũ Khúc. Hội đủ Khoa Quyền Lộc: tuổi Nhâm Quyền
Khoa ngay tại mệnh và Lộc Tồn nhị hợp từ Hợi.
Câu hai còn như gấm thêm hoa, đã Khoa Quyền Lộc còn cả Tả
Hữu càng đẹp, đã sang trọng giàu có còn quyền thế.
Câu ba ý chỉ dù không phải là tuổi Giáp Nhâm cũng có đời sống
bình ổn vững vàng.
Câu bốn nói Tử Phủ đồng cung tại Thân tốt hơn tại Dần, vì Thân thì
Thái Dương Thái Âm đắc địa trợ giúp cho vận trình, trong khi ở Dần,
Thái Dương Thái Âm vào thế hãm (chỉ riêng cho tuổi Giáp).
Có một luận cứ đáng ghi nhận nói: Tử Phủ đồng cung hội tụ cả hai
chủ tinh Bắc và Nam đẩu, như vậy thái quá nên dễ cô đơn. Trường hợp
Mệnh Phụ Mẫu, Phu chịu ảnh hưởng Cô Thần Quả Tú càng nặng dễ ly
hôn, góa bụa hoặc sớm khuyết cha mẹ.
Chuyển qua cách Tử Vi Thất Sát. Cách này chỉ hiện lên ở hai cung
Tỵ và Hợi. Trần Đoàn tiên sinh viết: Tử Vi năng hóa Thất Sát vi quyền. Tử
Vi đứng bên Thất Sát thế vị oai nghiêm, hùng tâm vạn trượng, như vị
hoàng đế xuất chinh có bầy tướng giỏi.
Tử Vi Thất Sát khả năng hành động cũng như khả năng suy tưởng
kế hoạch đều giỏi, tham vọng cao , vào bất cứ lãnh vực nào học vấn,
kinh doanh, chính trị, quân sự, kỹ nghệ đều được. Thành tựu lớn hay
nhỏ, cao hay thấp còn tùy thuộc các phụ tinh. Nếu nhiều phụ tinh tốt thì
chức trọng quyền lớn, địa vị chức nghiệp khả kính.
Tử Vi Thất Sát có Hóa Quyền thế lực càng lớn. Phú nói: Tử Vi Thất
Sát Hóa Quyền phản tác tinh tường (Tử Sát mà gặp Hóa Quyền lại
thành hay đẹp). Tại sao dùng hai chữ phản tác? Bởi tại Tử Vi không
Thất Sát mà chỉ Hóa Quyền tự mình không điều khiển được Quyền sẽ
đưa đến hung hiểm
Tử Vi hợp với Lộc Khoa Khôi Việt Tả Hữu hơn đứng riêng với Hóa
Quyền. Tử Vi Thất Sát thủ Mệnh gặp Tuần Triệt ưu thế bị giảm nhiều,
thành công với hư vị, không có thực quyền. Như phú nói: Tử Vi Thất Sát
gia không vong, hư danh thụ ấm.
Vai trò Thiên Phủ từ cung xung chiếu của cách Tử Vi Thất Sát chỉ là
phụ họa vào cái tốt đã sẵn thôi. Về hình thái và tính nết của Tử Vi có
những điểm sau: Tử Vi người đầy đặn, mặt vuông vắn hoặc tròn. Tử Vi
có một sở đoản trên tính tình, ưa nghe lời phiến động, khoán nịnh, đôi
lúc kiêu căng và dễ phụ hội với kẻ quyền thế, hay biến tâm, bản chất
tương đối trung hậu nhưng khí lượng hẹp hòi, thiếu anh hùng bản
sắc.Có khuynh hướng năm thê bảy thiếp.
Nghĩa là:”Vận hạn gặp sao Tử Vi, thương nhân phát tài, làm quan
thăng chức. Tử Vi là sao đem may mắn đến. Nhưng nếu gặp thêm với
Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì lại không tốt. Kẻ dân giã bất lợi,
người chức vị khó khăn.
Sát Phá Tham đây là Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham ở cung vận hạn.
Không hẳn gặp những sao ấy sẽ bất lợi với khó khăn. Vì Tử Sát, Tử Phá
thường gây ra biến động. Thời xưa con người sợ biến động, nhưng thời
nay biến động là cần thiết.
Thấy Tử Sát, Tử Phá ở vận trình hoặc tiểu hoặc đại vận mà hay tốt
lên thì mừng chứ sao lại lo ngại. Những câu cổ ca trên không lấy gì là
đúng cho hiện đại.
Về sao Tử Vi còn thấy những câu phú khác không ghi trong toàn
thư mà của những nhà tướng số đời sau ghi lại qua kinh nghiệm.
- Đế toạ ly cung Tam Kỳ Hình Ấn Khôi Xương Hồng Bật, mỹ mạo
tài hung, hạn hữu Cự Sát Đà Linh, Chu Du cam hận mệnh vong
(Tử Vi đóng Ngọ hội hợp với Khoa Quyền Lộc, Hình Ấn, Khôi Xương
là người tài giỏi, tướng mạo khôi ngô, nếu gặp vận hạn có Cự, Sát, Đà,
Linh (Cự Môn, Đà La, Linh Tinh hoặc Thất Sát, Đà La, Linh Tinh) thì
giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết)
giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết)
- Đế lạc nhàn cung, gia Khúc Xương đa ngôn giảo hoạt
(Tử Vi đóng Tí Mão Dậu hội tụ Xương Khúc thì giảo hoạt và ưa nói
quá sự thực)
Trong khi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: ”Tử Vi Quyền Lộc ngộ
Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo” nghĩa là Tử Vi có Quyền Lộc nên
danh có của nhưng nếu gặp thêm Dương Đà nữa thì tâm chất bất nhân
vô đạo.
- Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ
(Tử Vi mà gặp Kiếp Không, Hồng Đào tại Mệnh tất không thọ)
- Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, đế vô quyền nan giải
hung tinh hạn ngộ
(Tử Vi Thiên Phủ tại Mệnh bị Tuần Không, vua thành vô quyền khó
giải cứu cho vận gặp hung tinh)
- Dần mộc, Phủ Vi hội Tam Kỳ, Kình Bật cư lai, Mệnh xuất võ do
văn quyền hành cứ phục chúng nhân, mạc phùng Không Kiếp hư
vô
(Dần cung, Tử Vi Thiên Phủ có Khoa thêm Kình Dương Hữu Bật có
văn tài nhưng lại theo nghiệp võ, thành công người đời kiêng nể, nhưng
nếu bị Không Kiếp lại thành sôi hỏng bỏng không)
- Tử Phá mộ cung vô ưu họa ách, vận lai Phụ Bật nguyên vọng
đắc như cầu, Thân kiêm Hồng Lộc Hóa Khoa khánh hội long vân
(Tử Vi Phá Quân ở Sửu Mùi Thìn Tuất không lo những họa tai lặt
vặt, tới vận gặp Tả Hữu thì mưu sự thành tựu, nếu cung Thân lại được
Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hồng Loan cảnh thêm hay).
- Đế toạ Thiên La Thân cư Triệt xứ, Giáp Kỷ nhân chung niên nan
toại chí đa trái thê nhi
(Tử Vi đóng Thìn, cung Thân bị sao Triệt án ngữ, tuổi Giáp tuổi Kỷ
suốt đời không toại chí, còn khổ vì vợ vì con)
- Tứ Sát Tốn cung, đề huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát.
Hạn hội Hồng Khoa Ấn Mã dị lập chiến công.
(Tử Vi Thất Sát ở cung Tỵ gặp Hỏa Tinh và sao Tuyệt thành người
đa sát nếu có Hồng Loan, Hóa Khoa, Quốc Ấn, Thiên Mã hội tụ làm võ
tướng dễ lập công to)
- Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Long Phượng Khoa Quyền Lộc Ấn,
quần thần khánh hội chi cách gia Kình Kiếp loạn thế nan thành đại
sự
(Cách quần thần khánh hội Tử Phủ Vũ Tướng Long Phượng Tả
Hữu Khoa Quyền Lộc Ấn nếu bị Kình Dương Địa Kiếp gặp thời loạn bất
thành đại sự)
thành đại sự)
- Tử Tham Tả Hữu hội trung
Có người con gái trốn chồng theo trai
(Ở cách này Tả Hữu biến chất, tuy nhiên Tử Tham Tả Hữu còn phải
thêm cả Tang Hổ nữa thì mới liều như thế)
- Tử Tham Khôi Việt phương Đoài
Long thần kỳ đảo ai ai cúng dường
(Tử Tham đóng ở Dậu cung gặp Khôi Việt dễ đi vào nghề thầy
chùa thầy cúng)
Mục “Chư tinh vấn đáp” Thiên Cơ được gọi là sao giỏi tính toán
mưu lược, quyền biến cơ mưu. Hóa khí của sao Thiên Cơ là “thiện”,
thâm ý cổ nhân muốn tính chất kế mưu quyền biến đặt trên chính đạo
hơn tà đạo.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết: Thiên Cơ giao hội với Thiên Lương
Xương Khúc, văn thì thanh hiển, vũ trung lương “nhưng cũng viết tiếp…”
nếu rơi vào đất hãm bị tứ sát xung phá là hạ cách
Đa số chủ tinh đều có “hóa” khí - tỉ dụ Phá Quân hóa khí là “Hao” –
Thiên Tướng hóa khí là “Ấn”. Đi thuận chiều hóa khí mới đắc dụng.
Thiên Cơ thuộc âm mộc, mộc của hoa cỏ mềm mại dễ uốn và lay
động. Tư tưởng mẫn tiệp, ưa nghĩ ngợi nghi ngờ, phản ứng mau lẹ,
nóng nẩy.
Kết hợp những điểm trên, Thiên Cơ lúc hành động dễ mắc vào tình
trạng quá nóng vội, dù kế hoặc thấu đáo mà tự mình làm không thành.
Thiên Cơ vì hiếu động nên cuộc sống ba động luôn.
Thiên Cơ là sao Nam đẩu, Thiên Cơ thủ Mệnh thông minh sáng
suốt, hiếu học, tâm địa từ thiện, vì quá hiếu học, cái gì cũng học, nên
học rộng mà không tinh.
Thiên Cơ đa tài đa nghệ, làm mưu sĩ được, làm con người hành
động không hay. Vào nghiên cứu tốt, ở vị thế chỉ huy bình thường.
Thiên Cơ nhạy cảm, sức đối kháng không lì lợm nên không hợp
với Hỏa Linh, Kình Đà, Không Kiếp và sợ nhất Hóa Kị. Gặp Hóa Kị,
Thiên Cơ dễ biến ra không tưởng, ảo tưởng khó bắt kịp thực tế.
Thiên Cơ tinh đứng một mình chỉ ở Tí Ngọ, Tỵ, Hợi, Mùi, Sửu; đi
cặp với Thái Âm tại Dần Thân; đứng với Cự Môn ở Mão Dậu; đồng cung
với Thiên Lương ở Thìn Tuất.
Qua kinh nghiệm thì cách cuộc trên mang nhiều biến hóa, nếu
Thiên Cơ Hóa Lộc lại không thành võ nghiệp chỉ mưu sinh dư dả
phong lưu. Cự Cơ Hóa Lộc mà gặp Hỏa Linh, kể luôn cả chuyện mưu
sinh cũng thăng trầm vô độ, hoặc danh lợi hư ảo. Bởi vậy cách Thiên
Cơ Cự Môn cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Trường hợp bị Hóa Kị kể như
hỏng.
Thiên Cơ bên cạnh Thiên Lương, cổ nhân gọi bằng cách “Cơ
Lương gia hội”.
Thiên Cơ cánh phùng Thiên Lương tất hữu cao nghệ tùy thân.
Thiên Cơ Thiên Lương đồng tại Thìn Tuất thủ Mệnh, gia cát diệu,
phú quí từ tường nhược ngộ Kình Đà, Không Kiếp thiên nghi tăng đạo.
Cách Cơ Lương nhiều biến thái như thế đấy, có thể viết lý thuyết ra
binh lược, có thể đạt một nghề nghiệp ở mức cao, có thể phú quí, có
thể thành người tu hành.
Gặp Kình Đà Hóa Kị trai tăng đạo, nữ dâm bôn, khác nhau ở điểm
này.
Về mấy chữ “thiên nghi tăng đạo” còn phải hiểu thêm một ý khác là
vô duyên, với những người xa bố mẹ anh em trên không gian, cũng như
trên tình cảm. Tăng đạo cũng xem là một người thông hiểu về tôn giáo
triết học hoặc thuật âm dương số tướng. Đừng nghĩ hai chữ tăng đạo
qua hình ảnh mặc áo nâu sồng quét lá đa trong chùa.
Cách phổ biến của Thiên Cơ có: Cơ Nguyệt Đồng Lương. Sách
nói: Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân (Mệnh hội tụ đủ bộ sao Thiên
Cơ, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thái Âm thì làm lại người phụ giúp cơ
quan chỉ huy). Chuyển vào hiện đại ngữ thì là công chức, rồi đoán cách
ấy hiển hiện thành con người đi làm ba cọc ba đồng hàng tháng lĩnh
lương. Không phải vậy, chữ “lại” cho bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương
còn mang cái nghĩa thâm thúy sâu sắc hơn.
“Lại nhân” thời xưa là loại người ưa lộng quyền trong phạm vi
quyền lực của hắn, Tây phương coi bọn lại nhân như một thế lực thư
lại. Lại nhân giỏi cơ biến, có mưu lược, ăn nói mồm mép, tham tiền
khéo dụng quyền thuật. Nếu chỉ coi như vị công chức thì cái nghĩa đó
hiền lành quá e không lột được thâm ý Cơ Nguyệt Đồng Lương.
hiền lành quá e không lột được thâm ý Cơ Nguyệt Đồng Lương.
Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ giỏi phục vụ, mượn quyền mượn thế,
không bao giờ làm được kẻ khai sáng, tiên phong. Số Cơ Nguyệt Đồng
Lương khả dĩ dùng làm thủ túc rất tốt.
Có một điểm chung, người nữ Thái Âm bao giờ cũng xinh và khéo.
Cơ Âm mà ở Thân tốt hơn ở Dần. Vì Thân đắc vị cho Thái Âm. Cơ Âm
nếu gặp Hóa Quyền vào ngành tài chánh kinh thương thành công. Cơ
Âm được Hóa Khoa học vấn nghệ thuật hợp cách. Cơ Âm Hóa Lộc làm
ăn khá giả nhưng thường lao tâm khổ tứ về tiền, thần kinh bén nhậy
đưa đến suy nhược vì nghĩ ngợi.
Bây giờ bàn đến những cách Thiên Cơ độc toạ Mệnh. Thiên Cơ
đứng một mình tốt nhất ở hai cung Tí và Ngọ. Vì hai cung này là đất
miếu của Thiên Cơ, mặt khác vì nó kết với Cự Môn từ cung xung chiếu
Tí với Ngọ đất vượng của Cự Môn. Thiên Cơ tại Tí Ngọ thi triển được
toàn bộ khả năng của nó. Khả năng giải quyết công việc, khả năng
thuyết phục , khả năng phản ứng mau với những bất ngờ, khả năng học
vấn thi cử.
Vấn đề còn lại là việc của Khoa Quyền Lộc. Quyền cần thiết nhất,
Khoa thứ nhì, Lộc thứ ba. Trường hợp gặp Hóa Kị, cái thế của Thiên Cơ
Tí Ngọ giảm hẳn. Sở dĩ Hóa Quyền cần thiết với Thiên Cơ không phải vì
bản thân Thiên Cơ mà vì sao Cự Môn xung chiếu. Cự Môn thiếu Hóa
Quyền sức mạnh kém (Sẽ nói thêm khi bàn riêng về Cự Môn). Với Hóa
Kị, Cự Môn càng bị phiền hơn, Thiên Cơ đóng Sửu hay Mùi kể như rơi
vào hãm địa. Nếu không được Tả Hữu, Xương Khúc, hoặc Quyền Khoa
vào hãm địa. Nếu không được Tả Hữu, Xương Khúc, hoặc Quyền Khoa
Lộc trợ giúp, chỉ loanh quanh với tiểu chức. Nếu bị Hỏa Linh Không
Kiếp xung phá hoặc Hóa Kị ám hại sẽ không tránh khỏi tâm tư hoảng
loạn, tình cảm thống khổ.
Thiên Cơ Sửu Mùi nên an thân thủ phận. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn
Thư còn có câu phú: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung cẩu du thử thiết”
nghĩa là Thiên Cơ cố nhiên phản ứng mau lẹ, đầu óc lại hiếu động, ở
một tình thế ép buộc nào đó có thể là tay trộm cắp rành tay nghề.
Sách đời sau đưa ra một cách gọi bằng: Mệnh cung Tỵ Hợi nói về
sao Thiên Cơ đóng Hợi hay Tỵ, nếu gặp phụ tinh hay thì sang quí mà có
sát tinh biến thành con người gian tà, tiểu nhân.
Sau đây cần luận thêm bản chất của Thiên Cơ tinh:
- Đa biến nên khó mà theo đuổi nghề nghiệp công việc lý tưởng
nào lâu dài
- Thuộc ất mộc, mộc của cỏ hoa nên dễ xung động, thường tạo
cho bề ngoài đẹp đẽ, nói năng thuyết phục được người nghe, ít có
bụng chân thành cảm phục ai, thông minh mà thường dễ bị cái
thông minh của chính mình làm mình nhầm.
- Có một cách về Thiên Cơ không thấy ghi các sách Hán, mà lại rất
phổ biến trong khoa Tử Vi tại Việt Nam là Thiên Cơ gặp Thiên Khốc
Thiên Hư đưa đến bệnh lao phổi, lao xương.
- Thiên Cơ cư Sửu, kinh vân hài đặc thủy diệu cánh nại tài bồi
(Thiên Cơ ở Sửu bị lâm thế hãm sách nói nhưng nếu được nhiều
sao của hành thủy thì cũng nên công vì Thiên Cơ thuộc mộc lại ở cung
thấp thổ có thêm nước cây khả dĩ đâm chồi nảy lộc, nhưng Thiên Cơ ở
Mùi cung táo thổ dù gặp thủy diệu vô ích).
- Cơ, Thư, Hồng cư Dần địa, nhi phùng Lộc, Ấn cận cửu trùng
(ở Dần Thiên Cơ tất đi cùng Thái Âm. lại có Tấu Thư, Hồng Loan
mà gặp cả Lộc Tồn hay Hóa Lộc và Quốc Ấn người nữ lấy chồng sang,
chồng quyền thế. Vì Cơ Âm Hồng là người đàn bà đẹp, đa tình, khôn
khéo, Tấu Thư có duyên giỏi nịnh giỏi đàn ngọt hát hay, còn thêm Lộc
Ấn là những may mắn thì chuyện cận cửu trùng đâu khó)
- Cơ Lương tứ sát Tướng Quân xung, Vũ khách tăng lưu mệnh sở
phùng
(Cơ Lương Thìn Tuất bị tứ sát lại có cả Tướng Quân xung chiếu thì
làm nghề mãi võ (múa võ dong) hoặc làm thầy tu thầy ngãi)
- Thìn cung Cơ Lương Giáp Nhâm dương nữ lợi tử thương phu, Ất
Quí âm nam do phú thành vinh, duy thê khắc hại
(Cung Thìn lập Mệnh Cơ Lương thủ, người nữ tuổi Giáp Nhâm
sinh con nhiều nhưng ăn ở không vừa bụng chồng (không nhất định là
sát chồng). Người nam tuổi Ất, Quí làm ăn có tiền mà thành vinh hiển
nhưng lại gặp vợ lăng loàn)
- Cơ Nguyệt Cấn Khôn nhi hội Riêu Xương thi tứ dâm tàng
(Mệnh Cơ Nguyệt ở Dần hay Thân mà lại thêm Xương Riêu thường
suy nghĩ đến chuyện dâm. Riêng cho nữ mạng thôi)
- Kỷ tuế Cơ Nguyệt Đồng Lương, hạn đáo trúc la gia lâm Phụ Bật,
đăng vân nhất bộ
(Mệnh mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà người tuổi Kỷ, khi
gặp vận Sát Phá Tham thì lại đột phát công danh. Ý chỉ Mệnh có Khoa
gặp vận Hóa Quyền)
- Ất Tân tuế văn đoàn hỷ ngộ Hư Kình Tuế Khách hạn lâm hoạnh
đạt võ công
(Tuổi Ất Tân mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp vận Thiên
Hư, Kình Dương, Thái Tuế, Điếu Khách bất ngờ tạo được võ công. Câu
này không có căn cứ vững vàng)
- Cơ hội Phục Binh nơi Ngọ vị
Vận gặp thời chức vụ quản binh
Thiên Di Cơ Mã cùng ngồi
Đông trì Tây tẩu pha phôi cõi ngoài
(Thiên Cơ gặp Thiên Mã tại Thiên di cung, thường làm việc ở nước
ngoài, nơi xa quê hương bản quán)
- Thiên Cơ Khốc Hư chẳng màng
Phổi kia hãy phải lo toan lấy mình
Thái Dương ý tượng là mặt trời. Cổ ca trong Đẩu số Toàn Thư viết:
“Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh (Lòng từ thiện, quảng
“Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh (Lòng từ thiện, quảng
đại, tuổi thọ lâu dài). Thái Dương ví như mặt trời chiếu sáng cho vạn vật.
Cây cỏ đất đai người vật thiếu ánh nắng không thể sống. Nhưng vạn vật
lại không bao giờ phải đền đáp cái ân đó, Thái Dương chỉ cho đi thôi
mà không nhận lại.
Câu phú nôm trên - dĩ nhiên - không thể nào mà nói hết được tấm
lòng bao dung của Thái Dương. Hiểu rõ bản chất của Thái Dương ta
đem so sánh với Thái Âm thì thấy rằng “Thái Dương thường hành động
là để phục vụ, để trợ giúp, trong khi Thái âm thì lại thường hành động vì
tư lợi bản thân” . Vì vậy cố nhân mới bảo Thái Dương “Quý nhi bất Phú”
còn Thái Âm là tài tinh, cái tâm Thái Âm ưa hưởng thụ, vơ vét.
Thái Dương thủ mệnh vào hành chính, y khoa hoặc công tác xã hội
thì hợp và có thể đạt địa vị cao. Nhưng buôn bán kinh doanh hoặc làm
những việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn lại thường rất dở. Trong khi Thái
Âm dễ vào kinh doanh, không phải vì Thái Âm giảo quyệt nhưng Thái
Âm tham hơn
Thái Dương chủ QUÝ cho nên khi đoán Thái Dương thủ mệnh phải
căn cứ trên chức vị, danh vọng. Không phải bất phú là nghèo. Có địa vị,
tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều. Bất phú nghĩa là không tự
mình làm nên giàu có thế thôi. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài
Bạch cung đắc địa lại khác.
Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh sáng mới quang minh. Thái
Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ là mặt trời rực rỡ buổi sáng buổi
trưa.Thái Dương đóng Dậu, Tuất Hợi ví như mặt trời buổi đêm đã mất
quang huy.
Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn đòi hỏi người mang số
Thái Dương phải sinh ban ngày mới là hợp cách, sinh ban đêm giảm
đi. Sinh ban ngày dù Thái Dương hãm cũng nửa hung nửa cát, sinh
ban đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung.
Thái Dương được cổ nhân gọi bằng “trung thiên chi chủ” (chủ tinh
giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao
giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao
giờ có Thiên Phủ Thiên Tướng triều củng.
Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn hội chiếu Thái Âm đóng ở
Tuất, gọi là Nhật Nguyệt song huy hay Nhật Nguyệt tịnh minh. Thái
Dương thuộc Hoả, quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa.
Trong ngũ hành trí tuệ Thuỷ có sự khác biệt nhau. Trong hàng ngũ
các sao, sự đa tài của Thái Dương cũng vậy, khác với sự đa tài của
Thiên Cơ.
Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện làm chính trị, ra đám đông
hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc họa, kịch nghệ là hợp cách.
Thiên Cơ đa tài với kế hoạch trong bóng tối, làm chính trị ở địa vị
nghiên cứu, phân tích tình báo hoặc vào thuật số âm dương viết văn là
hợp cách.
Thái Dương thuộc Bính Hoả mãnh liệt, hoá khí là “QUÝ” chứa chất
phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng thường có khuynh
hướng phản nghịch. Khác nhau thế nào? Vì Thái dương bản chất
quang minh, thấy điều trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc
không đi quá đà đến mức phản nghịch. Trong khi Phá Quân cương
mãnh làm theo ý mình muốn dễ quá khích đi đến phản nghịch
Thái Dương đóng cung Quan lộc đắc địa ý niệm khai sáng mở lối
cao và vững. Một ngành nào đang trên đà xuống dốc vào tay người Thái
Dương quan lộc khả dĩ sẽ hưng thịnh trở lại. Thái dương ở Tài bạch dễ
có tiền, ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi, chưng diện …
Mệnh Thái Dương có một cách đặc biệt - ấy là Thái Dương thủ
Mệnh tại Hợi. Tại Hợi cung Thái Dương là phản bối. Thái Dương mất đi
vẻ huy hoàng - tương ý là mặt trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi vào một
trong hai tình trạng cực đoan: hay cũng vô cùng mà dở cũng vô cùng; rất
thuận lợi hoặc rất khốn khó.
Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp của xương Khúc, Tả Hữu,
Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện nhiều, có một đời
sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như nó gặp
Thiên Mã Hóa Lộc, Lộc Tồn tức cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ
quê mà đi trồi phấn đấu thành công phú quí.
Thái Dương tại Hợi phú gọi bằng Nhật trầm thủy để (mặt trời chìm
sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trìlại thêm cả Binh hình Tướng Ấn thì ăn
to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được các cát tinh
khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ cả…
Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm
môn hạ khách chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công
khanh.
Thái Dương vào Mệnh với vào Thân cung rõ ràng tạo ảnh hưởng
khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quí, một đằng chỉ làm
môn hạ khách ở nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó có
cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư phối thì số gái lấy chồng sang, số
trai được vợ giàu sang hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vã nhà vợ
mà lên to.
Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hóa Kị. Có lý luận cho rằng nếu
Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị càng tốt. Hóa Kị như đám mây ngũ sắc
khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hóa Kị
đắc địa, Hóa Kị khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc, còn với Thái
Dương thì không. Hóa Kị là đám mây đen, là ám tinh trong khi tính chất
căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng thể hợp
cùng. Nhất là Mệnh nữ Thái Dương mà có Hóa Kị tất nhiên hôn nhân
gẫy vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hóa
Kị như thế bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam tính.
Ngoài ra còn có thể bị xảy thai, trụy thai.
Thái Dương hãm hội Riêu Kị, Thiên Hình hoặc Kình Đà khó tránh
khỏi bệnh tật ở đôi mắt.
Gặp Riêu Kị rồi Kình Đà hay Hỏa Linh thì cũng thế.
Thái Dương thủ Mệnh còn cách cục trọng yếu khác: Nhật chiếu lôi
môn, tức thái dương đóng tại Mão. Mão thuộc cung chấn, Chấn vi lôi
(sấm sét). Khi đóng Mão đương nhiên Thái Dương đứng cùng Thiên
Lương. Cách Nhật chiếu lôi môn tuyệt đối tốt nếu hội cùng Thái Âm Hợi
với Hóa Lộc, thêm Văn Xương Văn Khúc càng đẹp lắm, nhất là đối với
chuyện thi cử khoa bảng. Như phú viết:”Dương Lương Xương Lộc, lô
truyền đệ nhất danh” (Dương Lương Xương Lộc loa gọi người đỗ đầu)
Hiện đại cách Dương Lương Xương Lộc có thể là nhà phát minh,
người làm những cuộc nghiên cứu nổi danh, một tay thể thao tăm
tiếng…Cách Dương Lương Xương Lộc phải là Thái Âm đi với Hóa Lộc
chiếu qua mới hợp cách. Nếu hóa Lộc đứng ngay bên cạnh Thiên
Lương thì lại kém hẳn. Tại sao? Vì quan hệ Thiên Lương với Hóa Lộc
không ổn thỏa (sẽ bàn khi luận về Thiên Lương)
Về cách Thái Dương cặp với Cự Môn tức “Cự Nhật đồng lâm”, hãy
xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật Nguyệt đồng
cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.
Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc
Dương tại Tị, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh cũng như các
cách khác cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, học đỗ cao, địa
vị xã hội vững, kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể
làm cách đặc biệt.
Về Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu Mệnh VCD Nhật Nguyệt
Mùi hoặc Sửu thì chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Căn cứ vào câu phú:”Nhật
Nguyệt thủ bất như chiếu”
Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi
hung
Cách trên là cách Nhật Nguyệt chiếu, cách dưới là cách Nhật
Nguyệt đồng thủ Mệnh.
“Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung, đa triết quế” nghĩa là Mệnh
lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên, Nhật Mão chiếu qua
học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.
Trường hợp Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị thế nào? Tỉ dụ Thái
Dương tại Tỵ thì Cự Môn đương nhiên tại Hợi, nếu có Hóa Kị hợp với
Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho sự thành đạt khó khăn vất vả hơn
gấp bội. Thái Dương đắc địa bị Hóa Kị dễ chiêu oán, nếu đi vào ngành
thầy kiện, thầy cò, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống hợp hơn ngành
khác.
Về sao Thái Dương còn có những câu phú khác đáng suy ngẫm
như:
- Nhật Nguyệt Tật Ách, Mệnh cung Không, yêu đà mục cổ (nghĩa là
Mệnh Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt Không Vong hoặc ở cung Tật Ách
có Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt thường có tật ở mắt hoặc ở sống
lưng)
Cổ ca còn ghi câu:”Thái Dương đắc địa được sao Thiên hình cũng
đắc địa dễ phát võ nghiệp”. Sao Thái Dương còn có những câu phú
sau đây:
- Nhật Nguyệt phản bối hà vọng thanh quang, tố hỉ ngoại triều
Khôi Việt
(Thái Dương Thái Âm hãm tất tối ám, nhưng nếu được Khôi Việt
hội tụ vào Mệnh lại là người có khả năng thông tuệ đặc sắc).
- Nhật, Nguyệt lạc Mùi cung, vi nhân tiền cần hậu lãn
(Thái Dương hoặc Thái Âm đóng tại Mùi, làm việc lúc đầu chăm chỉ
lúc sau vì lười mà bỏ dở).
- Dương Âm Thìn Tuất, Nhật Nguyệt bích cung. Nhược vô minh
không diệu tu cần. Song đắc giao huy nhi phùng Xương Tuế Lộc
Quyền Thai Cáo Tả Hữu nhất cử thành danh chúng nhân tôn phục.
(Thái Dương ở Thìn, Thái Âm ở Tuất là cách Nhật Nguyệt đắc địa ở
bích cung, bích là bức vách chỉ ý chí, Thìn Tuất là Thổ, ngược lại nếu
Thái Dương tại Tuất, Thái Âm tại Thìn thì cần gặp Tuần Triệt Thiên
Không Địa Không để đảo lộn thế hãm. Đã song huy rồi mà gặp cả
Xương Tuế Lộc Quyền Tả Hữu Thai Cáo thì danh phận phấn phát sớm
chiều).
- Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần Không, Quí Ân, Xương Khúc
ngoại triều tất đường quán xuất chính (Nhật Nguyệt đóng Sửu hay
Mùi mà có Tuần Không, lại được Ấn Quang, Thiên Qúy lại được
Văn Xương, Văn Khúc có thể xuất chính làm quan về ngành văn)
- Nhật Nguyệt Sửu Mùi, âm dương hỗn hợp, tự giảm quang huy, kỵ
phùng Kiếp Triệt
(Nhật Nguyệt đóng Sửu hay Mùi nơi Mệnh cung, cả hai đều giảm đi
vẻ rực rỡ và rất sợ gặp Địa Kiếp và Triệt không).
- Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung, định thị phương bá công
(Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu cùng đóng với Khoa Lộc thì có thể
sẽ được vinh hiển).
- Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi
hung
(Mệnh Thân Sửu Mùi có Nhật Nguyệt đồng cung toạ thủ mà các
cung tam hợp chiếu không gặp sao nào tốt là hung mệnh - cả đời sẽ
chẳng nên cơm cháo gì).
- Nhật Nguyệt chiếu hư không, học nhất tri thập
(Mệnh VCD được Nhật Nguyệt miếu vượng hợp chiếu thì học một
biết mười)
- Giáp Nhật giáp Nguyệt cận đắc quý nhân
(Mệnh giáp Nhật Nguyệt đắc địa thường được gần cận bậc quý
nhân)
- Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung
- Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung
(Mệnh có Thái Dương hãm thì vẻ mặt thường buồn bã, nhăn nhĩ).
- Nhật tại Tỵ cung, quang mỹ huy thiên, kiêm lai Lộc Mã Tràng Tồn
Phụ Bật, thế sự thanh bình vi phú cách, nhược kiêm Tướng Ấn
Binh Hình vô lại Tuần Triệt loạn thế công thành
(Thái Dương thủ Mệnh ở Tỵ, ánh sáng rực rỡ, đứng cùng Lộc Mã
Tràng Sinh hoặc Lộc Tồn, Tả Hữu thì thời bình giàu có ; nếu đi cùng
Tướng Quân, Quốc Ấn mà không gặp Tuần Triệt thì thời loạn thành
công)
- Nhật cư Hợi địa, Nhật trầm ải nội, ngoại củng tam kỳ, Tả Hữu
Hồng Khôi kỳ công quốc loạn dị viên thành, hoan ngộ Long
Phượng Hổ Cái bất kiến sát tinh thế thịnh phát danh tài
(Thái Dương thủ Mệnh ở Hợi, ví như mặt trời lặn xuống biển, nếu
được Khoa Quyền Lộc và Tả Hữu Hồng Loan Thiên Khơi ở đời loạn hay
lập công lạ. Nếu được bộ Tứ Linh Long Phượng Hổ Cái mà không gặp
sát tinh thì vào thời binh đao ắt nổi danh là người tài cao).
- Thái Dương tại Thuỷ, Nhật trầm thuỷ để loạn thế phùng quân,
mạc ngộ sát tinh tu phòng đao nghiệp
(Thái Dương đóng Hợi thủ Mệnh tức là cách Nhật trầm thuỷ để, thời
lạo phị giúp quân vương lập chiến công, nhưng nếu bị sát tinh thì khĩ
tránh khỏi hoạ binh đao).
- Nhật lệ trung thiên, ái ngộ Hình Tang Hổ Khốc vận lâm
(Thái Dương đóng Ngọ thủ Mệnh, cần gặp vận Thiên Hình, Tang
Mơn, Bạch Hổ, Thiên Khốc công thành danh toại nguyện).
- Nhật Nguyệt vô minh thi phùng Riêu Kỵ Kiếp Kình ư Mệnh Giải,
tật nguyên lưỡng mục
(Nhật Nguyệt hãm địa mà gặp Thiên Riêu, Hóa Kị, Kình Dương,
Địa Kiếp ở Mệnh hay Tật Á \ch có ngày hư mắt )
- Nhật Nguyệt nhi phùng Hình Hoả, thân thiểu hạc hình
(Mệnh có Nhật Nguyệt mà gặp Thiên Hình, Hỏa Tinh thì dáng gày
gò, mình hạc xương mai).
- Xét xem đến chốn thuỷ cung
Kị tinh yểm Nhật uý đồng Kình Dương
(Thái Dương hãm ở Hợi Tí mà lại gặp Kình Dương là rất xấu)
- Nhật Nguyệt gặp Đà Linh chốn hãm
Hố Kỵ gia mục ám thong manh
(Nhật Nguyệt hãm ở Hợi Tí mà gặp Đà La, Linh Tinh lại thêm Hố Kỵ
thì mắt hỏng, mắt thong manh).
- Thiên Tài gặp Nhật bất minh
Tính ưa lếu láo những khinh Phật Trời
(Thái Dương hãm thủ Mệnh mà lại gặp sao Thiên Tài thì tính tình
(Thái Dương hãm thủ Mệnh mà lại gặp sao Thiên Tài thì tính tình
lếu láo, ưa nhạo báng).
- Mấy người phú quý nan tồn
Bởi vầng ô thỏ đóng miền sát tinh.
(Giàu sang phú quý không bền bởi tại Nhật Nguyệt đi cùng với
hung sát tinh).
- Con em xa khứ xa hoàn
Bởi vì Nhật Nguyệt chiều miền Nô cung
Muốn phấn đấu kiếm tiền phải quả cảm quyết đoán
“Chư tinh vấn đáp” viết: “Vũ Khúc là người tính cương, quyết đoán,
lúc mừng lúc giận, khi hiền khi tàn bạo, lúc gây phúc, lúc tạo tai ương”.
Rồi viết tiếp:”Vũ Khúc quả quyết, tâm vô độc”. Nói chung hễ đã Vũ Khúc
ở Mệnh không thể bao giờ là con người nhu nhược nếu vào nam mạng,
không thể là con người thùy mị hiền lành nếu vào nữ mạng.
Thời xưa xã hội không chấp nhận đàn bà con gái cương trực quả
quyết như kinh thi có câu: “Nam tử cương cường, nữ tử nhu” trừ trường
hợp người đàn bà ấy phải đứng mũi chịu sào nắm quyền sinh sống
của gia đình, hoặc đoạt quyền chồng. Đứng mũi chịu sào tất là quả phụ
phải ly khắc, đoạt quyền chồng thì cô đơn.
Cổ nhân đặt tên sao Vũ Khúc là quả tú (Vũ Khúc chi tinh vi quả tú)
Vũ Khúc âm kim hóa khi là “tài” còn có tên khác “tướng tinh” và
thuộc bắc đẩu hệ. Âm kim nội liễm (ẩn vào trong) nên tịch mịch, cô đơn.
Vũ Khúc tính quật cường, cố chấp, thường tự biến thành một địch thủ
không dễ chấp nhận thua cuộc hay chịu thất bại, sức tranh đấu bền bỉ
dai dẳng. Người Vũ Khúc thủ Mệnh tiếng nói sắc nhọn, rõ ràng. Thời
xưa cầm gươm đao trước trận tiền, làm đồ tể, đúc tiền đều thuộc cái
nghề của Vũ Khúc cả. Cho nên cổ nhân luận sao Vũ Khúc mới nói: “Vũ
Khúc miếu địa với Xương Khúc đi chung thì xuất tướng nhập tướng, vào
võ nghiệp thắng lợi, đóng hãm địa là con người nghề nghiệp khéo,
giỏi”.
Ngày nay mấy chữ “sảo nghệ chi nhân” khả dĩ suy diễn rộng rãi
hơn như làm thợ máy, thợ kim hoàn…Đắc địa không phải cứ xuất
tướng nhập tướng mà là tay cự phách trong ngành tài chính kim dung
cũng vậy.
Nói đến cách Tham Vũ, ở Sửu Mùi Tham Vũ đồng hành, ở Thìn
Nói đến cách Tham Vũ, ở Sửu Mùi Tham Vũ đồng hành, ở Thìn
Tuất Tham Vũ thủ chiếu. Vũ Khúc ở Thìn Tuất độc tọa gặp thêm Hỏa
Tinh hay Linh Tinh là cách bạo phát. Cách này nên buôn bán kinh
doanh, Nếu biết tiến thoái không thất thời thì không bị bạo hại.
Cách Vũ Khúc thủ Mệnh tại Thìn hay Tuất cần phụ tinh Hóa Quyền
hơn Hóa Lộc, cần Linh Hỏa hơn Lộc Tồn. Vũ Khúc Hỏa Linh tự nó đã có
thể tạo dựng bạo phát. Tại sao cần Hóa Quyền? Vũ Khúc vốn là tài tinh,
gặp được Hóa Quyền thì vừa có tiền vừa có thế mới phát mạnh.
Đến như Vũ Khúc, Tham Lang đóng cung Sửu Mùi cũng là cách
bạo phát. Chỉ khác một điểm, không phát sớm trước tuổi 32, lúc trẻ bôn
ba lận đận. Vũ Tham đồng hành bất phát thiếu niên. Cổ nhân còn gọi
cách Vũ Tham đồng hành bằng bốn chữ “Y cẩm hoàn lương” (áo gấm
về làng) nghĩa là đã từng có thời gian lưu lạc giang hồ lúc còn trẻ tuổi,
sau thành công về thăm quê cũ. Vũ Tham đóng cùng, dù sinh từ gia
đình phú quí cũng không được hưởng phúc lộc mẹ cha dễ trở nên thân
phận quốc biến giao vong.
Vũ Khúc ở Tỵ hay Hợi có Phá Quân kèm bên, cực thông tuệ bất kể
trai hay gái, cái thông tuệ thăng trầm không biểu diễn được nhưng
quyết liệt không nhượng bộ hay lui bước. Nếu có mềm dẻo chỉ để đạt
được mưu tính nào đó.
Vũ Phá đồng cung gặp Kình Đà, Linh Hỏa học nghệ cho tinh sẽ gây
tiếng tăm qua nghề nghiệp. Vào kinh doanh thương mại kém hay, cũng
đứng ngồi vào cái ghế văn chức suốt đời lụi đụi thôi.
Vũ Phá đồng cung gặp Xương Khúc như con dao phay trên lãnh
vực nào thấy đều đắc lực, thêm Khoa Quyền Lộc càng tốt hơn
Một điều cần chú ý:”Vũ Khúc Phá Quân đóng ở Tài Bạch không mấy
tốt vì tiền tài khó tụ bền. Căn cứ vào câu phú:”Vũ Khúc Phá Quân đồng ư
Tài Bạch, tài đáo thủ nhi thành công” (Vũ Khúc Phá Quân ở Tài Bạch
tiền vào tay rồi lại hết)
Vũ Khúc hội Kình Dương không nên gặp luôn cả sao Kiếp Sát. Vì
phú có câu: Vũ Khúc Kiếp Sát hội Kình Dương nhân tài trì đao (Vũ Khúc
hội Kình Dương lại cả sao Kiếp Sát nữa, nam mệnh dễ đi vào con
đường cướp trộm). Nhân tài trì dao nghĩa là vì tiền mà cầm dao. Vũ
Khúc Kiếp Sát kiêm Dương Đà Hỏa tú tang mệnh nhân tài (Vũ Khúc
Kiếp Sát gặp Kình Đà, Hỏa tinh có thể mất mạng vì tiền (bị cướp)). Hỏa
Linh phải đồng cung với Vũ Sát mới kể.
Vũ Khúc thủ Mệnh đứng bên Thiên Phủ là một cách kết cấu khác
hẳn. Vũ Khúc là tài tinh, Thiên Phủ là tài tinh. Vũ Khúc phải phấn đấu để
có tiền, Thiên Phủ vận dụng năng lực để quản thủ tiền. Nếu được các
sao tốt phù trì cách này là cách làm giàu, buôn bán kinh doanh rất hợp.
Phú Tử Vi viết:”Thiên Phủ Vũ Khúc đóng Tài Bạch, Điền Trạch lại
thêm Quyền Lộc hẳn sẽ thành phú ông”. Phù trì là Quyền Lộc, Xương
Khúc, Tả Hữu, nhưng trường hợp gặp Lộc Tồn lại thành trọc phú, tham
lam biển lận và keo kiệt.
Cách Vũ Khúc Thiên Phủ hội Thiên Khôi Thiên Việt thì nên học
ngành tài chính làm công chức thuế vụ, làm ngân hàng, không thể tự
mình đứng ra kinh thương. Về câu phú: Vũ Khúc Thất Sát ư Mão địa,
mộc yểm lôi kinh chỉ vào cách Vũ Khúc Thất Sát ở Mão, mộc yểm lôi
kinh ý chỉ tai nạn. Ở Mão hay xảy ra bị thương nơi đầu vì tường đổ, cây
gẫy, sét đánh. Ở Dậu hay xảy ra té ngã, xe cộ và thú vật cắn. Vũ Khúc
Thất Sát Mão hay Dậu mà thấy Thiên Hình Song Hao hay Sát Kị cũng là
số bị cướp trộm, kể cả luôn vào vận hạn.
Ấy là phát võ uy nghi
Luận sang cách Vũ Khúc Thiên Tướng.Thân với Dần là hai nơi
Thiên Mã trú đóng. Vũ Khúc Thiên Tướng ham hoạt động ít chịu nhàn
tản, nhiều sáng tạo lực rất sung sức để san bằng khó khăn. Xa quê
hương bản quán dễ phát triển với đầu óc kinh doanh tài giỏi.
Vũ Khúc Thiên Tướng lại thường lận đận công danh khó mà theo
đuổi chức cao bổng hậu. Phải tránh không gặp Tuần Triệt thì Thiên
Tướng với Thiên Mã mới không bị bẻ gãy khả năng phấn đấu.
Vũ Khúc không hợp với Hóa Kị. Hai sao này đi đôi trên tính tình khó
chịu không hòa đồng được với người chung quanh. Vũ Khúc Hóa Kị vào
Mệnh cung gây ra những căn bệnh kéo dài khó khỏi.
Theo quan niệm cổ nhân sao Vũ Khúc trên căn bản không tốt cho
nữ mệnh thường khắc phu và ưa đoạt quyền chồng. Vũ Khúc Hóa Kị lại
còn Hỏa Tinh nữa thì khắc sát tới mấy lần.
Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc
nam đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ.
Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé,
cườm mắt. Thiên Đồng hành thủy nên cũng ưa động, bị động chứ
không chủ động, tâm thần không kiên nhẫn mà giao động, luôn luôn
đổi ý. Thiên Cơ già dặn kinh lịch, Thiên Đồng động một cách non nớt,
ấu trĩ.
Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa
giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục
nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn
đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc
Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều
kiện không đi cùng Cự Môn.
Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kị, dễ có thể dựa
vào Sát Kị làm khích phát lực. Sát Kị đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn
đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung
Hóa Kị Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kị thủ Mệnh
hóa ra tốt)
Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kị cổ thư gọi bằng ‘Càn cung
phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kị không là đủ. Hóa Kị còn cần Cự
Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn
ép đến sức cùng bật ngược trở lại.
Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’
(Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiển là Kình Dương. Chỉ
những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.
Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’
nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới
ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương
cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ
chuột.
Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp
Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc).
Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì
giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.
Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại
Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa
Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay
bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ
Cự không đắc địa.
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc
tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây
chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan
cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.
Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên
Tử Vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”.
Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì
Thiên Đồng cần Điệp Lộc.
Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài
Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kị hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng
Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy
quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe
nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên
sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến
Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán
thêm.
Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục
cách ngộ Dương Đà Linh Kị xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”.
Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả
Dương Đà Linh Kị nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng
hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kị
nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu
trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kị. Sao phải dùng chữ ‘cánh
ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kị.
Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số
Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kị đứng bên Thái Âm.
Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa
Kị, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kị theo
Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh,
Hóa Kị theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc
nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền
Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên
Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.
Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần
Hóa Kị để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất
lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.
Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung
phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn
được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ
cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng
không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết
được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân
vào chốn phồn hoa.
Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối.
Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại
sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung
Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng,
chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản
ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa
Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển).
Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì
thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.
Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay
Thiên Lương.
Đồng Âm ở Ngọ ở Tí
Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu
khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ
mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp
nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm
lệ:
Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu
thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như
Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt
Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện
đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của
Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh
càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của
Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì
càng như sống trong mơ.
Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với
tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh
thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển
vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh
Hỏa lại càng thêm phiền nữa.
Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bên
Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kị, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng
bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no
ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.
Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên
Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu.
Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.
Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống
trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng
không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn
vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kị, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa
Linh.
Các sao trong Tử Vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong
phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm
ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ
vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường
cuộc đời nhiều chướng ngại.
Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên
Đồng:
- Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát
(Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)
- Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm
Long Trì tu phòng mục tật
(Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài
phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)
- Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ
Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên
(Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan
sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm
nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)
nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)
- Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú
(Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang
trọng uy nghi)
- Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng
(Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng
Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ
con hoặc gãy đổ duyên tình)
- Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kị, giao lại
Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng
Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kị và Song Lộc chiếu
làm thương mại dễ nên giàu)
Liêm Trinh thuộc Âm Hỏa kiêm Mộc, hóa khí là ‘tù’ trong hệ Bắc
Đẩu, còn mang tên Đào Hoa thứ hai (sau Tham Lang). Nói theo Tử Vi
hệ phái Việt Nam là Đào Hoa thứ ba vì Tử Vi Việt có hẳn một sao Đào
Hoa mà Trung Quốc thường gọi bằng ‘Hàm Trì’. Với Trung Quốc chỉ có
4 chỗ đương nhiên Đào Hoa ở đây là Tí, Ngọ, Mão, Dậu mà họ gọi
bằng bại địa.
Hình dáng Liêm Trinh gầy nhiều xương hơn thịt, mắt lộ hầu lộ.
Liêm Trinh cát hung vô định hội hợp với nhiều sao tốt thì công danh địa
vị cao, trong chính giới phát triển tốt, gặp các hung sát tinh hay bị hoạn
nạn tai ách.
nạn tai ách.
Đời Hán nhà dịch học Dực Phụng viết :’Tham Lang thiện hành,
Liêm Trinh ác hạnh’. Hai sao ấy phẩm hạnh đi ngược chiều nhau. Liêm
Trinh chủ về phẩm chất sự vinh nhục trên địa vị khi lên thì tốt, khi xuống
thì xấu, Liêm Trinh mang hóa khí là ‘Tù’
Liêm Trinh trên cảm tình, tính tình khi thân cảm tình hòa hiệp, lúc
ghét giận thì hung dữ bất thường. Chất Đào Hoa của Liêm Trinh cũng
căn cứ trên tình trạng đổi thay ấy mà định. Liêm Trinh với nữ nhân biến
thái của tình cảm mau và mạnh hơn với nam nhân.
Trường hợp Liêm Trinh đứng với Hóa Kị hoặc gặp Hoá Kị chuyện
hôn nhân không tránh khỏi gãy đổ. Liêm Trinh đi với Tham Lang, Thất
Sát, Phá Quân nữ mạng vợ chồng lấy nhau tự nhiên không nghi lễ,
hoặc lấy chồng người.
Có câu phú Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ (Liêm Trinh ôm
chặt khối tình)
- Liêm Trinh đứng một mình ở Dần cùng với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn
chiếu
- Liêm Trinh đứng một mình ở Thân với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn
chiếu
Nói tóm lại, chỉ ở trường hợp Liêm Trinh độc tọa gặp Lộc Tồn mới
thanh bạch thôi. Năng tương thủ có nghĩa là yêu mà bị xa nhau, yêu mà
bị thất bại trong tình yêu nhưng vẫn giữ được mối tình ấy mãi mãi..
Tính chất của Lộc Tồn là đôn hậu, tâm địa chân thành, trân trọng,
cẩn thận. Khi đã đi cùng với các sao khác thì cái điều thanh bạch năng
tương thủ của Liêm Trinh, Lộc Tồn bị trộn không còn thuần khiết nữa.
Cách này chỉ áp dụng đối với nữ mạng.
Nói về cách Liêm Sát, phú viết : Liêm Trinh Mùi cung vô sát, phú
qúy thanh dương phan viễn danh (Liêm Trinh đóng Mùi – bên cạnh Thất
Sát – không gặp hung sát tinh thì phú quí tiếng tăm). Điểm đáng chú ý
không thấy nói tới Liêm Trinh đóng Sửu. Nếu chỉ đóng ở Mùi chưa đủ,
cần phải có Tả Hữu nữa mới thực sự ăn to như câu phú trên đây.
Liêm Trinh còn được coi là cách ‘Hùng tú triều nguyên’ đời nếm trải
gian tân, ngoài tuổi trung niên thành công, thêm Quyền Lộc dĩ nhiên
như gấm thêu hoa, nhưng căn bản cần Tả Hữu đã. Liêm Sát vào Mùi
hay Sửu bị Hóa Kị hay Linh Hỏa Kiếp Không sẽ biến thành cách ‘Mã
cách lý thi’ (Da ngựa bọc thây) đa số vào võ nghiệp có địa vị cao và rồi
chết với nghề. Liêm Sát như thế vào nữ mạng vất vả bôn ba và chết đột
ngột. Liêm Sát ở Mùi sách chỉ nói là con người làm ăn có của (Tích phú
chi nhân).
Đọc trong ‘Cốt Tủy Phú’ của Đẩu Số toàn thư khi luận về sao Liêm
Sát có mấy câu cho ta cảm tưởng như mâu thuẫn. Những câu ấy là :
‘Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phu chi nhân; Liêm Trinh Thất Sát lưu
đãng thiên nhai.’ Rồi ở ‘Thái vi phú’ lại viết câu: ‘Thất Sát Liêm Trinh
đồng vị, lộ thượng mai thi’
Thật ra những câu phú ấy không mâu thuẫn vì Liêm Sát đồng vị
bao giờ cũng xuất hiện ở hai cung Sửu và Mùi, Liêm Sát ở Mùi mới là
miếu địa, Liêm Sát ở Sửu bị vào thế hãm nhược. Vì Mùi là Mộc cục và
Hỏa khố trong khi Sửu là Kim cục và Thủy khố. Liêm Sát tại Mùi miếu
địa nên tích phú, phấn đấu gian khổ thành công.
Liêm Sát Sửu nếu không hội tụ được những cát tinh mà lại bị hung
sát kị vây bọc thành ra lữu đãng thiên nhai, lộ thượng mai thi. Liêm
sát kị vây bọc thành ra lữu đãng thiên nhai, lộ thượng mai thi. Liêm
Trinh vào Sửu cung Hỏa bị Thủy khắc.
Chuyển qua cách Liêm Tham (Tỵ hoặc Hợi) cách này đưa đến tình
trạng hình tù hay khách tử tha hương. Liêm Trinh vốn là Đào hoa tinh,
Tham Lang cũng lại là Đào hoa tinh. Trước hết tình trạng hình tù ở tình
trường đã, mê đắm sắc dục, bài bạc ăn chơi, mang công mắc nợ, bệnh
tật triền miên.
- Cảnh sát bỏ tù
Liêm Trinh không ưa Hóa Kị, nhưng ở cách Liêm Tham mà được
Hóa Kị lại giảm bớt hẳn chuyện hình tù. Hỏa hay Linh cũng tạo chuyện
tốt hơn cho Liêm Tham. Liêm Tham ở Hợi hội với Kình Dương Mão,
đàn ông tù tội, đàn bà phong trần, hoặc Kình Dương Dậu hội với Liêm
Tham ở Tỵ cũng thế. Có lập luận cho rằng Liêm Tham Tỵ nặng hơn
Hợi, lập luận này không vững lắm.
Tham Lang là Đào hoa tinh, Liêm Trinh cũng là Đào hoa tinh. Nay
hai đào hoa tụ lại một chỗ ở Hợi, cổ nhân gọi bằng phiếm thủy đào hoa
(hoa đào trên sóng nước) thường là con người đam mê tửu sắc, bài
bạc khác với ở Tỵ ưa mạo hiểm vướng vít vào những rắc rối luật pháp.
Bởi thế Liêm Tham Tỵ dễ bị tù hơn ở Hợi. Cũng có thuyết cho rằng
Tham Lang cung Tí mới gọi bằng phiếm thủy đào hoa. Tí hay Hợi đều
thuộc thủy nhưng ở Hợi có lý hơn vì ở Tí chỉ có Tham Lang đứng độc
thủ. Tham Lang tại Tí cũng đam mê sắc tình nhưng nhẹ hơn Liêm
Tham Hợi. Tham Lang Tí ưa phét lác hơn thực sự hành động.
Trường hợp người tuổi Giáp lại gặp cách Liêm Tham Hợi lại
thường phong lưu vì một Lộc ở Mệnh môt Lộc theo thế nhị hợp chưa kể
đến hai sao Quyền Khoa hội tụ.. Tại Tí tuổi Giáp không phong lưu như
Hợi (thiếu mất Lộc Tồn), công danh lận đận nhưng cũng đáng nể.
Liêm Trinh đứng ở bốn cung vượng Tí Ngọ Mão Dậu thế nào?
Đứng Mão Dậu với Phá Quân, đứng Tí Ngọ với Thiên Tướng. Liêm Phá
là con người tinh thần mạo hiểm cao, ưa xông xáo, thông tuệ nhưng
học hành thường thôi, hay làm liều, lợi mình trước đã dù có hại người.
Liêm Phá có thể là tay sai đắc lực, nhưng không thể thành người bạn
tâm giao với ai, có nhiều nghị lực phấn đấu.
Liêm Phá hợp với tuổi Giáp và Ất. Ất tốt hơn Giáp nếu Liêm Phá
đóng ở Mão cung. Liêm Phá sợ gặp Hỏa Tinh, nếu gặp dễ bị tai nạn
hoặc ốm đau dữ dội với những bệnh hiểm nguy. Phú có câu: Liêm Phá
Hỏa cư hãm địa tự ải đầu hà (Liêm Phá hội Hỏa Tinh bị tai nạn đến độ
phải tự sát). Cái nghĩa đâm đầu xuống sông, treo cổ chỉ nói lên tình
trạng hiểm nguy chứ không nhất định phải vậy.
Sát tinh ý chỉ Kình Đà Không Kiếp. Tuy nhiên đối với các tuổi Giáp
Ất lại không thể ứng dụng những lời ca trên. Tử Vi đẩu số toàn thư có
đưa ra một câu phú:
(nghĩa là Liêm Trinh hội Tham Lang, Thất Sát hay Phá Quân, nếu
tự cung Thiên Di lại xuất hiện Văn Khúc thì…)
tự cung Thiên Di lại xuất hiện Văn Khúc thì…)
Mấy chữ ‘tác cự nhung’ không thể giảng giải ra được. Chỉ khả dĩ
ghép hai chữ ‘cự nhung’ thành chữ tặc (làm giặc) thì mới có lý thôi. Ý
chỉ nếu Liêm Tham Sát Phá gặp nhau lại thêm Văn Khúc xung chiếu
Mệnh thì có khuynh hướng làm loạn, làm giặc. “Cự nhung’ cổ nhân tách
chữ tặc ra cho vần điệu với âm thanh ‘phùng’ ở vế trên.
Liêm Phá vào nữ mạng tháo vát, nhưng tính không nhu thuận đưa
đến những khó khăn trong cuộc sống duyên tình. Liêm Trinh hợp với
hai sao Thiên Tướng và Thiên Phủ. Chỉ đi với hai sao này Liêm Trinh
không gây tác hại.
Phú trong Tử Vi đẩu số viết :”Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp
Kỷ sinh nhân phú vạn kim” (Thiên Phủ đóng ở Tuất mà người Giáp Kỷ
giàu có).
Thiên Phủ ở Tuất đương nhiên phải đứng với Liêm Trinh. Tuổi
Giáp Hóa Lộc ở Mệnh. Lộc Tồn cung Dần hội tụ theo thế tam hợp. Tuổi
Kỷ Lộc Tồn chiếu từ Ngọ, Hóa Quyền chiếu từ Dần.
Thiên Phủ tại Thìn với tuổi Giáp không có Song Lộc, với tuổi Kỷ Tử
Vi hãm. Xem như vậy thấy rằng Liêm Trinh phải đi với Lộc mới hay. Câu
phú chỉ nhắc đến Thiên Phủ, không nhắc đến Liêm Trinh, đó là một lối
ẩn ý của cổ nhân. Sự thật là Liêm Trinh đóng vai chủ chốt.
Liêm Trinh hội Lộc tiền bạc hoạnh phát, Thiên Phủ thành ông thần
giữ kho. Liêm Phủ khi đã nên công thì cơ nghiệp bền không thăng trầm.
Liêm Trinh đứng cùng với Thiên Tướng tại Tí Ngọ thì Ngọ hay đẹp hơn
cho tuổi Giáp vì Giáp có Song Lộc ở Ngọ.
Kỷ Lộc Tồn tại Mệnh cung, cái thế gần cận mạnh hơn chiếu. Tuy
nhiên cách Liêm Phủ với Liêm Tướng có một khác biệt ấy là: Liêm Phủ
trong cuộc phấn đấu gặp may nhiều hơn như thuyền đi gió đẩy. Trong
khi Liêm Tướng dùng mồ hôi sức lực để thành công như thuyền phải
chèo.
Liêm Tướng nữ mệnh đàn bà giỏi trị gia gánh vác tự tay gây dựng
cơ nghiệp và ít được nhờ chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh
cơ nghiệp và ít được nhờ chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh
phúc. Liêm Tướng nếu không phải tuổi Giáp Kỷ thì vất vả hơn. Liêm Phủ
nếu không phải tuổi Giáp Kỷ chỉ ở mức tiểu phú quí thôi.
Phú viết: Liêm Trinh Bạch Hổ hình tượng nan đào (Liêm Trinh gặp
Bạch Hổ hay bị dính vào pháp luật, tù tội hoặc bị phạt tiền). Bạch Hổ ở
câu phú này chỉ lưu niên Bạch Hổ chứ không phải Bạch Hổ đóng ngay
tại Mệnh.
Riêng Quan Lộc tinh mà Liêm Trinh gặp Kình Dương thì thường bị
thưa gửi, kiện tụng hoặc mất quyền chức.
Liêm Phá, Liêm Sát vào cung Thiên Di tất phiêu lãng quê người
như phú có câu: Liêm Trinh Phá Sát hội Thiên Di tử ư ngoại đạo”, phiêu
lãng hoài, đương nhiên không phải chết nơi quê hương bản quán, chứ
không phải tử ư ngoại đạo là chết đường chết chợ.
Liêm Trinh ở hãm cung mà gặp Hóa Kị Văn Khúc biểu thị con
người tham lam vô độ, chỉ ưa tiện nghi không chịu được kham khổ, dễ
vì tiện nghi mà phản bội. Liêm Trinh đứng cùng với các sao đào hoa
như Tham Lang, Đào Hoa đàn bà hay có bệnh máu huyết, đàn ông
bệnh thận.
Người đời sau đưa thêm ra một số phú đoán về Liêm Trinh:
- Liêm Trinh Phá Quân hiểm phòng vô hạn.
(Số có Liêm Phá ở Mệnh luôn luôn phải đề phòng những hiểm
nguy)
- Liêm tại Cấn, Khôn cung, nữ mệnh trích lệ thương phu, nhược lại
cô quả không môn tiềm ẩn; nam nhân bất đa truân tai ách ư
thương lê
(Liêm Trinh độc thủ Dần hay Thân, số gái dễ xa chồng phải nhỏ
nước mắt thương nhớ, nếu lại gặp phải Cô Thần Quả Tú thì xa hẳn
hoặc góa chồng. sống đơn độc, trai được vợ hiền mà vợ lại chết sớm)
- Liêm tọa Thân cung phùng Phụ Bật
Cách kiêm Hóa cát phúc quang vinh
(Liêm Trinh tọa thủ ở Thân có Tả Phụ hay Hữu Bật mà được Hóa
Lộc, Hóa Quyền hay Hóa Khoa thì giàu sang)
- Liêm Sát Sửu Mùi, Ất Kỷ âm nam khí hùng trí dũng, Tuần Triệt vô
xâm kiêm hữu Khoa Sinh hạn đá danh tài tốc phát
(Liêm Trinh Thất Sát đồng Sửu hay Mùi không bị Tuần Triệt anh
hùng trí dũng tuổi Ất, tuổi Kỷ gặp vận hạn có Hóa Khoa Tràng Sinh thì
phấn phát mau chóng)
- Liêm phùng Văn Quế cánh bôn ba
(Liêm Trinh đứng bên Văn Khúc càng bôn ba)
- Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu hội Tướng Quân
(Liêm Trinh đứng miếu địa cùng sao Tướng Quân là người anh
hùng dám đương đầu như thầy Trọng Do học trò Khổng Tử)
- Vương Lương ải ngục Liêm Trinh hãm Địa Kiếp ư Hỏa cung
(Liêm Trinh đóng Tỵ gặp Địa Kiếp như vl ngộ nạn trong ngục thất)
- Liêm Trinh Tỵ Hợi chớ bàn
Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục trường
- Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm giáp Sát đoán nào có sai
(Mệnh cung bị Liêm Trinh, Thất Sát giáp thì về già mới nên công
danh)
- Liêm Hao Tài Bạch cùng ngồi
Phá tan tổ nghiệp ra người lãng nhân
(Liêm Trinh Phá Quân vào Tài Bạch phá tổ nghiệp bỏ quê hương
mà đi)
- Tham Liêm đồng độ đảo điên
Trai thì phiêu lãng gái duyên dâm tàng
Thiên Phủ là chủ tinh của hệ Nam đẩu. Tính chất của chủ tinh
mang một đặc điểm trên mặt nào đó. Cũng có tài lãnh đạo, nhưng Tử
Vi khả năng sáng tạo mạnh mẽ trong khi Thiên Phủ chỉ đắc lực khi cục
diện đã xong xuôi. Thiên Phủ dễ bị ảnh hưởng người khác, quyết định
tính thấp. Cổ nhân coi Tử Vi chủ về tước lộc và chỉ xem Thiên Phủ chủ
về tiền bạc y lộc. Bởi tại người xưa quan niệm quyền chức hơn giàu có,
uy thế hơn tiền bạc. Ngoài ra tính chất của nam đẩu là gìn giữ, bảo thủ
và tuổi thọ.
Tính chất của Bắc đẩu là tranh đấu, khắc phục và dễ lâm hiểm
nguy. Thiên Phủ càn là chứng tượng của sinh ra nuôi, lớn lên, cho nên
Thiên Phủ mà đóng ở bào huynh thì anh em đông, Thiên Phủ đóng
Mệnh thì trường thọ. Thiên Phủ thuộc dương Thổ, hóa khí là hiền năng.
Thiên Phủ thủ Mệnh làm việc gì cũng cẩn thận chú ý, nhưng lại ưa chỉ
tay năm ngón hơn tự mình động thủ. Khiêm cung bề ngoài nhưng tâm ý
lại khác, tính tình phong lưu.
Thiên Phủ bản chất là chất chứa, cất dấu nên gọi bằng tài khố (kho
tiền) bởi vậy cần Lộc thì kho mới đầy. Thiên Phủ sợ gặp sát tinh, nếu bị
Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp xung chiếu hay thủ, cổ nhân ví như kho
không có cửa (lộ khố) tương phản với bản chất Thiên Phủ ắt không tốt
đẹp. Cổ ca có câu:”Thiên Phủ hội hợp với Hỏa Linh Dương Đà là con
người gian trá lắm thủ đoạn thích dùng quyền thuật”
Thiên Phủ là chư tinh nên cũng ưa được chầu hầu vì thế hợp với
Hóa Khoa, điểm này thì hoàn toàn cùng chất với Tử Vi. Tử Vi có Thiên
Phủ Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Phủ Tướng triểu viên” hay Thiên Phủ
có Tử Vi Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Tử Tướng triều viên” tất cả đều
coi là trăm quan hướng chầu cả.
Thiên Phủ cần an định, bởi vậy sự có mặt của Thiên Khôi Thiên
Việt không quan trọng lắm, vì lẽ Khôi Việt chủ về cơ hội, đã an định
đương nhiên cơ hội không được coi làm cần thiết. Thiên Phủ cần Tả
Phù Hữu Bật và Văn Xương, Văn Khúc, hoặc đứng cùng hoặc tam hợp
chiếu hoặc giáp mệnh.
Một khi Thiên Phủ đã có Hóa Khoa, Xương Khúc Tả Hữu rồi thì dù
cho không gặp Lộc hay bị vài sát tinh cũng không xem như tình trạng
kho rỗng, kho không cửa. Thiên Phủ Hóa Khoa được thiên hạ tín nhiệm
trên mặt tiền bạc, thêm Tả Hữu càng mạnh hơn, mặt khác cũng là con
người giỏi cáng đáng trách nhiệm.
Thiên Phủ đóng Thìn Tuất (cùng với Liêm Trinh) có Hóa Khoa mà
thêm Khôi Việt giáp hay hội tụ qua tam hợp, gặp cơ hội thi triển tài năng
xứng đáng địa vị cầm đầu. Đối với Thiên Phủ cổ nhân cho rằng Hóa
Khoa tốt hơn Hóa Quyền.
Bản thân Thiên Phủ là kho đựng chủ về tài quyền không gặp Hóa
Lộc hay Lộc Tồn hẳn nhiên quyền lực Thiên Phủ phải kém đi, lại luôn
luôn chịu ảnh hưởng Thất Sát từ xung đối xung mà lại có Hóa Quyền
nữa thì sức xung kích quá mạnh, Thiên Phủ khó bảo vệ tính chất an
định. Thiên Phủ Lộc Tồn đồng cung là kho có tài lộc chính là một triệu
chứng an định vững bền. Lực lượng bảo thủ đã thắng sức xung kích
của Thất Sát.
Trường hợp Thiên Phủ không đứng với Lộc nhưng có Tả Hữu và
không phải bị những sát tinh khác quấy nhiễu và đối cung Thất Sát lực
lượng hùng mạnh hơn thì Thiên Phủ mới có được sự kích thích mà tự
biến thành một kẻ phấn đấu không mệt mỏi mà thành công (trên mặt
tiền tài thôi). Tỉ dụ Thiên Phủ đóng Tỵ Hợi, xung chiếu có Tử Vi Thất Sát,
phía lực lượng xung kích còn có cả Hóa Quyền. Có sự xung kích như
thế Thiên Phủ mới từ bỏ hẳn bản chất an định. Nếu sức xung kích chỉ
vừa phải như thiếu Quyền thì cuộc phấn đấu của Thiên Phủ thường đưa
đến kết quả nửa đường bỏ cuộc.
Một trường hợp ngoại lệ cho Thiên Phủ Tỵ và Hợi là gặp Không
Kiếp đồng cung thì lại biến ra con người thâm trầm khó hiểu nhưng đủ
thủ đoạn để chống với sức xung kích kia mà làm nên giàu có. Không
Kiếp phải đứng ở Tỵ Hợi mới hợp cách, Không Kiếp hội tụ theo thế tam
hợp đều kể là “kho rỗng”, “kho lộ”, “kho thủng”. Không Kiếp chiếu làm
cho tâm ý giảo quyệt, nghi hoặc, không thích ứng với thực tế, cuối cùng
như kẻ thất bại cô đơn.
Với nữ mệnh cũng áp dụng lối đoán như nam mệnh, chỉ khác một
điểm Thiên Phủ đắc thế thì tranh đoạt Phu quyền, gây dựng cơ nghiệp.
Thiên Phủ không đắc thế mà gặp Không Kiếp thì tình duyên đứt đoạn
dở dang. Nhất là Thiên Phủ ở Mão hay Dậu. Thiên Phủ đứng một mình
ở Mão Dậu, Sửu Mùi mà gặp Hỏa Linh Không Kiếp, Kình Đà thường là
con người đầu cơ thủ xảo, gian ngoan.
Tử Vi đẩu số Toàn thư khi luận về sao Thái âm bao giờ cũng dựa
trên 3 cơ sở:
c - Sinh vào thượng tuần, trung tuần hay hạ tuần trong tháng?
Thái âm đóng Hợi Tí Sửu tốt nhất; Thân Dậu Tuất thứ nhì; ở Dần
Mão Thìn thì gọi là thất huy (mất vẻ sáng); ở Tỵ Ngọ Mùi là lạc hãm.
Trong chỗ tốt nhất thì Hợi tốt hơn cả, cổ nhân đặt thành cách:”Nguyệt
lãng thiên môn”
lãng thiên môn”
Sinh ban ngày hay ban đêm chia theo 2 nhóm giờ như sau:
Về Thái âm trong những câu luận đáng có một câu đáng chú ý là:
“Thái âm tại Mệnh Thân cung tuỳ nương cải giá” – nghĩa là bỏ chồng về
nhà mẹ đẻ? Điều này không phải cứ Thái âm là áp dụng. Còn phải tuỳ
Thái âm có rơi vào hãm địa không đã. Nếu Thái âm ở Tỵ, lại sinh vào
hạ tuần mà sinh vào ban ngày nữa thì lời luận đoán trên rất đúng về cái
việc “tuỳ nương cải giá”, còn thêm sát tinh phụ hội thì lại càng đúng
hơn, nhất là Hoả Tinh.
Cổ nhân còn viết: “Thái âm thủ mệnh bất lợi cho những người thân
thuộc về phái nữ, vào số trai mẹ mất sớm, về cuối đời goá vợ, xa chị em
gái; vào số gái cũng thế, ngoài ra còn ảnh hưởng đến cả bản thân nữa”.
Điều này cũng chỉ có thể áp dụng qua tình trạng Thái âm lạc hãm, sinh
thượng tuần, hạ tuần và sinh ban ngày ban đêm
Thái âm vào cung Thân, ảnh hưởng còn nghiêm trọng hơn so với
Thái Âm đóng Mệnh. Với trường hợp Thái âm tại Tỵ mà gặp Thái
Dương Thiên Lương ở Dậu, rồi bên cạnh Thái Âm còn gặp sát tinh hội
tụ nữa, ảnh hưởng nặng nề hẳn
Với thời đại ngày nay, chuyện “tuỳ nương cải giá” không như ngày
xưa nên khi nói về hậu quả của sự việc ấy phải rộng rãi hơn. nhiều
hướng và nhiều ý nghĩa khác nữa. Nguyên tắc của Tử Vi sao hay có cặp
đôi thấy Thái Âm thì trước tiên hãy xem thế đứng của Thái Dương.
Trong bản số chỉ có 2 cung Thái Dương Thái Âm đứng một chỗ là
Trong bản số chỉ có 2 cung Thái Dương Thái Âm đứng một chỗ là
Sửu và Mùi. Nếu tốt cả hai cùng tốt, mà xấu thì cả hai cùng xấu. Các
sao đi cặp, hễ các sao xung chiếu bị ảnh hưởng tốt xấu đều phản xạ
qua sao bên kia.
Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì ở Mùi tốt hơn ở Sửu. Tại sao? Vì Thái
Dương ảnh hưởng mạnh hơn Thái âm mà Mùi cung thì Thái Dương
không bị “thất huy” như ở Sửu mới có sức trợ giúp Thái âm. Cho nên
Nhật Nguyệt ở Sửu, cuộc đời khó hiển đạt và lên xuống thất thường, còn
Nhật Nguyệt ở Mùi thì an định hơn.
Nhật Nguyệt đồng cung mang nhiều khuyết điểm, vì cổ ca viết: Nhật
Nguyệt thủ bất như chiếu hội, tịnh minh nghĩa là, Nhật Nguyệt đóng
Mệnh không bằng chiếu Mệnh hoặc đứng hai chỗ cùng sáng như Thái
Âm Hợi, Thái Dương Mão hoặc Thái Âm Tuất, Thái Dương Thìn.
Phú nói:
Vậy thì cách Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần những sao tốt khác trợ lực
mới đáng kể.
Thái âm gặp Cự Môn Hoá Kị bị nhiều phiền luỵ. Như trường hợp
Mệnh VCD gặp Nhật đóng ở cung Thân, Nguyệt đóng ở cung Ngọ thì
lúc ấy bên cạnh Nhật có Cự mà lại thêm Kị thì phá mất cái tốt của việc
hợp chiếu. Thái Âm cũng không ưa Thiên Lương, trong trường hợp
Thái Âm đóng ở Tỵ mà Dương Lương từ Dậu chiếu sang thường đưa
đến tình trạng vợ chồng ly tán. Trường hợp Mệnh Cự Môn Thái Dương
mà cung Phu thê có Đồng Âm gặp Hoá Kị duyên cũng khó bền.
Về Thái Âm cổ nhân còn tìm thấy cách “Minh châu xuất hải” (hòn
ngọc sáng rực ngoài biển khơi). Cách này đòi hỏi Mệnh VCD tại Mùi,
Thái Âm đóng Hợi, Thái Dương đóng Mão. Sách viết: “Nhật Mão Nguyệt
Hợi Mệnh Mùi cung. Minh châu xuất hải vị tam công” (Thái Dương Mão,
Thái Âm Mùi, Mệnh lập Mùi là cách minh châu xuất hải chức vị cao,
quyền thế). Nhưng cách “Minh châu xuất hải” vẫn phải cần Tả Hữu đứng
quyền thế). Nhưng cách “Minh châu xuất hải” vẫn phải cần Tả Hữu đứng
cùng Nhật Nguyệt mới toàn bích, thiếu Tả Hữu mà gặp thêm hung sát
tinh thì chỉ bình thường.
Luận về Thái Dương Thái Âm còn phải chú ý đến các cách giáp
mệnh. Như Thiên Phủ thủ Mệnh ở Sửu, Nguyệt tại Dần, Nhật tại Tí;
Thiên Phủ Mùi, Nguyệt ở Thân, Nhật giáp từ cung Ngọ.
Rồi đến Nhật Nguyệt hiệp Mệnh như Tham Vũ ở Sửu và Mùi. Tham
Vũ Sửu thì Thái Âm Tí, Thái Dương Dần. Tham Vũ Mùi thì Thái Âm Ngọ,
Thái Dương Thân. Mệnh lập Sửu vẫn tốt hơn Mệnh lập Mùi. Hiệp với
giáp vào cung vợ chồng không mấy tốt, nếu kèm theo hung sát tinh đưa
đến tình trạng hôn nhân có biến.
Trường hợp Thiên Phủ ở cái thế kho lủng, kho rỗng, kho lộ mà giáp
hiệp càng gây khó khăn hơn. Thái Âm là âm thủy chủ về điền sản, tiền
bạc.
Thái Âm thủ Mệnh nữ hay nam đều có khuynh hướng về hưởng thụ
công việc gì cần nhẫn nại gian khổ không thể giao cho người Thái Âm.
Thái Âm vào nữ mạng sinh ban đêm là người đàn bà có nhan sắc, có
cả Xương Khúc nữa càng mặn mà. Thái Âm trên khả năng thông tuệ
nhưng lại thiếu nhẫn nại để mà học cao đến mức hiển đạt vì học vấn.
Thái Âm hãm độc tọa thủ Mệnh vào nam mạng vào nội tâm đa
nghi. Vì Thái Âm chủ về điền sản nên đắc địa vào cung điền trạch rất tốt.
Thái Âm đắc địa thủ mệnh số trai dễ gần cận phái nữ không ồn ào mà
âm thầm nhưng khi thành gia thất rồi, vợ nắm quyền.
Thái Âm nữ mạng đắc địa, đa tình lãng mạng, thiện lương nhưng
thiếu chủ kiến, có tâm sự u uẩn phải bộc bạch ra mới yên, với bản chất
qúy thủy (nước trong) nên bao giờ cũng thích làm dáng, ăn ngon mặc
đẹp.
Thái Âm hãm thủ mệnh lại đứng cùng Văn Khúc hãm nữa chỉ
thành tựu như một nghệ nhân tầm thường với cuộc sống phiêu bạt,
kiếm chẳng đủ miệng ăn. Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn ghi một câu: Thái
Âm cư Tí, thủy chừng quế ngạc, Bính Đinh nhân dạ sinh phú quí trung
lương (Thái Âm đóng Tí như giọt sương mai đọng trên hoa quế, người
lương (Thái Âm đóng Tí như giọt sương mai đọng trên hoa quế, người
tuổi Bính Đinh sinh vào ban đêm giàu sang, tâm địa trung lương vì tuổi
Bính tuổi Đinh đều có gặp Lộc Quyền hay Lộc Tồn mà nên vậy)
Sau đây là những câu phú liên quan đến Thái Âm:
- Nguyệt diệu Thiên Lương nữ dâm bằng
(Thái Âm gặp Thiên Lương đàn bà đa dâm và nghèo. Câu này chỉ
vào trường hợp Thái Âm ở Mão hay Tỵ, hội chiếu Thiên Lương từ Mùi
hoặc Dậu, Thái Âm hãm mới kể)
- Nữ mệnh dung nhan mỹ tú, ái ngộ Nguyệt Lương
(Người đàn bà có nhan sắc là bởi Thái Âm Thiên Lương. Về nhan
sắc thì Thái Âm hãm hay đắc địa như nhau, duy Thái Âm đắc địa dung
nhan phúc hậu hơn)
- Nữ mệnh kị Nguyệt ngộ Đà
(Đàn bà rất kị Thái Âm gặp Đà La. Tại sao? Vì ưa loạn dâm. Thái
Âm vốn dĩ đa tình lại có Đà La tượng trưng sinh thực khí của đàn bà tức
kể như nữ tính quá phần mạnh mà loạn)
- Nguyệt tại Hợi cung minh châu xuất hải tu cần Quyền Kỵ Khúc
Xương hạn đáo
(Nguyệt ở Hợi là cách minh châu xuất hải, để phấn phát còn cần
gặp vận Khúc Xương Quyền Kỵ)
- Âm Dương lạc hãm tu cần không diệu tối kị sát tinh
(Âm Dương đứng không đúng chỗ cần gặp Tuần Triệt, Địa Không
ngại gặp sát tinh hãm hại)
- Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán
(Sao Thái Âm gặp Kình Dương Đà La thì nhân ly tài tán. Đây là nói
về Thái Âm hãm thôi)
- Âm Tang Hồng Nhẫn Kỵ Riêu, tân liên hàm tiếu, hạn phùng
Xương Vũ dâm tứ xuân tình liên xuất phát. (Thái Âm có Hồng Loan,
Kình Dương, Riêu Kỵ người đàn bà đẹp như đoá sen mới nở,
nhưng hạn gặp Văn Xương, Văn Khúc tất sa ngã vì tình)
- Thanh kỳ Ngọc Thỏ tuy lạc hãm nhi bất bần
(Mệnh có sao Thái Âm dù không đắc địa, không bao giờ túng
quẫn)
- Âm Dương lạc hãm gia Hình Kỵ Phu Thê ly biệt
(Cung phối Nhật hay Nguyệt hãm mà thêm Hình Kỵ vợ chồng
không sống đời với nhau)
- Nguyệt phùng Đà Kị Hổ Tang, thân mẫu thần trái nan toàn thọ
mệnh
(Thái Âm gặp Đà La, Hóa Kị, Tang Hổ thì mẹ mất sớm)
(Thái Âm gặp Đà La, Hóa Kị, Tang Hổ thì mẹ mất sớm)
- Thái Âm đồng Văn Khúc ư Thê cung thiềm cung triết quế
(Thê cung có Thái Âm đứng cùng Văn Khúc như lên cung trăng bẻ
cành quế, lấy vợ đẹp và giàu sang. Nếu là Phu cung thì không được
như vậy, tuy vẫn gọi là tốt)
- Duyên lành phò mã ngôi cao
Thái Âm đắc địa đóng vào Thê cung
- Vợ giàu của cải vô ngần
Thái Âm phùng Khúc Lộc Ấn Mã đồng
- Âm Dương Tuần Triệt tại tiền
Mẹ cha định đã chơi tiên chưa nảo
(Phải Âm Dương đắc địa mới kể)
- Âm Dương hội chiếu Mệnh Quan
Quyền cao chức trọng mới đàng hanh thông.
- Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương Khúc
Việt Khôi Hóa Quyền Lộc Đào Hồng
Thiên Hỉ Tả Hữu song song
Giàu sang hổ dễ ai hòng giám tranh
- Thái Âm lạc hãm phải lo
Kỵ lâm thường thấy tay vò đăm chiêu
- Nguyệt gặp Long Trì ở cùng
Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân
- Thiên Cơ với Nguyệt cùng ngồi
Ở cung hãm địa ấy người dâm bôn
(Cơ và Thái Âm ở Dần, đẹp nhưng lãng mạn)
Về hai sao Thái Dương và Thái Âm còn có một luận đoán đáng kể
mà không thấy ở các sách Tử Vi chính thống như sau:
Nam mạng Thái Âm thủ mệnh trên cử chỉ thái độ hao hao như nữ
tử, trái lại nữ mạng Thái Dương thủ thì tính quyết liệt, động tĩnh nhiều
nét nam tử
Nam mạng Thái Dương thường xung động Thái Âm ở cung đối
chiếu thường có khuynh hướng tà dâm, đổi lại nữ mạng Thái Âm thủ
xung động Thái Dương thường là thủy tính dương hoa (lẳng.lãng mạn)
nhiều ít cũng còn phải tùy thuộc cung Phúc Đức. Nam mạng Thái Âm
thủ ưa thân cận với nữ phái, ngược lại nữ mạng Thái Dương thủ thích
giao du với nam phái
LUẬN VỀ SAO T HAM LANG
Tham Lang là sao dương mộc đới thủy, thuộc hệ bắc đẩu. Chủ về
họa phúc và hóa khí là đào hoa. Đẩu Số Toàn Thư gọi Tham Lang
là:”bắc đẩu giải ách chi thần”
Khi đến phần bình giải thì Tham Lang lại thành khuôn mặt của con
người tửu sắc phiêu đãng. Con người như thế làm sao có thể là giải
ách chi thần được? Đời sau tìm tòi mới hay rằng giải ách chi thần ở đây
có nghĩa là khả năng đa diện tài hoa khả dĩ làm êm thấm mọi chuyện,
nói khác đi là có tài thu xếp, điều giải, ngoại giao.
Ngoài ra Tham Lang nếu gặp được những cát tinh khác là số
trường thọ, lại ưa học tu luyện thần tiên thì đây cũng kể là mặt khác của
giải ách chi thần. Nếu Tham Lang hội với Hỏa Linh Tinh đóng ở Thìn
Tuất Sửu Mùi hoặc đứng cùng Kình Dương ở Ngọ thì lại chủ về quyền
thế, tựa vào quyền thế mà phú quí, khi đã quyền thế tất giải quyết được
nhiều sự việc đáng kể như một giải ách chi thần vậy.
Tham Lang đắc địa nơi mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Ở vượng địa
Tí Ngọ Mão Dậu không hay bằng mộ địa. Có giả thuyết khác cho rằng
Tham Lang vốn hóa khí đào hoa, mà Tí Ngọ Mão Dậu lại là đất của Đào
Hoa thì quá mức mà thành không hay. Tham Đào như vậy dễ dâm loạn.
Giảo quyết trên hơi quá hóa.
Tính chất của Tham Lang có thiên hướng về vật dục, nếu vào
vượng địa khuynh hướng ấy nặng hơn, luôn cả về mặt tình dục. Nhưng
lời đoán bảo rằng Tử Tham gặp Đào Hoa trai thì trộm đạo, gái làm kỹ
nữ không đúng, hãy chỉ coi như con người nặng về tình dục, vật dục
thôi.
Tham Lang mộc nhưng căn thủy, dương mộc trôi trên sông nước
là hình ảnh phiêu đãng, xông xáo hiếu động nhưng thiếu nhẫn nại. Lúc
trẻ cân còn non chưa đủ sức, lớn lên cây già mới thành giường cột, cho
nên tuổi thiếu niên thường lãng đãng hào hoa hăm hở vui sống. Lúc
đứng tuổi nhiều kinh lịch tâm ý biến đổi hẳn sức phấn đấu cũng bền bỉ
mạnh mẽ. Do vậy, Tham Lang ít tham công trong tuổi niên thiếu.
Hình thái của người Tham Lang thủ mệnh đắc địa vì là dương mộc
nên cao lớn đẫy đà. Tuy nhiên hành động lanh lẹ không chậm rãi như
Thiên Đồng hay Tử Phủ. Tham Lang độc tọa ở Tí Ngọ Dần Thân và Tuất
Thìn. Tham Lang đứng ở Vũ Khúc ở Sửu Mùi, đứng với Liêm Trinh ở Tỵ
Hợi, đứng với Tử Vi ở Mão Dậu.
Trước hết nói về cách Tham Lang đứng với Vũ Khúc ở Sửu và Mùi.
Tham Vũ Sửu Mùi là một cách tốt nói nhiều trong Tử Vi khoa. Mệnh
Tham Vũ thì tam hợp hội tụ Tử Vi Thất Sát và Liêm Trinh Phá Quân, một
tinh hệ với tính chất biến hóa phức tạp, vì có đa số hung tinh nên sức
biến hóa càng mãnh liệt.
Tham Vũ thủ Mệnh còn có Nhật Nguyệt giáp Mệnh, nếu được cả Tả
Hữu Xương Khúc nữa thì cách Tham Vũ đồng hành kể như toàn bích
để mà công danh phú quí. Tham Vũ đi với Linh Hỏa cũng hay, nhưng là
con người thiếu đức hạnh so với đứng cùng Tà Hữu Xương Khúc.
Tham Vũ Linh Hỏa ích kỷ gian tham. Với Hỏa Tinh còn bôn ba bươn
chải trong tuổi niên thiếu nhiều hơn, qua cái nghĩa cổ nhân bảo:”Tham
Vũ đồng hành bất phát thiếu niên nhân”
Tham Lang là Đào Hoa, tính chất đào hoa ấy có thể phát triển
thành sảo nghệ như câu phú ghi:”Tham Vũ tứ sinh, tứ mộ cung, Phá
Quân Kị Sát bách công thông” (Tham Vũ đóng ở các cung tứ sinh hay tứ
mộ mà gặp Phá Quân Kị Sát thì tay làm đủ thứ nghề)
Những câu trên có thể vì tam sao thất bản ra chăng? Trên nguyên
tắc các sao ấy chẳng bằng cách gì gặp nhau. Đệ tử của Trần Đoàn là
Ngô Cảnh Loan có chú giải những câu tương tự trong bộ sách “Đẩu Số
Tử Vi tinh quyết”, tiếc rằng tôi chưa đọc được nó để tìm hiểu.
Một cách cuộc đáng suy ngẫm: Tham Lang Mệnh rất kị Thân đóng
nơi Thất Sát hay Phá Quân. Như vậy là con người sốc nổi phiêu bạt
thăng trầm khó dừng lại mà an định.
Cổ nhân viết:Mệnh Tham Lang Thân Thất Sát con trai cử chỉ điếm
đàng, con gái phong thái lẳng lơ dù có cát tinh cũng khó lòng giáng
phúc, gặp hung tăng càng tăng vẻ gian không chân thực, sống hư hoa,
giao thiệp người đáng tốt lại chơi xấu, người xấu lại đối tử tế, bởi vậy
mới nói Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập mệnh tất vi
sương (Trai mà Thân Thất Sát không thọ, gái mà mệnh Tham Lang tất
đĩ thõa)
Nếu Thân là Phá Quân thì trai thích bài bạc du đãng, gái bỏ theo
trai. Chỉ gặp Tuần hay Triệt thì Tham Lang mới đoan chính mà thôi. Câu
trên đây của cổ nhân xét ra có phần quá đáng, không chính xác khi
đoán về người Tham Lang Mệnh, mà Thất Sát hay Phá Quân thủ Thân.
Những cách cục ấy chỉ có thể bảo rằng con người quá ham muốn
vật dục, tình dục lại ưa thay đổi và không có nghị lực để chịu đựng gian
khổ mà làm nên việc không nhất thiết là kẻ lừa gạt hay đĩ điếm.
khổ mà làm nên việc không nhất thiết là kẻ lừa gạt hay đĩ điếm.
Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý: Tham Lang hội sát tinh không
nên gặp Văn Khúc, nếu Tham Lang thủ Thân mà Thất Sát thủ Mệnh lại
cả Văn Khúc thì cuộc đời thường gặp tai họa bất ngờ. Chẳng chỉ Văn
Khúc ngay cả Văn Xương cũng thế.
Tham Lang Xương Khúc thường là đa hư thiểu thực nói nhiều làm
ít. Tham Lang cũng không hợp với Kình Dương Đà La. Gặp Kình Đà ở
Tí hoặc Hợi cung thì thường ra con người phóng đãng lưu lạc trong tình
trường. Gặp Kình ở Ngọ cung, cổ nhân gọi bằng:”Mã đầu đới tiễn”, gặp
Đà La ở Dần cung cổ nhân gọi bằng:”phong lưu thái trượng”. Ở Tí cung
và Hợi cung gọi bằng “Phiếm thủy đào hoa”.
Những cách kể trên dễ rơi vào họa sắc tình. Họa sắc tình gồm có:
a) tù tội, đổ máu, mất cơ mất nghiệp vì tình hay bệnh tật b)lấy phải vợ
quá dữ như kẻ bị cầm tù mà vợ là giám ngục.
Cùng các cách trên đây nếu được thêm các cát tinh phù trợ thì chỉ
là con người phong hoa tuyết nguyệt, thi tửu cầm kỳ, chứ không đến nỗi
tang thân, bại sản vì tình.
Tham Lang đứng cùng Hóa Quyền hoặc Hỏa Linh là tốt nhất, chủ
quyền qúy. Tham Lang Hóa Lộc được thêm Hỏa Linh thì dễ làm nên
giàu có hoạnh phát. Nói tóm lại, sao Tham Lang sự biến hóa giữa tốt
và xấu rất rõ ràng và mãnh liệt.
Tham Lang đi cùng Không Kiếp hay đam mê bài bạc. Tham Lang
đi cùng Đào Hồng đàn bà đam mê vui thú xác thịt. Tham Lang không
sợ Tuần Triệt, Tuần Triệt khả dĩ chế giảm bớt vật dục vượng thịnh của
Tham Lang.
Cần đọc thêm những câu phú về Tham Lang sau đây:
- Tham Lang độc cư đa hư thiểu thực
(Tham Lang đứng một mình ưa nói viễn vông thiếu thực tế, cũng
hay khoác lác nữa. Đứng một mình mà không gặp cát tinh như Hỏa
Linh, Khoa Quyền Lộc thì mới kể)
- Nữ Mệnh Tham Lang đa tật đố
(người nữ có sao Tham Lang thủ Mệnh rất hay ghen, ghen đầu
(người nữ có sao Tham Lang thủ Mệnh rất hay ghen, ghen đầu
năm trọn tháng chày, bởi sao Tham Lang đóng ở tầy Mệnh cung)
- Tham Lang cư Mão Dậu ngộ Hỏa tắc công khanh.
(Tham Lang đứng với Tử Vi ở hai cung Mão Dậu, gặp Hỏa Tinh khả
dĩ làm lớn, có quyền thế. Khi có Hỏa Tinh thì Tham Lang biến thành chủ
tinh lấn át hẳn Tử Vi)
- Tham Lang gia cát tọa Tràng Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ
(Tham Lang đóng Dần Thân Tỵ Hợi hội với các tinh sống rất thọ)
- Tham Lang Thân cung vi hạ cách
(chỉ hạ cách nếu bị Hóa Kị đi kèm)
- Tham Lang Tỵ Hợi gia sát bất vi đồ hộ diệc tao hình
(Tham Lang gặp Sát mà đóng Tỵ Hợi nếu không làm đồ tể thì cũng
dễ vương tội tù)
- Tham Lang kị ngộ sát tinh, ưu xâm Không Kiếp, vãn niên phúc
thọ nan lương toàn
(Tham Lang gặp Sát tinh hay Không Kiếp thì luống tuổi nếu khá giả
tất không thọ, nghèo khổ mới sống lâu)
- Tham Lang Hợi Tí hạnh phùng Quyền vượng biến hư thành thực
ư Giáp Kỷ tuế phú danh viên mãn (Tham Lang đóng ở Hợi hay Tí
mà được Quyền Lộc biến hư thành thực với người tuổi Giáp Kỷ khả
dĩ nên danh phận cơ nghiệp)
- Tham cư Đoài Chấn thoát tục vi tăng Kiếp Kị lai xâm trần hoàn đa
trái
(Mệnh Tử Tham Mão Dậu gặp Hồng Loan, Thiên Không thì đi tu,
nhưng hễ đã thấy Hóa Kị, Địa Kiếp xuất hiện thì tu không trọn nghiệp
mà phá giới)
- Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt
Tuần thi tâm tình thư thái
(Tham Lang đóng nhàn cung (như Hợi Tí hoặc Thân) thường là
người đàn bà tâm tính độc, hay tư tình, nhưng nếu đã có Tuần Triệt án
ngữ thì đỡ hẳn)
- Tham Sát Ngọ Dần kiêm ngộ Hổ, Tang lôi thú nan đề
(Tham Lang Thất Sát ở Dần hay Ngọ thủ Mệnh gặp Bạch Hổ Tang
Môn phải đề phòng tai nạn sét đánh, hoặc thú vật cắn)
- Tham tọa thủy cung, giáp biến tứ sát bần khổ
(Tham Lang ở Tí Hợi lại giáp Kình Đà Không Kiếp thì nghèo khổ)
- Tham Kị trùng Riêu thủy tai nạn miễn
(Tham hãm địa gặp Hóa Kị Thiên Riêu thì dễ bị tai nạn về sông
nước)
- Tham Lang Vũ Khúc thủ Thân vô cát mệnh phản bất tường
(Cung Thân có Tham Vũ mà cung Mệnh xấu thì danh phận ngắn
ngủi, dễ gặp hiểm nguy)
- Tí Ngọ Tham Đào Ất Kỷ âm nam lập nghiệp do thê, kiêm năng
sát diệu hành sự do thê
(Mệnh ở Tí Ngọ có Tham Lang Đào Hoa, người tuổi Ất Kỷ nhờ vợ
mà nên cơ nghiệp nếu lại thấy cả sát tinh nữa thì quyền hành đều ở
trong tay vợ)
- Dần Thân nhi hội Tham Liêm ngộ Văn Xương nhập lao Quản
Trọng
(Tham Lang ở Dần hay Thân thì cung đối chiếu là Liêm Trinh lại
thấy cả Văn Xương dễ bị dính vào vòng lao lý)
- Tham Đào giải ách nhi ngộ Linh Riêu lãnh hoàn chi bệnh
(Đàn ông Tham Đào đóng giải ách gặp Linh Tinh, Thiên Riêu bị
lãnh tinh, hiếm con)
- Tham Lang Bạch Hổ trùng sinh
Tuất Thìn số ấy lánh mình sơn lâm
(Mệnh có Tham Lang đi cùng Bạch Hổ, người tuổi Thìn Tuất đừng
nên ham thú săn bắn, sẽ bị thú vật cắn)
- Quan cung Tham Vũ cùng xâm
Đừơng mây thủa ấy hải lâm bôn trì
(Cung Quan Lộc Tham Vũ cùng đóng, ra làm quan lận đận lao
đao)
- Tham Riêu hãm địa cùng xâm
Gia trung thất vận gian lâm trạch tài
(Tham Lang Thiên Riêu hãm địa đóng cung Tài Bạch, Điền Trạch
thường bị mất trộm hoặc hốt nhiên sụp đổ cơ nghiệp)
- Tham Lang miếu vượng chi cung
Thân hình to lớn là giòng lược thao
(Tham Lang đắc địa khổ người to lớn, tháo vát lanh lẹn)
- Dần Thân Tham gặp Tràng Sinh
Không sao ác sát thọ tinh ấy mà
(Tham Lang ở Dần hay Thân là cung của Tràng Sinh tuổi thọ
thường cao nếu không bị ác sát tinh)
- Tham Đào số nữ thường dâm loạn
Ở hãm cung hãy đoán cho tường
Tí Ngọ Mão Dậu mấy phương
Nếu gặp Tuần Triệt lại phường đoan trinh
- Tham Vũ đóng đất Võng La (Thìn Tuất)
Gặp loài Tang Điếu một nhà lại hung
- Mệnh chính diệu cung Phu Tham đóng
Ấy là người phúc trọng chính thê
Mệnh vô chính diệu đáng chê
Cung Phu Tham đóng giữ bề tiểu tinh
LUẬN VỀ SAO CỰ MÔN
Cự Môn thuộc âm thủy trong hệ Bắc Đẩu chủ về thị phi và hóa khí là
Ám. Hai chữ Ám điệu đã gây cho người đọc hiểu lầm không ít. Cự Môn
tự nó không có ánh sáng thì đươngnhiên không trở thành tối ám như
Nhật Nguyệt hãm.
Cự Môn sở dĩ thành ám vì khả năng cản ngăn che khuất của nó.
Vậy thì tính chất căn bản của Cự Môn là một vật gây chướng ngại. Đã
gây chướng ngại tại sao nó đứng với Thái Dương ở cung Dần lại thành
tốt? Trong vũ trụ duy chỉ có vầng Thái Dương không vật gì có thể che
khuất bởi vậy Thái Dương đắc địa không sợ Cự Môn.
Cự Môn đứng bên cạnh Thái Dương biến thành một vật gây phản
chiếu cho Thái Dương, đồng thời Thái Dương đã chuyển Cự Môn từ ám
thành minh. Ảnh hưởng cản ngăn che khuất của Cự Môn gây khó khăn
nhiều nhất là quan hệ giao tế.
Đẩu số toàn thư viết: “Tính chất Cự Môn ngoài mặt thì thế mà trong
lòng thì khác, đối với người thân ít hợp, giao du với người mới thì trước
yêu sau ghét”. Mấy chữ “Cô độc chi số, khắc bạc chi thần” là nói về giao
tế.
Cự Môn là sao của thị phi vậy thì Cự Môn “thị” hay “phi”? Vốn là ám
điệu như mầu đen chìm dưới đáy biển khó mà biết được thị hay phi.
Trong lối sắp xếp bốn sao Hóa cổ nhân đã đặt để sao Cự Môn
không bao giờ đứng cùng Hóa Khoa, nó chỉ đứng bên Hóa Lộc, Hóa
Quyền, và Hóa Kị thôi. Cự đi cùng Hóa Kị lực lượng chướng ngại tăng
cao hẳn, bởi vậy Mệnh mà gặp Cự Kị dễ rơi vào khẩu thiệt thị phi, tình
cảm khôn khó, hoặc cò bót kiện tụng, ngoài ra còn dễ lên bàn giải
phẫu.
Cự Môn đứng cùng Hóa Lộc thì lời ăn tiếng nói hoạt bát, tranh biện
Cự Môn đứng cùng Hóa Lộc thì lời ăn tiếng nói hoạt bát, tranh biện
hay, khả dĩ nói ra tiền vào nghề thầy kiện, vào ngành truyền thông hợp
cách. Nhưng bản tính thì không thực, nói cười thân mật mà thiếu tình
cảm chân thành.
Cự Môn đứng với Hóa Quyền sách bảo rằng đó là hung mà ra triệu
chứng tốt (hung vi cát triệu). Nhờ chướng ngại tạo ra phấn đấu mà nên
công nên nghiệp, do chướng ngại mà thành công. Tỉ dụ xã hội biến
động bị đẩy vào bước đường cùng, từ cùng sinh biến mà hóa thông.
Càng vượt nhiều khó khăn càng thành công lớn. Những người làm
chính trị, những người có số hoạnh phát thường thấy Mệnh Cự Môn
Hóa Quyền. Cự Môn không cần Hóa Khoa, nhưng gặp Hóa Khoa Cự
Môn sẽ tan biến đi tính chất thị phi cố hữu của Cự Môn.
Cự Môn đứng một mình ở các cung Tí, Ngọ, Thìn, Tuất và Tỵ Hợi.
Cự Môn đứng cùng Thiên Cơ ở Mão và Dậu. Đứng cùng Thiên Đồng ở
Mùi, Sửu. Đứng cùng Thái Dương ở Dần Thân.
Trước nói về Cự Môn Thiên Cơ. Thiên Cơ vốn đã động, Cự Môn lại
đa biến. Hai sao này thủ Mệnh cuộc đời biến động nhiều và có tài soay
sở, tuy nhiên chỉ thành công nếu như giữ được sự an định, nếu cứ mặc
sức biến động thì càng lún sâu vào những khó khăn. Cự Cơ trên
nguyên tắc là cách làm giàu với điều kiện phải có Hóa Quyền, Hóa Lộc
hoặc Song Hao (Đại Tiểu Hao), đã Lộc thì không nên Hao.
Cự Môn Thiên Đồng gây phiền nhất cả trên tình cảm lẫn danh
phận. Cự Đồng thủ Mệnh số trai khó lập công danh cơ nghiệp, số gái
lận đận duyên tình.
Các sao của Tử Vi Khoa bao giờ cũng mang hai bộ mặt cát và
hung. Cự Môn Hóa Kị bị coi làm hung thần, nhưng lúc biể hiện cũng
vẫn có hai mặt tốt xấu. Hãy đọc câu phú sau: “Cự Môn Thìn cung Hóa
Kị, Tân nhân Mệnh ngộ phản vi kỳ” (nghĩa là Cự Môn thủ Mệnh tại cung
Thìn có Hóa Kị, người tuổi Tân lại biến ra kỳ cách)
Cự Môn Hóa Kị đi cặp rất xấu, nhưng ở trường hợp này lại chuyển
thành tốt. Vì nó được cả bốn Hóa, Hóa Quyền đứng bên Thái Dương
chiếu lên, Hóa Khoa đứng Tuất với Văn Khúc chiếu qua, và Hóa Lộc
đứng cùng Cự Môn thành ra kỳ cách “Tứ Hóa toàn phùng”
Cách này thường gây sôi nổi thị phi nhưng cuối cùng lập thành sự
nghiệp to lớn. Cự Môn Hóa Kị ở cách này là con người đi ngược thời
thương không a dua mà đặt định một lề lối riêng biệt tiến bộ. Nó đi vào
mọi lãnh vực chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc đến hội họa, y học….
Nếu như Cự Môn ở Thìn không Hóa Kị, Hóa Khoa chỉ có Quyền với
Lộc thôi thì công danh lại thường do người đề bạt mà nên phú quí thiếu
sức ông phá của Hóa Kị nên không thành ra người sáng tạo sự nghiệp.
Sao Cự Môn rất hợp với những người tuổi Tân. Vì tuổi Tân sự an
bài tứ hoá theo thứ tự Cự Nhật Khúc Xương, đương nhiên nếu Cự Môn
thủ Mệnh mà tuổi Tân thì đã chắc chắn có Lộc Quyền. Ngay cả đến cách
Cự Đồng vào Mệnh là xấu nhưng với tuổi Tân cái xấu giảm hẳn đi. Bởi
vậy mới có câu phú rằng: “Cự Môn Thìn Tuất hãm địa Tân nhân hóa cát
lộc tranh vinh” (Cự Môn ở hai cung Thìn Tuất là đất hãm nhưng nếu tuổi
Tân thì lại vinh hiển)
Cự Môn đóng ở Thìn là cung Thiên La (lưới trời) hoặc cung Tuất là
cung Địa Võng (lưới đất) kể như hãm. Thế hãm này chỉ phá ra được
nếu Cự Môn có Địa Không, Địa Kiếp đi bên hoặc đứng với Kình Dương
hay Linh Tinh. Cuộc đời trải qua nhiều bôn ba thăng trầm vượt lên mà
thành công. Nhắc lại đã Kình thì thôi Linh, đã có Linh thì đừng nên Kình
thêm nữa.
Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư
Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư
viết: “Cự Nhật Dần lập Mệnh Thân tiên khu danh nhi thực lộc, Cự Nhật
Thân lập Mệnh Dần trì danh thực lộc” nghĩa là Mệnh lập tại Thân Cự
Nhật Dần xung chiếu hoặc Mệnh lập tại Dần Cự Nhật xung chiếu cả hai
đều danh vị đi trước Lộc tới sau.
Hai cách trên đều có tiền qua chức vị, chức lớn tiền nhiều, chức
nhỏ quyền ít không thể do kinh thương mà làm giàu. Rồi một câu khác:
“Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc trì danh, Cự tại Tỵ Nhật Mệnh
Hợi phản vi bất giai” nghĩa là Cự đóng Hợi Thái Dương thủ Mệnh Tỵ có
tiền rồi có danh, nếu như Cự đóng Tỵ Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi thì
xấu khó màng đến danh lộc. Cự Hợi xung chiếu Mệnh khả dĩ kinh
thương làm giàu, lớn nhỏ còn tùy các phụ tinh khác.
Còn một cách khác về liên hệ giữa Cự Môn với Thái Dương: “Cự
Tuất, Nhật Ngọ Mệnh viên diệc vi kỳ” An Mệnh tại cung Dần, Cự Môn
đóng Tuất, Thái Dương từ Ngọ chiếu xuống, không bị Tuần Triệt làm
ngăn trở Thái Dương cách này công danh tài lộc dễ dàng.
Tài ăn nói của Văn Khúc mang ý hướng đào hoa, thuyết phục. Tài
ăn nói của Cự Môn đầy quyền lực, có khuynh hướng áp đặt. Cự Môn
đứng với Thiên Đồng ăn nói thường gàn gàn khó nghe.
Cự Môn tuyệt đối không hợp với Linh Tinh, Hỏa Tinh. Cự Môn ngại
thấy Kình Dương Đà La. Có những câu cổ quyết ghi trong Đẩu Số Toàn
Thư: “Cự Hỏa Linh Tinh phùng ác hạn tử ư ngoại đạo” (Mệnh Cự Hỏa
Linh Tinh hay hạn gặp Cự Hỏa Linh Tinh rất hung nguy)
Cự Môn Dương Đà ư Thân Mệnh, tật bệnh doanh hoàng (Cự Môn
gặp Dương Đà ở Thân hay Mệnh bệnh tật triền miên)
Những cách trên nếu như gặp Hóa Khoa, hay bộ tam minh Đào
Những cách trên nếu như gặp Hóa Khoa, hay bộ tam minh Đào
hồng Hỉ có thể hóa giải, thêm cả Hỉ Thần càng tốt. Ngoài ra Cự Môn còn
có một cách nữa qua câu quyết: Cự Lương Thân Mệnh, bại luân loạn
tục (Cự Môn và Thiên Lương một ở Thân, một ở Mệnh thường có
khuynh hướng loạn luân)
Cách này chỉ xuất hiện khi nào Cự Môn đóng Mệnh cung mà Thân
lại ở Phúc Đức thôi. Trường hợp Thiên Lương Mệnh thì Cự Môn bắt
buộc phải đóng Thê cung, không ăn nhập gì đến câu quyết trên.
Qua kinh nghiệm thì chuyện bại luân loạn tục chỉ xảy ra nếu như
Mệnh hay PHúc Đức còn có thêm những sao Đào hoa, Thiên Riêu, Mộc
Dục, Không Kiếp.
Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người
xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ
được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung
một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về
mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên
tướng tài về hành chánh, còn Thiên Cơ tài về tham mưu.
Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình
Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với
người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp
đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.
Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt
biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các
sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao
này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất
quyến rũ đối với đàn bà con gái.
Tướng đi với Hoa Cái Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với
Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng
Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình
Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.
Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn
nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn
phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên
Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực
lãnh đạo.
Về Thiên Tướng Liêm Trinh xin xem đoạn luận sao Liêm Trinh
Về sao Thiên Tướng Vũ Khúc xin xem đoạn luận sao Vũ Khúc
Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung
Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá
Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu.
Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung
phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng
cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công,
đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn
nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền
Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả.
Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu,
Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu,
nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng
mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì
vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên
Hình.
Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc,
ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng. Có câu phú: “Tỵ Hợi
Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận
hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ
Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có
quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất
hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp
với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa.
Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung
xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão
chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu
an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng
hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến.
Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ,
ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc
vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi.
Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê
cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm
quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay
Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện
Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai)
Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn
và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn
địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà
Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên
Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ
nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu
Thuyền mà phá hỏng đời mình)
Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung
Thiên Tướng Tuần Triệt trước miền
Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối
hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn
không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên
Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích
Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng
chú ý:
1. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ
an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc,
Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo
dựng cuộc đời an định)
2. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng,
không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”)
Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp
Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không
cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói
ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”
Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an
sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam
hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau.
Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên
Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng
bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn.
bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn.
Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất
nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng.
Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục
khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên
Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng
đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn.
Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn”
chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa
Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm
hiệp.
Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời
sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số
Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng
sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình.
Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà
La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa
khí của Đà La là Kị.
Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với
Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một
cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa,
dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ
thủ phận không nên đua chen mới yên.
Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử
qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt.
Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi
vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng
tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách.
Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao
phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao
ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên
có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở
vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai
lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ
là chuyện rắc rối.
Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp
Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ,
dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh
Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị
thiếp chi lưu”.
Xin xem thảo thêm những câu phú về sao Thiên Tướng:
- Thiên Tướng tối hỉ cư Thê vị
(Nam mạng có Thiên Tướng đồng Thê cung tất gặp người vợ đảm
lược quán xuyến)
- Tướng ngộ Cái Đào Khúc Mộc thuần tước dâm phong, hạn ngộ
Cơ Riêu vô phu tự giải cố miên
(số nữ Thiên Tướng gặp Hoa Cái Đào Hoa Mộc Dục Văn Khúc thì
nhan sắc xinh đẹp nhưng dâm đãng, vận gặp Thiên Cơ Thiên Riêu
đêm nằm thao thức tơ tưởng chuyện gái trai như con chim chìa vôi đến
ngày động đực)
- Tướng Liêm tại Ngọ, Khoa Hình Quyền củng, Hàn Tín đạt cao võ
thượng chi công
(Mệnh lập Ngọ Liêm Tướng thủ hội Khoa Hình Quyền như Hàn Tín
xưa đăng đàn bái tướng lập võ công oanh liệt).
- Tí Ngọ Tướng Liêm phùng Phụ Bật thái y đắc thế
(Mệnh đóng Tí hay Ngọ Liêm Tướng thủ được Tả Hữu thì làm thầy
thuốc giỏi).
- Thiên Tướng Tử Vi Thân phùng Phá, kiêm ngộ Vượng Tuần đa
mưu yếm trá
(Thiên Tướng Tử Vi thủ Mệnh Thân, Phá Quân mà gặp Tuần
Không, Đế Vượng là con người lắm mưu lắm thủ đoạn và gian hùng)
- Thiên Tướng Tử Vi Tuất Thìn khởi năng đạt công danh chi chí
(Thìn Tuất an Mệnh Tử Vi Thiên Tướng thủ không gặp thêm cát tinh
thì khó nên danh phận với đời).
- Ấn mang liệt vị phong hầu,
Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung
(Cung Mệnh có Thiên Tướng Phong Cáo thì công danh địa vị
cao)
- Thiên Tướng Không Kiếp cư quan
- Thiên Tướng Không Kiếp cư quan
Công danh chẳng được tân toan nhiều bề
(Thiên Tướng gặp Không Kiếp ở Quan Lộc, công danh chịu lắm
khó khăn cay đắng thăng trầm gian nan)
- Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọa
Cửa mận đào có gã tình nhân
(Mệnh Thiên Tướng gặp Hóa Lộc chiếu hay Hóa Lộc đứng cùng thì
dễ quyến rũ đàn bà con gái, cũng thường là số đa thê)
- Tướng miếu hoặc hãm gặp ngay
Tuần Triệt án ngữ thân nay khó toàn
Hoặc bị súng đạn đao gươm
Hoặc lâm tai nạn thương đó mà
- Cung quan Tướng đóng xem qua
Hễ bị Tuần Triệt khó mà rạng danh
- Tướng Hồng số gái yên vui
Chồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dào
Nếu gặp Khúc Cái Mộc Đào
Vẫn là phúc trọng tính âu đa tình
Thiên Lương sao trong hệ Nam đẩu, chủ về thọ lộc, hóa khí là Ấm,
thuộc dương thổ (xin nhắc sao Tham Lang trong hệ Bắc đẩu chủ về tai
ách tử vong). Mệnh cung hay tật ách cung mà thấy sao Thiên Lương thì
gặp hung chuyển ra cát tiểu tai giải ách. Trong khi sao Tham Lang vào
Mệnh hay Tật ách bị thêm các sát tinh kị hình hao tinh khi gặp lưu Kị lưu
Hình rất nguy hiểm về tai nạn có thể đưa đến chết chóc.
Thiên Lương sao của tiêu tai giải ách, thì đương nhiên phải gặp tai
ách thì mới cần triệt tiêu. Bởi thế người có Thiên Lương thủ Mệnh
thường gặp lắm tai họa mà thoát khỏi hiểm nguy (của bệnh tật, của tù
thường gặp lắm tai họa mà thoát khỏi hiểm nguy (của bệnh tật, của tù
tội, của hoạn nạn). Cổ nhân bảo nguy mà không nguy là vậy.
Thiên Lương tính tình ôn hòa, khéo sắp xếp khu xử, ít dám phiêu
lưu xông xáo, xung phong. Người Thiên Lương thủ Mệnh trong một xã
hội đầy biến động không bao giờ làm cách mạng. Thiên Lương trên
phương diện phục vụ không hăng hái như Thiên Tướng, trên quyền vị
không có khí thế mạnh bằng Thái Dương. Thiên Lương có khuynh
hướng đón đợi thời cơ, ăn cỗ sẵn.
Thiên Lương ở hãm địa Hợi Tỵ thì cuộc đời phiêu bồng không lý
tưởng cũng không có mục đích để theo đuổi. Thiên Lương đứng một
mình ở các cung Tí Ngọ Tỵ Hợi và Sửu Mùi. Thiên Lương đứng cùng
Thiên Đồng ở Dần Thân, đứng cùng Thiên Cơ ở Thìn Tuất, đứng cùng
Thái Dương ở Mão Dậu.
Thiên Lương Tỵ Hợi thủ Mệnh không cần gặp Hình Kị Sát tinh cũng
vẫn là một cuộc đời lắm tai lắm nạn, đến mức độ chín chết một sống,
cuối cùng ra thoát như tên tử tội sắp tới ngày ra pháp trường mà được
ân xá. Thiên Lương Tỵ Hợi lắm gian truân mà không thành tựu. Nghèo
thì thọ, hễ gặp cơ may mà giàu sang khó tránh khỏi yểu mệnh. Như cổ
nhân bảo:”Phi bần tất yểu”. Vận hạn đến Tỵ Hợi Thiên Lương bảy nổi ba
chìm.
Thiên Lương ở Mùi Sửu nếu gặp cát tinh thì bình ổn, có chức
nghiệp vững vàng và phục vụ đắc lực hợp với tuổi Ất Nhâm, thêm Văn
Xương càng hay. Khoa Tử Vi Việt không thấy nói tới sao Âm Sát nhưng
ở Đại Hàn Nhật Bản và Trung quốc thì có cách Thiên Lương Âm Sát.
Thủ Mệnh mà Thiên Lương gặp Âm Sát biến ra con người có âm nhãn
dễ nhìn thấy ma quỉ hoặc có muội lực kỳ bí, tuy nhiên cũng vì vậy mà
thần kinh dần dần suy nhược. Âm Sát là sao tính theo tháng cách an
như sau: Tháng giêng tại Dần, tháng hai ở Tí, tháng ba ở Tuất, tháng tư
ở Thân, tháng năm ở Ngọ, tháng sáu ở Thìn, tháng bảy ở Dần, tháng
tám ở Tí, tháng chín ở Tuất, tháng mười ở Thân, tháng mười một ở
Ngọ, tháng mười hai ở Thìn. Tháng đây là tháng sinh của người mang
số.
Muội lực kì bí càng mạnh nếu có cả Linh Tinh đi kèm. Nhưng nếu
lại đi cùng hao tinh, không tinh thì ngả sang thần bí tôn giáo. Những
nhà sư thuộc mật tông phái giỏi về khoa huyền bí phần lớn có Âm Sát đi
nhà sư thuộc mật tông phái giỏi về khoa huyền bí phần lớn có Âm Sát đi
với Thiên Lương hay Thiên Cơ.
Thiên Lương đơn thủ Tí Ngọ thì ở Tí tốt hơn Ngọ. Bởi lẽ Thiên
Lương Tí sao Thái Dương đắc địa tại Ngọ gây ảnh hưởng tốt thêm cho
Thiên Lương, còn Thiên Lương Ngọ Thái Dương Tí không đắc địa.
Nhưng trường hợp Thiên Lương đóng Ngọ mà đứng bên sao Văn Khúc
thì lại chuyển thành tốt hẳn, có Văn Khúc Thiên Lương không cần sự trợ
lực của Thái Dương nữa.
Sang đến cách Thiên Cơ Thiên Lương (đã bàn qua ở mục luận về
Thiên Cơ). Ngoài câu phú:”Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh” trong
“Chư tinh vấn đáp” Trần Đoàn tiên sinh còn viết:”Thiên Lương gặp
Thiên Cơ và hao điệu tăng đạo nhàn”. Hao điệu là Phá Quân? Đương
nhiên Cơ Lương không thể gặp Phá Quân Hao điệu là Đại và Tiểu
Hao? Hai sao này không có luận cứ nào chứng minh có thể biến Cơ
Lương thành tăng đạo.
Vậy thì hao điệu chỉ khả dĩ là một lời nói của cổ nhân bảo rằng
Mệnh Cơ Lương là con người tài hoa học rộng biết nhiều mà thiếu
quyết tâm hành động cho nên chỉ đánh trận trên giấy được thôi làm hao
phí khả năng vì chỉ muốn thanh nhàn ẩn dật.
Bây giờ bàn sang cách Thiên Lương đồng cung với Thái Dương ở
Mão và Dậu. Nếu ở Mão thì phải được Hóa Lộc và Văn Xương tức cách
Dương Lương Xương Lộc đã nói ở sao Thái Dương. Thiếu Xương Lộc
tốt đẹp mất đi một nửa. Ở đây chỉ bàn về cách Thiên Lương bên Thái
Dương tại Dậu thôi.
Sách Đẩu Số Toàn Thư viết câu phú:”Lương tú Thái Âm khước tác
phiêu bồng chi khách” (nghĩa là Thiên Lương gặp Thái Âm là người
sống nổi trôi). Là nói Thiên Lương tại Dậu đứng cùng Thái Dương hội
chiếu với Thái Âm tại Tỵ. Số trai lận đận trên danh phận, dù khá thông
minh làm việc đắc lực. Số gái lang bang trên tình cảm dễ lỡ duyên. Giả
tỉ có Văn Xương Hóa Lộc cũng không thể gọi là Dương Lương Xương
Lộc. Tuy hay tốt hơn vẫn kể là hạ cách, trừ trường hợp có sao Hỏa Tinh
đứng bên. Hỏa Tinh vào Thái Dương hãm loạn thế đắc chí.
Câu phú:”Lương tú Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách” (Thiên
Lương gặp Thái Âm thêm Linh Tinh là người có thể ở địa vị giường cột
chỉ vào tình trạng Thiên Lương đóng Tí)
Thiên Lương luôn luôn bị một điểm phiền là Cự Môn đóng vào
cung Phu Thê, tại Ngọ Cự Môn Thìn, tại Tí Cự Môn Tuất, tại Mão Dậu Cự
Đồng Sửu Mùi khiến cuộc sống lứa đôi khó thoải mái, không đồng
sàng dị mộng thì cũng chia tay thì cũng hai vợ, hai chồng. Nam hay nữ
đều như vậy, nhưng số nữ Cự Đồng vào Phu nặng hơn.
Thiên Lương vốn là sao của tuổi thọ,nếu mệnh cung lại có cả sao
Thiên Thọ tính chất thọ khảo của Thiên Lương càng tăng thêm. Nếu
Thiên Lương đứng trong cung Phu Thê cùng với Thiên Thọ thì gái
thường lấy chồng già (từ hơn mười tuổi), trai lấy vợ già (từ ba bốn tuổi)
Nếu Thiên Lương đứng với Thiên Thọ ở tử tức, phải luống tuổi mới
sinh con. Nếu Thiên Lương cùng Thiên Thọ ở cung Phụ Mẫu, cha mẹ
sống thọ. Trên đây chỉ là một cách cục thôi, không nhất thiết cứ phải
Thiên Lương Thiên Thọ mới vợ già chồng trẻ, hay chồng già vợ trẻ.
Thiên Lương là thọ tinh, đóng Mệnh cung được tuổi thọ, trừ trường
hợp Thiên Lương Tỵ Hợi mà giàu sang, nhưng thọ không phải là sức
vóc khỏe mạnh. Thiên Lương thủ Mệnh gặp nhiều Sát Kị tinh thì sức
khỏe suy yếu, nhờ thuốc thang kéo dài sự sống. Tỉ dụ bị bệnh thổ huyết
mà hút thuốc phiện, bị mất ngủ kinh niên mà dùng thuốc ngủ, thuốc an
thần.
Thiên Lương qua nhận xét của các nhà số học Trung Quốc mang
phong độ danh sĩ khi nó gặp những sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Khúc,
Văn Xương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Họ căn cứ vào những câu phú ghi
trong Đẩu Số Toàn Thư:
- Lương Dậu Nguyệt Tỵ, khước tác phiêu bồng chi khách
Thiên Lương đóng tại Tỵ thủ Mệnh mà kèm bên là Hoả Tinh, Đà La
thì vừa cô khắc vừa lắm tai nạn. Thiên Lương đi cùng văn tinh là người
du thuyết giỏi. Thiên Lương đi với Đào Hoa vào kịch nghệ, trình diễn là
hợp cách, nhưng cũng là người dễ vướng mắc lưới tình. Thiên Lương
hội tụ cả Đào Hoa Xương Khúc Thiên Riêu có tài, nhưng chỉ ăn chơi
hưởng thụ.
Cách Thiên Lương đồng cung với Thiên Đồng tại Dần Thân thế
nào? Sách viết: “Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị, nhất sinh lợi
nghiệp thông minh” nghĩa là: Mệnh có Thiên Lương Thiên Đồng hội
chiếu Thiên Cơ Thái Âm từ các cung Tài Bạch Quan Lộc là con người
phúc hậu thông minh chức nghiệp tốt phục vụ đắc lực. Đồng Lương tại
Dần tốt hơn tại Thân vì Dần Thái Âm cung Tuất đẹp hơn Thân Thái Âm
cung Thìn, khả năng thông tuệ như nhau nhưng chót lọt suông sẻ khác
nhau.
Dần Thân là hai cung của Thiên Mã, hễ đã gặp Mã thì đừng có Đào
Hoa. Vì Thiên Mã càng tài giỏi, thêm Đào Hoa thường từ bỏ hạnh phúc
an định sẵn có mà đi vào rắc rối nhiễu sự nhất là về phương diện tình
ái.
Sau hết là nói về quan hệ của Thiên Lương với những sao Lộc,
nhất là Hóa Lộc. Thiên Lương hóa khí là Ấm, cái khả năng quản thủ,
điều khiển và phấn đấu cho tiền bạc rất kém bởi vậy không thể đứng sát
cạnh Lộc. Như cách Dương Lương Xương Lộc thì Lộc phải đứng với
Thái Âm chiếu qua mới toàn bích. Lộc đồng cung sẽ thành một khuyết
điểm cho cách này. Lộc đứng kèm bên Thiên Lương sẽ đưa đến tình
cảnh vì tiền mà mang tai mang họa. Thiên Lương qua chức vị nghề
nghiệp mà hưởng phú quí, nói khác đi là người khác ban thưởng bổng
lộc cho hơn là tự phấn đấu để giành giật lấy. Người Thiên Lương hoàn
toàn không đủ thủ đoạn mưu chước đương đầu sự chống phá chung
toàn không đủ thủ đoạn mưu chước đương đầu sự chống phá chung
quanh.
Thất Sát trong hệ Nam đẩu, thuộc âm hỏa âm kim còn gọi là hỏa
hoa chi kim, như sắt nung đỏ bắn ra những hoa lửa, chủ về sinh sát,
tính chất của một thượng tướng. Hỏa hoa bắn tung ra ngoài, nhưng âm
kim lại nội liễm cho nên tâm tính vừa âm trầm vừa dễ giận dữ.
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số
đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải
qua những chuyện hung hiểmhoặc có một thời gian bị lắm chướng
ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có
Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận
tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với
thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu
tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã
thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ
và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ
Khúc ở Mão Dậu.
Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm
cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão
Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất
Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có
lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của
chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu
sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng
sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng
nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm
cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh
Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi).
Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ.
Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi
bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn
Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát
luôn, đứng luẩn quẩn văn vẻ làm gì nửa văn nửa vũ thành nửa mùa tất
hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy
Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô
khắc, quan hệt giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh
quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận
lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp
thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn,
Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như
Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiênma bách triết mới
thành công.
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn
cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là
“Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn
nguyên cách”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng
chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở
thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói
thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”.
Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm
hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát. Hai ông còn cho rằng Thất
Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rât
cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long
Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh
thì cuộc đời ít gian nan.
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi
cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh
cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực
bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:
(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh
tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc
chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)
(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không
quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)
(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người
nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn
là đẹp ắt phải có bận khắc phu)
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự
lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào
những câu phú cổ hũ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những
người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn
vậy thôi.
Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào
Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức
của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới
có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi”
(Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào
tình trạng lẽ mọn)
Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất
Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất
Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát
Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát
Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn
có câu này?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp
hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có
những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng
mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên
đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường
bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát,
hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo
những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng
mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì
cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải
có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
Nếu đem hai câu viết ở mục Trú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm
Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc
biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần
gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh
là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung
sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa
Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận
tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo,
biết theo thời thế, biết đứng vào hang lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể
như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát
dữ dội của Thất Sát.
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính
nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò
trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ
mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất
cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả
cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả
năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực
hơn.
Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:
Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải
xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.
Tiền nhân khi luận về sao Phá Quân thường chê bai. Như trong
Đẩu Số Toàn Thư Viết:”Phá Quân thủ Mệnh là con người bạo hung gian
trá, tính gian hoạt, không hợp với ai, làm việc gì chỉ chực ăn người,
không ưa điều thiện, thích hùa vào việc ác, coi lục thân như người
dưng, cốt nhục vô tình vô nghĩa”.
Nói tóm lại, Phá Quân không có điểm nào gọi là tốt, phải. Luận như
vậy thiên lệch không chính xác. Ngoài ra cũng ở sách trên có hai điểm
lầm khi viết:”Gặp Thiên Phủ trở thành gian ngụy, hội Thiên Cơ thì sinh
trộm cắp”. Làm thế nào mà an sao Phá Quân gặp Thiên Phủ với Thiên
Cơ được?
Lại viết ”Chỉ có Thiên Lương mới giải được cái xấu, Lương Lộc mới
làm vơi đi chất ngông cuồng”. Phá Quân cũng không thể đứng cùng
làm vơi đi chất ngông cuồng”. Phá Quân cũng không thể đứng cùng
Thiên Lương hay hội hiệp với Thiên Lương. Chỉ có thể rút tỉa được một
điểm đúng ấy là: Phá Quân cần Lộc, Lộc Tồn hay Hóa Lộc căn cứ trên
câu: “Lục Giáp lục Quí sinh nhân hợp cách, chủ phú quí”
Lục Giáp Phá Quân Hóa Quyền, lục Quí Phá Quân Hóa Lộc. Theo
kinh nghiệm thì Lộc thuận lợi hơn Quyền. Quyền làm cho bôn ba hơn,
Lộc thì yên ổn.
Phá Quân hội Lộc đi cùng Tham Lang (trường hợp tuổi Kỷ) hoặc
gặp Hóa Lộc đứng cùng (tuổi Quí) thì không nên có Thiên Mã. Lộc với
Mã vốn là một cách hay gọi là Lộc Mã giao trì, riêng với Phá với Tham thì
lại không hay.
Sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra câu phú: “Phá Quân Tham Lang
phùng Lộc Mã, nam lãng đãng nữ đa dâm”. Tại sao vậy? Vì bản chất
Phá Quân đã ưa thay đổi, thích xáo trộn nếu còn thêm Lộc Mã thì càng
nặng ý phiêu lưu, chỉ biết phát triển chỉ biết bốc trời mà không biết củng
cố. Nói tóm lại chẳng khác gì chiếc xe không có thắng thì khó mà nên
công trạng sự nghiệp hẳn hòi, rơi vào tình cảnh vung tay quá trán.
Nữ Mệnh Phá Tham Lộc Mã ham của lạ, bỏ cái tốt sẵn có đi tìm cái
mình tưởng tượng là tốt hơn. Đang gia đình yên ấm lại mơ tưởng một
cuộc phiêu lưu không rõ sẽ đưa mình tới đâu. Người đàn bà này làm
nhân vật tiểu thuyết thì vui mà làm vợ trong cuộc sống thực tế tất sinh
phiền nhiễu dở dang duyên tình.
Phá Quân làm bừa ít suy nghĩ chín chắn, bỏ cái tốt đi vào cái xấu,
manh động nếu gặp luôn cả Thiên Mã đi cùng Lộc Tồn hay Hóa Lộc.
Phá Quân có những thế đứng sau đây: đứng với Liêm Trinh tại Mão
Dậu, với Tử Vi ở Sửu Mùi, đứng một mình ở Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân,
đứng với Vũ Khúc ở Tỵ Hợi. Phá Quân hãm đáng ngại nhất là đóng ở
Mão Dậu, rồi mới đến Dần Thân.
Liêm Phá tại Dậu Mệnh hay Thiên Di mà gặp Thiên Hình Hóa Kị
thế nào cũng bị những thất bại, hoạn nạn đến bất ngờ. Liêm Phá Hóa
Kị mà không bị Thiên Hình Hỏa Tinh có lúc bạo phát, nhưng rồi chuyển
sang bạo hại. Hễ đã phát rồi thì nên đổi nghề chuyển những tiền bạc đã
kiếm qua một công chuyện khác hẳn nghề nghiệp cũ thì còn bảo vệ
được, nhược bằng tiếp tục tất có ngày mất hết. Liêm Phá tại Mão cũng
vậy nhưng không mạnh bằng tại Dậu. Phá Quân không hợp với Văn
Xương, Văn Khúc.
Sách viết: “Phá Quân dữ văn tinh thủ mệnh nhất sinh bần sĩ” (Nếu
Phá Quân thủ Mệnh cùng với Xương hoặc Khúc thì cả đời làm bần sĩ,
có hay có giỏi mà không thành đạt)
Nhưng Phá Quân đóng Mão cung được Văn Xương Hóa Khoa lại
biến thành một cách khác gọi là “phản cách”, đột nhiên có người đề bạt
mà bốc lên khiến thiên hạ kinh ngạc, có điều rồi cũng không bền, một
thời gian ngắn làm mưa làm gió thôi.
Bạo phát bạo bại không chỉ với Phá Quân Mão Dậu mà còn với cả
Phá Quân Sửu Mùi khi nó đứng bên Tử Vi. Nếu nhiều sao tốt triều củng
thì Tử Phá có thể giành được chức quyền lớn, nhất là vào chính trị hay
quân giới (đã nói ở mục luận về Tử Vi)
Nhưng Tử Phá cũng chịu qui luật gần giống như Liêm Phá, nghĩa
là biết công thành danh thoái thì danh mới còn, của mới bền. Ngoài ra
nếu Tử Phá hội với Xương Khúc Hóa Khoa Khôi Việt cũng bỗng nhiên
do người đề bạt mà thăng cao, rồi khi mất chỗ dựa xuống dốc.
Phá Quân đi với Xương Khúc dù là Tử Phá hay Liêm Phá dễ vướng
hận tình. Có câu phú: “Phá Quân xung phá văn tinh tam canh bảo vân
song chi hận”. (Phá Quân xung phá Xương Khúc, đêm đêm ôm hận
tình, đa tình và đam mê rồi thất bại trên tình trường mà thành hận. Bị vợ
bỏ, người yêu cho rơi hoặc vợ cho mọc sừng).
Ba hung tinh Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân có chung một tính
chất là biến hoá thì Phá Quân là biến hóa hơn hết, biến hóa trên gặp gỡ
tế ngộ, biến hóa trên hoàn cảnh (hôn nhân, giáo dục, công tác, sự
nghiệp, tài sản). Biến hóa không chỉ do hoàn cảnh mà ngay cả trong
tâm ý, tư tưởng và quan niệm.
Người thủ Mệnh Phá Quân có thể do lúc nhỏ không chịu học mà
càng lớn tuổi cái chí càng mãnh liệt, có thể lúc nhỏ u tối mà lớn lên
thông tuệ lạ thường.
Trên tình trường lúc say mê muốn chết vì tình, lúc lạnh lùng dửng
dưng như băng tuyết. Bỏ nhau rồi gương vỡ lại lành, thắm thiết với
nhau chỉ một sớm một chiều rồi chia tay. Bữa nay bôn ba chìm nổi,
ngày mai ngồi tĩnh tọa đốt đít chẳng thò cổ ra. Lúc này tiền của vào như
nước, lúc khác trơ trỏng như bèo trong ao cạn.
Cổ nhân đưa ra câu phú: “Phá Quân nhất diệu tính nan minh” (Phá
Quân thật khó hiểu) khó hiểu là do những biến đổi đột ngột.
Nói riêng về tâm lý Phá Quân, đôi lúc ngoài mặt rất mực cứng rắn
mà trong thâm tâm lại mềm yếu, bên ngoài bên trong hai cực đoan đi
ngược chiều. Đây cũng là lý do khác để Phá Quân khó hiểu.
“Phá Quân tính khốc bất nhân, bất an Thân Mệnh” (Người Phá
Quân ác liệt bất nhân không nên an ở Thân Mệnh) Những thay đổi tạo
ra tình trạng bất nhân chứ không phải sinh ra vốn bất nhân.
Phá Quân tâm thái, lý trí xung động dữ dội theo ngay và phản liền
như lời Trotski đã nhận định loài người: “Trong khi cách mạng đang ở
thời kì dầu sôi lửa bỏng thật cần hắn, nhưng cách mạng đã thành công
rồi thì nên đem hắn ra mà bắn đi”
Phá Quân thích chuyện xung phong hãm trận, nhưng lại mau chán
cái điều mình định chết vì nó. Phá Quân cư Thìn Tuất cung đối chiếu là
Tử Vi Thiên Tướng cổ nhân luận rằng: “Tướng tại ngoại, quân mệnh
hữu sở bất thụ” (Tướng ngoài trận có thể làm trái lệnh vua. Ví như ông
tướng được vua sai đi, nhưng vì nhu cầu thực tế do nhận định riêng khả
dĩ làm ngược lại mệnh lệnh của vua)
Không tuân lệnh vua nếu bị quan niệm là tạo phản thì phải chịu
mang tiếng bất nhân. Phá Quân Dần Thân khác với Phá Quân ở Thìn
Tuất ở chỗ không thể bao giờ thành công, kể như hoàn toàn hãm địa,
sách đề là bình địa. Chữ bình ở đây đối với Phá Quân mang ý nghĩa
khá quan trọng, như con cọp vào ruộng chờ người đến bắt giết thôi.
Phá Quân Dần Thân trí tuệ không sáng suốt mà lại ưa làm ẩu làm
bừa, thất bại là điều đương nhiên. Phá Quân Dần Thân bị Hỏa Linh
công phá càng nhiều, Hỏa với Linh đứng cùng Phá Quân tất gặp Tham
Lang hiệp, nhưng không thể gọi như thế là Tham Hỏa Tham Linh được.
Trường hợp Phá Quân Linh Hỏa Kình Dương nếu biết an thân thủ phận
phục vụ người thì yên.
Phá Quân đắc địa hay hãm địa mà gặp Hỏa Tinh thì xấu dễ gặp
nạn, tai nạn gây thương tích hay hoạn nạn với cái lo bị bắt giữ tù tội. Đã
gặp Hỏa rồi mà còn thêm Linh Tinh nữa càng đáng ngại hơn, có thể
đưa đến tàn tật hay hình đồ.
Về câu phú: “Phá Quân Thìn Tuất nhi ngộ Tuần Khoa cải ách vi
lương ư Mậu Quí nhân đa hoạch danh tài” (Phá Quân ở Thìn Tuất mà
gặp Tuần Không, Hóa Khoa thì tính tình lại thuần hòa, người tuổi Mậu
Quí công danh hiển đạt, làm ăn giàu có). Chỉ có tuổi Mậu mới có thể
gặp Tuần và Hóa Khoa thôi, tuổi Quí Phá Quân gặp Hóa Lộc và Tuần,
không thể thấy Khoa. Tuần với Khoa hai sao chung sức kềm hãm bớt
tính rông rỡ của Phá Quân để gạn lọc trí tuệ Phá Quân nên được việc.
Phá Quân thuộc âm thủy trong hệ Bắc đẩu, hóa khí là hao. Thủy
chủ trí tuệ, nếu được đất tất phi thường thông minh, nếu rơi vào thế
hãm thì làm càn và ưa nịnh hót, gặp các hung sát tinh khác tính phá
hoại tăng cao. Với Tuần Khoa thì Phá Quân trở nên mưu trí thuần hòa
tiến thoái có kế hoạch.
tiến thoái có kế hoạch.
Trong Thái Vi phú viết: “Phá Quân ám diệu đồng hương thủy trong
tác tủng” nghĩa là Phá Quân đứng cùng ám diệu sẽ chết vì sông nước
và trên phần khác đồng bản in lầm: “Phá Quân ám Cự đồng hương thủy
trung tác tủng”
Phá Quân không bao giờ đứng với Cự Môn, dù đứng theo thế hiệp.
Sau này Trung Châu phái (bên Trung Quốc) đưa ra một luận cứ khá
hợp lý rằng: ám diệu là Văn Khúc với Hóa Kị vì rải rác trên các sách
khác Trần Đoàn tiên sinh có nói đến Văn Khúc Hóa Kị là ám diệu.
Phía trên còn cắt câu ấy thành hai đoạn cho rõ nghĩa như sau: “Phá
Quân ám diệu công hương, thủy trung tác tủng” và cho rằng Phá Quân
đứng với Văn Khúc Hóa Kị ở các cung Hợi Tí Sửu (ba cung Thủy - Sửu
là thủy khố) và “tác tủng” đây ý chỉ là tối tăm như ngôi cổ mộ chứ không
phải chết đuối. Nói tóm lại Phá Quân đứng cùng Văn Khúc Hóa Kị tại
Sửu Tí Hợi thì cuộc đời phiêu bạt tối tăm, không bao giờ gặp cơ hội thi
thố khí dương mi với đời, có thể là những trang hảo hán anh hùng
không gặp thời.
Cách Vũ Khúc Phá Quân đóng Tỵ Hợi xin xem đoạn luận về sao
Văn Khúc.
Những câu phú cần biết liên quan đến Phá Quân:
- Phá tại Khảm Ly tam thiếu tam công quyền đắc trọng
(Phá Quân Tí Ngọ quyền cao chức trọng)
- Phá Quân Tí Ngọ cung vô sát, quan tư thanh hiển chí tam công
(cùng một nghĩa như câu trên)
- Phá toạ Khảm Ly cô thân độc ảnh
Bật Kình tọa cùng dự thủ danh gia
(Phá Quân Tí Ngọ gặp Hữu Bật Kình Dương làm nên thành công,
nhưng dễ cô độc thường phải lìa bỏ quê hương, người thân)
- Phá Liêm hãm cư Mão Dậu bằng Nguyệt Đức dĩ từ nhân
(Phá Quân thủ Mệnh tại Mão Dậu có Nguyệt Đức thì lại thành người
tốt bụng)
- Phá Quân Mão Dậu mặc ngộ Kiếp Kình tu phòng hình ngục
(Phá Quân ở Mão Dậu nếu gặp Kình Dương Địa Kiếp phải lo họa
ngục hình)
ngục hình)
- Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Khoa Bật khởi ngụy Hoàng Sào
(Phá Quân Mão Dậu gặp Hữu Bật Hóa Khoa sẽ như Hoàng Sào
làm phản loạn)
- Phá cư Mộ cương quả chi nhân, phùng thời loạn thế ngộ Hình
Lộc chấn động uy danh
(Phá Quân thủ Mệnh tại Sửu Mùi hay Thìn Tuất lúc đắc thế trong
thời loạn mà gặp Thiên Hình Hóa Lộc uy quyền lớn)
- Phá Liêm ngộ Hỏa tử nghiệp vô nghi
(Mệnh Phá Liêm Hỏa Tinh hay vận thấy Phá Liêm Hỏa sinh nghề tử
nghiệp)
- Phá Hao Dương Linh Quan Lộc vị, đác sứ khất cầu
(Phá Quân Song Hao Kình Dương Linh Tinh vào cung Quan Lộc có
lúc không có bát mà ăn, thất bại xuống đến đất đen)
- Phá Quân Hỏa Tinh bôn ba lao bác
(thủ Mệnh Phá Quân đứng cùng Hỏa Tinh cuộc đời thường bôn ba
chìm nổi)
- Tề tửu kiến Kim phu giai do Phá Quân phùng Thiên Mã
(Phá Quân thủ Mệnh hội Thiên Mã tính ưa ganh ghét thù hận)
- Lã Bất Vi thương phú chi nhân, hạn phùng Phá Tướng Tử Tham
Quyền Ấn Hồng Hình Phụ Bật quyền nhiếp tân triều chi tiếm đế
(Lã Bất Vi chỉ là tay buôn bán đến vận hạn gặp Phá Quân Thiên
Tướng, Tử Vi Tham Lang thêm Hóa Quyền, Quốc Ấn, Hồng Loan, Thiên
Hình, Tả Phù, Hữu Bật bỗng nhiên mà quyền khuynh thiên hạ. Hạn này
chỉ có thể đến Hợi hay Tỵ mới gặp đủ các sao kể trên)
- Phá ngộ Kị Tang cư Nô Bộc đa chiêu oán nộ
(Phá Quân với Hóa Kị Tang Hổ ở cung Nô Bộc dễ bị người oán
giận. Phá Quân hãm ở cung Nô Bộc cũng vậy)
- Tật cung hạnh phùng Phá Sát, nhi ngộ Song Hao, Mộc Kị sang
độc ung thư
(Cung Tật Ách có Phá Quân Thất Sát thì tốt, nhưng nếu thấy luôn cả
Hóa Kị Mộc Song Hao lại bị ung thư mụn độc)
- Dần Thân Phá Hỏa Việt lâm ư Tân Đinh tuế, cơ sảo tài hành hạn
lưu Mã, Tuyệt sát tinh tứ chi nan bảo (Phá Quân đóng Dần Thân
gặp Thiên Việt có tay nghề giỏi, nhưng với tuổi Đinh Tân gặp vận
lưu Thiên Mã, Tuyệt và các sát tinh thì có tai nạn gẫy tay gẫy chân)
- Dần cung Phúc tọa, tối hiềm Phá Liêm Dương Việt Linh lục bại dị
sinh đức tổn tài suy
(Cung Phúc Đức thấy Phá Quân Liêm Trinh Kình Dương Thiên Việt
Linh Tinh thì gia đình không yên, tiền bạc mất mát)
- Phá Quân ngộ Hỏa Linh Đà Nhẫn; Lâm Tuất Thìn nết hẳn gian
- Phá Quân ngộ Hỏa Linh Đà Nhẫn; Lâm Tuất Thìn nết hẳn gian
phi
(Nhẫn là sao Kình Dương)
- Phá phùng Hình Kị huynh hương
Anh em bất thuận hững đường tụng tranh
- Phá sao ấy tán tài
Cư điền bán hết lưu lai tổ truyền
(tệ hại nhất là Phá ở hãm địa đóng Điền Trạch)
- Tứ mộ Phá gặp Lộc Hình
Uy quyền chắc hẳn rạng danh đó mà
Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa
Tuổi sanh Quí Mậu thật là hiển vinh
- Phá Kình Tả Hữu chớ ngờ
Ở cung Mão Dậu chắc là loạn quân
- Phá Quân nữ mệnh khá xem
Đắc địa cát diệu hòa hiến hiển vang
Hãm cung ác độc lăng loàn
Chỉ làm kế thiếp khỏi đàng sinh ly
Phá Quân Riêu Mã hợp vào
Ấy hạng du đãng ai nào muốn thân
TỬ VI TINH ĐIỂN
NHỮNG SAO CẤP HAI
VŨ TÀI LỤC
Văn Xương chủ về khoa giáp (đỗ đạt) hãm địa là ba cung Dần,
Văn Xương chủ về khoa giáp (đỗ đạt) hãm địa là ba cung Dần,
Ngọ, Tuất thuộc âm kim, còn có tên là Văn Quí liên hệ đến thanh danh
con người Thái Âm. Ở các cung khác thì thông minh, ít nhiều dính líu tới
“văn”
Nếu có đủ cả Văn Xương, Văn Khúc vào Mệnh cung mà sao Thiên
Tài thủ Mệnh tất trí tuệ vượt thiên hạ, gặp luôn Tấu Thư, Bác Sĩ rất thuận
lợi trên thi cử. Nếu như Mệnh cung chỉ có Văn Xương, không Văn Khúc
cũng không có Hóa Khoa thì chỉ thông minh thôi, không nhất định dễ
dàng với khoa danh thi cử.
Xương Khúc hội Long Trì Phượng Các tay nghề khéo, kỹ năng giỏi.
Xương Khúc tại Mệnh cung thường dễ được người khác phái mến
chuộng do duyên dáng, tinh anh, tán hay. Nếu Xương Khúc đi với Thiên
Đồng, Thiên Cơ, Tử Vi càng gần cận nữ phái.
Văn Xương khởi từ Tuất vì Tuất là hỏa khố, kim được hỏa luyện mà
nên thép tốt khiến cho lời nói lập luận sắc bén hay dùng ẩn ý. Văn
Xương đóng Sửu Mùi (hai cung mộ khố) thì tài hoa với khả năng tổ chức
chu đáo, phản ứng và quyền biến. Nhưng Văn Xương cũng mang cái
bệnh ảo tưởng hoặc quá lý tưởng, vì ảo tưởng quá lý tưởng mà đôi khi
tâm tình lãnh đạm trong việc đối xử giữa người với người. Văn Xương đi
cùng với Hóa Kị lại chuyển ra ngôn quá kỳ thực mặc dầu trước sau vẫn
là có tài cán.
Văn Xương đi cặp với Thái Dương Thiên Lương Hóa Lộc Lộc Tồn
tức cách Dương Lương Xương Lộc rất lợi với việc thi cử khoa danh.
Trường hợp thiếu Lộc lại gọi bằng Thái Dương Ấm Phúc, Thiên Lương
là Ấm còn Thiên Đồng là Phúc thì vấn đề đỗ đạt cũng dễ dàng.
Cách Dương Lương Xương Lộc chỉ ở hai cung Mão Dậu mới là
chính, nếu ở Thìn Tuất không kể là chính chỉ là thiên cách vì Văn Xương
Tuất Thìn lạc hãm, thiên cách không bằng chính cách. Nhỡ mà gặp
luôn cả Hóa Kị thì thành phá cách, có tài mà không có phận, cuộc đời
lưu ly vất vả và sinh bất phùng thời.
Về sao Văn Xương có một cách cục thật xấu ấy là: “Linh Xương Đà
Vũ”. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà”
(Vận gặp Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc đâm đầu xuống sông
mà chết). Cách này thường hiện lên ở hai cung Thìn Tuất ý chỉ sự thất
bại dữ dội, mấy chữ đâm đầu xuống sông mà chết chỉ cốt vẽ nên hình
tượng đáng ngại của thất bại ấy vậy. Nếu không Đà thì bị Hóa Kị, nếu
không phải Vũ Khúc mà bị Liêm Trinh cũng ảnh hưởng tai hại như
nhau.
Như trên đã nói, Văn Xương khả dĩ biến thành đào hoa, bởi vậy cổ
nhân mới nói nữ mạng kị gặp Xương Khúc. Văn Xương không hợp với
Liêm Trinh hay Tham Lang. Cốt Tủy phú ghi: “Xương Tham cư Mệnh
phấn cốt toái thi” (Mệnh thấy Tham Lang Văn Xương thịt nát xương tan)
ý nói về tâm ý quá đam mê tình ái mà vướng lụy tình. Không hiểu tại sao
câu phấn cốt toái thi qua Việt Nam lại biến thành “phấn cốt túy thi” theo
cái nghĩa mặt lang beng? Về lang beng sách chỉ ghi rằng: “Văn Xương
tại vượng cung đa dị chí hãm địa đa ban ngân, nghĩa là ở vượng cung
thì có nốt ruồi lạ, đóng hãm địa da có vết loang, không hẳn là lang beng
hay bạch tạng gì cả.
Đàn bà Xương Khúc lãng mạn, đa tình hiếu sắc, cổ nhân nói:
Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương (Dương Quí Phi đa
dâm bởi vì tam hợp vào Mệnh có Xương Khúc)
Còn một câu khác: “Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng
mệnh yểu niên” nghĩa là Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Trinh không
thọ. Không thọ vì mê đắm hoan trường mà khó tạo sự nghiệp rồi sức
lực suy vi. Liêm Trinh ở câu này là Liêm Trinh ở Tỵ Hợi đứng cùng
Tham Lang chứ không phải Liêm Trinh đứng với những sao khác hay
đứng một mình. Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Phá không gây ảnh
hưởng hoại mạnh như gặp Liêm Tham Tỵ Hợi.
LUẬN VỀ SAO VĂN KHÚC
Văn Khúc cũng là sao chủ về khoa danh nhưng khác biệt với Văn
Xương. Văn Xương ưa theo đường chính để xuất thân. Văn Khúc có
khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Xương giỏi “nghệ”, Văn Khúc tinh
thông “thuật”. Văn Xương sáng tác, Văn Khúc nghiên cứu. Văn Xương
tinh thông văn tự từ chương, Văn Khúc nói giỏi thuyết giỏi. Văn Xương
làm thơ làm văn hay, Văn Khúc phê bình sắc sảo.
Văn Khúc nếu nghiên cứu thuật số hợp hơn Văn Xương. Căn cứ
vào câu “Văn Khúc Thái Âm cửu lưu thuật sĩ” viết trong Đẩu Số Toàn
Thư. Cả Văn Xương lẫn Văn Khúc đều sợ sao Hóa Kị, nhưng Văn Khúc
gặp Hóa Kị đáng ngại hơn Văn Xương.
Sách ghi: “Văn Khúc thuộc âm thủy, chủ khoa giáp thanh danh, và
là tay ăn nói biện thuyết có tài. Vì Văn Khúc thuộc thủy nên cơ trí quyền
biến hơn (thủy chủ trí) tài trí biến động lưu loát như dòng thác lũ. Bởi vậy
nếu đóng ở Thìn, cái trí tuệ ấy sẽ bị câu thúc bất lợi với khả năng thi
triển. An sao Văn Khúc khởi từ cung Thìn vì Thìn là thủy khố, Văn Khúc
phải đi khỏi thủy khố thì mới vẫy vùng.
Văn Khúc đi cùng Kình Dương khả năng phê phán càng bén nhạy
trên bản chất vốn là đao, tên. Nữ mệnh kị Văn Khúc vì Văn Khúc thuộc
thủy lại gặp thêm một sao thủy khác biến thành “thủy tính dương hoa”
ướt át với tình, sống trong ảo tưởng dễ trở thành phong trần.
Văn Khúc Hóa Kị cũng biến thành ám diệu cho Phá Quân trong câu
phú: “Phá Quân ám diệu cộng hương thủy trung tác tủng” đã nói ở trên.
Văn Khúc như Văn Xương mang tính chất đào hoa mà lại gặp các
đào hoa tinh càng làm tăng tính chất ấy. Nếu biết đi vào nghề nghiệp để
tiếp xúc với nữ phái thì chất đào hoa sẽ tan biến vào nghề nghiệp nhờ
vậy khả dĩ thành công. Nhưng khi Văn Khúc đứng với Thiên Đồng hay
Cự Môn thì thường bị khổ vì tình, số nữ phiền lắm.
Do cái tài ăn nói mà Văn Khúc gần cận người khác phái. Những
sao hợp với Văn Khúc là Thiên Lương Tử Vi Thiên Phủ. Những sao này
được Văn Khúc thì thông tuệ. Riêng Liêm Trinh đứng với Văn Khúc lại
biến ra con người khẩu thiệt gian hoạt. Nữ mệnh Xương Khúc đi với
Liêm Trinh dễ lưu lạc phong trần nếu gặp cả Linh Hỏa. Tại sao vậy?
Vì Xương với Khúc đều là dịch mã tinh, ưa thay đổi, di động, tính
tình không an định, mừng giận vô thường. Như thế là không chung tình.
Thêm Linh Hỏa, những hung sát tinh ấy chuyển tình trạng không chung
tình vào phong trần.
Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu
hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu
Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương
Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh
hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh
nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.
Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm
mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)
Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên
Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc
Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm
tư”
Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm
quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở.
quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở.
Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu
cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.
Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc
thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa
trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh
nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc.
Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa.
Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.
Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:
- Tam hợp Văn Khoa củng chiếu
Giả Nghị thiếu niên đăng khoa
(Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ
đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)
- Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần
(Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương
hơn là theo đuổi chức vụ)
- Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài
(Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù
Hữu Bật)
- Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm
(Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa
dâm)
- Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết
(Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó
thọ nhất là đối với nữ mạng)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng
thượng cửu trùng
(Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà
nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)
- Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông
(Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá
Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)
- Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương
(Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên
hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp
Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng
với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa
(Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian
giảo, hay nói một tấc tới trời)
- Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba
(Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa
Kị suốt đời bôn ba)
- Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang
(Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà
nhan sắc)
- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng
(Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)
- Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng
Lộc hiền phụ chi nhân
(Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa
Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)
- Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự
(Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể
là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)
- Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên
(Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)
- Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương
(Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)
- Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu
(hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)
- Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại
khí
(Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc
thủy) lại nên hay)
- Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng
(Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)
- Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc
(Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)
- Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo
(Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là
những nghề có dính líu đến nghệ thuật)
những nghề có dính líu đến nghệ thuật)
- Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi
(Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp
mê hồn như Dương Quý Phi).
- Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa
(cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư
khoa
(Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình,
Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)
- Khúc Xương nữ mệnh chẳng lành
Vườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao
(Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)
- Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân
(Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là
con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)
- Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển
(Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì
sang trọng, hiển đạt)
- Khúc Xương là đấng thanh nhàn
Thật thà đứng đắn là làng Đồng Lương
- Khúc Xương Thương Sứ hợp bài
Phải phòng tai họa bên ngoài bên trong
(Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp
Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)
- Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp Sát
Chốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao
- Mấy người hiếu sắc hoang tình
Vì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y
- Khúc Xương Sửu Mùi hợp thành
Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng
(Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có
tiếng mà không có miếng)
- Thói dâm dật xướng hòa kém phúc
Ấy Văn Xương, Văn Khúc ai khen
- Vũ không gặp đất miếu viên
Khác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng
- Phượng Long nhan sắc dịu dàng
Khúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa
- Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàng
Ra tay bẻ quế đông sang thiềm cung
Ra tay bẻ quế đông sang thiềm cung
- Thê cung Xương gặp tam Không
Con nhà danh giá tổ tông kết nguyền
- Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồi
Chưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn
(cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều
nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)
- Vũ Tham tài phát phương ngoài
Khúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân
(Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên di)
- Khúc Xương Long Phượng phát văn
Vũ Tham Sát Phá thì rằng võ công
(câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)
- Tử cung mà gặp Khúc Xương
Tuồng gì con gái những phường chơi hoang
(cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới
như vậy)
- Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồi
Sinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa
- Khúc Xương Tả Hữu có dư
Thiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên
(câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)
- Tấu Thư Xương Khúc rành rành
Vào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài
- Tấu Thư Xương Khúc tương phùng
Tôn thân có kẻ thần đồng hiện ra
(câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)
- Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
Phát đà văn học có dư anh tài
(cũng ở cung Phúc Đức)
- Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá
ngụy
(Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)
- Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí
(Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý
luận quá mức mà chùn bước trước hành động)
- Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô
danh thiệt biện chi đồ
(Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép,
chẳng làm được chuyện gì)
- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo
- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo
(Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá
rối kỷ cương)
Tiền nhân khi luận mệnh bảo số trai cần Tả Phụ, số gái cần Hữu
Bật. Điều này không đúng. Tả Hữu là hai sao đi cặp thường phải đủ cả
hai thì mới hoàn hảo dù rằng mỗi sao có một đặc tính riêng biệt. Tả và
Hữu đều an qua tháng sinh.
Tả Phụ thuộc dương thổ, hóa khí là “hỉ”. Thổ của Tả Phụ là Thìn thổ
hay đông phương thổ, đất màu mỡ, xốp cho nên tính tình đôn hậu, ẩn
trọng, phân minh rộng rãi, nhưng cũng có mưu lược. Thìn cung là thủy
khố nên thổ lúc nào cũng nhuận thuần, nên tài hoa mà không bừa bãi.
Tả Phụ ẩn trọng không hợp với thương trường xông xáo. Khởi
nghiệp không giỏi bằng giữ nghiệp. Tả Phụ giao thiệp dễ được lòng
người bởi thái độ khoan dung, ăn nói trầm ấm. Bởi vậy Tả Phụ rất sợ bị
sát tinh xung phá.
Tả Phụ đứng với Liêm Trinh là phá cách thường gặp quan tụng bất
chợt, thêm Kình Dương càng rắc rối. Tả Phụ không hợp với Cự Môn và
Phá Quân, vì Cự Môn chủ thị phi còn Phá Quân chủ bạo loạn. Gặp Phá
Quân Kình Dương sẽ theo con đường phản loạn như cổ nhân nói: “Phá
Kình Tả Hữu chớ ngờ. Gặp thời biến động ắt là loạn quân”. Gặp Cự
Môn thì thành nhiễu sự. Gặp Kình Dương trở nên xung động kém sáng
suốt, dễ bị lợi dụng.
Hữu Bật thuộc âm thủy giữ chế lệnh chủ về thiện. Hữu Bật khởi từ
cung Tuất vì Tuất ở Tây Bắc phương vào buổi thu, thời tiết thâu liễm,
Hữu Bật chấp hành trách nhiệm thâu liễm ấy nên mới nói là giữ thế
lệnh. Khi đã bảo là chế lệnh tất phải ép buộc . Tuất là hỏa khố, Hữu Bật
loại thuộc thủy, thủy hỏa giao chiến không dung hòa dễ dàng. Cho nên
tính tình Hữu Bật nóng nảy, kiên cường, ưa can thiệp khác với Tả Phụ
vốn ẩn trọng. Nhưng khi có cả Tả lẫn Hữu thì tùy theo sao chủ, Tả Hữu
vốn ẩn trọng. Nhưng khi có cả Tả lẫn Hữu thì tùy theo sao chủ, Tả Hữu
sẽ biến đổi bản chất để thi thố.
Trên khả năng thì Tả với Hữu giống nhau. Ở điểm này Tả Phụ lực
chủ động mạnh hơn Hữu Bật. Ẩn trọng tất nhiên chủ động hơn nóng
nảy. Tả Hữu là hai sao phò tá cần phải dựa vào chủ tinh để hành động.
Tiền nhân coi Tả Hữu là hai quan lộc tinh, Tả Phụ chính, Hữu Bật
phó. Tả Phụ tiến thân theo đường chính, Hữu Bật theo dị lộ. Trung
Châu phái bên Trung Quốc đưa ra lập luận: Tả Phụ chủ về sang quí,
trong khi đó Hữu Bật chủ về giàu có.
Đẩu Số Toàn Thư viết: “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử” (Mệnh có Tả
Hữu đứng cùng áo tía lọng vàng) câu trên rõ ràng về hình ảnh công
danh. Vấn đề áo tía lọng vàng không phải chỉ Tả Hữu đồng cung mà
thành, còn tùy thuộc vào đồng cung với sao chủ nào? Và có bị hung sát
tinh đánh phá hay không? Các câu phú khác như: “Tả Hữu đồng cung
thân vô hoạnh lự”. Tả Phụ Hữu Bật chung thân phúc hậu, cùng một qui
luật cũng phải xem xét như trên.
Sự phối trí của Tả Hữu đẹp nhất là vào các cung: Mệnh, Tài Bạch,
Quan Lộc. Nếu các chủ tinh ưu tú thì cuộc đời hanh thông với địa vị, với
phú quí. Hay nhất Tả Hữu đứng cùng hoặc hiệp hội với Tử Vi Phá Quân,
nếu không bị xung hung sát phá thường là người sáng tạo sự nghiệp
Trường hợp vừa Tả Hữu, vừa Xương Khúc hội tụ lại càng cần có
chủ tinh của Mệnh cung hợp cách mới tốt. Chủ tinh xấu thì cuộc đời
thăng trầm, mà số nữ biến ra thành hồng nhan mệnh bạc.
Trường hợp Tả Hữu gặp Khôi Việt vẫn tiếp tục xem chủ tinh tại
mệnh thế nào? Nếu hợp cách thì chỉ sang quí địa vị thôi, không giàu có.
Ta thấy Tả Hữu hội hợp với Khôi Việt tốt hơn hội hợp với Xương Khúc.
Tả Hữu hội hiệp một đứng ở Tài Bạch và một đứng ở Quan Lộc
chiếu về Mệnh tốt hơn đồng cung tại Mệnh vì đồng cung vất vả hơn hội
hiệp. Đồng cung phải tự mình, hội hiệp thì được người giúp và hoàn
cảnh đỡ nâng.
Tả Hữu từ cung Tài Bạch gặp Hóa Lộc giàu có. Tả Hữu từ cung
Tả Hữu từ cung Tài Bạch gặp Hóa Lộc giàu có. Tả Hữu từ cung
Quan Lộc gặp Quyền Khoa sang quí. Vẫn tiếp tục theo qui luật tùy thuộc
vào chủ tinh
Trường hợp Mệnh không chính tinh chỉ có Tả Phụ Hữu Bật thủ mà
nhìn sang cung Phụ Mẫu thấy Hỏa Linh qua kinh nghiệm thường là con
nuôi hay con của dòng thứ nhất hoặc có cha kế, mẹ kế.
Phu Thê cung mà chỉ thấy có một Tả Phụ hay một Hữu Bật thôi kể
như xấu, hay đưa đến cuộc duyên tay ba. “Hữu Bật hội Phu cung, vi
nhân hữu tiền tình chi phận” (Hữu Bật đóng cung Phu hoặc mình có
chồng trước, hoặc chồng có vợ trước). Nếu cung Phu Thê có Cự Môn và
Cự Môn Hóa Kị tình hình duyên phận càng nghiêm trọng cho sự băng
hoại hơn nữa.
Tả Hữu rất không ưa Linh Hỏa. Mệnh cung hoặc Phu cung mà thấy
Tả Hữu Linh Hỏa dễ làm thứ, làm lẽ mọn. Tuy nhiên vẫn còn cần tham
khảo chủ tinh trước đã.
Trường hợp Tả Hữu một ở Mệnh, một ở Phu Thê cung thấy cả Sát
Kị thì bất luận nam hay nữ đều vài bận kết hôn. Nếu có thêm Đào Hoa
thì đưa tới ngoại tình. Có câu phú rằng: Sao Tả Hữu đồng cung, gặp gỡ
Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay, ý nói hai bận lấy chồng. Tuy nhiên
nguyên nhân tan vỡ thường là một vụ ngoại tình do chồng hay vợ.
Trường hợp Tả Hữu một vào Mệnh cung, một vào Phúc Đức cung,
hôn nhân không suôn sẻ do bị ép uổng, hoặc vợ hay chồng đau ốm
triền miên, ta vẫn thường gọi là “bạc phước” vậy. Trường hợp này tính
hay hay dở của chủ tinh vẫn giữ vai trò quan trọng cho luận đoán.
Với số nữ Tả Hữu không nên đứng cùng với Tham Lang Phá Quân
Thất Sát dù ba sao này đắc địa, vì như thế tình cảm không chuyên nhất.
Về câu phú: “Tả Hữu Xương Khúc ngộ Kình Dương Đà đương sinh dị
chí” (Tả Hữu Xương Khúc gặp Dương Đà có nốt ruồi lạ). Điều này qua
kinh nghiệm không mấy chính xác. Đôi khi “dị chí” là cái bớt chứ chẳng
phải nốt ruồi
Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí
Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong
khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý
nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp.
Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa
danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương
Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất
dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương
Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận.
Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương
Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn.
Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không
phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo
truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa
xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ tử đi thi thường làm cỗ cúng Thiên Khôi tinh.
Thi đỗ rồi con đường trước mắt là xuất sĩ.
Thi đỗ rồi con đường trước mắt là xuất sĩ.
Phần Thiên Việt nếu đi cặp được với Thiên Khôi thì mới vào chánh
đạo. Thiên Việt đứng một mình thường chỉ gặp những cơ hội nhỏ thôi.
Thiên Khôi thuộc dương hỏa tốt hơn cho người sinh ban ngày vì
Thiên Khôi là nhật quí. Thiên Khôi tạo khuôn mặt sáng sủa cho con
người.
Thiên Việt thuộc âm hỏa tốt hơn với người sinh ban đêm có phong
thái đĩnh đạc. Thiên Việt mang thêm tính chất đào hoa, gặp Thiên Riêu
Đào Hoa càng đa tình. Nhưng Thiên Việt gặp Hồng Loan cổ nhân gọi
bằng “hồ đồ đào hoa” hay yêu sảng, nhất là phái nữ.
Khôi Việt một đóng ở Mệnh, một đóng ở Thê mà Thân cư Thê gia
hội các cát tinh khác thì đỗ đạt sớm, lấy vợ đẹp xinh. Nếu không hội hợp
cát tinh tất khoa danh lận đận, nhưng chuyện vợ đẹp xinh vẫn không
thay đổi.
Sách có câu: “Tuy phú quí nhi bất miễn dâm dật” để nói về Khôi Việt
đối với nữ mạng. Trên thực tế kinh nghiệm chỉ có gặp ác sát Không
Kiếp thì mới dâm dật chứ không phải cứ Khôi Việt là dâm dật.
Khôi Việt một ở Sửu, một ở Mùi, Mệnh với Thiên Di cách gọi bằng
tọa quí hướng quí. Tốt hay xấu còn phải tùy thuộc vào chính tinh tại
Mệnh cung. Nếu có các sao tốt thì bất luận trai hay gái đều giàu sang.
Nhưng cách tọa hướng quí kể như là một cách đào hoa vậy.
Khôi Việt còn có lưu Khôi lưu Việt theo vận hạn mỗi năm. Tỉ dụ
người tuổi Giáp, Thiên Khôi đóng Sửu, Thiên Việt đóng Mùi gặp lưu
niên vận hạn Giáp Mậu Canh tất nhiên được thêm lưu Khôi lưu Việt, hỉ
khánh tăng lên tùy theo cung nào có chúng. Như ở Thê cung mà gặp
năm lưu Khôi lưu Việt thì chuyện lấy vợ càng rõ ràng, nếu cung Tử Tức
thì chuyện có con càng chắc chắn được Khôi Việt hiệp, cũng cần có lưu
Khôi lưu Việt thì lực lượng mới phát huy.
Tỉ dụ người tuổi Đinh Thiên Khôi đóng Hợi, Thiên Việt đóng Dậu
Thìn Tuất là cung Khôi Việt hiệp, vận năm Bính Khôi lưu tới Hợi, Việt lưu
đến Dậu gọi bằng lưỡng trùng Khôi Việt thì cơ hội tốt đẹp đến nhiều
đến Dậu gọi bằng lưỡng trùng Khôi Việt thì cơ hội tốt đẹp đến nhiều
hơn.
Khôi Việt cần đi đôi, đi đôi rồi lại cần trùng điệp mới hay. Khôi Việt
hiệp Mệnh rất hợp với hai sao Tử Vi Thiên Tướng. Người Mệnh Tử Vi
Thiên Tướng vốn đã mang sẵn lắm khuyết điểm. Nhưng nếu có Khôi
Việt hiệp sẽ hóa giải những khuyết điểm ấy. Khôi Việt đứng đối nhau rất
hợp với Thái Âm Thái Dương.
Nhật Nguyệt tọa Mệnh cung có nhiều khuyết điểm, cuộc đời khó
thuận buồm xuôi gió, gặp Khôi Việt đối nhau tất thi cử dễ dàng hơn,
đồng thời gặp quí nhân đề bạt đẩy chức phận lên cao.
Khôi Việt đóng Thân, Tí rất hợp với sao Vũ Khúc, Vũ Khúc đi cùng
Hóa Lộc càng tốt nữa, ắt thành công trên mặt kinh doanh. Khôi Việt ở
Dần Ngọ rất hợp với Cự Môn ở Tuất, sách gọi bằng “phản bối” cách,
cách này thường gặp những kỳ ngộ về may mắn.
Khôi Việt không bao giờ đóng ở Thìn và Tuất, cổ nhân viện lẽ rằng
quí nhân không đi vào đất la võng. Tính chất tế nhị của Khôi Việt không
chịu đựng nổi sức ép của lưới trời lưới đất.
Một điều cần chú ý Khôi Việt ở Sửu Mùi. Hai cung chỉ kể làm vượng
địa chứ không phải miếu địa cho quí nhân. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết
nếu ngoài bốn chục tuổi mà gặp hạn Khôi Việt Sửu Mùi thì gọi bằng “quí
nhân nhập mộ” chẳng những không là cơ hội tốt mà biến ra những cái
họa mai phục, ẩn dấu.
Câu: “Khôi Việt trùng phùng kiêm sát tấu, cố tật vưu đa” (gặp trùng
điệp Khôi Việt ở đây thêm sát tinh nữa ắt sẽ bị bệnh thành tật không
khỏi). Như vậy ngoài bốn chục tuổi lưu niên và đại hạn đi vào Sửu Mùi
có Khôi Việt rồi lại lưu Khôi Việt thêm Hỏa Linh Dương Đà thì bệnh tật
triền miên.
Đời xưa tuổi thọ trung bình so với đời nay ngắn hơn, bởi vậy cổ
nhân mới lấy bốn chục tuổi làm chuẩn. Thời đại nay tuổi thọ trung bình
cao hơn nên tính từ ngoài năm mươi mới đúng.
Ngoài bốn chục gặp Khôi Việt trùng phùng đi cặp với những sao
Ngoài bốn chục gặp Khôi Việt trùng phùng đi cặp với những sao
Đào Hoa thì Khôi Việt hoá thân thành đào hoa, nam hay nữ đều gặp
những cuộc tình ngoại hôn, hoặc bấy giờ mới lấy chồng, lấy vợ. Khôi
Việt chủ về đào hoa, nhưng chỉ vào cung Phúc Đức hay Phu Thê mới
kể, còn vào Mệnh cung không phải.
Tỉ dụ Phúc Đức ở Tí, Phu Thê ở Thân, người tuổi Ất tuổi Kỷ Khôi
Việt đóng Tí Thân, nếu hai cung này xuất hiện Thiên Riêu, Mộc Dục,
Đào Hoa, đương nhiên Khôi Việt chuyển thành đào hoa tinh.. Sau đó
mới phối hợp chính diệu của các cung Phối với Phúc để mà đoán định.
Giả như cung Phúc có Thiên Đồng, Thái Âm thì đoán rằng do ý chí mềm
yếu mà gặp đau khổ duyên tình. Nếu có Vũ Khúc Thiên Phủ thì đoán
rằng có quan hệ với một người đã có gia đình.
Trường hợp chính tinh vững vàng lại có Lộc thì thành cách lấy vợ
giàu. Tỉ dụ Phúc Đức là Tử Vi, Phố cung là Vũ Khúc Hóa Lộc, rồi Mệnh
cung lại gặp Lộc Tồn. Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, Khôi Việt đơn
thủ mà gặp hung sát tinh ắt bị thương hoặc có tật.
Khôi Việt gặp Hoả Linh lắm tai ương, Khôi Việt gặp Không Kiếp trở
nên vô dụng.
Những câu phú cần biết thêm về hai sao Thiên Khôi, Thiên Việt:
- Khôi Việt Mệnh Thân vi trưởng tử
(Mệnh Thiên Khôi, Thân Thiên Việt thường là con trưởng hoặc nắm
quyền trưởng)
- Khôi Việt nhập Thân ư gia quốc tất vi nhân trưởng
(Khôi Việt đóng Thân thường ở địa vị đàn anh)
- Khôi Việt Mệnh Thân đa triết quế
(Có Khôi Việt ở Mệnh Thân thì đỗ đạt cao)
- Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
(Khôi Việt vào Mệnh học hành uyên bác)
- Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn phù hình, sát vô xung đa phú quí
(Mệnh phù trợ bởi Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn, mà không bị sát
tinh xung phá ắt giàu sang)
- Khôi Việt đa văn ngộ Đà Kị thiên di dật sĩ
(Khôi Việt gặp Kình Đà từ cung Thiên Di, tài giỏi nhưng ẩn dật)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng
thượng cửu trùng
(Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Bật hội tụ vào Mệnh, được
người đề bạt mà hiển vinh)
- Tả Hữu Khôi Việt vi phúc thọ
(Mệnh có Tả Hữu, Khôi Việt vừa có phúc vừa thọ
- Khôi Việt đan thủ tử hữu quí
(Cung tử tức Khôi Việt đơn thủ sinh con tài giỏi)
- Thiên Khôi Thiên Việt, phu phụ mỹ lệ
(Phối cung có Khôi Việt lấy vợ đẹp hoặc chồng bảnh)
- Khôi Việt đan thủ Tài Bạch thanh cao, nhất sinh toại ý
(Cung Tài Bạch có Khôi Việt thì thanh cao sang trọng mà không
giàu có)
- Sao Quan Phúc cùng Khôi tinh
Đóng vào Thân Mệnh đề danh bảng rồng
(Quan Phúc đây là Thiên Quan Thiên Phúc)
- Việt Khôi Quyền Lộc trong ngoài
Trưởng nam trưởng nữ gái trai đồng bàn
- Việt Khôi Long Phượng Khúc Xương
Ngộ Khoa ắt hẳn bẻ cành quế hoa
- Việt Khôi, Lương Tướng quí trung
Ắt là con giống cháu dòng chẳng sai
- Khôi ngộ Kị trên đầu có tật
Vượng ngộ Khôi thật lắm nốt ruồi
- Cung tử tức trong ngoài Khôi Việt
Hẳn sinh người hào kiệt khoa danh
- Lưỡng Quí phùng Tử Vi Đoài Chấn
Ắt sinh con cầu tự chẳng sai
(Khôi Việt gặp Tử Vi ở Mão với Dậu thì có con cầu tự)
- Việt Khôi là cách văn chương
Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen
- Khôi Việt miếu vượng trưởng huynh
Gia đình xã hội hẳn dành ngôi trên
- Việt Linh Hình hội Cơ Lương
Hoặc là Nhật Nguyệt ắt chờ lôi kinh
(Lôi kinh là bị sét đánh hay điện giật)
- Ân Quí Khôi Việt Đào HồNg
Trai cận cửu trùng gái tất cung phi
- Việt Khôi Quyền Lộc khá bàn
Trong nhà bậc trưởng ra đàng bậc trên
- Việt Khôi Quyền Tướng đáng yêu
Lại gia Tử Phủ mọi chiều vinh quang
Lại gia Tử Phủ mọi chiều vinh quang
(Những sao nói trên hội vào Phu Thê cung)
- Cự Kị nên tránh đò sông
Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao
Hỏa Linh Hình Việt khác nào
Không bị sét đánh búa dao có ngày
- Việt Khôi là cách ung dung
Việt thường nhờ bạn, Khôi thường gặp sang.
(Câu trên nói về Khôi Việt đóng cung Thiên Di)
- Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
Phát đà văn học có dư anh tài
(Khôi Việt Xương Khúc Tấu Thư ở cung Phúc Đức)
- Cung giải mà ngộ Khôi Hình
Số người phải mắc pháp hình đau thương
Tam Thai (phải đọc là Tam Đài mới đúng) thuộc dương thổ. Chủ về
văn mặc (văn từ bút mực) trợ giúp cho quang huy của Thái Dương. Tam
Thai tính tình ánh trực vô tư. Nếu đứng bên Thái Dương hoặc được Thái
Dương đắc địa chiếu càng sáng sủa. Tam Thai đứng cung nào cũng
được không có đất hãm cho sao này.
Bát Tọa (phải đọc là Bát Tòa) thuộc âm thổ, tính tình thẳng thắn bộc
trực, có phần vội vã, cũng chủ về văn mặc và trợ giúp quang huy cho
Thái Âm. Bát Tọa đứng bên Thái Âm hoặc được Thái Âm đắc địa chiếu
sẽ làm tăng quang huy cho Thái Âm. Bát Tọa đứng chỗ nào cũng được
không bị thất hãm.
Một số Tử Vi gia Trung Quốc cho rằng Thai Tọa kị đứng vào Phu
Thê cung sẽ gây ra tình trạng ly khắc. Tử Vi Việt đối với Thai Tọa vào
cung Phối chẳng những không trở ngại mà còn đẹp nữa.
Một vài sách Tử Vi Việt lại bảo Tam Thai thuộc Thủy và Bát Tọa
thuộc Mộc. Nếu đọc là Đài với Tòa thì thuộc Thổ có phần chính xác. Thai
Tọa với Tử Vi Việt là sự khôn ngoan sang trọng, nhà cửa cao sang. Như
vậy thì rõ ràng là Đài với Tòa chứ không còn phải là Thai với Tọa nữa.
vậy thì rõ ràng là Đài với Tòa chứ không còn phải là Thai với Tọa nữa.
LuẬn vỀ LỘC Mã
Lộc Mã là Lộc Tồn vớI Thiên Mã. Hai sao này mỗi sao có riêng một
tính chất. Nhưng khi hội hợp với nhau lại tạo thành tính chất đặc thù.
Bởi vậy trong khoa Đẩu số mới có danh từ Lộc Mã.
Sao Lộc Tồn mang cái nghĩa y lộc, tượng trưng cho tài phú tiền
bạc. Trong lá số hễ Lộc Tồn đứng đâu thì đều có Kình Dương Đà La
hiệp. Cổ nhân đặt như vậy với hàm ý chổ nào thấy tiền thì có kẻ dòm
hiệp. Cổ nhân đặt như vậy với hàm ý chổ nào thấy tiền thì có kẻ dòm
ngó.
Dương Đà còn biểu thị điều lao tâm lao lực phấn đấu cam go hoặc
khẩu thiệt thị phi. Kiếm được tiền thì phải vất vả vượt những khó khăn.
Sự đặt định này thật thuận lý. Vì Lộc Tồn bị Kình Đà hiệp nên những sao
đứng cùng Lộc Tồn rất hệ trọng đối với sự luận đoán.
Sách xưa viết :” Lộc Tồn Bắc Đẩu đệ tam tinh, chân nhân chi tú, chủ
nhân quí tước, tướng nhân thọ cơ, Đế Tướng phù chi thi quyền, Nhật
Nguyệt đắc chí tăng huy, Thiên Phủ Vũ Khúc vi quyết chức, Thiên Lương
Thiên đồng cộng kỳ tường. Nghĩa là”Lộc Tồn với Tử Vi, Thiên Tướng
đứng cùng thành quyền lực, đứng với Thái Âm Thái Dương tăng thêm
vẻ huy hoàng, gặp Vũ Khúc Thiên Phủ vốn là hai sao tiền bạc thì tài khí
càng dồi dào. Thiên Lương Thiên Đồng nhờ Lộc Tồn nâng cao phúc
ấm.
Lộc Tồn trên cơ bản ý nghĩa là y lộc, cho nên cũng dùng nó để tính
sang thọ số của con người, tuổi thọ cao thì mới hưởng nhiều y lộc, như
trong ngôn từ ta thường nói để chỉ ai đó qua đời bằng chữ “thất lộc”.
Cho nên Mệnh cung mà có Thiên Lương đi với Lộc Tồn thường sống
lâu.
Tiền nhân khi bàn về Lộc Tồn có viết câu:”Nếu đan thủ ở Mệnh mà
không gặp các sao tốt khác chỉ đáng xem như mọi giữ tiền (thủ tài nô) ý
chỉ rằng không biết hưởng thụ keo bẩn bần tiện.” Tại sao?
Các sao tốt khác trong câu trên là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
Lộc Tồn bị Kình Đà hiệp mà đan thủ tất nhiên thành cô lập. Không gặp
thế lực khác phò trọ Lộc Tồn đâm ra thành sợ hãi mất tự tin lúc nào
cũng lo ai cướp mất lấy mất mà tìm cách bo bo giữ, coi tiền hơn tính
mạng.
Lộc Tồn cô lập nơi Mệnh cung trong tình trạng ấy thà rắng đóng vào
Thiên Di thoải mái hơn. Mệnh cung không còn bị áp lực của Kình Đà
nữa, y lộc không trở nên vấn đề kinh hãi thì cuộc sống mới dễ chịu nhất
là đối với những món tiền cố định như lương bổng, tiền lời ngân hàng,
tiền cho mướn bất động sản. Lộc Tồn đóng Thiên Di lại thêm cả hoặc
Hóa Lộc hoặc Hóa Khoa hoặc Hóa Quyền thì còn thành công trong
Hóa Lộc hoặc Hóa Khoa hoặc Hóa Quyền thì còn thành công trong
những vụ buôn bán xa (ngoại quốc)
Lộc Tồn đứng với Thiên Mã cũng thế, khả dĩ tìm thấy tài lộc nơi viễn
phương. Lộc hội Mã nhờ “động” mà có tiền. Chữ động đây còn có thể
hiểu như làm nghề chuyển vận nữa không chỉ thu hẹp vào chữ viễn
phương.
Lộc Tồn với Thiên Mã đồng cung, hoặc đối diện đều gọi là Lộc Mã
giao trì. Lộc Mã giao trì nếu có thêm Văn Xương Văn Khúc thì cuộc đời
làm ăn phát đạt khá mà không vất vả. Nhược bằng thấy Hỏa Tinh, Linh
Tinh tất khó tránh được bôn ba lao bác một nắng hai sương.
Lộc Mã giao trì do “động” mà đắc lợi. Tuy nhiên cũng còn phải coi
bản chất Thiên Mã thế nào để mà định. Thiên Mã nhất định chỉ có bốn
nơi Dần Thân Tị Hợi, cùng một chỗ của sao Trường sinh cũng luôn
luôn gặp sao Tuyệt ở những nơi này.
Trường hợp Thiên Mã đứng bên cạnh Trường Sinh thì làm việc dễ
đắc lợi, nhưng cứ phải “động” hoài ít có thì giờ nghỉ ngơi. Như cổ nhân
bảo: “Mã ngộ Trường Sinh chung thân bôn tẩu”
Trường hợp Thiên Mã đứng bên sao Tuyệt thì “động” với khí thế suy
giảm để thành “bị động” hoặc chóng mệt mỏi. Thiên Mã đứng cùng Hỏa
Linh cuộc đời bôn ba rồi mới thành công nếu hỏa Linh đắc địa. Thiên
Mã đứng với sao Đà la, Đà La ví như dây quấn vướng vít, mọi việc đều
trì trệ, kéo dài, “động” mà không mấy hanh thông, nhưng cứ phải
“động”.
Thiên Mã đi cùng với một chính tinh nào cũng chịu ảnh hưởng của
chính tinh đó. Ví dụ Thiên Cơ mang sắc thái hiếu động, Thiên Mã khi đi
với Thiên Cơ tính chất hiếu động càng tăng mạnh đến mức thành “phù
động” ý chí vội vã xốc nổi. Bất luận ở Mệnh hay Thiên Di, Cơ Mã đều
thành con người lắm nghề và ít khi ở yên một chỗ. Tốt hay xấu? lại còn
tùy thuộc những hung cát diệu khác.
Thiên Mã đứng với Thiên Phủ thì Thiên Phủ vốn tính chất an định.
Thiên Phủ có khả năng làm cho Mã bớt “động”. Cho đến khi vận gặp
lưu Thiên Mã bấy giờ Mã mới có sức chống lại sự ngăn chặn của Thiên
Phủ để tạo nên một thay đổi rõ ràng quyết liệt.
Phủ để tạo nên một thay đổi rõ ràng quyết liệt.
Đối với các sao khác cũng theo như vậy mà suy đoán. Ngoại trừ
Mệnh và Thiên Di, Thiên Mã Lộc Tồn khi chấn đóng ở Tài Bạch hay Điền
Trạch cũng mang một ý nghĩa đặc thù. Cung Tài Bạch thấy Lộc Mã rất
tốt cho chuyện “động” mà đắc tài, buôn bán phương xa.
Cung Điền Trạch có Lộc Mã làm ăn kinh doanh về nhà đất nơi
phương xa sẽ thành công. Tài Bạch, Điền Trạch theo cổ nhân nếu có
Thái Dương Cự Môn phùng Lộc Mã hợp nhất rất thuận lợi cho sự
nghiệp buôn bán viễn phương.
Lộc Tồn thuộc âm thổ, chủ về tuổi thọ có thể chế được tai ách cho
người ta. Lộc Tồn tâm tình chân thực, phản ứng thì mau nhưng khai
sáng lại chậm vì có khuynh hướng nặng về bảo thủ, khóa hò đồng. Nhờ
Thiên Mã Lộc Tồn mới nhanh chóng mau mắn xông vào bắt cơ hội.
Lộc Tồn gặp xung phá tất phiền nhiễu ví như ngôi nhà cao vật liệu
nặng mà bị địa chấn. Cổ nhân mới bảo “Lộc phùng xung phá cát xứ
tàng hung” nghĩa là sao Lộc Tồn mà bị xung phá thì trong tình trạng tốt
đẹp có ẩn hung hoạ ghê ghớm. Lộc Tồn Hóa Lộc gặp Không Kiếp Hỏa
Linh Hó Kị là dấu hiệu của thất bại sụp đổ, bất an, chìm nổi, ưu phiền lo
âu.
Lộc Tồn Hóa Lộc đóng vào Nô Bộc cung, cổ nhân nói:” Túng hữu
tài quan dã bôn trì” nghĩa là dù có tước lộc tiền bạc thì cũng chỉ là ở cái
thế tay sai bộ hạ.
Thiên Mã thuộc dương hỏa, chủ về “động” chuyển dịch, xoay sở.
Tính chất hiếu động gặp tốt thành hay, gặp xấu thành dở, hợp với Lộc
Tồn, Hóa Lộc. Bị các hung sát tinh đi kèm thành khốn đốn, hư hoại.
Thiên Mã gặp Đà La gọi bằng triết túc mã (ngựa gẫy chân thích
chơi hơn làm). Thiên Mã gặp Hỏa Tinh gọi bằng chiến mã, nếu Mệnh
xấu thường hung tử tha hương.
xấu thường hung tử tha hương.
Thiên Mã rất kị các sao Không Vong (Tuần Triệt) cả đời bôn ba.
Thiên Mã đứng với Tử Vi Thất Sát ở Tị Hợi gọi bằng Quyền Mã.
Thiên Mã đứng với Thiên Tướng Vũ Khúc tại Dần Thân gọi bằng “Tài Ấn
Mã”. Thiên Mã gặp Thái Âm cung Hợi gọi bằng Tài Mã, gặp Thái Dương
tại Tỵ gọi bằng Quí Mã
Mã ngộ Hình nhi phùng Thiên Khốc ông hoàn phát võ (Mệnh có
Thiên Mã đứng cùng Thiên Hình lại được sao Thiên Khốc vào binh
nghiệp thành công)
Mã Khốc như phùng Hình, Quyền Lộc Ấn tại Quan cung, võ tất
thắng ban đệ nhất (Cung Quan Lộc Thiên Mã gặp Thiên Khốc gặp
Thiên Hình, Hóa Quyền, Hó Lộc, Quốc Ấn khả dĩ làm to trong binh
nghiệp)
Thiên Mã đóng vào cung Tật Ách cả cuộc đời không bao giờ được
nhàn nhã thân tâm, chẳng lo cho mình cũng lo cho người, chẳng
chuyện gì cũng gây ra chuyện để mà tất tưởi đôn đáo.
Trong Tử Vi đẩu số, Hỏa Tinh với Linh Tinh là hai sát tinh đi cặp
như Kình Đà, Không Kiếp. Cả ba cặp sao trên gọi chung bằng “lục sát”.
Đôi khi gọi bằng tứ sát, bộ bốn này không có Không Kiếp. Hỏa Tinh,
Linh Tinh hiện ra mang đến sự biến động, làm chuyển hẳn một hoàn
cảnh khách quan.
cảnh khách quan.
Ảnh hưởng của Hỏa Linh phải kể là nghiêm trọng. Tỉ dụ Mệnh cung
VCD, Hỏa Tinh hay Linh Tinh độc thủ thì quan hệ với những người sinh
thành không mấy tốt đẹp, hoặc mồi côi hoặc bố mẹ chia lìa, hoặc đi làm
con nuôi, hoặc không gần gũi phải ở với ông bà nội ngoại, chú bác cô
dì, hoặc như Lã Bố làm con ba họ.
Trường hợp Hỏa Linh đóng ngay vào Phụ mẫu cung, nhưng chính
tinh của cung này tốt lại thấy cả Lộc Mã thì phải đoán rằng thủa nhỏ đi
theo bố mẹ đến một dị vực (phương xa) tạo điều biến đổi cho cả cuộc
đời về sau (tỉ dụ lần du cư tị nạn sang Mỹ)
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn
chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác
biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai
họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh
thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm
khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các
việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền
uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với
hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc
phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện
thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến
Tỉ dụ như Hỏa Linh vào Điền Trạch đều đưa đến tai hoạ về nhà
cửa: cháy nhà, bị đoạt nhà. nếu Hỏa Tinh thì cháy nhà xảy đến bằng tai
nạn vô ý. nếu Linh Tinh thì xảy đến bằng có kẻ đốt nhà. Âm mưu đoạt
nhà đều vì Linh Tinh chứ không phải do Hỏa Tinh
Hỏa Linh vào cung Tật Ách thì hỏa bệnh thuộc thực và rõ rệt. Linh
Tinh bệnh thuộc hư và âm trầm.
Hỏa Linh đóng mệnh tuổi trẻ đã ly hương. Ở cung Phụ mẫu, tuổi
nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia
nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia
lìa. Ở Phu Thê cung vợ chồng phân tán. Để tìm hiểu cặn kẽ vẫn phải
căn cứ vào nguyên tắc “Hỏa minh Linh ám” mà đoán Hỏa và Linh đều
rất hợp với sao Tham Lang.
Tại sao? Vì Hỏa Linh thuộc hỏa mà Tham Lang là Dương Mộc, Mộc
sinh Hỏa. Tham Lang có Hỏa hay Linh thêm Lộc Tồn, hoặc Hóa Lộc
chủ về hoạnh phát tiền bạc. Nếu thấy cả Không Kiếp chen vào thì bạo
phát rồi bạo bại.
Tham Linh không hay bằng Tham Hỏa. Cổ nhân nói “Tham Linh
tịnh thủ tướng chi danh (Tham Lang Linh Tinh đồng cung đác địa làm
tướng văn tướng võ) cho người ta cảm tưởng rằng Linh đi với Tham tốt
hơn Hỏa đi với Tham
Thực ra không phải vậy, Hỏa gặp Tham là minh Hỏa, Linh gặp
Tham là ám hỏa. Hỏa cần phải sáng sủa, không nên tối ám. Bởi thế khi
viết vào chi tiết cổ nhân mới thêm:”Hỏa Tinh mà hội hợp với Tham Lang
ở vượng địa chức tới tước hầu và thượng tướng, lập công lớn nếu
không bị hung sát phá, tuổi trung niên thành công”
Còn với Linh Tinh thì cổ nhân viết:”Ngộ Tham Lang tú, quan lộc
diệc bất ninh nhược phùng cư vượng địa, phú quí bất khả luận”. Linh và
Hỏa đứng với Tham Lang đều đi tới chổ thành đạt phú quí hơn người,
nhưng riêng Linh Tinh cổ nhân phê mấy chữ “diệc bất ninh” trong khi
với Hỏa tinh thì không phê mấy chữ này. Bất ninh là không yên. Tham
Linh thường phải ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn hơn Hỏa
minh Linh ám càng rõ rệt khi chúng hiện vào các cung tử tức, nô bộc.
Cung tử tức không chính tinh Hỏa tinh đơn thủ, nếu đối cung có chính
diệu hay thì vẫn sinh con được, không sợ tuyệt tự. Nhưng nếu là Linh
Tinh thì bà thứ sinh con cho chứ không phải chính thê.
Hỏa Tinh đóng nô bộc với Hình Kị thì chỉ bị bộ hạ oán ghét nhưng
không mưu hại. Còn bị LinhTinh thì chẳng những căm giận mà còn âm
mưu phản bội dẫn họa tới.
Hỏa Linh đi với Dương Đà lại biến ra những ý nghĩa khác. Kình
Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện
mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun
đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới
hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà
Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức
tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Có câu phú rằng “Kình Dương Linh Tinh vi hạ cách (Kình Dương
đứng với Linh Tinh là hạ cách). Trong khi Kình Dương đứng bên Hỏa
Tinh thì lại có câu phú khác “Dương Hỏa đồng cung uy quyền cuất
chúng” (Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì oai quyền. Dĩ nhiên phải là
Kinh Dương đắc địa)
Hỏa Linh đứng thế hiệp Mệnh, nghĩa là Mệnh cung ở giữa hai phía
sát bên là Hỏa Linh. Cách cục này phải kể như xấu, đưa tới hung tọa
bất an, cuộc đời bôn ba nếu Mệnh cung chính tinh xấu càng nặng.
Trường hợp Mệnh cung Tham Lang độc thủ nơi miếu vượng thì lại là
cách hoạnh phát bạo phát. Trường hợp Hỏa Linh hiệp Kình Dương ở
Mệnh thì vẫn thành công nhưng cực kỳ gian nan.
Kình Dương, Đà La trong khoa Tử Vi là hai sát tinh đi đôi như Linh
Hỏa, cùng với Linh Hỏa thành bộ “tứ sát”. Nhưng Kình Đà có nhiều
khác biệt với Hỏa Linh. Hỏa Linh mang đến phiền nhiễu, Kình Đà đem
lại tổn thất.
Khi hội tụ đủ bộ tứ sát lại đoán khác và gặp Địa Không Địa Kiếp lại
đoán khác. Kình Dương hóa khí là “Hình”, Đà La hoá khí là “Kỵ”. Hình từ
Kình Dương biểu hiện sự phá hoại lực, có thể gây ra thất bại, có thể gây
ra thị phi sau khi đã thành công. Kỵ từ Đà La biểu hiện ngăn trở trì trệ,
có thể tạo nên những khó khăn bất ngờ, có thể khiến cho đương sự vào
mê hồn trận. Phá hoại lực của Kình Dương thường rõ ràng dễ nhận
thấy. Ngăn trở trì trệ của Đà La thường ngấm ngầm quỷ quyệt.
Kình Dương phá hãm ví như một chân tiểu nhân. Đà La phá hãm ví
như ngụy quân tử. Bởi vậy khi Kình Dương hội Hỏa Tinh gây thành sức
mạnh phản kháng như cách “Mã đầu đới tiễn” nơi cung Ngọ, vượt qua
những khó khăn gian tân mà đến với thành công.
Nhưng nếu Đà La hội với Hỏa Tinh lại thành ra thứ trở ngại không
vượt được rồi thất bại. Hung họa đến từ Kình Đà xem như thế còn tùy
thuộc vị trí chúng đứng và hội tụ với sao nào để mà tìm ra đầy đủ ý
nghĩa.
Kình Dương là một tình trạng phát triển thái quá. Còn mang tên gọi
khác là “dương nhẫn” đầu mũi gươm xung kích tiền phong. Kình
Dương vào Mệnh làm việc xông xáo, không do dự, đã quyết thì làm. Sở
đoản của Kình Dương là khó tiếp thụ ý kiến người khác, hiếu thắng, cao
ngạo, ăn nói sắc nhọn dễ gây thù oán. Khuynh hướng cực đoan, tình
cảm yêu với hận rõ ràng ân với oán phân minh.
Đà La ngược lại, làm việc âm thầm, gan góc, tiến chậm nhưng
không ngừng tiến, không vội vã nhưng không phải không có phản ứng
mau. Thường nuốt để bụng và cực kỳ cố chấp, khả năng nhẫn nại cao
Đến đây ta hãy bàn về vị trí của sao Kình Dương. Kình Dương bao
giờ cũng đứng trước Lộc Tồn gọi bằng Tiền Kình Hậu Đà. Không thể
đặt ngược vị trí của nó thành Tiền đà Hậu Kình
Như trên đã nói Dương nhẫn là một tình trạng phát triển cao độ.
Giáp Lộc đóng Dần thì sự phát trểin cao độ của Giáp Mộc phải vào mộc
cung là Mão. Bính Hỏa Lộc tại Tỵ thì tình trạng phát triển mạnh cũng
phải ở nơi cung hỏa Dương nhẫn tất phải đóng Ngọ.
Ất mộc Lộc tại Mão thì dương nhẫn Thìn là thủy mộc khố. Đinh Kỷ
Lộc ở Ngọ thì Dương nhẫn đóng Mùi hỏa khố. Tân kim Lộc tại Dậu thì
Dương nhẫn đóng Tuất kim khố…
Sách Tinh Bình Hội Hải viết “Giáp Lộc đáo Dần, Mão vi Dương
nhẫn, Ất Lộc đáo Mão, Thìn vi Dương nhẫn…” Lộc tiền nhất vi vi “Nhẫn”
vi vạn vật chi lý giai ố cực thịnh. Lộc quá Nhẫn sinh công thành đương
thoái, bật thoái tắc quá việt kỳ nhân (Nghĩa là trước Lộc Tồn một cung là
Dương nhẫn bởi lẽ cái lý của vạn vật không thuận được với tình trạng
thái qua, Lộc lên cực điểm thành hoại, công thành rồi hay từ tồn lại, cứ
tiếp tục quá khích tất sẽ bại.
Lấy trường hợp tuổi Bính Mậu có Đồng Âm tọa thủ tại Mệnh, Đồng
Âm ấy được Kình Dương mới hay, nếu như lại sao Đà La nằm chềnh
ềch ở đây thật khôi hài. Câu phú Thiên Đồng Thái Âm cư Ngọ vị, Bính
Mậu trấn ngự biên cương. Phải tiền Kình tuổi Bính Mậu mới có Dương
nhẫn tại Ngọ được.
Kình Dương đắc địa thủ Mệnh thân tài chắc chắn, xương lớn nhưng
không lộ cốt. Kình Dương hãm thân tài gầy guộc xương lộ da như cam
sành. Kình Dương hợp với các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) vì mộ cung
có khả năng thuần hóa được tính phát triển quá mức dủa sao này. Kình
dương ở mộ tuy đắc địa nhưng vẫn phải có cuộc đời phiêu lưu bôn ba
ly hương và xa cách người thân.
Kình Dương đóng vào tứ bại địa (Tí Ngọ Mão Dậu) nếu không kết
hợp thành một cách riêng biệt như hội hợp với Đồng Âm, tính chất hình
khắc nặng hơn, đáng ngại nhất là Dậu rồi đến Mão.
Riêng với nữ Mệnh có Kình Dương dù miếu địa cũng phải xem là
“mỹ trung bất túc” vì nữ mệnh đều an định êm đềm trong đời là chủ yếu.
Kình Dương gặp Nhật Nguyệt trai khắc vợ, gái khắc chồng. Kình Dương
gặp Liêm Trinh Hỏa Tinh ắt có ám tật hoặc tứ chi bị thương.
Đà La thủ Mệnh biểu hiện qua đôi mắt lớn, lồi, đắc địa ánh mắt từ
tường, hãm ánh mắt mờ đục, răng dễ bị hư nếu vào hãm địa. Đà La
đắc địa ở các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm việc giỏi dắn, dám làm
và thành công.
Đà La hãm nơi Dần Thân Tỵ Hợi tính giảo quyệt ưa phá hoại, cô
đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.
đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.
Đà la gặp Riêu Cái Tuế ở Mệnh có tật nói ngọng, nóilắp. Đà hãm
gặp Linh hỏa Không Kiếp Kỵ Hình, đau yếu tật nguyền dễ lâm vào cùng
khốn.
Đà La Kình Dương hội Thất Sát thường gặp tai hoạ lớn. Đà gặp
Thiên hình ở vận hạn đưa đến kiện tụng, ẩu đả. Đà gặp Hỏa ở vận hạn
đau ốm. Đà gặp Thiên Mã tại Mệnh rất không ngoan nhưng cũng rất
mưu mô.
Đà La Sửu Mùi tốt nhất, thứ đến Mùi, Thìn vượng địa, Tuất bình hòa.
Đà La hội với Tham Lang dễ biến thành con người ham mê chơi bời
rượu chè.
Đà La gặp Hỏa Tinh hay bị thương tật hoặc bệnh lâu không khỏi.
Đà La Mệnh, Kình Dương Thân thì hình khắc dữ dội hơn nữa
Đà La vào Tật ách có bệnh phổi, xuất huyết ở phổi, mặt có sẹo, tê
thấp, bệnh ngứa làm lột da. Kình Đà vào cung Tật ách của số nữ phải
để phòng bệnh bướu tử cung đưa đến giải phẩu
Kình với Đà kể về mặt hung họa tác hại ngang nhau. Nhưng với
Kình thì rõ rệt, mọi người có thể biết. Còn với Đà La thì ngấm ngầm ít ai
hay. Đó là điểm khác biệt giữa Kình với Đà cũng như “Hỏa Minh Linh
Ám” vậy.
Đà La đứng bên Tham Lang khi Tham Lang ở cách ‘phiếm thủy
đào hoa” tức Tham Lang đóng Hợi có thể đưa đến tình trạng “mê hoa
luyến tửu dĩ vong nhân” chết vì trác táng do nghèo hay bệnh.
Đà La đứng với Tham Lang ở Dần cách gọi bằng “phong lưu thái
trượng” lại là con người hào hoa phong nhã dễ bị lừa gạt bởi đam mê,
không trác táng. Cách “phiếm thủy đào hoa” với “phong lưu thái trượng”
khác nhau như vậy.
Kình Đà có một cách nhất định gây họa hại, ấy là khi Lộc Tồn đứng
với Hóa Kị, đương nhiên Kình Đà hiệp Mệnh, cổ nhân gọi bằng cách
với Hóa Kị, đương nhiên Kình Đà hiệp Mệnh, cổ nhân gọi bằng cách
Kình Đà hiệp Kị. Cách này đưa đến cái họa bần bệnh giao gia (vì bệnh
tật mà nghèo túng, đã nghèo túng còn bệnh tật). Sao Lộc Tồn đứng với
Hóa Kị như thế thật xấu.
Kình Đà cũng không hợp với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Cự
Môn, Vũ Khúc, nhưng Kình Đà mà hiệp sao Thiên Tướng hạm thì họa
hại mạnh hơn hết. Cách Tham Hỏa là cách tốt nhưng có Đà Kình vào
hỏng đi.
Cự Môn Kình Dương không hại lắm, hể có thêm Hỏa Tinh vào thì
phiền. Nhưng Kình đắc địa đứng với Hỏa lại hay.
Ngoài ra không phải cứ thấy Kình Đà xuất hiện là tuyệt đối xấu. Kình
Đà hung hiểm nhưng mặt khác nó cũng tạo nên điều cát lợi mạnh mẽ
không kém
Đà La đứng với sao Thái Âm tại Mệnh, số nữ tính dục cực vượng
thịnh đến mức loại dâm bất kể Thái Âm đắc địa hay hãm địa. Trường
hợp hãm thì loạn kèm theo tiện, trường hợp đắc sang trọng phong lưu
Có một thuyết cho rằng Kình Dương tượng trưng bộ sinh thực khí
của đàn ông và Đà La tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn bà. Từ
thuyết này mà Thái Âm Đà La mới loạn dâm, ý chí sức mạnh tình dục
lên đến cực điểm. Cổ nhân không nhắc đến sự kiện Kình Dương gặp
sao nào thì sức mạnh tình dục vượng, dĩ nhiên không phải là Thái
Dương rồi.
Qua kinh nghiệm cho thấy Kình Đà vào Mệnh cung thường là con
người thông minh. Kình Đà đi cùng Xương Khúc khiến cho cái chất văn
của Xương Khúc tăng lên gấp bội. Như vậy thì Kình Đà liên quan tới sức
mạnh tình dục là đúng.
Qua phân tâm học của Frued thì sức mạnh tình dục (pulsion
sexuelle) đưa lên cao thành văn chương, đẩy xuống thấp thành trác
táng, truy hoan. Đà La đứng cùng Thiên Hình Đào Hoa vì tình mà mang
họa cũng là bởi sự liên quan đến tình dục nói trên.
Kình Đà còn một cách cục khác mà sách Tử Vi Đẩu Số không nói
Kình Đà còn một cách cục khác mà sách Tử Vi Đẩu Số không nói
riêng ra là: Kình Dương độc thủ và Đà La độc thủ. Mệnh không có chính
tinh (mệnh vô chính diệu) có Đà Kình tọa thủ là Kình Đà độc thủ.
Kình Dương độc thủ có thể ở Tí Ngọ Mão Dậu có thể ở Thìn Tuất
Sửu Mùi. Kình Dương độc thủ chỉ tốt khi nó đứng ở Thìn Tuất Sửu Mùi
và Sửu Mùi đẹp hơn Thìn Tuất, còn Tí Ngọ Mão Dậu kể là xấu gây hung
họa.
Kình Dương độc thủ vào số trai hợp cách hơn số nữ. Đà La độc thủ
vào số nữ hợp cách hơn số trai. Tuy nhiên số nữ mà Kình Đà độc thủ
theo quan niệm của người xưa đều không coi như một cách cục tốt
đẹp. Thời bây giờ thân phận nữ đã khác đi nhiều thì Đà La độc thủ
được kể như cách cục hay nhưng không xem là tốt .
Tại sao hay mà không tốt? Hay chỉ khả năng giỏi dắn, thành công
khi toan tính việc gì. Nhưng không tốt vì cuộc sống bôn ba thăng trầm
gay go quyết liệt, thiếu an định êm đềm. Kình Dương độc thủ với nam
mạng hễ đã thành công lớn vượt thiên hạ, nhưng lúc chưa đạt vất vả và
gian lao cũng dữ dội. Kình Dương độc thủ vào binh nghiệp, kinh doanh
lớn, chính trị để sáng tạo sự nghiệp.
Đà La độc thủ với nam mạng đắc địa sự thành công thường không
qua chánh đạo mà hễ đã bại thì xuống đến tận cùng, cơ sự nghiệp
mất, thanh danh cũng tiêu luôn. Trong khi Kình Dương độc thủ có bại
vẫn giữ được danh thơm.
Số nữ Đà La độc thủ đắc địa có thể thành công to, nhưng tình
duyên dang dở, bất mãn và luôn luôn là con người cô đơn vì quá giảo
quyệt nên bị xa lánh. Đà La độc thủ chỉ tốt khi đứng cung Thìn Tuất Sửu
Mùi, độc thủ Dần Thân Tỵ Hợi kể như xấu.
Không Kiếp tên gọi tắt của hai sao Địa Không Địa Kiếp. Có người
cho rằng Địa làm sao Không, vậy thì Thiên Không Địa Kiếp đi một cặp.
Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa
Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa
Kiếp là một cặp.
Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác
hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: ”Tác sự hư không, bất
thành chính đạo thành bại đa đoan” (làm việc coi thường, không theo
chánh đạo, thành bại theo nhau)
Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải, với Địa Kiếp cổ
nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi)
Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những
lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để
mà luận đoàn.
Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách
cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không
Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững
vàng, thànhc ông qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho
tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.
Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột
biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn
luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành
trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoái khỏi
tình trạng thiếu tiến bộ
Địa Không thuộc âm hỏa chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác
xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến
mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi
làm khuôn vàng thước ngọc sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.
Địa Kiếp thuộc Dương hỏa chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình
ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động không do
dự và toàn làm những ivệc trái khoáy không cần biết thành hay bại,
thành thì vui, bại không buồn.
Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa
Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối
Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối
cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi
sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ
không hư ấy mà dấy lên.
Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, hỏa cùng
chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết
Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong
thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại
với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết
Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại
thôi. Câu phú:”Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần
khổ” sai, chỉ luận đoán mới có một chiều
Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ
định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này
phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực
bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách
chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù
bảo là tác sự hư không
Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ
tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền
lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên
chẳng ra đâu vào đâu
Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ
cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu”
của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu
vào đó.
Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những
người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công
đến mức sáng tạo.
Những luận bàn về Tử Vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết :” Kim Không
tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông
đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc
cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất
cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất
phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng?
Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không
đúng. Các nhà Tử Vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp
Địa Không đó.
Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là
những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.
Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim)
gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công
Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ
ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không.
Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy
vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không
đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá
Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa
Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà
phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ
thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp
khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay
Tham Linh vẫn kể làm số phát mau
Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không
Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu
Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với
số nào cũng đúng. Câu phú “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc
chi hưởng” không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch
mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.
Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không
Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.
Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vỡ, nhiều trường hợp hai
sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất
thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào
hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không
Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng
Thiên Riêu, đào hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến
hoá như trên
Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có
một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa
Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa
Kiếp.
Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm
Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự
điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống
nữ.
Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp
đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp
Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ
thường gian truân với duyên tình.
Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng
với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định.
Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp
Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.
Dưới đây là những câu phú nói về Địa Không Địa Kiếp:
- Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân
(Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa
(Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa
Kiếp độc thủ làm tăng tính phản trào lưu đến mức quá lạm mà nên thế)
- Dần Thân Không Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ
(Mệnh Dần Thân Không Kiếp thủ chiếu đứng cùng với cát tinh như
Tử Phủ Đồng Lương Khôi Việt, Xương Khúc thường lên voi xuống chó)
- Tỵ Hợi Kiếp Không nhi phùng Quyền Lộc hoạnh đạt tung hoành
(Kiếp Không Tỵ Hợi có Quyền Lộc tài giỏi nghênh ngang nhưng
cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn chóng)
- Sinh sứ Kiếp Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ
(Kiếp Không thủ Mệnh ở Tỵ Hợi Dần Thân là nơi của sao Tràng
sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen).
- Kiếp Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
(Mệnh Thiên Cơ Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng
cung hay gặp hỏa hoạn)
- Nhan Hồi yểu tư do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh tọa thủ
(Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp Không Đà Linh toạ
thủ. Số thầy Nhan Hồi làm sao mà biết chính xác thế. Chẳng qua chỉ
mượn cái chết yểu của một người tương đối tiếng tăm để đặt cách cho
các sao thôi, vì vậy cũng có câu khác:”Căn Xương hãm ư Thiên thương
Nhan Hồi yểu triết”)
- Kiếp Không Phục Binh phùng Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ
(Mệnh Kiếp Không Phục Binh Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp)
- Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm
(Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, với thị kỷ
phi nhân gần nhau, lòng dạ sắt son đôi lúc cũng vì thị kỷ mà ra)
- Mệnh cung ngộ Kiếp Tham lãng lý hành thuyền
(Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định.
Kiếp Tham Ngọ Tí Mão Dậu không phải là Tỵ Hợi)
- Mệnh Không Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học
đa thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng
hưởng
(Mệnh Không Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính
tinh thì học giỏi. Nhưng Mệnh Không Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng
Lương. Phá Quân hãm thì khó thọ)
- Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp
Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy.
- Kiếp Không Hình Kỵ Đà Dương
Gian nan bệnh tật mọi đường lo âu
- Tử cung Không Kiếp trùng gia
Binh phùng huyết tán, thai bảo phù hoa
(Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanhnở)
(Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanhnở)
- Phúc cung hãm ngộ Kiếp Không
Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài
- Kiếp Không tan sạch ra tro
Đề phòng kẻo phải lộ đồ nam kha
(Vận hạn gặp Kiếp Không hãm phải thận trọng không thì bao thành
quả đã tạo dựng mất mát hát)
- Phu Thê Không Kiếp trùng xung
Trải hai ba bộ mới xong cửa nhà.
- Kiếp Không ai nấy khá ngừa
Lâm vào huynh đệ đơn sơ một mình
(Thiếu anh em hoặc xa cách anh em)
- Đà La Địa Kiếp chiếu phương
Gặp Hỏa Linh nạn bất tường chẳng sai
- Tử phùng Không Kiếp hiển gian
Hoặc là tứ sát trong làng gian phi
- Không Kiếp Tỵ Hợi đồng sang
Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi
- Mấy người thu ấn triệt hồi
Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi không yên
- Cung Quan mừng được Đào Hồng
Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vài
- Kìa ai tiền phú hậu bần
Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuấn vận sau
- Đất Tí Ngọ Sửu Thân bó Lộc
Hội Kiếp Không là gốc tàn suy
- Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn.
- Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành
- Hồng Đào Không Kiếp đồng danh
Ấy phương yểu tử đã dành một hai
(Hồng với Kiếp Không khó công danh phú quí. Đào Hoa Không
Kiếp lận đận tình duyên không phải yểu tử)
- Quyền Hao Không Kiếp chớ màng
Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh
- Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị
Cung Mệnh hay duyên ấy trăm năm
- Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm
Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm
Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm
- Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
Mối mang dang dở ba lần mới nên
(Triệt Tuần Không Kiếp vào cung phối)
- Thiên Di Không Kiếp khốn sao
Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân.
- Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa
(Đây là Không Kiếp đóng cung Quan Lộc cùng với Thiên Tướng)
Qua những câu phú, qua những luận bàn của sách vở thì Không
Kiếp chỉ tốt khi đóng đúng cách và hội hợp đúng cách mệnh cung, còn
đóng các cung khác Tài quan Thê Tử Phúc và hiện lên qua vận hạn
hoặc giáp hiệp thì không mấy tốt đẹp
TỬ VI TINH ĐIỂN
Thiên Không bị kể vào hàng tạp diệu (sao cấp ba) nhưng tác dụng
của nó vào số lại mang nhiều kỳ bí. So với Địa Không cùng một tính
chất Không nhưng nhu hòa và mềm dẻo, uyển chuyển và thủ đoạn hơn.
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có ghi một câu ở mục Thái Vi phú
chú giải: “Không vong định yêu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu”
nghĩa là tác dụng không vong mạnh hơn hết là Thiên Không. Nhưng
trong Bí kinh lại ghi mấy câu:
Nghĩa là: trước Thái Tuế một cung là Thiên Không, Thân với Mệnh
không nên gặp nó. Tử Vi Thiên Phủ hay Lộc Tồn mà gặp Thiên Không
thì kể như đi vào đất chết.
“Thân Mệnh nhược phùng tứ Không. Phi tăng tất đạo. Tứ không
giả: Thiên Không, Triệt Không, Địa Không, Tuần Không” nghĩa là:
Thân với Mệnh không nên hội bốn Không. Bốn Không gồm có:
Thiên Không, Triệt Không, Tuần Không và Địa Không, nếu gặp chúng
thì chẳng đi tu cũng cô đơn khốn cùng.
Thiên Không là “mục không nhất thiết” theo lời giải của Vương
Đình Chi. “Mục không nhất thiết” nghĩa là không màng chuyện đời hoặc
không coi chuyện đời ra gì nhưng khi đảo ngược lại thật tha thiết với
chuyện đời để chuyển thành thủ đoạn mưu chước.
Thiên Không có lúc đại lượng vô cùng với tấm lòng mở rộng như
hang núi, lại có lúc chặt chẽ chu mật đáng sợ như hai mặt của đồng
tiền. Thiên Không cũng mang căn bệnh nặng là ưa thiên về ảo tưởng.
Đại lượng, mưu chước hay ảo tưởng tùy thuộc khi nó đi cặp với sao
nào.
Khi Thiên Không đứng cùng với Hồng Loan thì tính chất không
màng chuyện đời tăng đến mức tuyệt đỉnh, muốn tìm nơi vắng vẻ mà tu
ẩn, hoặc một mình sống với nội tâm mình, đóng cửa đọc sách, thích
sống cô quạnh hoặc cũng tự đặt mình vào tình cảnh cô quạnh ấy.
sống cô quạnh hoặc cũng tự đặt mình vào tình cảnh cô quạnh ấy.
Nhưng lúc Thiên Không đứng với Đào Hoa thì khác hẳn, có nhiều
suy tính kế mưu. Trường hợp Thiên Không hội hợp cả Đào lẫn Hồng thì
sao? Thì cuộc đời sau khi phấn đấu hăng say rồi chán mà qui ẩn hoặc
ngay cả đang khi làm việc mà tâm tư vẫn u uất quạnh hiu. Thiên Không
đứng với Hồng Đào mang cả Nho lẫn Đạo ở trong người.
Câu phú: “Thiên Không thủ ư Thân Mệnh, chủ nhân tác sự hư
không, bất thành chính đạo, thành bại đa đoan, bất tụ tài” nghĩa là: sao
Thiên Không đóng tại Mệnh Thân cung con người làm việc khó hiểu,
không theo chánh đạo nên thành bại nhiều lần, tiền tài không tụ.
Căn cứ nghĩa của câu phú trên đây thấy rõ bản chất mưu lược kế
sách của Thiên Không, vậy thì chất “mục không nhất thiết” phải có hai
mặt chính phản, không chỉ phiến diện. Gặp Thiên Tướng thành mưu
lược, đứng cùng Đào Hoa thành thủ đoạn.
Thiên Không không ồn ào như Không Kiếp và biết tiến thoái hơn
Không Kiếp ở điểm “tác sự hư không bất thành chính đạo”. Người
Mệnh có Thiên Không khó hiểu hơn Mệnh Không Kiếp.
Có câu phú thường thấy ở bất cứ sách Tử Vi nào là: “Kiếp Không
hạn lâm Sở Vương táng quốc Lục Châu vong” và “Hạng Vũ anh hùng,
hạn chí Thiên Không nhi táng quốc”. Hai câu nói về lý do Hạng Vũ thất
bại vì hạn gặp Không. Câu trên nói Kiếp Không, câu dưới nói rõ Thiên
Không. Vậy thì Kiếp Không có thể là Địa Không chứ không phải Thiên
Không. Tuy hai câu khác nhau nhưng khả dĩ kết luận hễ vận hạn gặp
Không thì Không nào cũng gây khó khăn cả.
2. Mệnh Xương Khúc, Hoa Cái mà gặp Thiên Không thì tính chất
ảo tưởng trở thành tư tưởng triết lý
3. Tham Lang đóng Tí gặp Thiên Không số nữ tình duyên rắc rối vì
thiếu chuyên nhất. Cự Môn đóng Sửu Hợi gặp Thiên Không lận
đận công danh
Sau đây là những câu phú liên quan đến Thiên Không:
- Thiên Không liệt ư Mệnh viên chung thân phong hoa ách
(Mệnh gặp Thiên Không suốt đời vướng tai ách về trai gái. Phải
chăng là Thiên Không đứng cùng với Hồng Loan thì vậy?)
- Mệnh Không, hạn Không vô cát tấu công danh tắng đằng
(Mệnh Không lại đến hạn Không mà thiếu hẳn các sao tốt ắt công
danh lận đận)
- Thiên Không, Hóa Kị tối Quan cung, nhi phùng Âm Dương phản
bối công danh vãn tuế tất thành
(Thiên Không Hóa Kị gây phiền khi vào cung Quan Lộc, nhưng nếu
chúng gặp Nhật Nguyệt hãm thì về già lại thành công thành danh.
Không Kị ở đây đã làm đảo lộn tình trạng phản bối của Thái Âm, Thái
Dương)
- Thìn Tuất Tướng ngộ Thiên Không
Cát tinh gia hội uy trong quyền ngoài
- Việt Đà tiếng nói khoan thai
Đồng Không Hư Nhẫn lắm lời thị phi
- Mệnh vô chính diệu tam Không
Nhật Nguyệt giao chiếu dự phần công danh
- Sinh lại đoán hãy khắc xung
Hễ là Địa Kiếp Thiên Không chẳng nhiều
Hễ là Địa Kiếp Thiên Không chẳng nhiều
(cung bào huynh thấy Địa Kiếp Thiên Không thì ít anh em)
- Tứ Không ngộ Mã chẳng bàn
Có chồng còn bỏ theo làng bướm hoa
(Một trong bốn sao Không xuất hiện ở cung Phối mà gặp Thiên Mã)
Tuần với Triệt đều có chung một tác động gọi bằng không vong, gọi
tắt là Triệt Không và Tuần Không, mà nguyên tên là Triệt lộ không vong
và Tuần trung không vong. Tuần và Triệt khi chấn đóng đều đứng liền
hai cung.
Với Triệt không thì cung dương là chính và cung âm là phụ với
người tuổi dương can. Với người tuổi âm can thì cung âm là chính và
cung dương là phụ. Chính thì tác động mạnh hơn, phụ tác động yếu
hơn.
Triệt gây hại nhất đối với Lộc Mã, mệnh có Lộc Mã hoặc vận có Lộc
Mã mà gặp Triệt thì kể như không Lộc Mã. Triệt có thêm lưu niên Triệt
nữa chứ không chỉ có Triệt đóng chết trên lá số.
Thường thấy phổ biến lý luận rằng sau ba mươi tuổi thì ảnh hưởng
Triệt không còn. Chẳng có gì để chứng minh điều này là đúng. Qua kinh
nghiệm thì bất cứ lúc nào Triệt cũng gây hại hoặc làm cho đỡ hại trước
hay sau ba mươi gì cũng như nhau. Có thể suy ra rằng sau ba mươi
tuổi tác đã chín chắn, có phần nào kinh lịch thì sự tai hại bớt đi chăng?
Luận cứ Triệt đáo kim cung sẽ giúp cho những sao ở hai cung này
tốt đẹp hơn không đúng. Cung Thân (Kim) mà có Lộc Mã bị Triệt vẫn bị
tốt đẹp hơn không đúng. Cung Thân (Kim) mà có Lộc Mã bị Triệt vẫn bị
hỏng như thường.
Triệt kị nhất đối với sao Thiên Tướng rồi mới đến Tử Vi, Thiên Phủ,
Thiên Đồng, Thiên Lương, nói chung thì Triệt hãm hại cát tinh nhiều
hơn hung tinh. Mệnh Thiên Tướng gặp Triệt dễ bị tai nạn lớn nguy hại
cho tính mạng, càng đắc địa càng nặng. Có câu ca rằng:
Triệt chỉ đem lại lợi ích khi nó gặp Thái Âm, Thái Dương hãm, như
Âm ở Dần Mão Thìn Tỵ, Dương ở Dậu Tuất Hợi Tí; hoặc nó gặp các
hung sát tinh bất lợi cho Mệnh cho vận.
Sách Tử Vi Đẩu Số tinh diệu tổng đàm viết: Mệnh Thiên Đồng Thiên
Lương đứng cùng Hóa Kị mà gặp Triệt Không án ngữ thành ra người
tuyệt đối chủ quan.
Phải chăng Triệt đáo kim cung và Tuần cư hỏa địa căn cứ vào câu
phú trên đây? Nó đòi hỏi phải Mệnh vô chính diệu mới thật toàn bích?
Nếu vậy thì Mệnh VCD chỉ ở cung Kim cung Hỏa mới hay?
Nói sang Tuần Không toàn danh của nó là Tuần trung không vong.
Tuần cũng phân ra chính với phụ như Triệt. Tuần sức công phá của tính
chất “triệt lộ” không bằng Triệt, bởi vậy Thiên Tướng sợ Triệt gây nguy
hại hơn Tuần. Triệt phá hoại đột nhiên từ hoàn cảnh. Tuần lại trễ nải tự
nơi mình. Cho nên mới có cái cách Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa lại
nên hay. Nhờ Tuần khiến tự mình sửa lại cho ngay ngắn bản chất xông
xáo bừa bãi của Phá Quân. Sự khác biệt căn bản giữa Tuần với Triệt là
thế.
Nói tóm lại Tuần công phá nhẹ hơn Triệt chứ không phải Tuần kéo
dài sự phá hoại còn Triệt thì sau ba chục tuổi thì hả hơi đi.
Sao rất kị với Triệt khác là Thiên Mã. Thiên Mã ngộ Triệt gọi bằng
Triệt túc Mã, ngựa gẫy chân. Mã đứng với Lộc bị Triệt làm ăn thất bại.
Mã đứng một mình không cần Lộc dễ bị té ngã thương tích (đã bàn đến
luận ở Lộc Mã)
Trong Tử Vi khoa, hai sao Long Trì Phượng Các đi song song như
Tả Hữu, Xương Khúc, Kiếp Không, Quang Quí, Thai Phụ…
Giống như Xương Khúc về tính chất tương đồng lại có sự khác biệt.
Cả Long lẫn Phượng đều chủ về tài nghệ nhưng Long Trì nặng chất
“nghệ” hơn bởi vậy khi Vũ Khúc đứng với Long Trì thường là tay thợ giỏi.
Trên mặt khác Long Trì giỏi võ và Phượng Các giỏi văn. Trường
hợp Long Phượng đồng cung ở Sửu Mùi thì văn vũ kiêm tư. Văn hay vũ
hay nghệ còn tùy thuộc chủ tinh mà chúng đứng cùng
Long Trì thuộc dương thủy còn Phượng Các thuộc dương thổ.
Phượng Các chủ “tài”, Long Trì chủ “nghệ”. Phượng Các một mình
Phượng Các chủ “tài”, Long Trì chủ “nghệ”. Phượng Các một mình
đứng với Thiên Tài, Xương Khúc, hợp cùng Hóa Khoa rất tốt.
Long Phượng cùng đứng theo thế hiệp giáp làm thành con người
thông tuệ. Long Phượng cũng đem cho nữ mạng nhan sắc phong thái
diễm lệ yêu kiều và uy nghi. Long Phượng đứng với Khôi Việt Xương
Khúc khiến nam mạng thành tài trí thông minh có tiếng tăm.
Long Phượng đi cùng những sao Liêm Trinh, Tham Lang, Đào
Hoa thì chế giảm bớt tính trăng hoa. Long Phượng vào vận hạn chủ về
tin vui, cưới hỏi, tài lộc, mưu sự
Long Phượng gặp Diêu Hỉ càng tăng thêm điều vui. Long Phượng
gặp Hoa Cái, Bạch Hổ làm thành bộ “tứ linh” có nhiều may mắn thành
tựu.
Long Trì hội Thai Phụ dễ thăng chức, gặp Mã Sinh Vượng đẻ con.
Riêng Long Trì hội Không Kiếp hay Mộc Dục thì đề phòng sông nước
gây tai nạn hoặc thành ra băng huyết cho nữ mạng. Trong khi Phượng
Các mà hội Không Kiếp lại thường bị người oán trách cừu hận.
Sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: “Tại Tật Ách cung mà
Thất Sát đứng với Long Trì thì bị chứng âm hư, tai điếc, cũng cung này
Thất Sát Phá Quân gặp Phượng Các thì lo bệnh nơi con mắt”
Ấn Quang theo cổ nghĩa là ân huệ đặc biệt. Ngày xưa chế độ thi cử
cứ ba năm một lần thi hội, ba năm một lần thi hương. Bất chợt có một
khoá đặc biệt gọi bằng “ân khoa”. Như vậy sao Ấn Quang chủ về sự đỗ
đạt ân sủng thuộc quí chứ không phải phú. Ấn Quang cần Xương Khúc
Khôi Việt đi bên mới hay. Vận gặp Thiên Khôi Ấn Quang lại thêm cả Lộc
Tồn Hóa Lộc thì nhờ quí nhân đề bạt mà có tiền tài.
Thiên Quí đem đến cả quí lẫn phú. Nó hợp với Văn Xương nhất, thứ
nhì mới tới Văn Khúc rồi sau là Khôi Việt, tăng gia khả năng thông tuệ.
Thiên Quí vào Thê cung nhờ vợ mà được chức. Thiên Quí hợp Thái Âm
và sợ Thái Dương hãm. Còn Ấn Quang ngược lại hợp Thái Dương và
sợ Thái Âm hãm. Trường hợp cả Âm lẫn Dương hội lại cùng Quang Quí
sợ Thái Âm hãm. Trường hợp cả Âm lẫn Dương hội lại cùng Quang Quí
Khôi Việt thì lại chuyển thành cách rất tốt, tay trắng nên công danh phú
quí.
Luận cứ cho rằng Quang Quí cũng như Long Phượng khả dĩ giải
được tính trăng hoa của Đào Hoa, Thiên Riêu là sai. Trái ngược hẳn,
nữ Mệnh đã có đào hoa tinh rồi còn gặp Quang Quí thì tính hư ngụy phù
hoa quan hệ với nhiều người đàn ông. Chỉ có những kĩ nữ mới quen
thuộc các đại quan quí nhân (tức Ấn Quang Thiên Quí đó). Quang Quí
gặp Thai Phụ, Phong Cáo gọi bằng cách “tứ vinh” càng hanh thông trên
hoạn lộ.
Quang Quí đứng với Tả Hữu, Thanh Long, Khôi Việt, Hoa Cái,
Hồng Loan tại Mệnh hoặc chiếu rất tốt cho cả nam mạng lẫn nữ mạng.
(Cung phi là nói về địa vị sang cả, chứ không phải cứ cung phi là
tốt. Cung phi trong Cung oán ngâm khúc chỉ là một thứ nô lệ thời phong
kiến)
Quang Quí đóng hai cung Sửu Mùi thật đẹp, nếu Mệnh hay Quan
mà gặp được thì công danh thi cữ dễ dàng.
Quang Quí gặp Đào Hồng ở cung Điền Trạch thường có may thừa
kế di sản, ruộng vườn
Thai Phụ cũng hay khi gặp Khôi Việt, Xương Khúc, Hóa Khoa trợ
lực cho chuyện thi cử, cũng hợp cả với Tử Vi, Thái Dương Thiên
Lương.Thai Phụ gặp các sao thuộc phú cách thì đỡ giàu bẩn. Thai Phụ
Phong Cáo đi với các đào hoa tinh tạo ảnh hưởng làm dáng làm điệu.
Sách Phi Tinh Đẩu Số viết: Thai Phụ thuộc dương thổ là sao đài
các, Phong Cáo thuộc âm thổ là sao hư trương
Hai sao này tuyệt đối phải dựa vào những sao khác, đứng chơ vơ
là hết tồn tại
Thiên Quan gặp Xương Khúc, Hóa Khoa học giỏi nổi tiếng. Nói tóm
lại Thiên Quan đóng vai phụ giúp cho những quí tinh đã sẵn sàng
thành công.
Thiên Phúc chủ phúc cho nên đóng cung Phúc Đức tốt nhất khiến
tinh thần thư thái, tâm ý hoan lạc, không quan hoài đến giàu nghèo,
tiền bạc nhiều ít. Giàu mà đau ốm, giàu mà không vui không hạnh phúc
kể như “phú ốc bần nhân” (nhà giàu người nghèo). Khi cung Phúc Đức
gặp Thiên Phúc nhiều khó khăn trên tinh thần cuộc sống được giải cứu.
Thiên Phúc rất hợp với sao Thiên Đồng. Thiên Đồng bị Hóa Kị nhờ
Thiên Phúc đỡ giảm nhẹ phiền não. Thiên Đồng cùng Thiên Phúc cuộc
đời không tai nạn họa hại.
Thiên Phúc đứng với Tham Lang Hóa Lộc lại thành con người
thiên về lối sống vật chất; đứng với Liêm Trinh Hóa Lộc thì nặng với
sinh hoạt tình cảm. Thiên Phúc cùng Thiên Thọ đóng vào Mệnh, vào
Phúc Đức hay Tật Ách đều tốt đẹp. Thiên Phúc tại Mệnh tinh thần thoải
mái, tại Phúc Đức ít tai ách, tại Tật Ách không bị bệnh nặng hay cố tật,
chết êm đềm. Mệnh có Thiên Phúc thủ từ tâm, mộ đạo.
Thiên Thọ gặp Thiên Lương lại ra một cách đặc biệt, tối thiểu trong
đời phải bị một bận cửu tử nhất sinh mà thoát hiểm.
Thiên Thọ đóng cung phối ngẫu (Phu thê) thì vợ chồng tuổi chênh
lệch rõ rệt, trên cả mười tuổi nếu chồng già vợ trẻ, trên bốn năm tuổi
nếu vợ già chồng trẻ.
Thiên Thọ đóng cung huynh đệ, anh với em cách xa tuổi, như anh
tám tuổi em hai tuổi (nói về anh em liền chứ không phải cả với út)
Thiên Thọ đóng các cung khác không đáng kể. Sao Thiên Tài cũng
như ba thiện diệu trên cần phụ vào chính tinh nào đó, Thiên Phúc cần
Thiên Đồng, Thiên Thọ cần Thiên Lương, còn Thiên Tài thì cần sao
Thiên Cơ. Thiên Cơ gặp Thiên Tài thông minh tài trí tăng gấp bội, đa
học đa năng. Thiên Tài khả dĩ cải thiện những khuyết điểm của Thiên
Cơ.
Thiên Tài cũng thuận với các sao Xương Khúc, Long Phượng để
Thiên Tài cũng thuận với các sao Xương Khúc, Long Phượng để
tăng gia kỹ năng, Thiên Tài đi với Thiên Thọ đóng Mệnh thì Thiên Thọ có
tác dụng tạo tính cẩn thận, ẩn trọng, chấn tĩnh.
Thiên Tài gặp những chính tinh mang tính phù đãng phiêu lưu lại
trở thành thông minh mà khinh bạc kiểu phong lưu tài tử, coi mọi sự là
trò đùa, càng thông minh càng kém phúc.
Thiên Tài cần Thiên Phúc đứng bên để bớt rông rỡ. Thiên Tài đóng
Thìn Tuất là lạc hãm, tác dụng tài hoa không còn nữa.
Thai Tọa cần Xương Khúc,Quang Quí, Long Phượng, Thai Phụ,
Phong Cáo và tựa vào Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương (cho người sinh
ban ngày), Thái Âm (cho người sinh ban đêm). Thai Tọa gặp lưu niên
Thái Tuế tạo ra thanh thế cho năm ấy
(Mệnh giáp Thai Tọa thành công sớm, câu này không lấy gì
làm chính xác)
(Mệnh có Thai Tọa Phong Cáo thì được hưởng phúc lộc của tổ
phụ)
phụ)
1. Mộ trung Thai Tọa văn mưu vũ lược kiêm ưu (Thai Tọa đứng thủ
Mệnh ở các mộ cung thì văn võ song toàn)
2. Bát Tọa hướng Dương, thị tụng ư cung cấm (Bát Tọa gặp Thái
Dương ở Mệnh là người phục dịch nơi cung cấm)
Hai câu này không mang một luận cứ nào vững chắc, qua kinh
nghiệm thấy không đúng.
Thiên Đức gặp Khôi Việt là dấu hiệu báo có những cơ hội thuận lợi.
Thiên Đức không có khả năng làm giảm bệnh tật hoặc những khó khăn
về mặt pháp luật, vậy thì đừng coi Thiên Đức như một sao tiêu tai giảm
nạn.
Thiên Đức Nguyệt Đức có tác dụng chế giảm tính trăng hoa của
Đào Hoa. Nguyệt Đức cũng như Thiên Đức, nhưng Nguyệt Đức biểu
tượng nữ tính, vào cung Phụ Mẫu ắt có mẹ hiền đức. Cung Phu Thê có
Nguyệt Đức đứng cùng Xương Khúc nhờ bên nhạc gia mà thành danh
phận.
Nguyệt Đức đứng với Xương Khúc ở Mệnh thì dễ được nữ phái
mến chuộng, mến chuộng đây không nhất định là tình ái, có thể làm
nghề nữ trang quần áo hoặc viết văn mà phái nữ ưa thích
nghề nữ trang quần áo hoặc viết văn mà phái nữ ưa thích
Sách Tử Vi bên Trung Quốc luận Khốc Hư rất đơn giản hầu như
không có gì. Trong khi các sách Tử Vi ở Nhật ở Việt Nam thì Khốc Hư lại
gây nhiều ảnh hưởng khác biệt.
Có câu phú: Tí Ngọ Khốc Hư tịnh thủ nhất thế xưng hùng nghĩa là
Mệnh ở Tí hay Ngọ có Khốc Hư anh hùng xuất thế. Khốc Hư Tí Ngọ cần
gặp Hóa Quyền mới khả dĩ xuất thế xưng hùng. Khốc Hư Tí Ngọ lời nói
đanh thép có uy, chí phấn đấu cao, nhưng lúc trẻ thăng trầm bôn ba.
Cho nên mới thêm câu: Khốc Hư Tí Ngọ tiền bần hậu phú
Khốc Hư ưa đứng với các hung tinh như Phá Quân, Thất Sát. Khốc
Hư gặp Thiên Hình vào võ cách hợp, thêm Thiên Mã càng hay như vậy
là Khốc Hư Dần Tuất hoặc Thân Thìn.
Khốc Hư gặp Lộc Tồn Hóa Lộc làm giàu mau (khác với chữ hư
theo cái nghĩa hư hao). Khốc Hư Dần Thân được sao Đà La làm chính
trị gan góc và có tài.
Khốc Hư rất kị gặp sao Thiên Cơ đưa con người tới căn bệnh khó
chữa, ở Mệnh còn nặng hơn ở Tật Ách. Khốc Hư gặp Khoa Quyền
thường nổi danh trong lĩnh vực mình theo đuổi. Khốc Hư vào cung Tử
Tức khó về đường con cái.
Kình Dương hóa khí là hình, bởi vậy không nên đứng cùng Thiên
Hình nữa, khiến cho tranh chấp, từ tụng, khẩu thiệt gay gắt hơn. Thiên
Hình cũng không hợp với những sao hao (Đại Tiểu Hao) tạo nên phá
bại tốn kém, phá hoại.
Ở trên là mặt xấu của nó, và sau đây là những tính tốt đẹp của
Thiên Hình. Thiên Hình bản chất dũng mãnh sát phạt có uy quyền. Hình
nghĩa chữ là lưỡi kiếm. Thiên Hình thuộc hỏa, đắc địa tại các cung Dần
Thân Mão Dậu.
Mệnh đóng Dần được Thiên Hình phò trợ cho một chủ tinh đắc địa
nào đó, được hình dáng như con cọp ngậm kiếm (vì Dần cung là cọp)
dễ phát về võ công. Rồi Thân và Mão Dậu cũng tạo oai hách.
Hình đi cùng với các sao Tướng Quân, Quốc Ấn, Phục Binh gọi gộp
là cách Binh Hình Tướng Ấn, cách này làm ra con người uy dũng có khả
năng võ nghiệp, luật pháp, chính trị.
Hình gặp Lộc Riêu học ngành giải phẫu hợp. Hình sợ Tuần Triệt vì
Hình đang ở thế đắc cách mà bị Tuần Triệt khác nào như thanh gươm
bị bẻ gẫy. Hình đứng với Khốc Hư đắc địa càng thuận lợi hơn
Các sách Tử Vi Trung Quốc nói: ở tình trạng Liêm Tham đứng cùng
mà có Thiên Hình thì tính kỷ luật của Thiên Hình có thể chế giảm bớt
tính rông rỡ của Liêm Tham.
Trong khi lý luận Việt thì Liêm Tham có Hóa Kị sẽ đỡ hẳn phần xấu.
Thái Dương Thiên Lương được Thiên Hình Mão Dậu vào ngành pháp
luật ra tranh thương sẽ đắc lực. Thiên Hình không bị Sát Kị và đứng
đúng chỗ biến thành phấn đấu và kỷ luật.
Nếu Riêu gặp Xương Khúc lại càng ướt át dâm tình, Riêu đứng với
Đào Hồng thì lẳng lơ bất chính. Như có câu phú:
Đào Riêu số gái ai hay
Ở hãm địa Riêu càng mê đắm tình dục, tửu sắc. Riêu đắc địa ở
Dần Mão Dậu Tuất Hợi. Riêu đắc địa gặp Long Phượng có hy vọng
hưng vượng lợi danh..
Riêu đắc địa đứng cùng Tràng Sinh, Đế Vượng tài hoa, tao nhân
mặc khách. Riêu gặp Lưu Hà thông minh hoạt bát làm việc lẹ làng trôi
chảy.
Riêu đứng với Tả Hữu lại chuyển ra sao mối lái, vào Mệnh Tài
Quan thì làm ăn với người khác phái phấn phát tiền tài, tạo dựng sự
nghiệp. Nhưng Riêu gặp Hóa Kị, Văn Khúc mà ở mệnh nam thì lại dễ
khổ tình, mất tiền cho gái.
Thiên Riêu đứng với Phá Quân hãm lại có cả Thiên Mã dễ thành du
đãng, hoặc tâm tính bội bạc khó chơi. Thiên Riêu đứng với Thiên Đồng
ở Phu Thê cung là có cuộc tình tay ba, ngoại tình.
Trong chương Đẩu số phát vi luận của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư viết:
“Huyên uẩn (một tên gọi khác của Thiên Riêu) tam cung (cung đứng
thứ ba là cung Thê) tắc tà dâm nhi đan tửu” nghĩa là: sao Thiên Riêu
đóng cung thứ ba thì tà dâm và mê luyến. Câu này không mấy nhắc tới
Thiên Đồng.
Tuy nhiên theo kinh nghiệm thì phải có Thiên Đồng mới tà dâm
ngoại tình như câu: Đồng Riêu đoán ắt ngoại tình chẳng sai. Chỉ Thiên
Riêu không thôi thì bất chính cả hai.
Riêu đi cùng sao Âm Sát (sao này sẽ nói riêng vì khoa Tử Vi Việt
không nhắc tới bao giờ) là con người nhiều âm mưu thủ đoạn. Riêu
gặp Bạch Hổ dễ bị thú vật cắn.
Kiếp Sát gặp Thiên Lương, Thiên Thọ trở nên vô hiệu. Kiếp Sát ảnh
hưởng vào Tật Ách mạnh hơn cả, có Kiếp Sát ở cung này dễ bị các
bệnh hiểm nghèo khó chữa.
Kiếp Sát gặp song Hao ở vận hạn tiền bạc hao tán nặng. Kiếp Sát
gặp Thiên Hình làm cho tranh tụng dữ dội. Kiếp Sát gặp Văn Khúc, Hóa
Kị hay bị lừa gạt.
Những sao Hoa Cái, Giải Thần, Thiên Thọ, Thiên Lương có sức
hóa giải sao Kiếp Sát hơn Tả Hữu Hóa Khoa. Kiếp Sát bị Tuần Triệt
hoặc các sao Không trở thành vô hiệu, sức phá hoại của nó bị hủy diệt.
Kiếp Sát thuộc hỏa đóng ở Mệnh cung nóng tính hay làm ẩu. Kiếp
Sát đi với các sao đào hoa vào vận hạn tăng thêm những khó khăn cho
tình duyên.
Cô Thần vào Điền Trạch được kể là tốt đẹp, dễ gầy dựng cửa nhà.
Nhưng Quả Tú có ảnh hưởng vào cung phối ngẫu hơn Cô Thần vì có
những cung vị chỉ chịu ảnh hưởng xung chiếu của một trong hai sao
này. Phu Thê mà có những sao này mang tính phù động như Thiên Cơ,
Cự Môn gặp Quả Tú vợ chồng khó ở, khó gần nhau.
Quả Tú vào Phụ Mẫu, mà Mệnh Thân lại thấy Thái Âm, Hóa Kị ắt xảy
đến tình trạng “tùy nương cải giá” nghĩa là có bố dượng. Quả Tú đứng
với Vũ Khúc ở cung phối ngẫu vợ chồng càng dễ hình khắc phân ly vì lý
do chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng muốn lấn quyền.
Hồng Loan đứng với Cô Quả chuyện hình khắc phân ly nặng hơn
có thể sát hại.
Hóa Lộc, Lộc Tồn có thể làm giảm ảnh hưởng của Quả Tú được
Phá Toái gặp Thiên Đồng Hóa Kị ở cung Phúc Đức thường bị thất
tình sầu khổ. Phá Toái có Linh Tinh trợ lực càng phá hoại mạnh. Phá
Toái đi vào Tài Bạch, Quan Lộc hay gặp rắc rối nhỏ nhặt gây phiền
nhiễu. Phá Toái làm giảm bớt cái tốt của Khoa, Quyền.
Phá Toái đứng với Kình Đà Hóa Kị, Thiên Riêu có tật nói ngọng nói
lắp. Phá Toái gặp Hỏa Linh dễ mắc bệnh hiểm nghèo. Phá Toái gặp
sao Lưu Hà trở nên tốt khi vào võ nghiệp (điều này qua kinh nghiệm
không thấy đúng)
Lưu Hà tính chất thâm trầm gian hiểm sát phạt. Lưu Hà cũng như
phần lớn các tạp diệu khác gây độc hại khi gặp những sao đã sửa
soạn đất phá hoại cho nó. Lưu Hà đóng Mệnh nữ cẩn thận khi sanh
đẻ. Lưu Hà đứng với Cự Môn, Hóa Kị dễ bị nạn sông nước. Lưu Hà chỉ
gặp sao Thanh Long như rồng gặp nước (nói theo hình tượng) tạo sự
hanh thông cho công việc.
Về sao Thiên Trù, phái Trung Châu bên Tàu dùng để luận đoán
khả năng ẩm thực. Với chính tinh thì Phá Quân có liên quan đến ăn
uống, bằng tạp tinh là Thiên Trù. Trù đây mang nghĩa nhà bếp. Phá
Quân đóng Phúc Đức mà gặp Hỏa Tinh, Trung Châu phái bảo nên kinh
doanh hàng ăn tốt, xin nhắc là chỉ vào Phúc Đức thôi.
Thiên Trù đóng Mệnh gặp Hỏa Tinh hoặc ở Tài Bạch hoặc Quan
Lộc là người có nghề nấu bếp, thích nấu bếp và nấu bếp giỏi, hãy theo
ngành hàng ăn để rồi sau kinh doanh.
Thiên Trù ở Mệnh, ở Phúc Đức mà không Hỏa Tinh thì chỉ là con
người sành ăn, hoặc mở quán ăn nhưng không phải là tay sành nghề
bếp núc. Nếu Thiên Trù, Hỏa Tinh lại thêm cả Long Phượng nữa thì
nghệ thuật nấu tuyệt vời.
Các nhà Tử Vi gia Việt luận về sao Thiên Trù cho là sao thích ăn
thịt, lời giải này nông cạn và khôi hài, vậy có sao nào thích ăn rau với
muối mè không?
LUẬN VỀ QUÔC ẤN
Quốc Ấn thuộc thổ, chủ về thi cử, công danh, quyền tước và chức vị.
Sao này chỉ đi với Thiên Tướng, Thiên Hình và Phục Binh làm thành bộ
Binh Hình Tướng Ấn, bộ này tạo ra uy quyền được người vì nể.
Tác dụng của Giải Thần là “tiêu tai giải nạn”. Giải Thần mà đứng
với Thiên Thọ ở cung Tật Ách tốt nhất suốt đời không bị bệnh nặng.
Giải Thần một mặt tiêu hủy tai nạn, mặt khác nó cũng tiêu hủy luôn
cả điều tốt. Bởi vậy cung phối ngẫu mà có Giải Thần thì là triệu chứng ly
hôn đấy. Giải Thần gặp Thiên Riêu ở đây tình hình còn phức tạp gấp
bội. Đó là một luận đoán không mấy ai lưu tâm.
Sao Thiên Khố chủ về tiền bạc. Đóng cung Tài Bạch và cung Mệnh
là người quản thủ tiền bạc giỏi. Sinh năm Giáp Kỷ mà có sao Thiên Khố
dễ gây dựng của cải (điều này không mấy chính xác). Chỉ thấy có câu
phú nôm ghi rằng:
TỬ VI TINH ĐIỂN
Trên nguyên tắc Hồng Loan chủ về hôn nhân và Thiên Hỉ chủ về
sinh dục nhưng hai sao quan hệ mật thiết nên Thiên Hỉ cũng ảnh
hưởng đến hôn nhân và Hồng Loan cũng ảnh hưởng đến sinh dục
Hồng Loan hợp với Xương Khúc, Xương Khúc làm tăng ảnh hưởng
về hỉ sự cho Hồng loan. Hồng Loan lấy niên chi làm căn cứ, cái chất
của niên chi chủ về hình hài, Hồng loan Thiên Hỉ biểu tượng cho thân
thể đã đi vào giai đoạn thành thục.
Hồng Loan khởi từ Mão tính đi. Tại sao khởi từ Mão? Vì Mão là lúc
xuân tiết ấm áp nhất cho hoa cỏ nở bừng, lúc này mặt trăng cũng đã
trong sáng lên khác hẳn tình cảnh lạnh lẽo âm u của đông tiết. Bởi vậy
Mão mới là tháng của hoa nguyệt.
Trong khi Thiên Riêu lại tính theo tháng những chu kỳ của nguyệt
kinh lại khởi từ Sửu là thời điểm âm dương giao hoán. Bởi vậy Hồng
Loan là chân thiện mỹ. Mà Thiên Riêu là nhu cầu nhục thể. Hồng Loan
khi vào yêu đương với tấm lòng chân thiện mỹ. Thiên Riêu khi vào yêu
đương thường với tâm tình dâm đãng.
Do những lý lẽ trên khi Hồng Loan bị Không Kiếp cổ nhân mới gọi
là cách lãng lý hành châu ví như con thuyền nhỏ đi trong sóng lớn, ví
như người con gái với cái lòng yêu thiện chân của mình mà bị đối đáp
bởi bọn sở khanh lưu manh, bị lừa gạt. Gặp Tham Lang cũng thế.
Hồng Loan yêu thương qua nhu yếu tình dục nhất thời. Con gái
Hồng Loan khó quên tình sầu, con gái Thiên Riêu xem tình ái là trò rỡn.
Thiên Hỉ đi cặp với Hồng Loan, Thiên Hỉ chủ sinh dục nên người
nữ Hồng Hỉ sau khi sanh con rồi nét quyến rũ nam phái vẫn còn đậm
đà.
Hồng Đào Thiên Hỉ Đào Hoa là những hoa thảo sở dĩ không hợp
khi vận về già. Về già thấy Hồng Đào Hỉ là thấy tang sự chết chóc, trong
khi lúc trẻ là làm đám cưới, là những cuộc tình, hoa thảo về già hoa tàn
cỏ nát nên vậy.
Hồng Loan Thiên Hỉ là tin vui, nếu gặp Hóa Lộc Lộc Tồn thì vì tình
ái mà hao tốn tiền bạc, nặng ắt khuynh gia bại sản, cổ nhân gọi bằng
“đào hoa phá tài”.
Hồng Loan ở nam mạng thì sao? Vẫn căn cứ vàonhững ý tượng
trên để luận đoán. Tỉ dụ Hồng Loan Không Kiếp mà vào nam mạng thì
truân chuyên với danh phận, tiền tài. Cho nên mới có câu phú: Mệnh
trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quí (Mệnh có Hồng Loan,
Không Kiếp thì đừng nói chuyện giàu sang)
Hồng Loan ngộ Kiếp Không đồng thủ
Hồng Loan gặp các văn tinh Xương Khúc thì học hành giỏi, nhất là
lại thêm Thiên Khôi, vì Khôi sáng giá trên thực tế hơn Xương Khúc.
Hồng Loan thủ mệnh nữ mà có một vài sát tinh đi kèm thường hai
đời chồng, nhất là Hồng Loan đứng bên Cô Thần Quả Tú.
Hồng Loan vào số nữ là người đàn bà khéo, nhưng nếu gặp sao
Tướng Quân, Phục Binh thì cuộc đời lại lắm phiền nhiễu về tình duyên.
Hồng Loan đóng cung Phu Thê phải có một bận khắc chồng, căn
cứ vào câu phú: “Hồng Loan cư phu thê tiền khắc”, nhưng lại có những
sách khác bàn rằng Hồng Loan đóng Phu Thê chỉ ở những cung Thìn
Tuất Sửu Mùi mới khắc thôi.
Bằng vào kinh nghiệm thì chuyện khắc vợ khắc chồng của Hồng
Loan nặng với Mệnh nữ hơn Mệnh nam. Hồng Loan hội Hóa Kị thì đàn
bà bỏ chồng đi lấy chồng khác
Hồng Loan đóng cung Tí tại Mệnh sớm đạt công danh (cho nam
mạng) theo cổ nhân viết: “Hồng Loan cư Tí, thiếu niên định chiếm khôi
nguyên”. Hồng Loan đứng với Địa Kiếp ở Phu cung, mệnh tốt thì trăm
năm đầu bạc, mệnh xấu thì không quá bảy tám năm (Hồng Loan phùng
Địa Kiếp ư Phu Quân, mệnh hảo chi bách, bất hảo chi thập)
Hồng Loan Thiên Hỉ mà gặp Đào Hoa gọi chung bằng bộ tam
minh, thường ăn nói có duyên dễ gần người khác phái và khi ra đời
phấn đấu cũng hay gặp những may mắn. Hồng Loan Đào Hoa tuy
không là đối tinh nhưng dễ gặp làm thành một cặp mà Thái Âm vẫn gọi
Đào Hồng
Trong đoạn Đẩu Số Phát Vi Luận có câu phú: “Dâm bôn đại hạnh,
Hồng Loan tu phùng Tham Tú”, nghĩa là Hồng Loan hội Tham Lang
đàn bà rất dâm. Tham Lang gặp Đào Hoa thì dâm loạn. Phải chăng
Hồng Loan gặp Tham Lang cũng dâm như thế? Chỉ khác Tham Đào lộ
liễu mà Tham Hồng kín đáo (dâm ngầm)
Vậy xuất xứ của sao Đào Hoa ở đâu? Khoa Tử Bình ghi rõ tên Đào
hoa tinh theo niên chi là Dần Ngọ Tuất mà gặp nguyệt chi, nhật chi hay
thời chi có Mão; niên chi Hợi Mão Mùi gặp các chi kia là Tí; niên chi
Thân Tí Thìn gặp các chi kia là Dậu; niên chi Tỵ Dậu Sửu gặp các chi
kia là Ngọ. Theo Tử Bình thì một lá số có thể nhiều sao Đào Hoa. Tỉ dụ
niên chi Ngọ gặp tháng Mão, ngày Mão chẳng hạn.
Đào Hoa mà khoa Tử Vi Việt vẫn dùng cũng căn cứ vàoniên chi rồi
theo các cung Tí Ngọ Mão Dậu mà an, nếu niên chi Dần thì an Đào Hoa
tại Mão, niên chi Tỵ thì an Đào Hoa ở Ngọ…
tại Mão, niên chi Tỵ thì an Đào Hoa ở Ngọ…
Theo sách vở Trung Quốc mang cái tên “hàm trì” (tên khác của Đào
Hoa) nó đựơc tính theo vòng Tướng Tinh cùng mười hai sao như vòng
Thái Tuế vòng Trường Sinh và Lộc Tồn.
Theo vòng Tướng Tinh thì “Hàm Trì” bao giờ cũng vào bốn cung Tí
Ngọ Mão Dậu chắc cổ nhân Thái Âm đã không dùng vòng Tướng Tinh
mà chỉ chọn ra sao Đào hoa cùng với sao Hoa Cái.
Vòng Tướng Tinh gồm có: Tướng Tinh, Phan An, Tuế Dịch, Tức
Thần, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt
Sát, Vong Thần.
Chọn ra thấy dản lược hơn, những sao kia hơi thừa. Những sao
này sẽ luận sau. Trở lại sao Đào Hoa, sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu
Tổng Đàm viết: “Hàm Trì là sao thuộc vòng Tướng Tinh, tính theo hàng
chi của năm, sao này cũng có lưu niên nữa, trường hợp “Hàm Trì” trên
lá số lại gặp lưu niên Hàm Trì thì ảnh hưởng tăng cường.
Hàm Trì là sao của sắc tình. Nó không nên đi cùng sao Mộc Dục
gây ra sự việc vì sắc tình mà hao tốn phiền lụy. Hàm Trì đi với Tham
Lang thành ra cách “Phiếm thủy đào hoa” con người ăn chơi bả lả.
Trong khi khoa Tử Vi Việt thì Tham Lang đóng cung Tí không gặp Đào
Hoa cũng kể như “phiếm thủy đào hoa”
Nguyên cục hay lưu niên sao Hàm Trì không nên gặp Vũ Khúc,
Hóa Kị hoặc Văn Xương Hóa Kị đưa đến tình trạng người phối ngẫu bất
trung.
Các sách Tử Vi Việt giảng rằng: Đào Hoa thuộc Mộc chủ về sự
hoan lạc đa tình mà không nên hiện lên khi vận về già chuyển ra buồn
thương. Đào Hoa lúc trẻ là đỗ đạt, đám cưới, lúc già là bệnh tật chia ly
và đám tang.
Đào Hoa cần Hồng Loan. Đào Hồng vào cung Quan Lộc hanh
thông trên hoạn lộ hoặc trên cuộc phấn đấu gầy dựng cơ nghiêp.
Đào Hồng gặp Nhật Nguyệt đa tình phong lưu. Đào Hồng gặp
Không Kiếp Đà Kình khó khăn trên duyên tình không muộn vợ muộn
chồng thì cũng hai đời chồng vợ.
Đào Hồng đứng với Địa Kiếp dễ bị đắm thuyền và dễ vào vòng tình
lụy. Đào Hồng gặp văn tinh thì ra văn nhân tài tử. Đào Hồng đóng cung
Thiên Di xuất ngoại lập nghiệp.
Hạn có Đào Hồng Hỉ Riêu thì vương vấn tình. Đào Hoa đứng với
Thiên Riêu Đà La Hóa Kị vào số nữ là người đàn bà dâm loạn khó toàn
danh tiết.
Khi luận về Đào Hoa Riêu Hỉ Mộc Dục đừng nên có thái độ võ đoán
hễ cứ thấy chúng là chê, là xua tay lắc đầu. Quân tử có hai loại chân
quân tử và ngụy quân tử thì tiểu nhân cũng có hai loại chân tiểu nhân và
giả tiểu nhân. Bởi vậy Đào Hoa Thiên Riêu hay Hoa Cái Mộc Dục còn
phải tham bán tìm hiểu coi xem là chân hay giả đã.
Tham bán tìm hiểu cùng với các sao khác, tham bán với cung Phu,
cung Tử và cung Phúc Đức. Tỉ dụ câu phú: Cự Cơ Mão Dậu chung vi
phá đãng. Số nữ thủ mệnh Cự Cơ cung Mão Dậu sớm muộn cũng
thành con người phá đãng là tại sao? Tại vì cung Phúc Đức có sao
Thiên Lương hãm ở Tỵ Hợi. Nếu như Cự Cơ Mão Dậu còn kèm theo
Đào Hoa Thiên Riêu hoặc Đào Hoa Mộc Dục nữa thì tính phá đãng tăng
gấp bội.
Hoa Cái đứng với Tả Hữu Khoa Quyền công danh thuận lợi. Hoa
Cái gặp Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành ra bộ “tứ linh” giúp cho
sự thành công dễ dàng.
Hoa Cái đứng với Tấu Thư thì văn mặc thanh cao. Hoa Cái đi cùng
Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền thi cử, xuất sĩ hanh thông.
Hoa Cái ở mệnh nữ ưa làm dáng. Hoa Cái vào cung Thiên Di ra
ngoài thường được quí mến. Có câu phú: “Hoa Cái cư Di xuất ngoại
cận quí là thế”
Hoa Cái đứng với Mộc Dục, Thiên Riêu đàn bà đa tình dâm đãng.
Hoa Cái đi với Kình Đà Không Kiếp thì khó hưởng của cải ông bà cha
mẹ.
Các sách Tử Vi Trung Quốc khi nói về sao Hoa Cái thấy khác hẳn.
Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: Hoa Cái là tinh diệu của tôn
giáo tín ngưỡng. Hoa Cái gặp các Không diệu tại Mệnh cung mang tâm
ý thiên về triết lý và tôn giáo. Hoa Cái có tác dụng làm tiêu đi những rắc
rối quan tụng hình pháp. Hoa Cái hợp với Khôi Việt, mệnh Khôi Việt
Hoa Cái không bao giờ có nỗi lo về quan tụng.
Qua kinh nghiệm cho thấy rằng Hoa Cái không dính dấp chỉ đến
tôn giáo triết lý như các lý thuyết gia Tử Vi khoa bên Trung Quốc đã đề
cập, nhưng cũng không triệt tiêu hình ngục.
Khoa Tử Vi Việt giảng về Hoa Cái chính xác hơn, nhất là Hoa Cái đi
bên sao Mộc Dục và câu phú: Cái ngộ Mộc gái nào đoan chính. Hoa Cái
ưa làm dáng khi lâm mệnh vị nữ nhân.
Rồi đến bộ tứ linh Long Phượng Cái Hổ thấy nhiều phần ứng
nghiệm. Còn cách Tiền Mã Hậu Cái e rằng là vẽ rắn thêm chân.
NÓI VỀ VÒNG T ƯỚNG T INH
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng
Tinh. Nhưng nhiều sách Tử Vi bên Trung Quốc có ghi vòng Tướng Tinh.
Khoa Tử Vi Việt chịu ảnh hưởng của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên không
có vòng sao này. Tuy nhiên vì vòng Tướng Tinh trong đó có Hoa Cái,
Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát nên cũng cần hiểu qua về vòng sao này
ra sao?
Trước hết là cách an sao Tướng Tinh. Tướng Tinh thuộc sao của
niên chi chỉ tính theo thế tam hợp.
Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như vòng Thái Tuế. Lần lượt
đến Phan An, Tuế Dịch, Tức Thân, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên
Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.
Chỉ có ba sao của vòng Tướng Tinh xuất hiện trong lá số Tử Vi Việt
là: Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Vị trí y hệt vị trí an bài qua
vòng Tướng Tinh, nghĩa là Đào Hoa ở bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu. Hoa
Cái ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Kiếp Sát ở bốn cung Hợi Tí Dần
Thân.
1. Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở
điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa thì không. Bởi vậy
Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng
Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng
thanh thế cho một năm.
2. Gần cận người cao sang quyền thế, hay nói khác đi là dễ gặp
quí nhân. Phan Án rất hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt. Có Khôi
Việt đứng bên thì quí nhân chiếu cố, nhưng chỉ là hữu danh vô
thực kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn.
Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã và tính chất là
một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể làm Lộc Mã giao trì, vào Mệnh
vào Tài Bạch Quan Lộc hay Thiên Di đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc
Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới kể. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung
với Lộc Tồn cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa gọi bằng hiện tượng
“động” đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ỳ một chỗ. Tức
Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến
thất bại thành ra kém nỗ lực phấn đấu.
Tức Thần không nên đứng cùng sao Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc
Đức hễ làm việc mà thấy hơi khó là bỏ. Tức Thần hợp với sao Thiên
Lương, đứng cùng Thiên Lương thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) dễ thuận chịu an bài của mệnh
vận, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn thường đem hung hiểm tới.
Cần phối hợp với các sao khác để đo trình độ hung hiểm.
Tai Sát bao giờ cũng đóng ở cung Tí Ngọ Mão Dậu nếu nó gặp
Đào Hoa Mộc Dục hoặc Văn Xương Hóa Kị mà lưu niên lưu nguyệt thấy
luôn các sát kị xung hội hẳn nhiên là có tai họa vì tình, bị gái lừa trai gạt,
hoặc bị đánh đập vì ghen tuông
Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự trầm trọng của hung
hiểm. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các
hung sát tinh khác, trường hợp cung đó cát tường thì tai sát vô lực.
Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi
cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên
Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở mệnh hay vận hạn khó
được thượng ty nâng đỡ hoặc bị người thân ghét bỏ.
Chỉ Bối là sao hay bị người nói xấu, nó cùng chất với Phi Liêm. Chỉ
Bối đi cặp với văn tinh Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen với tài
học mà phỉ báng.
Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng
nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Thiên Lương Hóa
Lộc là con người vì tham lợi việc gì cũng làm. Chỉ Bối kị đóng ở Mệnh
cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
Nguyệt Sát na ná Thiên Sát nhưng tai ách thường đến một cách
âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với số nữ hơn nam mạng.
Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới
gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện
rõ ràng. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc Văn Xương Hóa Kị cũng có thể gặp
họa trên tình ái.
Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi
chảy đột nhiên bị phá hoặc do đối thủ hoặc hoàn cảnh thay đổi làm cho
mất tiền của, hao tốn tài lộc.
Vong Thần là chuyện thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng còn mang ý
nghĩa lãng phí nếu nó đứng với Hình, Hao hay Không Kiếp thành ra con
người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
Vòng Tràng Sinh có một khúc mắc ấy là sao Mộ (hay giai đoạn phát
triển Mộ) chỉ có theo chiều thuận thì Mộ mới đóng ở Thìn Tuất Sửu Mùi
là cung Mộ khố mà thôi, theo chiều nghịch sao Mộ không đóng ở bốn
cung đó.
Vậy thì Thìn Tuất Sửu Mùi vốn vẫn là tứ Mộ hay còn có sao Mộ nữa.
Nếu phải có sao Mộ vào Thìn Tuất Sửu Mùi thì chuyện thuận nghịch của
vòng Tràng Sinh không tồn tại nữa và vòng này chỉ có một chiều thuận
mà thôi cho nam hay nữ, dương hay âm.
Câu phú: Phu cung đóng ở miền tứ Mộ. Gia Hồng Loan ấy số khóc
chồng.
Dịch từ câu: “Sở ai giả, Hồng Loan tứ Mộ liệt Phu quân chi vị” sẽ
phải luận đoán thế nào? Hồng Loan ở Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc đứng
với sao Mộ? Muốn gỡ nút rối này thì chỉ có một con đường chấp nhận
vòng Tràng Sinh đi theo một chiều như vòng Thái Tuế.
Rõ ràng câu phú trên chỉ vào chỗ đứng Thìn Tuất Sửu Mùi của sao
Hồng Loan vì ở Thìn Tuất Sửu Mùi Hồng Loan thường gặp Cô Thần
Quả Tú. Cô Thần Quả Tú không bao giờ đứng ở các cung Tí Ngọ Mão
Dậu. Trong khi Tràng Sinh đi nghịch thì Mộ lại ở Tí Ngọ Mão Dậu.
Chỉ duy có Mã gặp Tràng Sinh thì vất vả ngược xuôi vì Thiên Mã chủ
“động” nên mới có câu phú:Mã ngộ Tràng Sinh chung thân bôn tẩu.
Hoặc Mã hoặc Tràng Sinh vừa đủ, cả Mã lẫn Tràng sinh là thái quá.
Như vậy thì Tràng Sinh phải có chiều nghịch chiều thuận chứ
không thể chỉ một chiều thuận, cứ theo chiều thuận không thôi thì Đào
Hoa luôn luôn gặp Mộc Dục đàn bà con gái thành mất nết hết còn gì.
Mộc Dục vào Thìn Tuất Sửu Mùi chất đào hoa của nó bị triệt tiêu.
Mộc Dục không phải là chính đào hoa chỉ coi như thiên đào hoa
thôi, bởi vậy chất đào hoa của nó có phần bất lương, bất chính.
Mộc Dục gặp Lộc Tồn Hóa Lộcthì chất đào hoa biến thành tài lộc
khả dĩ nhờ người khác phái mà phấn phát. Tỉ dụ nam mạng Mộc Dục
gặp Lộc đi buôn bán quần áo phấn son hoặc làm ca kịch sĩ… rất hợp.
Mộc Dục gặp Đào Hoa, Thiên Riêu, Thiên Hình, Hồng Loan, Thiên
Hỉ thì chỉ phát triển chất đào hoa mà thôi. Mộc Dục gặp Xương Khúc
Hóa Kị vì tình mà hết nghiệp. Mộc Dục gặp Tham Lang Hóa Kị trăng
hoa chim vợ cướp chồng. Mộc Dục đứng với Long Trì cẩn thận tai nạn
hoa chim vợ cướp chồng. Mộc Dục đứng với Long Trì cẩn thận tai nạn
sông nước. Mộc Dục đứng ở Mệnh cung vô chính diệu thì học hành dở
dang. Mộc Dục gặp Đào Riêu Hoa Cái là người đam mê sắc dục.
Quan Đới vào Quan Lộc tượng trưng cho hy vọng phát triển sự
nghiệp, vào cung Phúc Đức là đầu óc tư tưởng đã thành thục. Quan Đới
đứng với các sao Không và Hoa Cái là có khuynh hướng triết lý.
Quan Đới vào các cung Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Nô Bộc trợ giúp cho
các sao tốt đã sẵn có ở các cung này. Quan Đới gặp Long Trì Phượng
Các, Thiên Tài, Văn Xương, Văn Khúc thì gia tăng thông minh và tài
nghệ.
Quan Đới đứng với Thái Tuế, Địa Kiếp lại thành ra gia nhân nhà
quyền thế. Quan Đới gặpnhiều sát bại tinh biến thành cái tròng lọng,
hay một sợi dây câu thúc vì công danh mà khổ.
Thất Sát Phá Quân đứng với Lâm Quan tạo thành tâm lý thích làm
nhiều công chuyện khác, lắm nghề. Lâm Quan gặp Thiên Cơ Thiên
Đồng thì công việc thường bị thay đổi. Lâm Quan gặp được Khôi Việt là
người có chức vụ tương đối cao. Lâm Quan có tính hay khoe khoang và
ăn nói kiêu kỳ. Lâm Quan gặp các hung sát tinh dễ rắc rối phiền lụy vì
công việc chức vụ.
công việc chức vụ.
LUẬN VỀ ĐẾ VƯỢNG
Đế Vượng là giai đoạn cực thịnh của sinh mệnh lực, nó đã lên đến
tối cao điểm và khi đến đây rồi thì chỉ còn một nước tiếp theo là suy
thoái. Khỏe nhất mà cũng nhiều nguy cơ hơn hết.
Đế Vượng vào cung Quan Lộc tốt nhất, nếu có thêm Tả Hữu càng
hay. Đế Vượng đứng với Tham Lang Hỏa Tinh, Linh Tinh bạo phát, bạo
tàn. Tử Vi có Đế Vượng tăng hẳn sự tôn quí.
Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm cũng vậy, với điều kiện Thái
Dương đắc địa cho người sinh ngày, Thái Âm đắc địa cho người sinh
đêm và Thiên Phủ miếu vượng có Đế Vượng khả năng lãnh đạo tăng
lên
LUẬN VỀ SUY
Đây là giai đoạn của sinh mệnh lực chuyển từ vượng đến nhược.
Nó vào cung Phụ Mẫu khiến cho quan hệ thân thiết với cha mẹ thành
nhạt xa. Vào Mệnh Thân cung thì chí phấn đấu không bền. Vào Tài Bạch
cung thiếu lòng tự tin. Vào Quan Lộc không hăng hái với việc lập công
danh, an phận. Suy lưu niên, lưu nguyệt tác dụng mạnh hơn Suy cố
định trên lá số. Suy đóng cung Phúc Đức dòng họ phân ly sơ tán.
Suy mà đóng vào Mệnh Thân cũng làm cho con người cùn nhụt chí
phấn đấu làm việc đầu voi đuôi chuột. Vào cung Tài Bạch thì cái tự tín
tâm kiếm tiền thiếu mạnh mẽ không thể kinh doanh buôn bán. Vào
cung Quan Lộc cung chuyện công danh quyền chức dễ bị đẩy qua thế
yếu.
LUẬN VỀ BỆNH
LUẬN VỀ BỆNH
Bệnh là cung giai đại biểu một giai đoạn phát triển trong quá trình
nhân sinh. Vượng rồi suy, suy rồi bệnh, nhưng không phải bệnh mang
cái nghĩa là đã suy đến cùng cực.
Bệnh vào Mệnh cung không thể bảo rằng người ấy mắc bệnh, sẵn
sàng mang bệnh. Nó chỉ nói lên cái lực sinh mệnh không vững vàng.
Vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thì duyên phận với người thân bất túc. Vào Tài
Bạch ý chí tìm tiền bạc nhược, thiếu đầu óc thực tế, nếu gặp Hóa Kị
cùng các sát tinh khác thì do bệnh tật mà hao tốn tiền tài. Vào Quan Lộc
cung ở trường hợp có cả Thiên Lương thì nên theo đuổi nghề thuốc
(thầy lang, y tá), vào những ngành cần một cá tính quyết liệt không mấy
hay.
Sao Bệnh cố định ảnh hưởng không nặng bằng ảnh hưởng vào
vận hạn lưu niên. Bệnh đóng cung Tật Ách sức khỏe kém.
LUẬN VỀ T Ử
Tử không thể giảng theo lề lối vọng văn sinh nghĩa cho là sự chết
chóc. Bệnh đến độ cùng cực là tử, một giai đoạn yếu nhược hoàn toàn
của sinh mệnh.
Tử vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thân thuộc sơ ly, nếu nó gặp Kị Hình ở
cung này thì không được cả sự che chở nuôi dưỡng của bố mẹ.
Tử đứng cung Phúc Đức, con người tâm ý tiêu cực, không bao giờ
thành chủ động, an phận, tùy thuộc. Tử đóng cung Tài Bạch cái lòng
ham kiếm tiền nguội lạnh. Có khuynh hướng dành dụm cất dấu hơn là
xoay sở phát triển.
Tử vào Mệnh cung tính thâm trầm kín đáo, pha ít nhiều bi quan, dễ
buồn. Cũng như các sao khác thuộc vòng Tràng Sinh, Tử ảnh hưởng
vào vận hạn lưu niên lưu nguyệt lưu nhật mạnh hơn.
LUẬN VỀ MỘ
Ba sao trọng yếu của vòng Tràng Sinh là: Tràng Sinh, Đế Vượng và
Mộ gọi tắt bằng Sinh - Vượng - Mộ. Sinh là sinh ra và lớn lên, Vượng là
cường tráng thành thục, Mộ là tiềm tàng.
Vậy thì không có nghĩa là chôn đi sinh mệnh hoàn toàn đoạn tuyệt.
Mệnh Thân cung không nên đứng vào chỗ có sao Mộ, sự khai triển
thành công sẽ khó khăn vất vả hơn.
Mộ vào cung Tài Bạch lại hay vì dễ tích súc của cải hơn, dù số
nghèo cũng không đến nỗi khổ, số giàu thì bền. Hóa Lộc đóng cung Mộ
tiền bạc thiếu linh động phát triển.
Đến đây lại gặp phải nghi vấn khi các lý thuyết gia nêu ra nguyên
tắc: Lộc Tồn không bao giờ đóng vào cung Mộ
Nếu Tràng Sinh đi theo chiều nghịch đương nhiên Mộ vào cung Tí
Ngọ Mão Dậu. Lộc Tồn có mặt ở đây đối với tuổi Ất, Đinh, Kỷ, Tân và
Quí. Như vậy Mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi không liên quan đến các sao
Mộ của vòng Tràng Sinh?
Áp dụng nguyên tắc này thì vòng Tràng Sinh chỉ có một chiều đi
thuận mà thôi. Nhưng mà rành rành Tử Vi Đẩu Số lại ghi vòng Tràng
Sinh thuận và nghịch hai chiều tùy theo Dương Nữ hay Âm Nam hoặc
tùy theo nữ mạng nam mạng.
Qua kinh nghiệm thì tất cả những cung Mệnh nào đóng vào tứ Mộ
cuộc đấu tranh cho sự thành đạt thường khó khăn vất vả hơn như Tử
Phá, Tham Vũ, Thiên Phủ, Thiên Tướng…
LUẬN VỀ T UYỆT
Tuyệt là giai đoạn xấu nhất. Tử với Mộ còn có sinh nhưng Tuyệt là
tuyệt diệt. Cho nên Tuyệt đóng Phụ Mẫu, Huynh Đệ hay Phu Thê kể là
tuyệt đối xấu. Tuy nhiên đây chỉ là tạp diệu thôi, còn cần phối hợp với
các sao khác ở cung này để quyết đoán, không chỉ căn cứ vào một sao
Tuyệt.
Tuyệt vào cung Tật Ách có tốt như Triệt Tuần không? Căn cứ vào
nghĩa tuyệt của nó? Không và trái lại. Tuyệt vào Quan Lộc và Tài Bạch là
cho ý chí kém cỏi, ưa nản, thiếu hăng hái chiến đấu.
Các sách Trung Quốc không thấy nói về cách Tuyệt Hỏa tức Tuyệt
gặp Hỏa Tinh. Nhưng Tử Vi Việt có Tuyệt gặp Hỏa Tinh khi Mệnh cung
đóng Hợi thì lại là con người quật khởi hiên ngang. Vận có chúng thì dễ
xoay chuyển thời cơ, như con ngựa Đích Lưu của Lưu Bị nhảy qua Đàn
Khê, sắp cùng khốn mà lại vượt lên.
Tuyệt Hỏa đi cùng Thất Sát thành ra người tàn nhẫn, phải chăng là
vì tâm ý bị dồn nén đến cùng độ mà phản công mạnh trở lại?
LUẬN VỀ T HAI
Sau khi tuyệt diệt thì đến một sinh mệnh khác khai mở. Nhưng Thai
đại biểu cho yếu nhược, non nớt chưa có một sức mạnh nào cả. Vậy thì
Thai đóng Mệnh cung thì ý chí lực còn non kém, nhưng đồng thời nó
cũng đại biểu một hy vọng.
Theo sách vở Trung Quốc, Thai đứng với Nhật Nguyệt Thiên Lương
ở Tài Bạch, Quan Lộc chỉ vào một kế hoạch lâu dài để phát triển cơ sự
nghiệp? Tử Vi Việt nói về sao này nhiều hơn.
Thai đóng cung Tử Tức gặp thêm nhiều quí tinh thì con đông, dễ đẻ
dễ nuôi, nếu gặp nhiều sát tinh thì ngược lại. Thai đóng Mệnh mà gặp
Khôi Việt Hồng Loan là bậc văn chương?
Thai đi với Kình Đà Linh Hỏa thì lại ra ngu dốt. Cung Phu Thê có
Đào Thai vợ chồng dễ đưa đến tình ngoại hôn. Số nữ mà Mệnh cung
hay Phu cung có Thai Đào tiền dâm hậu thú. Đại tiểu hạn Thanh Long
Thiên Hỉ dễ đạt ước nguyện về con cái.
LUẬN VỀ DƯỠNG
Dưỡng là nuôi, kết thai rồi thì phải nuôi dưỡng nên Dưỡng với Mộ
bao giờ cũng ở hai cung đối chiếu nhau trên lá số. Dưỡng cũng như Mộ
đều mang ý nghĩa tiềm tàng ẩn phục. Nhưng Mộ thì ẩn tàng khi đã vào
thời kỳ suy tàn còn Dưỡng thì ẩn tàng của giai đoạn chưa hoàn toàn
thành thục mà dịch kinh gọi bằng “tiềm long vật dụng” (rồng ẩn trong
ao). Dưỡng rất hợp cho thời kỳ sửa soạn để phát động.
Dưỡng vào cung Tật Ách là bệnh đã xâm nhập tiềm tàng. Dưỡng
vào Quan Lộc làm việc gì cũng cần suy tính có kế hoạch chu đáo không
vào Quan Lộc làm việc gì cũng cần suy tính có kế hoạch chu đáo không
thể cứ làm bừa.
Đối với Tử Vi Việt thì Dưỡng đại biểu tính chất cẩn thận và hợp với
nghề chăn nuôi. Dưỡng vào cung tử tức thì nuôi con người hoặc con
riêng. Dưỡng vào cung Huynh Đệ thì có anh em nuôi.
Vòng Tràng Sinh là quá trình sinh ra, lớn lên, già nua và tuyệt diệt
của một hành thì từng “sao” không có ngũ hành sở thuộc nữa. Có một
vài sách Tử Vi Việt ghi: Tràng Sinh thuộc Thủy, Mộc Dục thuộc Thủy,
Quan Đới thuộc Kim là sai đến như Tử mà thuộc Thủy nữa thì là cả một
chuyện khôi hài.
Vòng này an theo hai chiều thuận nghịch âm dương, cũng như
vòng Tràng Sinh Tử Vi Việt an theo chiều thuận đối với Dương Nam Âm
Nữ và nghịch đối với Âm Nam Dương Nữ.
Bác Sĩ gặp Xương Khúc mới thông minh, hội Khôi Việt mới vinh dự
được người đề đạt, đồng cung với Phụ Bật mới có người thưởng thức
nâng đỡ.
Nếu không Phụ Bật, không Xương Khúc, không Khôi Việt thì Bác Sĩ
trở nên vô dụng. Có thuyết cho rằng lưu niên Bác Sĩ đi cùng Xương
Khúc khả dĩ hóa giải được cái xấu do Hóa Kị mang đến.
Bác Sĩ đóng cung Phúc Đức mà gặp Cô Quả thì cô đơn, trầm lặng,
ít người thân thích và không ưa giao du. Bác Sĩ thuộc Thủy.
LUẬN VỀ LỰC SĨ
Lực Sĩ chủ quyền lực đóng vào sinh niên mệnh cung tác dụng khác
hẳn. Tỉ dụ sinh năm Ngọ mà Mệnh lập tại Ngọ cung gặp Lực Sĩ.
Lực Sĩ bởi vậy cần đi bên Hóa Quyền mới thành Quyền. Nếu Hóa
Quyền ấy phụ giúp cho Phá Quân, Thái Dương, Tham Lang, Vũ Khúc
càng tốt lắm.
Lưu niên Lực Sĩ cũng cần lưu niên Hóa Quyền, nếu lưu niên Lực Sĩ
lại đứng đối xung với Lực Sĩ cố định thêm sao Hóa Quyền sức mạnh
tăng hơn.
Lực Sĩ kị hội ngộ hung sát tinh nhất là sao Kình Dương căn cứ vào
câu phú: Kình Dương ngộ Lực Sĩ Lý Quảng bất phong (Mệnh hạn thấy
Kình Dương Lực Sĩ như tình cảnh Lý Quảng ngày xưa bị giáng chức).
Lực Sĩ thuộc Hỏa.
Thanh Long gặp Khôi Việt, Thiên Quí, Thiên Quan, Thiên Phúc chủ
thăng chức. Thanh Long có khả năng hóa giải hung họa do Bạch Hổ
gây ra như quan tụng, tang sự. Thiên Phủ Thanh Long Hóa Khoa đóng
vào cung Tài Bạch thì lấy vợ hoặc gặp hỉ sự mà phát tài (vớ được vợ
giàu chẳng hạn)
Khoa Tử Vi Việt đưa thêm nhiều tác dụng của Thanh Long:
- Thanh Long ở Mệnh mà không bị sát tinh thì có tài biến hóa công
việc.
- Thanh Long gặp Lưu Hà giống như rồng vào biển khơi có lợi cho
thi cử công danh
- Thanh Long đứng với Hóa Kị ở Thìn Tuất Sửu Mùi như rồng ẩn
trong mây có thể dễ xoay chuyển thời cơ. Thanh Long thuộc Thủy
Tiểu Hao đi với Phi Liêm thì mua sắm mà chẳng suy tính, mua rồi
mới hối tiếc. Khoa Tử Vi Trung Quốc đối với sao Đại Hao với cùng hai
lập luận riêng biệt. Trong khi khoa Tử Vi Việt lại bàn luận Song Hao làm
một thể (sẽ nói khi tới sao Đại Hao). Tiểu Hao thuộc Hỏa
Những sao trên mà đóng Quan Lộc thì phong quan vinh dự tăng
thêm. Tướng Quân đứng với Hóa Kị sẽ đưa đến tình trạng vì có thời đắc
ý mà dương dương tự đắc đưa đến hiềm thù ghét bỏ.
Tướng Quân tính chất can trường, nếu đứng cùng Thiên Tướng
đắc địa gọi bằng cách lưỡng Tướng, có quyền tất hiển hách. Tướng
Quân đứng với Thiên Hình, Quốc Ấn, Thiên Mã, Thiên Khốc theo võ
nghiệp tốt. Số nữ mà có Tướng Quân hay Thiên Tướng tính hay ghen và
thích đoạt quyền chồng. Tướng Quân thuộc Mộc.
LUẬN VỀ T ẤU T HƯ
Tấu Thư là sao mang phúc trạch đến, nhưng đồng thời nó cũng
liên quan đến văn mặc từ chương, ăn nói, hùng biện. Tấu Thư đứng ở
cung Phúc Đức, Quan Lộc giỏi về viết lách, nhưng đứng với Hóa Kị thì
thiên hướng về công kích phê bình.Tấu Thư đóng Mệnh bên cạnh
Hồng Loan số nữ ăn nói thật có duyên. Tấu Thư có tài về từ tụng đi
cùng Khôi Việt Hóa Khoa dễ thắng trong việc tranh cãi mà không gây
oán hận.
Tấu Thư đứng cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương làm “đao bút lại”
đắc lực. Tấu Thư đứng với Bạch Hổ từ tụng ngôn luận đanh thép. Tấu
Thư có thêm Xương Khúc ăn nói thuyết phục hay. Tấu Thư nói giỏi
người theo ngay về là vậy. Tấu Thư thuộc Kim
Có nhiều sách Tử Vi Việt cho rằng Phi Liêm chủ sự vui vẻ, nhanh
nhẹn, điều này sai. Rồi lại nói Phi Liêm gặp Bạch Hổ ví như cọp mọc
cánh, gặp Long Phượng như rồng phụng lên cao càng sai nữa. Vì
không phải chữ Phi mang nghĩa bay mà mang nghĩa loại côn trùng mối
mọt.
Phi Liêm trước sau chỉ là cái họa nhỏ gây thành khẩu thiệt tranh
tụng. Phi Liêm không nên gặp Hóa Kị Văn Khúc sinh lắm chuyện. Câu
phú: Đào Hoa ngộ Phi Liêm Nguyễn Tịch Tấn triều vi túy khách thì Phi
đây chính là con sâu rượu đấy. Phi Liêm thuộc Hỏa.
LUẬN VỀ HỈ T HẦN
Hỉ Thần không phải chỉ là dấu hiệu của vui mừng qua nghĩa chữ.
“Hỉ Thần diên” trong câu quyết ý nói tình trạng kéo dài, lần khần, không
dứt khoát. Nó cũng là mừng vui với điều kiện gặp các sao khác như
Mệnh cung đứng với Xương thì cuộc đời dễ vui, những may mắn nho
nhỏ như người khác lo cả cho mình. Tỉ dụ vợ quán xuyến, anh em phù
trì. Nhưng nếu nó gặp Văn Khúc ở Mệnh thì những chuyện mừng vui
thường bị hoãn, kéo dài, việc hôn nhân cứ lần lữa, càng nặng nếu thấy
luôn cả Hóa Kị. Hỉ Thần gặp Phượng Các đem đến tin vui cho mưu sự,
thi cử.
Hỉ Thần Hoa Cái tốt ghê
Bệnh Phù gặp Thiên Cơ Tham Lang có bệnh về gan. Bệnh Phù
gặp Liêm Trinh, Hóa Kị bệnh về thận. Bệnh Phù lại có Thiên Hình
thường đưa đến giải phẫu. Bệnh Phù vào Tài Bạch buôn bán ngành
dược có lợi. Bệnh Phù Hình Kị phong, sang. Không Kiếp cung Tật mọi
đàng huyết hư. Bệnh Phù thuộc Thổ đới Mộc.
Lý luận này rườm rà không cần thiết. Vì Đại Hao gặp Đào Hoa
(Hàm Trì) thì dự hao tổn mang tính chất đào hoa rồi. Đại Hao đi với
Liêm Trinh, Tham Lang, Xương Khúc hoặc mấy sao Kị cũng vì tửu sắc
mà hao tổn.
Đại Hao ở Mệnh mà Thiên Hư ở cung Phụ Mẫu thì không được
hưởng của cải mẹ cha. Đại Hao ở cung Tử Tức mà Tài Bạch có Thiên
Hư thì con cái phá của.
Sách Tử Vi Trung Quốc mới đưa ra nguyên tắc: “Đại Hao không
nên có hàng xóm là Thiên Hư”. Ở cung vận hạn nào thấy Hao với Hư
đứng chung thì sự hao tổn tăng thêm.
Khoa Tử Vi Việt có cái nhìn khác về song Hao mà không thấy ở các
sách Trung Quốc không rõ xuất xứ từ đâu. Trên ngũ hành sở thuộc hai
sao Hao đều là Hỏa.
Song Hao đắc địa Mão Dậu, Dần Thân hãm địa Tí Ngọ. Hãm với
đắc không thấy ghi trên các sách Trung Quốc. Mệnh song Hao dáng
dấp nhỏ nhắn, bộ tiêu hóa không khỏe mạnh.
Mệnh song Hao theo Việt thì tính tình khôn ngoan ưa hưởng thụ, dễ
đam mê (cờ bạc, tửu sắc). Hao gặp Tuyệt đồng cung là người khôn
ngoan nhưng không trung thực (chỉ Đại Hao thôi)
Song Hao gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thường mắc nghiện thuốc sái.
Song Hao đi với Phá Quân dễ lâm túng thiếu. Song Hao Mão Dậu gọi
bằng cách chúng thuỷ triều Đông như trăm con sông đổ vể biển Đông
làm ăn tiền bạc có lúc như nước, thêm Cự Cơ Mão Dậu càng tốt nữa.
Cách này tuyệt đối không hề thấy sách Tử Vi nào của Trung Quốc
đề cập song Hao gặp Thiên Hình, Địa Kiếp vào vận hạn thì mất trộm.
Cách chúng thủy triều đông đã nói ở phần đầu sách này nhưng ý nghĩa
khác hẳn.
Nếu Phục Binh hay Phục Binh Thiên Riêu mà đứng vớinhiều sao
bất lợi cho Mệnh cung thì lại là nạn nhân của thủ đoạn quyền thuật.
Phục Binh gặp Đà La mọi chuyện mưu tính cứ kéo dài không xong.
Phục Binh gặp Linh Tinh Địa Kiếp dễ rơi vào phiền lụy mắc bẫy.
Phục Binh gặp Quan Phù chiếu xung có rắc rối khẩu thiệt quan tụng.
Phục Binh gặp Bệnh Phù đồng cung hoặc chiếu xung thì bệnh tật triền
miên.
Quan Phủ chủ khẩu thiệt thị phi không nên gặp thêm Hóa Kị hoặc
Thiên Hình càng rắc rối nhất là đối với vận hạn. Không gặp Hình Kị tự
nó vô lực. Có câu phú:
Căn cứ vào câu phú trên đây thì gặp Thái Tuế còn nặng hơn Hình
Kị. Quan Phủ thuộc Hỏa
Sách vở Việt với mười hai sao: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn,
Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức,
Điếu Khách, Trực Phù.
Hai sao Thiếu Dương và Thiếu Âm là Hối Khí và Quán Sách. Sao
Thiên Đức thành Phúc Đức. Sao Bệnh Phù thành Trực Phù
Không biết Trực Phù của sách Việt xuất xứ ở đâu nhưng hai vòng
Tràng Sinh và Thái Tuế của Trung Quốc không hợp lý.
Đến như sao Tiểu Hao của vòng Thái Tuế trong sách vở Trung
Quốc trong khi vòng Tràng Sinh đã có Tiểu Hao rồi là điều không hợp lý
thứ hai.
Ngược lại sách Việt cũng có hai sao trong vòng Thái Tuế đáng coi
là không hợp lý: Thiếu Dương và Thiếu Âm với những lời giải không dứt
khoát, trong khi Hối Khí và Quán Sách với lời giải vững và rõ hơn.
khoát, trong khi Hối Khí và Quán Sách với lời giải vững và rõ hơn.
LUẬN VỀ T HÁI T UẾ
Những sao của vòng Thái Tuế chỉ đi theo chiều thuận dù nam hay
nữ, âm nam dương nữ hay dương nam âm nữ. Thái Tuế gặp các sao
tốt mọi sự êm ả, nếu gặp hung sát tinh hay lưu niên Sát Kị tinh ắt sinh
lắm phiền nhiễu.
Thái Tuế rất sợ gặp Thái Dương hãm Hóa Kị và Cự Môn Hóa Kị.
Thái Tuế cũng không nên đứng vào cung tiểu hạn đối xung với Mệnh
cung sách Trung Quốc gọi bằng “phạm Thái Tuế”. Có những lá số mà
Thái Tuế lúc nào cũng đối xung với Mệnh cung thì thường bị những khó
khăn trở ngại luôn luôn.
Thái Tuế thuộc dương, lợi cho người sinh năm âm và ngược lại.
Như vậy lý luận gọi bằng âm dương điều hòa nếu có gặp Sát Kị thì họa
hại cũng giảm.
Thái Tuế bản tính lạnh lùng, xét đoán và lý luận. Có câu phú: “Thân
cư Thái Tuế dữ nhân quả hợp” Thái Tuế gặp Xương Khúc Khoa Quyền
văn chương đanh thép. Thái Tuế gặp Tấu Thư ăn nói biện thuyết. Mệnh
phùng Tuế Tấu nói bằng sấm vang.
Thái Tuế gặp Hóa Kị, Đà La bất lợi cho công danh, dễ bị tai tiếng
kiện cáo tranh giành. Thái Tuế đứng với Thất Sát miếu địa là con người
vừa trí vừa dũng.
Thái Tuế đứng với Hoa Cái ở Mệnh cung giọng lưỡi kiêu kỳ. Thái
Tuế đi với Tham Lang nói không thực, lòng không thành thật:
Tham lâm Thái Tuế một miền
Trong ngoài cơ trí đảo điên khó lường
Thái Tuế gặp Quan Phủ là có chuyện kiện tụng:
Sát Hình cô độc tính ương
Quan Phủ Thái Tuế đến thường công môn
Thái Tuế gặp Không Kiếp làm ăn suy vi:
Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành
Dậu cung Hình Tuế cùng ngồi
Tai bay vạ giá do người gây ra
Thái Tuế kị gặp sao Bệnh Phù: Bệnh Phù Thái Tuế dở thay
Mệnh Thân Hồng Đào vận hạn đến Thái Tuế Kiếp Sát thì vợ chồng
chia ly:
Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
Hạn gặp Tuế Kiếp phụng hoàng rẽ duyên
Thiên Phủ, Đà La, Thái Tuế thủ. Mệnh cung nơi cung Tỵ là người
hay nói càn nói rỡ:
Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung
Thiềm ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày
Vận đến sao Thái Âm hãm mà bị Đà La Bạch Hổ, Thái Tuế xung
chiếu thì dễ có tang mẹ:
Nguyệt hãm Đà Hổ Tuế xung
Hãi thay điềm mẹ thoát vòng trần gian
Cung bào huynh Thái Tuế đi với Xương Khúc có người anh em nổi
danh:
Khúc Xương Thái Tuế cung Bào
Có người anh trưởng thấp cao tung hoành
Thê cung Đà La Thái Tuế thì vợ chua ngoa:
Đà Tham tửu sắc la đà
Tuế Đà miệng lưỡi ắt là sai ngoa
Cung tử tức Thái Tuế đứng với Xương Khúc thêm Long Phượng thì
con cái vẻ vang:
Tử cung Long Phượng sang giàu
Khúc Xương Thái Tuế thập hầu tặng phong
Nhưng sao Thái Tuế vào cung Tài Bạch lại thường không đắc thế
lắm. Hãy đọc những câu phú sau đây:
Gian tà Kiếp Sát Phục Binh
Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần
Quan Phủ Thái Tuế đa đoan
Thiên Cơ Thái Tuế gian nan mọi đường
Cái mặt trời thứ hai cũng như mặt trăng thứ hai là Thiếu Âm có vẻ
gượng ép. Trong khi các sách Trung Quốc lại viết đi sau Thái Tuế là
sao Hối Khí, tính chất hoàn toàn tương phản với Thiếu Dương.
Hối Khí tượng trưng tình trạng tối ám ngưng trệ. Hối Khí đóng Mệnh
cung thì tâm tính ác liệt, có Hình Kị càng khó chơi, vào vận hạn thì gặp
tranh đoạt oan khuất.
Hối Khí đóng cung Tài Bạch hay Quan Lộc vì tiền vì chức vị mà tâm
tính độc hại hoặc lo phiền. Hối Khí đóng Phúc Đức có thêm Hóa Kị tinh
thần gò bó trầm trệ.
Mệnh có Tang Môn tính lầm lì, đàn bà nét mặt phảng phất buồn.
Tang Môn vào vận hạn mà gặp Xương Khúc Hóa Kị là có tang chế. Vận
gặp Tang Môn Điếu Khách ắt có chuyện buồn thương.
Tang Môn đắc địa nam mạng có tài, ham hoạt động chính trị và đầu
óc xét đoán sắc bén. Luận Tang Môn cần đi theo Bạch Hổ vì là hai sao
đi cặp.
LUẬN VỀ BẠCH HỔ
Bạch Hổ thuộc Kim, đắc địa Dần Thân Mão Dậu. Bạch Hổ nếu ở
đất hãm là triệu chứng hung họa tang tóc. Bạch Hổ đi cùng nhiều sát
tinh thì tính tình bạo ngược dễ đưa đến khắc vợ khắc chồng.
Nhiều sách Việt viết Bạch Hổ đứng với Thiên Hình, Kình Dương là
người có chí lớn. Sách Trung Quốc lại cho rằng Bạch Hổ gặp Thiên
Hình là có cái họa quan tụng mất tiền mất của . Bạch Hổ gặp Tham
Lang tại Dần không nên nuôi thú hay ham săn bắn vì dễ bị thú vật cắn.
Cách Bạch Hổ đứng với Tấu Thư được gọi bằng Hổ mang hòm sắt
là văn chương lỗi lạc, cách này không đúng. Rồi đến cách Bạch Hổ Phi
Liêm gọi bằng hổ mọc cánh công danh bạo phát lại càng sai, bịa đặt. Vì
như đã nói Phi này không phải là bay.
LUẬN VỀ T HIẾU ÂM
Cùng tính chất như Thiếu Dương là mặt trăng thứ hai. Trong khi
khoa Tử Vi Trung Quốc thay bằng sao Quán Sách. Sao này được coi là
một tạp diệu trọng yếu. Quán Sách làm chuyển biến một số sao mà nó
gặp.
Quán Sách gặp Tả Hữu thì người mà mình mong tới giúp lại dùng
dằng chậm trễ hoặc bỏ cuộc, hoặc phạm sai lầm mà hỏng việc.
Quán Sách gặp Kình Dương Thiên Hình bị ngăn trở bởi luật pháp,
hoặc bệnh tật khiến công việc không tiến. Quán Sách không nên đóng
ở Mệnh cung và Tài Bạch sẽ bị người khiên chế bằng quyền lực tiền
bạc
Quán Sách vào Quan Lộc dễ bị cách chức, hoặc do chức nghiệp
mà bị đẩy vào hình pháp. Như vậy khác hẳn với tính chất tốt đẹp phù trợ
của Thiếu Âm. Cũng như Thiếu Dương sự luận đoán tính chất về sao
này lờ mờ. Xét ra Quán Sách hợp lý hơn
Nếu có thêm Sát Kị đứng với Thái Tuế thì Mệnh vận có Quan Phù
mới tác hại. Quan Phù phạm Kị Sát mà gặp luôn cả Hỏa Tinh thì càng
phiền dữ cách gọi bằng “Hỏa thôi Quan Phù” hung sự tới dồn dập và
bất ngờ.
Quan Phù gặp Xương Khúc Thái Tuế không có Sát Kị tinh thì lại là
người biện thuyết giỏi hợp với nghề thầy kiện. Hội với Tuế Đà Kị là rắc
rối. Gặp Liêm Tang Hổ tai nạn thị phi.
LUẬN VỀ T Ử PHÙ
Tử Phù thuộc Hỏa. Tử Phù tính chất u ám buồn thảm gây cản trở
cho công việc, phá rối những niềm vui. Luận cứ về sao này không mấy
rõ rệt vững vàng.
LUẬN VỀ T UẾ PHÁ
Tuế Phá là sao đối xung với Thái Tuế. Tỉ dụ Thái Tuế ở Tí thì Tuế
Phá ở Ngọ. Nó chống phá Thái Tuế. Tuế Phá không nên đóng ở cung
Tài Bạch, đóng đây mà gặp Hỏa Linh Vũ Khúc thì vấn đề tài chánh đột
nhiên phát sinh tranh chấp. Tuế Phá cố định không gây hại bằng Tuế
Phá lưu niên mà thông thường ta vẫn gọi là năm xung tháng hạn.
Nếu Tuế Phá rơi vào cung Phụ Mẫu mà những sao khác ở cung
này cũng xấu thì sẽ có nỗi lo tang chế. Tuế Phá chủ về chống đối phá
phách. Tuế Phá thuộc Hỏa.
Long Đức, Phúc Đức gặp được Thiên Thọ khả năng giải trừ đau
ốm càng mạnh. Long Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Nguyệt Đức hội tụ
vào Mệnh cung là cách tứ đức. Có bốn sao này thì tính dâm đãng của
Đào Riêu Hồng Kiếp bị chế ngự không rông rỡ nữa. Phúc Đức thuộc
Thổ
Mã Khốc Khách vào vận hạn cũng như vào Mệnh hay Thân đều hay.
Qua kinh nghiệm không thấy được ảnh hưởng rõ rệt của hai sao
này. Chúng đáng kể như một nhược điểm của khoa Tử Vi, hoặc vì tam
sao thất bản mà thành ra thiếu sót.
Có thể mình đã vẽ rắn thêm chân? Qua vòng Tràng Sinh thì rõ cái
chuyện vẽ rắn này. Như ta gọi sao Thai thuộc Thổ, sao Dưỡng thuộc
Mộc, sao Lâm Quan Đế Vượng thuộc Kim thì thật vô lý.
Vì sao? Vì vòng Tràng Sinh là quá trình sinh ra lớn lên của một
hành nếu theo số Tử Bình, còn Tử Vi thì tính Tràng Sinh căn cứ theo
hành cục, như Thủy nhị cục, Hỏa lục cục…
hành cục, như Thủy nhị cục, Hỏa lục cục…
Khi luận đoán tạp diệu gần như chẳng bao giờ đặt vấn đề ngũ
hành. Nếu tạp diệu mà cũng ngũ hành thì luận đoán sẽ đi vào màn khói
mù.
Âm Sát vào tư tưởng tâm lý là ảo giác thiên về những điều quái dị.
Sao Âm Sát qua luận đoán của những vị tu hành (Phật giáo) là sao
thuộc về linh giới.
Một nhà tướng số Trung Quốc tên Trịnh Giá Học có viết nguyên một
cuốn sách về Âm Sát cả mấy trăm trang, nhưng thâu tóm lại ta có thể
đưa thẳng ra những nguyên tắc của một trang cũng đủ, mấy trăm trang
chẳng qua chỉ là những dẫn chứng rườm rà.
Sau đây là tác động của Âm Sát đối với các cung. Âm Sát vào Mệnh
hay gặp tiểu nhân, bản tính nghi hoặc nên dễ bị phiền não vô ích, nếu
thấy luôn cả Đà La, Hóa Kị Không Kiếp hãm thì dễ dàng đi đến ảo giác,
suy nghĩ vớ vẩn, hoặc vì ma túy mà ra con người đầu óc lơ mơ.
Âm Sát ở cung Thiên Di, con người cô độc, ít hợp, khó hòa đồng
hay ngại ngùng nghi kị, mê muội với sự vật hư ảo.
Âm Sát ở Tật Ách thêm những sát tinh khác, tư tưởng hành động
thiếu thăng bằng bệnh tâm trí
Âm Sát ở Phụ Mẫu ưa những vọng tưởng không thực về gốc gác
mình
Âm Sát ở Nô Bộc hay uất ức với bè bạn, với một công việc hợp tác,
nghi kị. Âm Sát ở Huynh Đệ thường bị phản từ nội bộ
Âm Sát ở Phối cung đau khổ ngẩn ngơ vì người thương yêu mất đi
do sinh ly hay tử biệt.
Âm Sát ở cung Quan Lộc làm một việc mê muội mà hại đến sự
nghiệp,mê vợ mê tình nhân, hoặc cả tin vào bạn, người dưới quyền,
người trên mà khốn khó.
Âm Sát ở cung Tài Bạch vì tự cao tự đại vì tham mê mà phá sản.
Âm Sát ở cung Phúc Đức tâm lý tư tưởng quá khích, cuồng tưởng,
vọng tưởng, cuồng tính, gặp thêm các sát kị tinh có thể thành điên.
Âm Sát ở cung Tử Tức con người rất chủ quan, lại hay đi vào tín
ngưỡng tôn giáo đồng bóng, tuyệt đối tin rằng con cái mình giỏi hơn,
đáng kính đáng yêu hơn bất cứ ai khác.
Âm Sát ở cung Điền Trạch thường gặp những nhà cửa có ma quỉ,
hoặc vì vợ mất đi, con chết mà cứ lởn vởn thấy linh hồn vợ con phảng
phất.
Sao Quan Phù của vòng Thái Tuế bao giờ cũng đứng thế tam hợp
với Thái Tuế, cứ có Thái Tuế là phải có Quan Phù hội hợp. Còn Quan
Phủ của vòng Bác Sĩ thì lại không có chuyện tam hợp như Quan Phù
của Thái Tuế.
Câu phú:
Nếu Quan Phủ của câu này mà đổi thành Quan Phù thì ai cũng sẽ
rơi vào vòng lao lý hết sao? Thế nhưng Quan Phù của vòng Thái Tuế
cũng có tính chất của mệnh lệnh cấm chế thời xưa thuộc quan ty hình
pháp. Như vậy hai sao này đã gây nên một nghi vấn. Do tam sao thất
pháp. Như vậy hai sao này đã gây nên một nghi vấn. Do tam sao thất
bản, hay do tối nghĩa?
TỬ VI TINH ĐIỂN
TỨ HÓA
LỘC –QUYỀN – KHOA – KỊ
VŨ TÀI LỤC
Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa
lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc – Quyền –
Khoa – Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.
Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc
cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.
Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên
đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc không nhất
định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất
định là người tài hoa.
Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên
bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa Quyền chủ về tự
tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho
nên Hóa Quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi
khi Hóa Quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.
Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa Quyền
chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa Quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm,
khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động.
Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ
về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa
Kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường.
Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ
thành ra bội phản.
Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm
biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương
đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa
Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định. Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải
tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như
vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.
Hóa Lộc trong Tử Vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù
Hóa Lộc trong Tử Vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù
nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức
độ hơn kém nhiều ít.
Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp
Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ
Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.
Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị,
có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như
chức vị.
Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở
mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.
Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn
đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu
động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động
trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.
Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa
Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị
chiêu oán ganh ghét.
Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối
dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.
Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa
Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội”
bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.
Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa
Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương
nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá
Khoa đẹp hơn Xương Khúc.
Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao
khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong Tử Vi khoa tính
chất rất phức tạp, Hóa Kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng
chất rất phức tạp, Hóa Kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng
ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng
đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.
Nếu Liêm Trinh có Đào Hoa Hóa Khoa kèm bên thì phần cảm tình
nặng. Nếu Liêm Trinh gặp Hỏa Linh Phụ Bật đồng hội, độ phần lý trí
nặng hơn.
Liêm Trinh Hóa Lộc mà phần cảm tình nặng, vấn đề tích tụ tài sản
khó hơn. Liêm Lộc mà phần lý trí nặng thì con người duy lợi với nhiều
thủ đoạn kiếm tiền.
Như vậy, Liêm Lộc hợp với các cung Mạng Tài Quan. Đóng vào
cung Phúc thành ra ý hướng chỉ ham hưởng thụ, phá của hơn làm ra
của.
Trường hợp Liêm Lộc đứng thế hãm mà gặp các sao Sát Hỏa Linh
Không Kiếp lại khiến cho vì tiền bạc ma hệ lụy, tỉ dụ có bạn phản, đam
mê cờ bạc hút sái, sắc tình để bị phá sản.
Liêm Lộc lạc hãm đóng cung Tật ách. Liêm Trinh chủ phế bệnh và
thận bệnh. Khi tâm thần bất giao còn gây ra thần kinh bệnh.
Liêm Lộc vào cung Phụ mẫi không nhất định là cha mẹ giàu có mà
Liêm Lộc vào cung Phụ mẫi không nhất định là cha mẹ giàu có mà
nhất định quan hệ tình cảm với bố mẹ đầy đặn.
Liêm Lộc đóng phối cung thì Phu Thê đắc lực cùng nhau gây cơ
nghiệp. Liêm Lộc vào cung Bào hay Cung Nô thì anh em hay bạn bè
đắc lực nếu không ở thế hãm.
Liêm Lộc phải nhất diện đảo, không nên đứng với vừa cát tinh vừa
hung tinh gây thành tình trạng xung đột giữa cảm tình với lý trí cung cách
xử thế vì vậy mà lắm khuyết điểm.
Liêm Lộc không nên hội xung với Vũ Khúc Hóa Kị (Tỉ dụ nguyên
cục Vũ Kị gặp đại hạn Liêm Lộc) gây ra hao tài tốn của vì tình cảm hoặc
vì tranh chấp tiền bạc mà mất cảm tình.
Trái lại Liêm Lộc sẽ tốt hơn nếu gặp Tham Lang Hỏa Tinh, làm cho
Tham Hỏa bạo phát. Nhưng phải coi chừng Không Kiếp vì có cả Không
Kiếp tất bạo phát với bạo bại đi đôi. Bạo phát do may mắn rồi bạo bại
lại do rủi ro. Trí tuệ và tài năng không tham dự bao nhiêu.
Liêm Trinh Hóa Lộc hay hơn hết là thất Lộc Mã giao trì. Nguyên cục
Liêm Lộc tới vận giao trì Lộc Mã dễ làm giàu, với điều kiện không bị
Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp nhảy vô phá.
Có Lộc đóng Mệnh hay Tài Bạch cho người Thiên cơ khả năng kinh
thương cao. Ở thời đại này, Cơ Lộc khả dĩ phục vụ cho những việc liên
hệ đến kinh doanh tài chánh, với bổng lộc cao không nhất thiết phải
chính mình đứng chủ kinh doanh.
Điểm chú ý: Cơ Lộc không phải là số cự phú, không thể tuyệt đối
độc lập, cần dựa vào thế lực hậu trường, đầu cơ thế lực, nghe ngóng cơ
hội.
Thiên Cơ bản sắc biến động, bởi vậy có những trường hợp Cơ Lộc
nói lên một sự thay đổi mới, nhờ cơ hội mới mà phấn phát hơn.
Cơ Lộc gặp Tả Phụ thường đuợc kiêm chức. Lại thêm Quyền Khoa
thì chức vụ mở đường cho sự hanh thông trong tương lai.
Thiên Cơ Hóa Lộc tối kị gặp Hỏa Linh, Hỏa Linh tất làm tăng tính
phù động của Thiên Cơ, nhờ Hóa Lộc sở dĩ phấn phát nhưng rất mau
tiến vào thất bại.
Cơ Lộc bị Không Kiếp cũng thế, càng trèo cao càng ngã đau. Mở ra
năm bảy tiệm đùng một cái vỡ nợ vì thiếu hoặc vì căng ra quá mà đứt
vỡ.
Cơ Lộc cùng gặp một lúc cả hung lẫn sát tinh vây bọc thì nên giữ
thái độ “Bất cảm vi thiên hạ tiên” đứng xuống hàng hai để tránh xung sát
đưa đến kết quả bất toàn.
Thiên Đồng Hóa Lộc bị Không Kiếp hay các sát diệu khác thì gian
lao vất vả hơn lúc già sự an định hay phấn phát chỉ tương đối.
Vì Thiên Đồng chủ về tình tự, nên hay gặp cái vui đột nhiên tỉ dụ
đánh canh bạc được kha khá, mua sổ số trúng vừa vừa.
Đồng Lộc được thêm Lộc Tồn xung chiếu hay tam hợp thì tài khí
vượng hẳn, đột nhiên biến đổi từ nghịch sang thuận. Có cả Tả Hữu
Khôi Việt nữa càng hay, cơ hội trợ lực càng nhiều và phấn phát không
nhỏ.
Đồng Lộc tối kị đồng cư với Không Kiếp, cũng đột biến nhưng mà
thuận sang nghịch, dễ dàng vỡ nợ. Trường hợp vừa có Tả Hữu Khôi
Việt lại vừa có cả Không Kiếp thì sao? Tả Hữu Khôi Việt không thể địch
lại Không Kiếp.
Thiên Đồng Hóa Lộc cũng đừng nên hội với Đào Hoa, nhất là còn
thấy thêm cả Xương Khúc nữa thì phiền, sớm muộn gì rồi cũng thành
phong lưu đãng tử. Không thiếu tiền, nhưng tiền bao nhiêu rơi vào đĩ
bợm hết. Nói khác đi, đây là số công tử con nhà giàu hoặc là người làm
cái nghề “ăn chơi”. Có số này nên mở quán rượu nhà nhảy, nhà tắm
hơi hợp cách. Có điều là không bao giờ giữ được của.
Thiên Đồng Hóa Lộc Đào Hoa Xương Khúc vào cung tật ách, trai
gái dễ mắc bệnh phong tình. Thiên Đồng Hóa Lộc đóng thê cung trước
đắm thắm, sau nhạt tình.
Nếu Thái Âm đứng thế hãm, thường chỉ mãn nguyện trên tinh thần
chứ không trên thực chất nghĩa là phong lưu vui sướng mà không có
nhiều tiền.
Hóa Lộc Thái Âm khác với Hóa Lộc Thiên Đồng ở điểm không bị
đột biến rơi vào nghịch cảnh. Nói khác đi, Đồng Lộc thường gian truân
hơn Âm Lộc.
Hóa Lộc Thái Âm lúc khá giả, tính trên con số thì không hơn thiên
hạ nhưng tâm tình cung cách hưởng thụ hơn hẳn Đồng Lộc, ngay cả lối
kiếm tiền cũng ung dung thanh thản hơn.
Thái Âm là sao tiền bạc, Vũ Khúc cũng vậy, nhưng Thái Âm chủ tĩnh
- thiên về tiềm tàng kiếm tiền bằng kế hoạch cho nên không sôi nổi bôn
ba như Vũ Khúc.
Khi Thái Âm đóng hãm cung, lại kèm bên sát diệu hoặc đứng với
Không Kiếp thì dù có Hóa Lộc kế hoạch cũng thường bị hư, hoặc chỉ
nói thôi mà chẳng làm vẽ rồng vẽ rắn, thực tế chỉ là số không, tính giỏi
mà không xong.
Âm Lộc đương nhiên cung Phúc có Cự Môn Hóa Kị, bởi vậy Âm Lộc
không bao giờ được đặt vào tình cảnh đột biến từ nghịch sang thuận để
hoạnh tài (được bạc hay trúng số).
Cũng như Đồng Lộc, Âm Lộc không nên đứng với Đào Riêu Xương
Khúc sẽ vì mê đắm sắc tình bê trễ làm ăn. Âm Lộc vào cung Tật đứng
thế hãm hay mắc bệnh trên bộ phận tiêu hóa, tỳ vị và ruột.
Tham Lang Hóa Lộc có Đào Hoa Thiên Riêu, Đại Hoa Mộc Dục
kèm bên, chuyển ra con người đam mê tửu sắc, khách quen của vũ
trường, hoan trường, thường do rượu chè trai gái mà mắc thị phi.
Tham Lang Hóa Lộc đứng với Tả Hữu, bạn bè đông mà toàn bạn
bè được việc. Nhưng Tham Lang Hóa Lộc đứng với Kiếp Sát, Thiên Hư,
Tai Sát, Chỉ Bối, Âm Sát thì chỉ gặp toàn kẻ tiểu nhân phản bội, kéo bè
kết đảng.
Tham Lang không Hóa Lộc gặp những sao trên, thị phi phản bội
nhẹ hơn. Tham Lang được Hỏa Linh đồng cư hay xung chiếu gọi là
Tham Hỏa, Tham Linh thêm Hóa Lộc thì hoạnh tài, tiền bạc vào tay bất
ngờ và được mất đều mau chóng, Tham Hỏa hay Tham Linh rất sợ gặp
Không Kiếp phải đề phòng đột nhiên phá bại, phú quý chỉ như đoá hoa
đàm mà thôi.
Bản chất Tham Lang ưa cạnh tranh (đánh bạc cũng là một tâm tính
ưa cạnh tranh). Tham Lang Hóa Lộc vào cạnh tranh dễ có lợi. Thêm sát
tinh thì cạnh tranh gian khổ hơn. Công việc sắp thành gặp đột biến phải
gắng công một lần nữa rồi mới được như ý nguyện. Sát thì Đà la mạnh
nhất rồi đến Kình Không Kiếp.
Tham Lộc đứng với sát tinh đang thắng chuyển thành bại, nhưng
mặt khác lại đang bại chuyển thắng. Bởi vậy ở tình trạng thất cơ lỡ vận
nên liều, đã ăn nên làm ra rồi thì hết sức thận trọng.
Tham Lộc ở Mệnh, Tài đẹp hơn ở Quan lộc, vào Quan lộc chức
nghiệp thăng giáng luôn.
Tham Lộc đóng cung Phu/Thê không mấy hay, nếu gặp cả Đào
Hoa Xưong Khúc ở đấy thì người phối ngẫu không trung trinh. Nhưng
lại thấy cả sao Thiên Hình hay Tuần Triệt thì phải đoán là người phối
ngẫu ở trong giới nghệ sỹ, hoặc có công việc dính líu đến hoan trường
chứ không nhất định là bất trung bất trinh.
Tham Lộc đóng vào Tật ách về gia hay suy kiệt, số nữ thường mắc
bạch đới đường kinh lộn xộn.
Vũ Khúc Hóa Lộc không bị Sát Kị Hình Hao lại có Tả Hữu Khôi Việt,
Thai Tọa, Quang Quý thông qua chức quyền mà có tiền. Vũ Khúc gặp
Sát Kị Hình Hao thì sự thành công trên tiền bạc phải kinh qua vất vả
gian truân, nhất là đối với nữ mạng.
Tài tinh rất ngại Không Kiếp, Vũ Lộc cũng thế. Vũ Lộc bị Không
Kiếp đồng hội, quá trình làm ăn tiền bạc bất ngờ hao tán làm mất luôn
thăng bằng dự đoán của mình, gặp Văn Khúc Hóa Kị cũng vậy.
Câu phú:
Câu này có lẽ là Văn Xương chứ không phải Văn Khúc, Vì Vũ Khúc
không hợp với Văn Khúc, nhất là Văn Khúc đi cùng Hóa Kị.
Vũ Khúc gặp Văn Khúc biến Vũ khúc thành hư phù hữu danh vô
thực có chức danh nhưng không quyền hành, có tiền lương cao, lộc to
lời lớn nhưng không bền lâu. Với Văn Xương thì không vậy.
Vũ Khúc không sợ Hỏa Linh Dương Đà, trái lại những sao này còn
trợ lực cho ý chí phấn đấu của Vũ Khúc, tất nhiên phải gặp nghịch cảnh,
gặp khó khăn thì mới cần trợ lực, nhưng kết quả là thành, chỉ mất nhiều
công sức thôi, không bị phá hao như Văn Khúc Hóa Kị gây ra.
công sức thôi, không bị phá hao như Văn Khúc Hóa Kị gây ra.
Vũ Khúc Hóa Lộc Tham Lang đứng chung tuy không được Hỏa
Linh vẫn phát đạt (như đã nói ở chương trên). Trường hợp gặp Hỏa
Linh thì bạo phát, bạo bại khi đối đầu Sát Kị Hình Hao kể cả gặp trên
vận hạn.
Vũ Lộc đóng cung Tật làm giảm đi những hung hiểm của bệnh tật.
Vũ Lộc đóng cung Phối, nhất là Vũ Tham đưa đến tình trạng vợ chồng
đột nhiên sinh biến, nếu thấy luôn những tinh diệu đào hoa ắt hẳn có kẻ
thứ ba xâm nhập.
Tính chất của Thái Dương là phát tán tựa ánh dương quang chiếu
tỏa chứ không thâu liễm góp nhặt. Hóa Lộc đứng bên càng khiến cho
phát tán tăng cường.
Thái Dương Hóa Lộc cùng một lúc phải được cả Khôi Việt Tả Hữu
Xương Khúc thì mớ toàn hảo, cục diện mới lớn lao. Chỉ độc Thái
Dương Hóa Lộc thôi dễ bị ganh ghét đố kị, để trở thành cô lập tứ diện
thọ địch khó bề phát triển mạnh.
Trường hợp Thái Dương Hóa Lộc gặp Không Kiếp thì tình trạng cô
lập lại trở nên tuyệt đối lại phát sinh ý đồ lỗi lạc vượt hẳn thiên hạ trong
tình cảnh nhiễu nhương tao loạn, nhất là Thái Dương hãm địa (Hợi,
Tuất) với điều kiện không gặp sao Hóa Kị.
Vì tính chất Thái Dương phát tán nếu đứng vào cung làm cho sự
phát tán rực rỡ quá, tỉ dụ Tị hay Ngọ, địa vị rõ ràng khiến người chói mắt
mà sinh bực bội ngứa mắt. Cách “Nhật lệ trung thiên hữu chuyên quyền
chi quí “ mang khuyết điểm này, đôi khi rực rỡ bên ngoài quá mức lại
chi quí “ mang khuyết điểm này, đôi khi rực rỡ bên ngoài quá mức lại
chỉ là hữu danh vô thực.
Mặt trời ban mai, mặt trời hoàng hôn quang huy phát tán không quá
mạnh khiến con mắt người đời thoải mái hơn mà không bị đố kị cô lập,
quyền chức vẫn cao, tiền vẫn đến chẳng ai hay. Trường hợp này Thái
Dương không cấp thiết cần Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt nữa.
Thái Dương Hợi Tuất là Thái Dương phản mục, thất huy nhưng vẫn
có trong nó ánh sáng tiềm ẩn khả dĩ âm thầm xây dựng quyền lực địa vị
bằng tựa vào địa vị nói nôm na là số cận quý để gây cơ dựng nghiệp.
Chuyên quyền chi quí của cách Nhật lệ trung thiên đưa đến kết quả
chức lớn quyền trọng rút cục không tiền. Thái dương Hóa lộc vào cung
tật ách nếu ở Tị Ngọ Thìn hay bị chứng nhức đầu.
Bởi thế Cự Môn - Hóa lộc phải cần Tả Hữu Khôi Việt để mà giảm
bớt gian lao. Xương khúc chỉ làm tăng tài trí chứ không làm giảm bớt
gian lao.
Cách Ngọc ẩn trong đá càng rất cần Hóa lộc để làm giàu. Cự môn
Hóa lộc khi thành công phải khiêm tốn thì mới bớt tai họa do người đời
ganh ghét mà đánh phá.
Cự Lộc hội được với Thái dương Hóa Quyền ví như gấm thêm hoa,
làm ăn với người nước ngoài thành công. Đời nay giao thương quốc tế
phồn thịnh nên số Cự Lộc Dương Hóa Quyền rất hợp thời.
Cự Lộc mang một nhược điểm: hay bị suy hao do thiếu lỳ lợm gan
góc trong chuyện làm ăn. Tỉ dụ: mua cổ phiếu chưa cao giá lắm đã bán,
bán xong giá lên mạnh lại hốc hận mua vào lúc giá cao, mua rồi giá lại
xuống dốc.
xuống dốc.
Cự Lộc có một sở trường: “Khẩu thiệt sinh tài” ăn nói ra tiền giỏi
thương thuyết. Nhưng nếu Cự Lộc mà gặp Văn Xương Hóa Kị lại thành
phản cách, tính tình bất lương và dễ bị phá bại, không thể kinh doanh và
cẩu thả trong giao tế.
Cự Lộc nhất là Cự Nhật Lộc ở miếu vượng vào các cung Phụ, Bào,
Tử tức rất hợp, đưa đến sự thân ái với lục thân, đồng thời được trợ lực
của họ, có thêm 3 sao Đức hay Tả Hữu càng hay; trường hợp bị Sát Kị,
cái tốt của Cự Lộc giảm hẳn.
Cự Lộc vào cung tật ách thường gây khó cho cơ quan hô hấp, phổi
hay khí quản, bị bệnh thận hay bệnh dạ dày thì không nặng.
- Phúc ấm cha mẹ
Lương lộc không bao giờ tự mình sáng cơ lập nghiệp, chỉ nên rào
cây táo, ăn trái táo và hưởng bóng mát của cây táo.
Thiên lương Hóa Lộc không nên xoay sở về mặt tài lợi sẽ gặp
phiền, chỉ nên hưởng bổng lộc do phục vụ xã hội, cơ quan thôi.
Thái độ tròn trịa ôn hòa là thái độ của Lương Lộc. Trường hợp
Thiên lương Hóa lộc đóng cung Thiên di mà gặp Thiên mã lại khác, đó
là số buôn bán với nước ngoài, có thêm Lộc tồn thì làm giàu.
Các cung về lục thân như cung Bào, Phụ, Tử tức, Phu thê, Nô bộc
không nên thấy Thiên lương Hóa lộc vì sẽ đưa đến phân tranh tiền bạc,
càng gay gắt hơn nếu có cả Thiên hình.
Lương Lộc đóng Tật ách thì bị trọng bệnh rồi được giải cứu nhưng
hao tán tiền của.
Phá Quân Hóa lộc thấy luôn cả Không Kiếp sự biến đổi còn gian
nan hơn nhưng cuối cùng cũng đạt thành quả.
Phá Quân đứng với Hóa Lộc tại mệnh hoặc gặp Hóa lộc theo thế
tam hợp khi làm ăn hãy hợp tác với những người khác thì có thể giảm
trừ được biến hóa. Bởi vậy Phá quân Hóa Lộc có Tả Hữu sẽ hay đẹp
hơn.
Phá Quân Hóa Lộc cũng cần phối hợp với Nô cung và Bào cung để
đoán định sự hơn kém của thành công. Lý do: Trợ lực từ những người
cộng tác vững mạnh ắt kết quả sáng sủa hoặc ngược lại.
Phá quân Hóa lộc cần làm nhiều công việc khác nhau cùng một lúc
hoặc kiêm nhiệm chức vụ hay hơn là ôm lấy một nghề, một việc, một
chức.
chức.
Phá quân vào số nữ vì những lý do trên không tốt bằng vào mệnh
nam. Lộc Phá của người nữ thường vất vả bôn ba.
Trường hợp Phá Lộc đóng cung bào huynh phải luận đoán theo
hai ý nghĩa tương phản:
- Đồng thời từ hợp tác ấy mình phải chịu một sự khống chế nào đó.
Trường hợp Phá Lộc đóng vào Nô bộc cung, cổ nhân gọi đây là
hiện tượng: “Ác nô khi chủ” thì phải cẩn thận vì dễ bị phản bội vì tiền
bạc.
Trường hợp Phá Lộc đóng cung Tật ách thì phải đề phòng lúc vào
đại vận ấy bị một chứng bệnh nguy hiểm đột nhiên xuất hiện.
Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh đừng bao giờ xuất đầu
lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên
lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên
những sát tinh nên giữ thái độ “bất tranh” rồi thì quyền chức tự đến.
Cự Quyền đóng cung Phúc Đức cũng đi đến tình trạng như trên.
Các sách vở Trung Quốc đưa ra luận đoán sau đây:
Cự Môn Hóa Quyền đóng cung Tài Bạch thì cung Tử Tức (con cái)
có Thiên Tướng thủ. Thiên Tướng phía trước là Thiên Lương, phía sau
là Cự Môn. Nếu cung con ấy hội tụ nhiều sát tinh ắt sẽ bị “phá gia chi
tử” con cái phá của. Sát tinh là: Linh Hỏa, Xương Kị, Kiếp Không.
Cự Môn có tài ăn nói, Hóa Quyền làm tăng cái tài ấy hơn Hóa Lộc.
Cự Môn Hóa Quyền học luật pháp hợp cách nhưng đừng cậy vào tài ăn
nói để mà lấn át sẽ chỉ gây oán ghét bất lợi.
Cự Môn vào cung lục thân thường xảy ra tranh cãi bất hòa, nhưng
hễ có thêm Hóa Quyền thì những bất hòa tranh cãi kia không còn nữa
mà lục thân khả dĩ là những thế lực trông cậy được.
Tỉ dụ như cung Phu Thê có Cự Môn khó thuận hòa, nhưng được
Hóa Quyền thì vợ lại là con người đắc lực chẳng những với chồng còn
với con nữa.
Cự Môn đứng với sát kị tinh ở Tật Ách, bệnh hay sinh từ thực đạo,
dạ dày, ruột hoặc phổi, gặp Hóa Quyền giảm hẳn.
Vũ Khúc Hóa Quyền khó nhọc thật nhưng cũng nắm thực quyền. Vũ
Vũ Khúc Hóa Quyền khó nhọc thật nhưng cũng nắm thực quyền. Vũ
Khúc Hóa Quyền vào võ chức hay mật vụ trị an hợp cách.
Vũ Khúc Hóa Quyền không hay bằng Vũ Khúc Hóa Lộc. Vì đi với
Hóa Lộc làm giàu, tiền bạc dư, đi với Hóa Quyền gánh vác công việc
nhiều. Vũ Quyền cần có Lộc Tồn thì mới hội đủ điều kiện cho một phú
cách.
Vũ Khúc Hóa Quyền gặp sát tinh vào ngành máy móc kỹ nghệ rất
hợp, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.
Vũ Khúc Hóa Quyền đóng Thê cung thường bị vợ đoạt quyền, nếu
lại thêm sát tinh nữa thì vợ chồng chia tay, đôi khi người có số này bị
mọc sừng như chàng Võ Đại Lang chồng Phan Kim Liên trong truyện
Thủy Hử.
Nhưng Vũ Khúc Hóa Quyền đóng cung Thê mà lại có Lộc Tồn thì
lấy vợ giàu hoặc vợ gây dựng cơ nghiệp của cải nhưng riêng mình vẫn
ở trong cảnh thân lươn chẳng quản lấm đầu.
Vũ Khúc Hóa Quyền với hung sát tinh hội tụ vào cung Tử Tức
thường có con hai dòng. Vũ Quyền đóng Bào Huynh với Không Kiếp
anh em bất thuận.
HÓA QUYỀN - T Ử VI
Tử Vi là đế tinh có Hóa Quyền ví như nắm thực quyền đó là ưu
điểm tuy nhiên vẫn ẩn một khuyết điểm. Ưu điểm là giỏi quyết đoán
lãnh đạo lực cao để có thể gánh vác trách nhiệm. Khuyết điểm là dễ rơi
vào tư tâm và chủ quan, quyết định quá khích không vì người vì việc mà
vì mình. Bởi vậy Tử Vi Hóa Quyền rất cần Tả Phụ Hữu Bật là hai gián
quan hai vị phò tá giỏi để gánh bớt trách nhiệm, cản ngăn không để
ông vua phạm sai lầm.
Tử Vi Hóa Quyền cần có Lộc Tồn thì mới thật hay. Vì thủ Mệnh Tử Vi
Hóa Quyền tất nhiên cung Tài có Vũ Khúc Hóa Kị nếu vô Lộc ắt quyền
uy thiếu thực chất. Tử Vi Hóa Quyền hội tụ với nhiều hung sát tinh lại
càng cần thận trọng ví như ôg vua ưa hội tụ với tiểu nhân, nếu như
càng cần thận trọng ví như ôg vua ưa hội tụ với tiểu nhân, nếu như
không đủ sức trị nổi đám tiểu nhân có ngày uổng mạng. Trường hợp
này, người mang số chớ nên ham quyền chức, vạ vào thân.
Tử Vi Hóa Quyền cần Văn Xương Văn Khúc để thêm thông minh tài
trí. Nhưng quá thông minh tài trí mà không được Tả Hữu thì đôi khi cái
thông minh lại dễ đem đến lầm lỡ như sách nói “Thông minh phản bị
thông minh ngộ”
Tử Vi Hóa Quyền đóng cung lục thân thì những người thân trở nên
chủ quan. Như vậy tối bất lợi khi vào cung Thê, nếu gặp cả Thất Sát Phá
Quân nữa càng khốn, bị vợ coi như cỏ rác.
Tử Vi Hóa Quyền tọa lạc ở Tử Tức, con cái thành đạt nhưng bất
hiếu nếu thấy cả hung sát tinh hội tụ. Tử Vi Hóa Quyền vào Nô Bộc hay
Bào Huynh thì hãy kính nhi viễn chi, xuề xòa ăn uống thôi đừng cộng tác
mà có ngày lâm vào cảnh cưỡi voi chung với đức ông.
Tử Vi Hóa Quyền đóng Tật Ách cung xuất hiện với sát tinh nhất là
sao Thiên Hình, bệnh đến cấp kỳ và bị giải phẫu. Số nữ ưa bị ám tật.
Thái Dương Lộc Quyền Cự Môn là cách “dị tộc sinh tài” ra nước
ngoài phấn phát. Dương Lương Xương Lộc được Hóa Quyền càng
nhiều sáng kiến hay khi vào việc.
Thái Dương Thiên Lương không Văn Xương mà được Hóa Quyền
là con người có uy vọng trong lãnh vực nào đó. Thái Dương Hóa Quyền
đứng với Văn Xương lại gặp Hóa Kị, người làm việc xốc nổi, thiếu suy
nghĩ chín chắn để thất bại. Thái Dương Hóa Quyền có khả năng khai
sáng, nhưng bị khuyết điểm là thích người tâng bốc mình.
sáng, nhưng bị khuyết điểm là thích người tâng bốc mình.
Thái Dương Hóa Quyền đóng Mệnh cung, tâm ý không chịu được
tịch mịch cứ phải họp quây quần đông người, cho nên hay vội vã. Đáng
lẽ nên thoái ẩn thì lại chường ra để mà bị phiền.
Thái Dương hãm địa được Hóa Quyền giảm đi những bất lợi, nếu
đóng cung Thiên Di thì hãy rời khỏi quê hương bản quán để mà phát
triển.
Thái Dương Hóa Quyền thủ Mệnh, tốt bụng thích giúp người khác
nhưng nếu có luôn cả Văn Xương Hóa Kị thì mọi hành động thi ân đều
chẳng đem lại lợi ích gì cho mình, chúng vay rồi quịt luôn.
Thái Dương đắc địa đứng với Hóa Quyền đóng cung lục thân dễ có
trợ lực của các người thân thuộc nam tính. Vào Thê, vợ chồng xa cách.
Vào Phu, có chồng xứng đáng trên phong thái, trên khả năng và tư cách.
Vào Bào Huynh, có anh em trai trợ lực. Vào Phụ Mẫu hợp với bố.
Thái Dương Hóa Quyền đóng Tật Ách thường bị máu cao, thấy Hóa
Kị Thiên Hình thì đề phòng bệnh mắt.
Tham Lang Hóa Quyền mà vô Lộc thì hành động giao tế thiếu hào
sảng, chăm chú vào tiểu lợi khó thành việc lớn. Bởi vậy Tham Lang
Quyền Lộc phải đi cùng mới đắc lực.
Đến như cách Tham Hỏa Tinh hay Linh Tinh thì Hóa Lộc lại cần
hơn Hóa Quyền. Thiếu Lộc chỉ có Quyền không thôi thành ra cách có
tiếng không có miếng, hoặc bề ngoài phong quang sáng chói thanh thế
đáng nể mà kho túi rỗng không, còn thêm nhọc mệt với công việc bộn
bề, được người trọng vọng ngoài mặt thôi.
Tham Lang Hóa Quyền đi với Đào Hoa đứng chủ chốt ngành nghề
trình diễn, như nhạc hội, nhà nhảy, quán rượu dễ thành công.
Tham Lang Đào Hoa ở cung con thường có con tư sinh, gặp Hóa
Quyền thì chuyện tư sinh là công khai, không Hóa Quyền thành âm
thầm.
Tham Lang Đào Hoa đóng Phụ Mẫu cung, mình là con của dòng
thứ, nhưng Tham Lang Hóa Quyền không Đào Hoa ở Phụ Mẫu lại là tốt.
Tham Lang Hóa Quyền bị sát tinh đóng Tật Ách bệnh ở gan, không Hóa
Quyền bệnh ở mật.
Thiên Đồng vốn là phúc tinh không chịu nổi những xáo trộn do Hóa
Quyền gây ra, phải có Hóa Lộc chế hoá để cuộc phấn đấu thành tựu.
Thiên Đồng Hóa Quyền rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị đứng đối
xung, hoặc Không Kiếp đứng cùng hay theo thế tam hợp. Quyền trong
trường hợp này chỉ làm cho tai họa gay gắt mà thôi, chẳng giúp chi cho
Thiên Đồng để chống đỡ. Trừ trường hợp cả Quyền Lộc Khoa hội tụ
mới mong giải cứu.
Thiên Đồng đứng bên Thiên Lương mà gặp Hóa Quyền tốt hơn
Thiên Đồng đứng một mình. Thiên Đồng chủ về tình tự, có Hóa Quyền
tình tự trở nên đậm sắc, nó có hai phản ứng trái ngược tùy thuộc các
sao cát hung đi kèm. Thiên Đồng Hóa Quyền đi với cát diệu thì tình tự
ổn định, gặp việc có thể trầm tĩnh đối phó cho nên ung dung thanh thản.
Thiên Đồng Hóa Quyền đi với sát kị hoặc Kiếp Không thì tình tự
thiếu hẳn ổn định, ứng phó đầu voi đuôi chuột hoặc lần khần bất quyết,
đầu óc vớ vẩn.
Đồng Quyền ở Mệnh hay ở Phúc Đức cũng vậy, trừ trường hợp đi
bên cạnh sao Thái Âm thì tình tự tương đối ổn định dù có bị kèm bởi
hung sát kị.
Thiên Đồng Hóa Quyền vào Tài Bạch hay Quan Lộc có cát tinh thì
cơ sự nghiệp tương đối hanh thông, gặp hung sát kị thường bất đắc
chí, bất phùng thời, lắm lúc tính sảng lao vào những cơ hội viễn vông.
Thiên Đồng tình tự nhu nhược được Hóa Quyền cá tính vững lên,
cả trên tình ái lẫn xử thế giao du. Số nữ Thiên Đồng Hóa Quyền hội với
Đào Hoa Xương Kị hay Cự Môn Hóa Kị thì cuộc sống tình cảm duyên tơ
rất lận đận.
Thiên Đồng cặp với Thái Âm và Hóa Lộc có thể xem là một phú
cách, thêm Khôi Việt càng hay lắm nhưng làm giàu qua chức nghiệp dễ
thành hơn làm giàu qua doanh thương.
Thiên Đồng Hóa Quyền mà gặp Tả Phụ Hữu Bật dễ được trợ lực từ
bên ngoài. Thiên Đồng sợ thấy Đà La, hễ Đà La đứng bên, sự nghiệp
cũng như nhân duyên bị khó khăn.
Thiên Đồng vào cung lục thân mà thấy cả Thiên Mã không thể hợp
nhau dù là cha con hay anh em. Đến như vợ càng vô duyên. Thiên
Đồng bản chất đã là canh cải vô thường rồi, nay Thiên Mã đến để khuấy
động tình trạng canh cải vô thường ấy lên nữa.
Thiên Đồng Hóa Quyền bị Cự Môn Hóa Kị, bạn bè mới chơi thì thân
sau thành thù, vợ chồng cho đến hết đời không yên dù lấy mấy bận, anh
em sơ tán, con cái chia lìa.
Đồng Quyền Cự Kị vào cung Tật Ách dễ bị thần kinh, bệnh điên,
gàn, dở hơi. Có Thiên Hình hay Không Kiếp mà không Cự Kị thì mang
cái lo về thận bệnh.
Đứng với Hóa Quyền vẫn xoay sở ra tiền nhưng tiền bạc không bền
bỉ. Thiên cơ là con người mưu lược, được Hóa Quyền, năng lực mưu
lược tốt hơn, nếu có cả Văn Xương Hóa Khoa nữa thì mưu lược lên cao
hẳn. Bởi vậy, khi Thiên Cơ đồng cung với Thiên Lương mà hội Xương
Khoa Hóa Quyền chính là số của một chiến lược gia trên thực tế cũng
như trên tư tưởng.
Nhưng Thiên Cơ Hóa Quyền mà có Không Kiếp đắc địa lại như
rồng gặp mây kế hoạch mưu lược thiên biến vạn hóa khiến người nể
sợ.
Thiên Cơ Hóa Quyền đóng Tài bạch hay Quan lộc thường thấy
mình kiêm chức kiêm nghề khác với lề lối kiêm chức của Phá Quân
Hóa Lộc ở điểm Thiên Cơ nhàn nhã thong dong hơn Thiên Cơ Hóa
Quyền mang đặc điểm giỏi đầu cơ nghĩa là bắt nhanh những cơ
hộikho6ng những chỉ trên kinh tế thị trường mà còn trên chính trị ngoại
giao.
Thiên Cơ bản chất tinh xảo nên nó hết sức nhạy ứng với những
sao đứng chung, cát hay hung càng đậm nét. Thiên Cơ một mình bên
Hóa Quyền gặp Không Kiếp đắc địa mới tốt, nếu có cả Hóa Khoa Hóa
Lộc nữa thì Không Kiếp lại thành hung.
Cơ Lương đóng Phu Thê yêu nhau mà không kết hợp, nhưng có
Hóa Quyền thì chuyện quyết ý lấy nhau phải thành, hoặc xa nhau rồi
gương vỡ lại lành.
gương vỡ lại lành.
Thiên Cơ đóng Tử tức hãm địa khó thuận với con cái, nhưng có
Hóa Quyền thì con cái lại thuận tòng. Thiên Cơ Hóa Quyền vào Phối
cung gặp Tả Hữu thế nào cũng thành cuộc tình tay ba, có Đào Hoa nữa
càng rõ rệt điều này.
Cự Cơ Hóa Quyền ở Phối cung, hôn nhân hôn nhân mỹ mãn nếu
không bị sát kị. Thiên Cơ Hóa Kị thủ chiếu Tật ách, gan nóng, hoặc thần
kinh suy nhược.
Thiên Lương Hóa Quyền mang một khuyết điểm: Dễ thành chủ
quan đôi lúc ra cố chấp. Thiên Lương rất lợi nếu có Thái Dương đắc địa
chiếu, Hóa Quyền nhờ thanh thế của Thái Dương mà mạnh hơn. Thêm
Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa, Quang Quý càng hay nữa.
Thiên Lương chủ danh không chủ lợi. Nhưng ở trường hợp Thiên
Lương đóng Thiên di cùng với Hóa Quyền Hóa Lộc và Thiên Mã thì đi
xa, đi ra nước ngoài lập nghiệp khả dĩ làm giàu. Bởi khi Thiên Lương
đồng hành với Thiên Mã lại ra cách ly hương, ly hương mà có Quyền
Lộc ắt được người nơi xa thưởng thức.
Thiên Lương Hóa Quyền làm việc thành công nhờ lòng thành tín
không phải nhờ thủ đoạn mưu chước. Thiên Lương ngoài tính chất
“Ấm” còn mang theo tính chất “Hình” bởi vậy nên vào lục thân đưa đến
cô khắc nhất là lại có thêm Hóa Quyền. Thiên Lương mà mang tính
chất “Hình” là căn cứ vào lý luận của Tử Vi gia Trung Quốc đưa ra luận
cứ của Nho gia bảo rằng: “Dĩ hình pháp ấm, trị bách tính” nghĩa là lấy
hình pháp để răn đe và che chở trăm họ. Vậy cho nên “Ấm” (che chở)
phải đi với “Hình”.
Thiên Lương vào thê cung người Trung Quốc cho rằng nếu vợ hơn
hai ba tuổi thì tốt, có Hóa Quyền tuổi tác càng cách vời.
Thiên Lương đóng Tử tức mà gặp Linh Hỏa thường hay bị tiểu sản,
có Hóa Quyền điều trên còn nặng hơn. Thiên Lương vào Tật ách đi với
Hóa Quyền dễ mắc chứng tê thấp hay thần kinh thống không hiểm nguy
nhưng kéo dài khó khỏi. Thiên Lương hay bị cảm mạo, nhưng Hóa
Quyền lại chống lại cảm mạo bởi vậy không đau ốm vặt, nay sổ mũi mai
nhức đầu bệnh vớ vẫn.
Thái Âm Hóa Quyền nếu gặp Thiên Cơ Hóa Kị vất cả hơn hoặc
không tự mình làm nhiều tiền chỉ tính toán tiền bạc cho người khác.
Thái Âm Hóa Quyền được Hóa Khoa nhàn thân.
Thái Âm Hóa Quyền thủ mệnh theo các nhà Tử Vi Trung Quốc khi
luận đoán cần phải phối hợp với cung Phúc Đức. Họ nêu lý do sau đây:
Thái Âm có Hóa Quyền cung Phúc mà thấy Cự Môn Hóa Kị, hoặc
Thiên Cơ Hóa Kị những sao này ảnh hưởng đến toàn cục lá số khiến
cho khi điều khiển tài vụ vì cố chấp thiên kiến không thực tế mà hỏng
việc.
Thái Âm Hóa Quyền hội chiếu Thái dương Hóa Khoa do nổ lực mới
lên địa vị khác khác với Thái Âm Hóa Khoa hội chiếu Thái Dương Hóa
Quyền. Nhưng thiếu Hóa Lộc thì vẫn không thể giàu.
Thái Âm Hóa Quyền vào lục thân ảnh hưởng mạnh đối với thân
thích thuộc nữ hơn nam. Nếu vào cung con mà thấy cả Không Kiếp Linh
Hỏa sẽ bất thuận hoặc bị phiền lụy về con gái, vào cung Bào huynh Phụ
Hỏa sẽ bất thuận hoặc bị phiền lụy về con gái, vào cung Bào huynh Phụ
mẫu cũng suy luận tương tự.
Thái Âm Hóa Quyền đóng thê đắc địa vợ giỏi và nắm quyền gia
đình, nhưng hãm mà có Hỏa Linh Không Kiếp cuộc sống lứa đôi không
trọn vẹn. Thái Âm Hóa Quyền đóng tật ách dễ bị chứng suy nhược, thần
kinh quá mẫn mà ưa lo sợ vô cớ
Phá Quân đóng mệnh hay Quan lộc người xưa bảo hợp với nghiệp
võ. Phá Quân Hóa Quyền đứng với Khôi Việt, Tả Hữu, Thiên hình, Thai
Tọa, Quang Quý vinh thân qua võ nghiệp.
Thời nay Phá Quân cũng lợi vào chuyện theo đuổi công nghiệp, chỉ
huy cơ xưởng. Phá Quân không chủ phú, nên có Hóa Quyền thì danh
vẫn hơn lợi.
Phá Quân vốn ưa mạo hiểm, Phá Quân đi cùng Hóa Quyền và
những hung sát tinh khác thường đắc lực với những công tác nguy
hiểm. Tỉ dụ công tác “Lực lượng đặc biệt” chẳng hạn.
Phá Quân Hóa Quyền không gặp hung sát có thể hợp với chính trị.
Phá Quân Hóa Quyền được Liêm Trinh Hóa Lộc lại có cả Tả Hữu thì
hoạnh phát sớm chiều về mặt tiền bạc.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phúc đức bản chất con người
mạo hiểm, thêm Không Kiếp nữa càng xông pha, không những trên
hành động mà trên cả tư tưởng.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phối, lúc yêu thương hết sức
đằm thắm tưởng như chẳng bao giờ rời, rồi đùng một cái đột biến phân
ly, có Địa Kiếp càng mau rã gánh.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung con, khắc con, thêm Địa Kiếp con
cái bất hiếu. Phá Quân Hóa Quyền đóng tật ách gặp Thiên Hình dễ bị
giải phẩu do bạo bệnh
1. Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh
ấy mà kiếm tiền. Tỉ dụ một nhà kinh tế gia được mời cai quản,
tính thị trường cho hãng sản xuất
2. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi
từ đấy có đà phát triển
Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu.
Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái
Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn
chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.
Nếu Vũ Quyền gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất
ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa
Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương.
Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái
Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái
Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng
gần chứ không xa.
Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa
cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng
cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên
thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ
kẻ thù đỡ kẻ ghét.
Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng
thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc
Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai
dòng nhưng con cái đa năng.
Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng
có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia
đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi
chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.
HÓA KHOA - T Ử VI
Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay
vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm
đủ văn võ triều đình.
Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ
thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người
có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.
Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa
tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.
Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ
biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho
lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.
Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài
tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì
cuộc sống yên hơn.
Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung
Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha
mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào
cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải
biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải
săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.
Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc,
Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần
bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh
hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.
Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái
Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến
Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến
lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn
nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương
hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.
Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương
Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực
hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành
giàu có.
Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa
Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm
thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.
Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng
cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa
Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang
họa vào thân.
Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương
Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có
danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa
vào mình mà vượt trội lên hơn mình.
Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành
ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở
buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.
Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng
với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự).
Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không
bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập
bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập
tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà
gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.
Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng
Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão
Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to
tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người
khinh bạc khó thành đại sự”
Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng
mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại
tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh
Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè
bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung
thực.
Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm
thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.
Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng
với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.
Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu
gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ
trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp
trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp
Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.
Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh
như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.
Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn
bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một
khế ước mà có tiền.
Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng.
Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con
người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.
Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều
hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh
nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn
trống tế lễ.
Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con
người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình
ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh
tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.
Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh
tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm
hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ
hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ
nhặt.
Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý
phụ tá đắc lực. Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ
thành công.
Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên
Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng,
bông lông.
Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha
mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ
bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.
Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị
lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa
Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm
không đúng
Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi,
tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành
danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng
ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.
Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng
thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với
hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh
đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ.
Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình
trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.
Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương
thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng
chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có
Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức
nghiệp thì hơn.
Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư.
Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể
luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.
Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền,
hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về
thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.
Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng
đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử
Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi
còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.
Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với
Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham,
Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham,
quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên
Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc
Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết
điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.
Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn
người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn
từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại
ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành
động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng
hành động đắc lực.
Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc
đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì
trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không
còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm
ngầm.
Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc
giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để
vinh thân.
Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên.
Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra
con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng
biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con
người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người
này quá lớn.
Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa
Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa
kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc.
Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được
người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến
ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.
Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn.
Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng
Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh
là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với
điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng
Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.
Thái Dương Hóa Kị dở, hay cũng còn tùy thuộc những sát tinh đi
kèm. Thái Dương Hóa Kị không gặp sát tinh lại được Tả Hữu thì gian
lao phấn đấu mà nên đại nghiệp như làm chính trị hoặc phấn phát
mạnh rồi nhiều kẻ ganh ghét. Còn như gặp nhiều sát tinh kèm vào thì
phiền lắm. Chẳng những thị phi chiêu oán mà còn bị họa nạn.
Cách Cự Nhật có Hóa Kị không phải là dở nếu được Lộc Tồn đứng
cùng, vào ngành ngoại giao pháp luật, làm quảng cáo, bán hàng càng
cạnh tranh càng thành công.
Trường hợp Thái Dương Ngọ cung dù có Lộc Tồn mà thấy Hóa Kị
thì cao danh vọng lắm đầy gian nan nhiều, bị vận xấu xuống đến đất
đen.
Thái Dương đứng với Hóa Kị nếu có Không Kiếp Tuần Triệt đi rao
giảng tôn giáo sẽ gây thanh vọng. Thái Dương Hóa Kị mà bị Kình
Dương Thiên Hình hay bị kiện tụng hoặc bị chạm chán với luật pháp.
Thái Dương Hóa Kị vào cung lục thân đều không hay, nhất là đối
với người sinh vào ban đêm, nếu có cả sát tinh nữa thì sinh ly tử biệt.
Mệnh nữ mà có Thái Dương Hóa Kị ở Phu phải mấy bận dỡ dang, bị
cướp chồng hay đi cướp chồng người, thêm Đào Hoa điều trên nặng
nữa.
Cung Phụ mẫu xuất hiện Thái Dương Hóa Kị không thuận với cha
mẹ, hoặc hay bị kẻ trên nghi ngờ và chèn ép. Thái Dương Hóa Kị vào
Tật ách bệnh về thận, về đường tiểu hoặc bệnh mắt. Thái Dương Hóa
Kị đóng mệnh cũng thấy Riêu Hình nếu Thái Dương hãm có thể bị mù.
Thái Dương Hóa Kị hãm cung vào Tật ách của số nữ hoặc đóng cung
Tử tức có trở ngại trong vấn đề sinh sản.
Liêm Trinh Hóa Kị gặp Đào Hoa nhiều phiền lụy trên luyến ái. Nữ
mạng Liêm Trinh Hóa Kị có cả Xương hay Khúc ắt phải rỏ lệ thương
tâm
Liêm Trinh Hóa Kị đứng cung Tài bạch là triệu chứng tiêu hao tiền
Liêm Trinh Hóa Kị đứng cung Tài bạch là triệu chứng tiêu hao tiền
bạc do một quan hệ tình duyên. Tỉ dụ vợ ly dị phải chia của. Tỉ dụ: Vì lấy
vợ mà bị rút một phần của cải gia tài. Như vậy, ngay ở cả Tài bạch, Liêm
Trinh vẫn dính líu đến vấn đề huyết duyên. Bởi thế, thấy Liêm Trinh Hóa
Kị thì hãy cứ đặt căn bản trên huyết duyên mà luận đoán.
Liêm Kị đóng vào cung lục thân thì luôn luôn bất hòa, với bố mẹ,
với anh em, với bạn bè, với vợ con. Liêm Trinh không Hóa Kị mà có
Xương Khúc vào vận hạn có thể đoán là một tin vui như đẻ con, phục
hồi sức khỏe, việc lấy vợ lấy chồng của những người thân. Liêm Trinh
Hóa Kị đóng Tật ách khi bệnh hoạn dễ đưa đến giải phẩu.
Hóa KỊ - T hái Âm
Thái Âm không ngại Hóa Kị như Thái Dương. Vì lẽ Thái Âm chủ ẩn
tàng cùng chất với Hóa Kị. Thái Âm gặp Hóa Kị không bị tình cảnh oán
ghét như Thái Dương. Có thể mang một tâm trạng đau buồn nào đó,
không do áp lực từ bên ngoài. Khi chỉ là chuyện nội tâm thì cũng dễ
khắc phục.
Thái Âm đắc địa ở Dậu có Hóa Kị lại biến thành đám mây ngũ sắc.
Nhưng Thái Âm ở Mão hãm không tốt. Nhất là bị Kình Đà hiệp Kị nguy
hiểm. Thái Âm Hóa Kị ở hãm cung đóng Tài bạch đầu tư thường thua
thiệt do thiếu sáng suốt, tính toán không kỹ.
Riêng Thái Âm Hợi mà có Hóa Kị thì ban đầu dù khó khăn nhưng
cuối cùng lại hết sức thuận lợi bởi những đột biến không ngờ. Thái Âm
chủ ẩn tàng có khuynh hướng tinh thần hơn Thái Dương chỉ chú ý đến
bộc lộ thực tế.
Thái Âm Hóa Kị nếu thêm sát tinh thành ra một khuyết hãm trên
tinh thần. Cho nên Thái Âm Hóa Kị không nên đóng cung Phúc Đức
nhất là đối với nữ mạng. Thái Âm Hóa Kị tại Phúc đức, người con gái ý
chí yếu đuối dễ bị đường mật dụ dỗ lường gạt mà một lần sa chân
thành thiên cổ hận.
Thái Âm Hóa Kị ở cung Phúc lại thấy cả Xương Khúc Đào Hoa có
thể đoán là số hồng nhan bạc mệnh. Thái Âm tại Tị vào đất hãm gặp
Cự Đồng cung Sửu, tình tự càng bối rối có thể vì xung động nhất thời
mà ảnh hưởng đến cả một đời.
Thái Âm Hóa Kị nếu có họa thì thường do mình khởi lên, khác với
Thái Dương Hóa Kị là bị ngoại cảnh người đời ganh ghét. Thái Âm Hóa
Kị ở thế hãm đóng lục thân cung mà lại là người sinh ban ngày thì hoàn
toàn vô duyên với lục thân.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc bảo: Thái Âm Hóa Kị đóng cung Thân
(Mệnh thân) là mẹ hay cha mất sớm từ lúc còn nằm nôi, nếu có cả Linh
Hỏa càng mau. Thái Âm Hóa Kị đóng cung Nô bộc bị hại ngầm bởi bạn
bè, người trên, người đồng liêu, thủ hạ. Thái Âm Hóa Kị đóng tật ách
hay mệnh ở hãm địa phải đề phòng đôi mắt.
Hóa KỊ - CỰ Môn
Cự Môn chủ khẩu thiệt gặp Hóa Kị càng tăng thêm cái phiền cái
họa về khẩu thiệt còn đưa đến kiện tụng cò bót. Cự Môn Hóa Kị mệnh
cung thành cặp hung thần làm cho bị thương, bị giải phẫu.
Cự Kị đóng mệnh thêm sát tinh ngay từ lúc nhỏ đã thấy, đã gặp
những điều đắng cay như mồ côi, bố mẹ phân ly… Cự Kị Hồng Đào, vợ
chồng chia lìa. Cự Kị đóng Tài bạch làm ông giáo, làm người bán hàng
mà có thêm Hóa Lộc thì nhờ nói mà ra tiền.
Mệnh cung Cự Kỵ không thêm sát tinh, có Quyền Lộc không nên
xuất đầu lộ diện đừng thích hư danh sẽ yên ổn mà ngấm ngầm tiến tới
thành công. Cự Môn tuy là cái miệng nhưng hễ thấy Hóa Kị thì đừng
nên làm kịch sỹ hay ca sỹ để hứng chịu la ó của khán thính giả.
Cự Kị đắc địa được Hình Quyền làm thầy kiện đắc lực, hoặc điều
khiển cơ quan mật vụ cũng hay. Tất cả chỉ vì Cự Môn là ám diệu mà
Hóa Kị lại chủ ẩn mật tiềm tàng.
Cự Kị đóng Phụ mẫu gặp Hình hay Đà không thể gần gũi hòa hợp
với cha mẹ. Cung Phu thê rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị thế nào cũng tan
với cha mẹ. Cung Phu thê rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị thế nào cũng tan
vỡ. Có cả Đào Hoa nữa thì thành tình tay ba.
Cung Bào huynh Cự Kị khó lòng hợp tác với ai mà yên lành. Cự Kị
vào cung Tật ách bị bệnh thần kinh hay xương tủy. Cự Môn cũng là ống
thực quản từ miệng trôi vào dạ dày cũng đưa đến bệnh về yết hầu.
Lập luận trên có phần nào ngã theo lập luận Hóa Kị phải đứng với
Thiên Đồng ở tuổi Canh, nhưng đặt căn bản trên sự hợp lý của an sao.
Không hẳn vì đã vững vì tứ Hóa không một Hóa nào được an với Thất
Sát, trong khi an bốn lần với Vũ Khúc, một lần với Thiên Phủ, hai lần với
Tử Vi…, Xương Khúc đi với Tứ Hóa hai lần, mà Tả Hữu một bận sánh
vai với Hóa Khoa trong khi Thái Âm có mặt bốn lần bên Tứ Hóa, nếu kể
thêm cả tuổi Canh là năm. Vậy rõ ràng Tứ Hóa không an theo lối chia
đều. Thật ra ta không tìm thấy được lý do tại sao cổ nhân căn cứ vào
đâu mà an Tứ Hóa cho thập can như vậy ?
Khi Thiên Đồng phải đi với Hóa Kị thì không bao giờ Thiên Đồng
còn đi với Hóa Khoa nữa. Ở đây tôi vẫn biên chép những luận cứ về
Đồng Kị kèm với Đồng Khoa để độc giả tự phán xét lấy. Ngoài ra nếu
đưa Thiên Đồng đến bên Hóa Kị thì Thái Âm sẽ có hai bận đứng chung
với Hóa Khoa thì sao ?
Đồng Kị đóng mệnh luôn luôn tâm ý thống khổ. Đồng Kị vào Phúc
đức cung cũng vậy, tâm ý phiền muộn. Nhưng Thiên Đồng Hóa Kị cung
Phúc đức mà có Không Kiếp lại biến ra cách khác hẳn, có những sáng
Phúc đức mà có Không Kiếp lại biến ra cách khác hẳn, có những sáng
kiến độc đáo, mưu chước khôn lường. Nếu lại có cả Âm Sát Thiên riêu
sẽ thành một tay đại gian hùng.
Đồng Kị đóng lục thân không cung nào được xem là tốt đẹp. Đồng
Kị vào tật ách bệnh kéo dài khó khỏi, ảnh hưởng đến sự hưởng thụ cho
cuộc sống.
Hóa KỊ - T hiên Cơ
Thiên Cơ là sao của mưu tinh kế hoạch, Hóa Kị chủ ẩn tàng và âm
thầm. Thiên Cơ Hóa Kị kể là thái quá thành ra mưu thâm họa diệc
thâm. Trong sách Hồng Lâu Mộng có câu:
Nghĩa là tính toán âm thầm bằng trí tuệ cao siêu, rút cuộc đưa đến
cái chết cho chính mình. Bởi thế Cơ Kị đóng mệnh hay phúc đức nếu
vào doanh thương có ngày nhầm chỉ một lần mà mất hết cơ nghiệp.
Người Cơ Kị hay sống thanh thản bình thường, mọi sự phó thác
cho số mệnh ung dung mà thành công. Nói tóm lại là đừng dùng mưu
kế nhiều. Cái ưu điểm của Thiên Cơ là quyền biến, nhưng khuyết điểm
cũng nằm trong quyền biến ấy. Vì quá thông minh quyền biến nên đôi
lúc thành ra kẻ hoạt đầu khiến người nghi kị. Như Nguyễn Hữu Chỉnh
trong bụng đầy mưu cơ cuối cùng bị Tây Sơn bỏ rơi mà chết giữa biển.
Thiên Cơ Hóa Kị đóng Tật ách hay bị mất ngủ, thần kinh suy
nhược, mất trí nhớ. Thiên Cơ Hóa Kị cũng dễ bị bệnh gan, ưu tư suy
nghĩ nhiều ắt gan hư.
Hóa KỊ - Vũ Khúc
Vũ Khúc là tài tinh. Vũ Khúc Hóa Kị đi với nhau là làm ăn dung dị
phấn phát, nhưng kèm theo sự phấn phát là những phiền lụy. Tỉ dụ sa
thải người mà bị người oán; phải cạnh tranh mà mất lòng người; làm
việc mà đồng liêu ganh ghét; vùi đầu vào công tác quên cả vợ con khiến
vợ con xa cách.
Vũ Kị đóng Mệnh hay Tài bạch chỉ có làm chuyên viên giỏi nghề
nghiệp là yên ổn. Vũ Kị sợ thấy Không Kiếp làm cho hao tổn tiền tài qua
lừa gạt.
Cách Vũ Kị Linh Xương Đà đóng Phúc đức cung đưa đến tư tưởng
cực đoan làm hỏng đời mình kiểu Robespierre của Cách mạng Pháp.
Vũ Kị vào cung Lục thân mà có cả hình sát tinh nữa thì những
người thân có ai bị phá sản. Riêng đóng Thê cung, vợ phá của. Vũ Kị
đóng Tật ách thường bị bướu mà phải giải phẫu.
Tham Lang Hóa Kị đắc địa lại hội thêm được cát tinh, đôi khi chỉ
nói bâng quơ mà ra cơ hội, chỉ làm chơi mà ăn thiệt, chỉ ném hạt cam
xuống đất không có ý trồng mà nên cây.
Tham Lang Hóa Kị đứng với Linh Tinh hay gặp Linh Hỏa dễ hoạnh
phát bạo phát. Không sát tinh mọi chuyện hanh thông như trò giỡn. Có
sát tinh bạo phát bạo tàn. Sát như Kình Đà Không Kiếp, Thiên Hình.
Tham Kị đi với Đào Hoa Văn Xương tạo thành tranh đoạt trên tình
trường. Nữ mạng mà bị đặt vào sự tranh đoạt ở tình trường thì chẳng có
thể nào mà tốt lành được.
Trường hợp Hóa Kị đứng với Tham Lang mà bị giáp Kình Đà hoặc
tam hợp Kình Đà thành ra cách Dương Đà Kiếp Kị ra đời luôn luôn ở
vào bị động, có danh có chức chăng nữa cũng chỉ là hư danh rồi một
ngày nào đó rơi vào cảnh quyền rơm vạ đá.
Tham Lang Hóa Kị đóng Phúc đức hay Phu thê cung trong lòng ẩn
dấu nổi đau thương mà không nói ra được. Tham Lang Hóa Kị cùng
Linh Hỏa vào lục thân chủ về phân ly trong một thời gian nào đó.
Tham Lang Hóa Kị đứng với Đà La đóng Tử tức hay Bào huynh khó
hòa hợp, tư tưởng nếp sống hoàn toàn bất đồng. Tham Lang Hóa Kị
đóng Nô bộc hay bị tay chân thủ hạ phản bội hoặc cạnh tranh. Tham
Lang Hóa Kị đóng Tật ách số nữ bệnh về bộ phận sanh đẻ.
Hóa KỊ - Văn Xương
Với người tuổi Tân, khi Văn Xương gặp Hóa Kị thì Văn Khúc lại
đứng với Hóa Khoa (an theo Cự Nhật Khúc Xương). Cả hai hội tụ mà
vào mệnh tất gặp Cự Môn, Cự Kị gây cản trở nên dù có Xương Khúc
Hóa Khoa học vấn cũng không thể thành công đến tuyệt đỉnh mà
chuyển thành cách dị lộ công danh. Dị lộ đường đi quanh co vất vả hơn,
cuộc đời lận đận hơn.
Văn Xương Hóa Kị cũng đưa đến tình trạng không tựu được vào
khoa danh để dành quyền chức. Hoặc thành tựu một nấc khoa danh
nào đó mà chẳng được dùng đến. Đỗ Luật, đỗ Văn chương rồi động
viên làm cai đội. Chẳng đỗ gì đăng lính rồi lên tướng.
Xương Kị đứng với Không Kiếp hay gặp Không Kiếp rất không tốt
khi vào Tài bạch cung, chổ dung thân thường bị phá sản, hoặc do
nhầm lẫn của chính mình mà gây thành sự phiền hà trên tiền bạc.
Người Xương Kị cũng thường bị thất ước, cho người vay mượn mà
người không trả mình, vay mượn của ai mà mình nhỡ nhàng không trả
nổi hay không trả được đúng định kỳ.
Xương Kị là sự thất ước, đứng với Đào Hồng, nam hay nữ hay bị
lừa gạt trên tình ái. Xương Kị vào vận hạn, mong ngóng một tin tức, một
lời hứa đều bị cuội.
Xương Kị đóng lục thân chủ sơ ly, nếu lưu niên vận hạn vào cung
Phụ mẫu mà gặp Xương Kị lại thấy các sát tinh khác nữa thì có tang tóc.
Xương Kị đóng Phu thê cung nên vợ nên chồng tự nhiên, không
hôn lễ hoặc không được đồng ý của hai bên cha mẹ. Cung Nô có
Xương Kị đứng cùng các sát tinh thường bị liên lụy vì kẻ dưới. Vào cung
Bào anh em bất hòa.
Xương Kị đóng tật ách hay bị loang, thẹo, đứng với Nhật Nguyệt có
cườm mắt hay mắt kéo màng.
Hóa KỊ - Văn Khúc
Văn Khúc Hóa Kị cũng như Văn Xương Hóa Kị dễ bị thất hứa,
nhưng Văn Khúc vốn chủ về lời không như Vũ Khúc vốn chủ về tờ chữ.
Khúc Kị ưa ngôn quá kỳ thực, vận hạn vào Khúc Kị bị gạt gẫm bởi
những lời hứa hảo, những kế hoạch ba hoa. Khúc Kị đóng cung Phúc
đức thường vì thị tài mà thất bại. Cự Môn gặp Khúc Kị thì đôi khi lại vì tai
tiếng mà nổi danh, mà danh tốt chứ không phải danh xấu.
Khúc Kị vào các cung lục thân cũng như Văn Xương Hóa Kị kể là
không tốt. Khúc Kị vào Phối cung hay xa chồng xa vợ, hoặc lúc cưới,
chồng hoặc vợ vắng mặt. Khúc Kị cùng đóng cung Tật ách với Phá
Quân số bị thủy ách. Thủy ách gồm có đi mưa mà sưng phổi, đắm
thuyền, bơi lội đuối sức.
Những lời luận đoán về Tứ Hóa trên đây là căn cứ vào bố trí đồng
cung không phải tính qua tam hợp. Tỉ dụ Cự Môn đóng Tý mà đứng bên
Hóa Kị ở Mệnh cũng Tí (hay Phúc đức, Quan lộc) thì Kị không thành
hung thần, nhưng nếu Cự Môn Tí mà gặp Hóa Kị theo thế tam hợp
hoặc xung chiếu thì lại phiền.
- Tam Hóa liên châu phúc tất trùng lai (có ba Hóa đi liền ba cung
mà Mệnh hoặc Thân đóng một trong ba cung đó thì phúc đến miên
trường)
- Ngọ thượng Khoa Quyền biên cương nhậm trọng (Mệnh tại Ngọ
- Ngọ thượng Khoa Quyền biên cương nhậm trọng (Mệnh tại Ngọ
hoặc Quan Lộc tại Ngọ mà có Khoa Quyền nắm quyền bính nơi
biên ải)
- Khoa Quyền củng bất như lâm viên (Khoa Quyền chiếu không
bằng đóng tại Mệnh)
- Khoa Quyền nhập Mệnh tuy lạc nhàn diệc hữu hiển danh (ở
Mệnh có Khoa Quyền tuy Khoa Quyền ở nhàn cung thì vẫn có địa vị)
- Hóa Khoa đồng văn diệu đề bảng chi vinh (Hóa Khoa đứng với
Khôi Việt Xương Khúc học hành thành đạt)
- Hóa Khoa tối vi kỳ; vật hướng Thiên Thương nhi ám hối (Hóa
Khoa rất tốt, nhưng kị đóng vào cung Nô việc học hành lận đận)
- Khoa Quyền nhân Khôi Việt dĩ thành công (Khoa Quyền cần Khôi
Việt để thành công)
- Khoa Quyền Lộc hợp phú quí (có Khoa Quyền Lộc thủ chiếu
Mệnh không bị hung sát tinh tất giàu sang)
- Khoa Mệnh, Quyền triều đăng dung giáp đệ (Khoa đóng Mệnh,
Quyền xung chiếu dễ đỗ đạt cao)
- Khoa danh hãm ư hung thần miêu nhi bất tú (Hóa Khoa bị Không
Kiếp Kình Đà thông minh tài cán mà lận đận)
- Khoa Quyền Lộc vọng, danh dự chiêu chương (thủ chiếu có Khoa
Quyền Lộc nên danh nên giá)
- Khoa Minh Lộc Ám vị liệt tam đài (Mệnh Hóa Khoa cung nhị hợp
có Lộc là người chức vị)
- Quyền Khốc đồng cung minh danh vu thế (Mệnh Hóa Quyền
đứng cùng Thiên Khốc tại Tí hay Ngọ danh vọng hơn người)
- Quyền Lộc đồng cung định tác cơ thương chi nghiệp (Quyền Lộc
tụ vào Mệnh cung buôn bán làm giàu)
- Quyền Lộc thủ Tài Phúc chi vị sử thế vinh hoa (Quyền Lộc đóng
cung Tài cung Phúc cuộc đời vinh hoa)
- Quyền Lộc cát tinh Nô Bộc vị, túng nhiên quan quí dã bôn ba
(Quyền Lộc đóng cung Nô có làm quan cũng thăng trầm)
- Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị (Quyền Lộc
đóng Tài Bạch, Quan Lộc cuộc đời vinh hiển)
- Mệnh phùng Hóa Lộc vô hung tinh, tài lộc phong dinh (Mệnh có
Hóa Lộc mà không gặp hung sát tinh tiền tài sung túc)
- Lộc Quyền Mệnh phùng, kiêm hợp cát oai quyền yếm chúng
tướng vương triều (Mệnh có Lộc Quyền lại hội tụ các sao tốt khác
thì chức cao quyền trọng)
- Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng mộ trung tàng (Hóa Lộc là tốt,
nhưng đóng vào Thìn Tuất Sửu Mùi giảm tốt đi vì Lộc đóng những
cung này ví như kho tàng còn chôn trong lòng đất)
- Hóa Lộc cư Dần Mão cố thủ tham tài (Hóa Lộc đóng Dần hay Mão
yêu tiền tham của và giữ của kỹ càng)
- Hóa Kị văn nhân bất nại (Xương Khúc gặp Hóa Kị học giỏi nhưng
lận đận công danh)
- Hóa Kị Điền Tài phản vi giai luận (Hóa Kị đóng cung Tài Bạch,
Điền Trạch được xem là tốt)
- Mệnh cung Hóa Kị gia Thiên Không chung nhật hư tư hiền phụ
(Mệnh Hóa Kị đứng với Thiên Không lòng không ngớt nghi ngờ vợ
hiền)
hiền)
- Hóa Kị ngộ Phục Binh ư Thê Thiếp hốt oán hốt thân (cung Phu
Thê có Hóa Kị Phục Binh nay giận mai hòa)
- Kị ngộ Khoa tinh ư Hợi Tí ngôn hành danh thuận (Hóa Kị gặp
Hóa Khoa ở hai cung Hợi Tí là người cẩn thận lời nói)
- Hóa Kị Tí cung, Khoa Lương thủ chiếu quân dân sủng ái (Mệnh
Hóa Kị đứng cùng Hóa Khoa hội chiếu Thiên Lương là người đức
độ, liêm chính dễ được mến mộ)
- Tam Kỳ giao hội mạc ngộ Kị Kình giáng lộ thanh vân (Mệnh hay
Thân Khoa Quyền Lộc mà gặp luôn cả Hóa Kị Kình Dương thì lại
thăng giáng vô thường)
- Song Lộc cư nhi ngộ Cơ Lương phú gia dịch quốc (Mệnh Thiên
Cơ Thiên Lương có Song Lộc giàu có lớn)
- Mệnh vô chính diệu hoan ngộ Tam Không hưu song Lộc phú quí
khả kỳ (Mệnh không chính tinh, được ba Không mà có cả hai sao
Lộc là số phú quí)
- Hóa Lộc Tí Ngọ vị thiên di, Phu Tử văn chương cái thế (Thiên Di
đóng Tí Ngọ mà có song Lộc là người nổi tiếng về tài học)
- Hóa Lộc hoàn vi hảo, nhược cư Mộ địa dị tăng bi (Hóa Lộc đóng
ở các cung tứ Mộ kém hay)
- Lộc triền ư nhược địa, Mệnh bất chủ tài (Hóa Lộc đóng với các
chủ tinh trong thế hãm thì hoa nhi bất thực, trong đom đóm ngoài
bó đuốc)
- Song Lộc lưỡng ngộ, Thái công vũ lược siêu quần (Mệnh có song
Lộc là người tài giỏi bất cứ vào lĩnh vực nào)
- Số muộn màng gái trai ôm ẵm
Vì Kị Đà len lỏi cung con
- Kị Đà Thái Tuế Thân cung
- Kị Đà Thái Tuế Thân cung
Khỏi nạn nào được ung dung mấy người
- Mệnh Hóa Kị, Tật Mộc thần
Âm nang sa thấp một phân chẳng nhầm
- Đà Kị Tật Ách trùng gia
Âm hư chứng ấy tất là hiếm con
(Cung Tật Ách có Đà Kị)
- Cự Kị Mộ cung nhi giao Đà Hổ xa mã hạn hành (Hạn đến Cự
Môn Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp luôn cả Hóa Kị, Bạch Hổ, Đà La bị
tai nạn xe cộ té ngã)
- Quyền Lộc trùng phùng, sát tấu hư dự chi long (Mệnh có Quyền
Lộc mà bị sát tinh kèm thì hữu danh vô thực
- Hóa Quyền ngộ Dương Đà Không Kiếp, thính sàm di lụy, quan tai
biếm chích (Hóa Quyền mà gặp Kình Đà Không Kiếp bị mất chức vì
hay nghe lời nịnh hót vu oan giá họa)
- Hóa Khoa hiềm phùng Triệt Không, Tuần Không, Thiên Không
(Hóa Khoa không nên gặp Tuần Triệt Thiên Không)
- Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn (Khoa Quyền một
thủ một xung chiếu, như cá hóa long công danh đằng đạt)
- Hóa Kị tại Mệnh Thân cung nhất sinh bất thuận (Hóa Kị đóng
Mệnh hay Thân cả đời khó toại chí)
- Chư tinh tại miếu, vượng địa Hóa Kị bất kị (Chư tinh đóng miếu
vượng gặp Hóa Kị ở vượng địa Hóa Kị không tác hại)
- Thiên Đồng tại Tuất, Hóa Kị Đinh nhân hóa cát (Thiên Đồng đóng
Tuất, gặp Hóa Kị người tuổi Đinh lại hay)
- Cự Môn tại Thìn Hóa Kị, Tân nhân phản vi giai (Cự Môn thủ Mệnh
tại Thìn có Hóa Kị lại thành hay)
- Nhật Nguyệt miếu, Hóa Kị vi phúc (Nhật Nguyệt đắc địa có Hóa
Kị lại chuyển tốt)
- Nhật Nguyệt hãm Hóa Kị đại hung (Thái Âm Thái Dương đóng
cung hãm mà có Hóa Kị rất hung)
- Chư tinh tại hãm địa Hóa Kị thậm kị (Các sao chủ ở hãm địa mà
gặp Hóa Kị càng kị)
- Liêm Trinh tại hãm địa, Hóa Kị cánh kị (Liêm Trinh ở đất hãm bị
Hóa Kị càng đáng ngại hơn)
TỬ VI TINH ĐIỂN
Phương là gì? Phương gồm có bản phương ngay tại cung mệnh.
Đối phương là cung Thiên di (đối xung). Hợp phương là cung Tam hợp.
Lân phương là hai cung giáp Mệnh. Cổ nhân đưa ra mười phương
pháp:
1. Bản phương tốt đẹp như sức lực tự mình (Do nội lực cường)
2. Đối phương tốt đẹp như ví như được gió xuân thổi tới (Nghinh
diện xuân phong)
3. Hợp phương tốt đẹp ví như những nguồn giúp đỡ kèm bên
(Tả Hữu phùng nguyên)
4. Lân phương tốt đẹp ví như có phe cánh trợ lực (Lưỡng lân
tương phù)
5. Cung lẫn phương đều tốt đẹp ví như cả ngàn mau mắn chầu
về (Thiên tường vân tụ)
7. Đối phương xấu hung ví như giơ đầu chịu búa (Đương đầu ác
bổng)
8. Hợp phương xấu hung ví như bị đánh hai mặt (Tả Hữu thụ
địch)
9. Lân phương xấu hung giống như nhiều phe thù ghét (Luỗng
lân tương vũ)
10. Phương, cung đều hung xấu ví như khắp nơi bị công hãm
(Tứ diện sở ca)
Quan Phương Thập Dụ cổ nhân muốn nói đến nguyên tắc căn bản
để cân đo luận đoán một lá số. Rồi người xưa lại đặt bài thơ như sau:
Ý bài thơ nói rằng: Khi vào thế Tứ diện Sở ca thì thế nào cũng thất
bại. Số mà Thiên tường vân tập sớm muộn gì cũng thành công. Sức
mạnh của lá số chủ yếu là tự cường (Mệnh cung đầy đủ lực lượng)
trước đã, hợp phương có tốt chỉ là gấm thêm hoa. Những sao chiếu
theo tam hợp và đối phương là những sức phò trợ đáng kể. Nhưng sức
phò trợ ấy mà gặp mệnh bị mất rễ cũng vô ích. Các cung giáp mệnh dù
cho xấu chăng nữa mà mệnh có nội lực tự cường thì chẳng sao. Nhược
bằng mệnh ở tình trạng “Tòng căn tự phạt” thì dù có tránh được búc thì
rồi cũng bị tràn ngập bị vây hãm hủy diệt mà thôi.
Quan Phương Thập Dụ đặt trọng tâm luận đoán vào Mệnh cung.
Trước nhất mệnh phải mạnh đã. Mệnh yếu dù các phương khác có hay
cũng chỉ bình thường. Như vậy câu: Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân
hảo bất như Vận hảo không toàn hoàn chính xác.
Nếu mệnh xấu mà vận có thật tốt chăng nữa, mọi sự thành công
cũng chỉ là hư hoa. Không ai Mệnh xấu, vận hay mà gây được cơ
nghiệp đáng kể bao giờ.
Mệnh cung tự cường, mới hưởng được cái tốt của Quan Lộc, Tài
bạch. Chuyển sang vận thì vận chỉ tốt khi cung Đại vận có nội lực tự
cường đã rồi mới tính đến tam hợp, hay đối phương hoặc lân phương.
Tỉ dị vận đến cung có Cự Đồng, dù tam phương hay xung chiếu được
Khoa Quyền Lộc cũng không hay bao nhiêu.
Đến như quan hệ Mệnh với Thân, cũng vẫn tiếp tục phải kể mệnh
làm chủ yếu. Mệnh mà tòng căn tự phạt thì dù Thân có Thiên tường vân
tập cũng chẳng nên công trạng to tát.
* Tử Phủ đồng độ - Tử Vi Thiên Phủ tại Dần Thân không hung sát
tinh hay Tuần Triệt.
* Vũ Tham đồng độ - Vũ Khúc Tham Lang đồng cung hoặc một thủ,
một chiếu. Cách này cần được Linh hay Hỏa mới hay.
* Tướng tinh đắc địa – Vũ Khúc tại miếu vượng thủ mệnh.
* Phủ Tướng triều viên – Thiên Phủ, Thiên Tướng đắc địa chiếu
mệnh.
* Cơ Lương gia hội – Cơ Lương Thìn Tuất gặp Lộc Khoa hay Lộc
Quyền hay song Lộc.
* Nhật chiếu Lôi môn – Thái Dương tại Mão thủ Mệnh mà sinh ban
ngày.
* Nguyệt lãng Thiên môn – Thái Âm thủ mệnh tại Hợi mà sinh ban
đêm.
* Nhật Nguyệt đồng minh – Mệnh Sửu Mùi Âm Dương Hợi Mão
hoặc Tị Dậu.
* Tam hợp Hóa Tham – Tham Lang đắc địa tam hợp gặp Hỏa hay
Linh Tinh.
* Hóa tinh ngộ quý – Tứ Hóa hợp với sao thủ mệnh như Thiên
Đồng tại Tuất mà tuổi Đinh – Cự Môn đóng Thìn mà tuổi Tân.
* Thọ tinh nhập miếu – Thiên Lương đóng Ngọ không sát hung.
* Thất Sát triều đẩu – Thất Sát đóng cung Thân hay Dần.
* Anh tinh nhập miếu – Phá Quân thủ mệnh tại Tý Ngọ.
* Văn Lương chấn kỷ - Thiên Lương Văn Khúc thủ mệnh tại vượng
địa.
* Văn tinh ám củng – Xương Khúc thủ mệnh hay chiếu mệnh.
* Tả Hữu đồng lâm – Tả phụ Hữu Bật đồng cung tại mệnh.
* Tam kỳ gia hội – Hội tụ vào Mệnh cung đủ bộ Khoa Quyền Lộc tức
là tam hợp chiếu.
* Tả Hữu Khoa viên – Mệnh Tả Hữu đứng bên Hóa Khoa hoặc
Khoa chiếu.
* Văn quế Văn hoa – Mệnh Sửu Mùi gặp Xương Khúc đồng cung.
* Lộc hợp uyên ương – Mệnh có song Lộc thủ hoặc thủ chiếu.
* Nhị diệu đồng lâm – Mệnh ở Mùi có Nhật Nguyệt từ Sửu chiếu
* Nhị diệu đồng lâm – Mệnh ở Mùi có Nhật Nguyệt từ Sửu chiếu
hoặc mệnh đóng Sửu có Nhật Nguyệt từ Mùi chiếu.
* Đan trì quế trì – Mệnh Thái dương ở Thìn Tị, Thái Âm Dậu Tuất
xung chiếu.
* Giáp đệ đăng dung – Hóa Khoa thủ mệnh với các cát tinh khác.
* Khoa danh hội Lộc – Hóa Khoa Hóa Lộc chiếu mệnh.
* Quyền Sát Hóa Lộc cách – Kình Đà đắc địa, Linh Hỏa đắc địa
đứng với Hóa Lộc.
* Mệnh võng Tị Hợi – Thiên Cơ thủ mệnh tại Tị hay Hợi mà đứng
cùng hung sát tinh.
* Khoa tinh phùng phá – Mệnh Hóa Khoa nhưng lại thấy Không
Kiếp Kình Đà Linh Hỏa hãm xung phá.
Những cách cục trên đây, cổ nhân chỉ nói cung Mệnh thôi. Vậy thì
Những cách cục trên đây, cổ nhân chỉ nói cung Mệnh thôi. Vậy thì
mệnh cung vẫn là chủ yếu cho việc luận đoán lá số. Cũng như khoa Tử
Bình, Can Chi của ngày sinh được xem là trọng tâm cho sự xoay
chuyển ngũ hành từ Năm Tháng Giờ.
Qua những cách cục trên, ta thấy một vài điều không ổn sau
đây:
Cách mệnh Vô chính diệu bị liệt vào hàng bất hợp cách, theo kinh
nghiệm mệnh Vô chính diệu là một cách hợp còn là cách tốt tùy thuộc
phụ tinh nào đứng đó. Tỉ dụ Kình dương độc thủ hay Đà la độc thủ hoặc
Linh Hỏa đắc địa độc thủ, đâu phải là cách dở hay bất hợp cách.
Về cách Phủ Tướng triều viên không nói rõ ràng, vì Phủ Tướng
đứng một mình thường chầu vào mệnh vô chính diệu. Phủ Tướng triều
viên đây hẳn là Phủ đứng với Liêm và Tướng đứng với Vũ Khúc.
Phủ Tướng đơn độc chầu mệnh chỉ là cách bình thường không
đáng kể, tốt với nữ mạng hơn nam mạng. Phủ Tướng đứng riêng chầu
mệnh thì đương nhiên cung Thiên di là Vũ Tham ở Mùi hay Sửu nếu có
hay là do Vũ Tham có Hỏa Linh đi kèm.
Lá số có mười hai cung, Mệnh rồi Bào rồi Thê… rồi Phúc đức và
Phụ mẫu. Tuy chia cách biệt ra nhưng chúng lại có liên hệ khi luận
đoán số.
Người ta có thể tìm thấy ở mệnh cung sự thay vợ đổi chồng hay
góa bụa nhưng những điều này cũng tìm thấy ở cả Thê cung nữa. Tỉ dụ
người nữ Thiên Lương tại mệnh ở Hợi hay Tị mà gặp Thiên Mã dễ bỏ
chồng. Những sao ấy chuyển qua cung Thê tình trạng tương tự.
Câu phú:
Khả dĩ áp dụng cho cả hai cung. Tuy nhiên, nếu chúng đóng mệnh
thì phiền phức hơn là đóng Phối cung. Tỉ dụ câu Thất Sát đan cư Phúc
đức (Sao Thất Sát hãm đóng cung Phúc đức) cũng ảnh hưởng đến
thân phận người ta đưa đến lận đận chồng con.
Tỉ dụ, cung Điền trạch có thể cho ta được những đoán định rằng
con người mang số với cung Điền ấy phải bỏ nhà đi sớm không cứ
phải qua mệnh cung mới đoán ra điều này.
Ngoài ra, cũng có thể tìm thấy ở cung Phúc tính tình đầu óc thân
phận không nhất định cứ phải Mệnh cung mới thấy, tuy nhiên vẫn đừng
nên quên Mệnh vẫn là cái gốc để suy đoán cùng với Phúc đức cung.
Tử Vi khoa có sinh khắc chế hóa. Nhưng kho Tử Bình thì sinh khắc
chế hóa linh động biến dịch hơn. Đơn giản sinh khắc là:
- Kim sinh Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim.
- Kim khắc Mộc - Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy – Thủy khắc Hỏa
– Hỏa khắc Kim.
Có câu phú viết: “Tinh lâm miếu vượng tái quan sinh khắc chi cơ”
nghĩa là dù sao an được vào cung miếu vượng thì cũng còn phải xem
cái lý của sinh khắc nữa. Tỉ dụ Kim nhập Hỏa hương sao thuộc Kim
đứng cung Hỏa bị khắc không tốt, hoặc Hỏa nhập Thủy hương sao
thuộc Hỏa đứng vào cung Thủy…
Một câu phú khác: “Tuyệt sứ phùng sinh, hoa nhi bất bại” nghĩa là ở
tuyệt địa mà gặp sinh thì không đến mức hoàn toàn thất bại. Tuyệt sứ
phùng sinh là thế nào ?
Như Thủy cục tuyệt ở Tỵ cung, nếu an Mệnh ở Tỵ là tuyệt địa, nhưng
lại có Kim tinh ở đó, Kinh sanh Thủy thành ra Thủy không bị tuyệt.
Tỉ dụ hai sao Thiên Cơ Cự Môn của cách Cự Cơ Mão hay Dậu, thì
Cự Cơ ở Mão tốt hơn ở Dậu vì lẽ Thiên Cơ thuộc Mộc đứng cung Mộc
lại có Cự Môn là Thủy nuôi dưỡng, trong khi cung Dậu thuộc Kim khắc
Mộc Thiên Cơ, Cự Môn không đắc lực với sứ mạng nuôi dưỡng bằng ở
cung Mão.
Cũng sao Liêm Trinh đứng Dần tốt hơn đứng Thân vì Liêm Trinh
thuộc Hỏa cung Dần Mộc sinh Hỏa, trong khi Thân là Kim, Kim với Hỏa
tương khắc.
Tác dụng của ngũ hành là vận động biến dịch và phát triển. Nếu chỉ
đơn giản. Nếu chỉ đơn giản, e tác dụng kia vừa đủ. Ngũ hành trong
khoa Bát tự với vận động biến dịch biện chứng kỹ càng hơn ngũ hành
logique của Tử Vi.
Sách Uyên Hải Tử Bình viết: “Kim vượng được Hỏa mới thành dụng
cụ như sắt đưa vào lửa luyện nên thép. Thủy vượng được Hỏa thành
hơi nước mạnh. Thủy vượng nhờ Thổ mà nên hồ ao. Thổ vượng đắc
Mộc thì mới nên thì Thổ mới có chổ bám…”
Như vậy, đôi khi khắc lại mang tác dụng rất cần thiết chứ không
phải sinh hay mà khắc dỡ. Ngũ hành của Tử Vi khoa là ngũ hành đơn
phải sinh hay mà khắc dỡ. Ngũ hành của Tử Vi khoa là ngũ hành đơn
giản của sinh khắc.
Sách Uyên Hải Tử Bình viết: “Kim nhờ Thổ sinh, nhưng nhiều đất
quá thì Kim bị chôn vùi. Thổ nhờ Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều quá lửa bị
tắc nghẽn, Mộc nhờ Thủy sinh, nhưng nước lụt thành cây trôi. Thủy nhờ
Kim sinh, nhưng Kim nhiều quá, nước thành vẩn đục. Kim sinh ra Thủy,
nhưng Thủy nhiều Kim chìm. Thủy sinh ra Mộc, Mộc nhiều Thủy cạn.
Mộc sinh ra Hỏa, Hỏa nhiều Mộc bị cháy tiêu…”
Như vậy, kể cả tình trạng “sinh” nếu theo biện chứng chưa chắc đã
là tốt. Lối tính của Tử Vi khoa về ngũ hành, chỉ đơn giản thôi vì cổ nhân
đặt định trên căn bản lý luận không phức tạp biện chứng.
Thái Vi phú
Người đời sau còn nghiên cứu thêm và đặt ra phú Ma Thị, phú
Huỳnh Kim và ở Việt Nam có phú nôm Thần Kê Định Số của Lê Quí
Đôn. Những câu phú ghi tại những phần trên đều cắt từ những bài phú
dẫn thượng. Dưới đây ghi thêm những câu chưa ghi vì còn cần những
lời bàn riêng biệt.
- Sinh phùng bại địa bát dã hư hoa (Mệnh đóng ở đất bại có phát
cũng chỉ là hư hoa). Bại địa ở câu phú này không phải chỉ vào đất
có sao Đào Hoa chấn đóng. Bại địa ở đây tính theo ngũ hành. Tỉ dụ
năm sinh nạp âm là Thủy thì trường sinh của Thủy ở cung Thân
mà Mệnh lại an ở Dậu thì Dậu chính là chỗ đất bại của Thổ của
Thủy, thành ra có phát nhờ những sao tốt cũng không thật đẹp.
- Tuyệt sứ phùng sinh hoa nhi bất bại (đã nói ở trên)
- Không vong định yêu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu
(Những sao Không vong đứng đúng vị khả dĩ đắc dụng, sao Thiên
Không quan trọng hơn hết)
Mệnh Thân có Thiên Không mà ở cung hỏa, cung kim hoặc đại tiểu
hạn gặp Thiên Không ở các cung Hỏa Kim có thể phát phúc. Vì Kim gặp
Không thành tiếng vang, Hỏa gặp Không bùng cháy. Nếu vào các cung
Thủy cung Thổ cung Mộc thì Không sẽ tác hại vì Thủy gặp Không thì tràn
ngập, Mộc gặp Không ắt bị gãy, Thổ gặp Không bị chuồi lở
- Nhược phùng bại tuyệt chi địa, chuyên chước phù trì chi diệu khả
hữu công (Mệnh Thân rơi vào bại tuyệt mà được Lộc Tồn, Hóa Lộc
phù trì thì giảm hẳn khó khăn)
- Hình tù hiệp ấn, hình trượng duy ty (Thiên Tướng có Liêm Trinh
Kình Dương hay bị vạ quan tụng hoặc dễ mất chức)
- Thái Âm cư Tí thủy trùng quế ngạc, đắc thanh chi chức trung gián
chi tài (Mệnh lập ở Tí Thái Âm thủ mà sinh ban đêm khả dĩ giàu
sang, tâm chất chính trực)
- Văn Hao cư Dần Mão, chúng thủy triều đông (Sao Phá Quân gặp
Văn Xương ở Dần Mão gọi bằng cách chúng thủy triều Đông). Cách
này cả đời tân khổ trong khi khoa Tử Vi Việt lại nói song Hao Mão
Dậu mới là chúng thủy triều Đông, cách này thường hoạnh phát.
Không biết chúng thủy triều Đông của song Hao Mão Dậu đã căn
cứ vào đâu? (Hao ở đây là Đại Hao, Tiểu Hao)
- Hình ngộ Tham Lang hiệu vi phong lưu thái trượng (Hình chỉ sao
Kình Dương mà đóng Mệnh hay Thân với sao Tham Lang thì con
người thông minh và lúc nào cũng phong lưu). Sách khác lại nói
Tham Đà mới phong lưu thái trượng, Đà La hóa khí là Kị, chỉ ở
cung Dần không bao giờ ở Mão
- Dương Linh hợp ư Mệnh cung ngộ Bạch Hổ tu đương hình lục
(Mệnh Kình Dương Linh Tinhg gặp cả Bạch Hổ dễ tù tội)
- Hình Sát đồng Liêm Trinh ư Quan Lộc, già nữu nan đào (Thất Sát
Liêm Trinh đóng cung Quan gặp Kình Dương cũng bị hình ngục)
- Sát cự tuyệt địa, thiên niên yểu triết Nhan Hồi (Thất Sát ở vào
tuyệt địa tính theo nạp âm của niên sinh đối với một cung nào đó,
không thọ. Xin đọc lại thế nào là tuyệt địa đã dẫn ở trên)
- Bệnh Phù, Quan Phù giai tác họa, Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc tác
trinh tường (Bệnh Phù, Quan Phù vào vận hạn đều gây họa, Tấu
Thư Bác Sĩ và lưu Lộc vào vận hạn đều mang phúc đến)
- Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long hiển kỳ Quyền Lộc (Vận
được Thanh Long Bác Sĩ Tướng Quân mưu cầu danh vị thuận lợi)
- Quan Phù gia Hình Sát ư Thiên Di ly hương tao phối (Sao Quan
Phù gặp Kình Dương Thất Sát ở Thiên Di thì phải ly hương lập
nghiệp, lập gia đình)
- Thiện Ấm thủ ư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai (Mệnh Cơ Lương
bị Triệt hay Thiên Không nên ẩn dật đỡ mang họa)
- Kỵ Ám đồng cư Tật Ách, trầm khốn khuông doanh (Cự Môn Hóa
Kị đóng ở Tật Ách thường có bệnh lâu khỏi)
- Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân tại Dương Linh (Mệnh Khôi Việt là
người bao dung hào sảng, Kình Dương Linh Tinh tại Mệnh là
người khó chơi)
- Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất Sát ngộ chi vị miễn vi hung
(Thân Mệnh Thất Sát gặp Kình Dương Đà La dễ bị hung họa)
- Mệnh ngộ Khôi Xương đương đắc quí
Hạn phùng Tử Phủ định đa tài
(Mệnh có Khôi Xương dáng dấp thanh nhã, hạnh được Tử Phủ thì
có tiền)
- Nhược trị sát tinh định tam giá nhi tâm bất túc
Phùng Dương Đà tu đề khốc nhi lệ bất can
(Số nữ ở Phu cung nhiều hung sát tinh lấy nhiều chồng, gặp
Dương Đà dễ thành góa bụa)
- Liêm Lộc lâm Thân, nữ đắc thuần âm trinh khiết chi đức (Đàn bà
Mệnh Thân có Liêm Trinh và Lộc thì trinh khiết)
- Quân tử Mệnh trung diệc hữu Dương Đà Linh Hỏa. Tiểu nhân
Mệnh nội khởi vô Khoa Quyền Lộc tinh (Mệnh người quân tử cũng
có Dương Đà Linh Hỏa vậy. Mệnh kẻ tiểu nhân cũng có Khoa
Quyền Lộc vậy. Vấn đề là miếu hãm mà thôi)
- Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi tú
Bất độc chi thư dã khả nhân
(Mệnh có Xương Khúc, Thiên Khôi dù không được học cũng là
người đắc lực)
- Đa học thiểu thành, chỉ vị Kình Dương phùng Kiếp Sát. Vi nhân
hiếu tụng; cái nhân Thái Tuế ngộ Quan Phủ (học nhiều mà chẳng
đỗ đạt chỉ vì Kình Dương gặp Kiếp Sát. Tính người ưa kiện bởi lẽ
Thái Tuế gặp Quan Phủ)
- Cự Phá Kình Dương tính tất cương - Phủ Tướng Đồng Lương tính
tất hảo (Mệnh Cự Môn hội Kình Dương hay Phá Quân Kình Dương
tính tình cương bạo. Có Phủ Tướng Đồng Lương thì hiền lành)
- Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú sảo
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
(Mệnh Xương Khúc Lộc Cơ trông văn nhã và khéo. Âm Dương
thêm Tả Hữu bao dung đại lượng)
- Thân Mệnh vận hạn Kỵ tương phùng
Cách kiêm Thái Tuế Quan phủ chí
Quan phi khẩu thiệt tất bất không
(Vận hạn có Đà Kị thêm Thái Tuế, Quan Phù khó tránh họa tranh
tụng, khẩu thiệt)
- Tử Vi đế tòa tại nam cực, bất năng thi công
Thiên Phủ Linh Tinh cư nam địa, chuyên năng vi phúc
(Tử Vi đóng Tí dễ thành vô dụng. Thiên Phủ đóng Tí với Linh Tinh
được phúc)
- Thiên Cơ tứ Sát đồng cung dã thiện tam phần
Thái Âm Linh Hỏa đồng vị phản thành thập ác
(Thiên Cơ dù đứng với tứ Sát thì cũng không đến nỗi, nhưng Thái
Âm gặp Hỏa Linh lại thành phiền)
- Tham Lang vi ác tú nhập miếu bất hung
Cự Môn vi ác diệu, đắc viên vưu mỹ
(Tham Lang Cự Môn ở chỗ hãm thành ác, được miếu địa thành
hay)
- Mệnh Thân tương khắc tắc tâm loạn nhi bất nhàn (Mệnh và Thân
ở hai cung xung chiếu, tương khắc thì đa tư đa lự khó thảnh thơi)
- Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm (Xương Khúc
vào đất hãm hay bị hung tinh phá hoại thường có hoài bão ở ẩn, ẩn
dật vì khi vào cuộc phấn đấu luôn luôn bị chèn ép cản trở)
- Khoa tinh cư hãm địa đăng hỏa tân cần (Hóa Khoa đóng đất hãm
học hành phải cố gắng lắm mới nên)
- Sát lâm tam vị, thê tử bất hòa (Sát tinh đóng cung Thê, vợ con bất
hòa)
- Cự đáo nhị vị tất huynh đệ vô nghĩa (Cự Môn vào cung Bào, anh
em không thương nhau)
- Hình Sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão (Hình Sát vào cung Tử
Tức, lúc già xa cách con cái)
- Hung chiếu Tài Bạch tụ tán vô thường (Gặp hung tinh chiếu cung
tài bạch, tiền bạc tụ tán vô thường)
- Hỏa Tinh đáo Thiên Di trường đồ tịch mịch (Hỏa Tinh đóng cung
Thiên Di vào cuộc phấn đấu ít người trợ giúp)
- Tôn tinh cư tiện vị, chủ nhân đa lao (Những sao quí mà đóng ở
đất hèn, cuộc đời vất vả)
- Điền Trạch ngộ Phá Quân tiên phá hậu thành (Cung Điền gặp
Phá Quân, trước hư hoại sau mới thành)
- Phúc Đức ngộ Kiếp Không bôn tẩu vô lực (cung Phúc Đức gặp
Kiếp Không bôn tẩu cho lắm cũng bằng vô ích)
- Liêm Trinh Phá Quân Hỏa Linh đồng cung, lang tâm cẩu phế
(sao Liêm Trinh Phá Quân đứng cùng với Hỏa Linh là con người
phản phúc)
- Thiên Cơ Thái Âm đồng cung Dần Thân, nan miễn bạt thiệp tha
phương (Thiên Cơ Thái Âm đóng Dần Thân thường có khuynh
hướng phiêu lưu)
- Thái Dương Dậu cung, quí nhi, bất hiển, tú nhi bất thực (Thái
Dương tại Dậu đứng với Thiên Lương có thể làm lớn ví như cây to
mà không có trái)
- Thái Dương thủ Mệnh ư Mão, trú sinh nhân khả phú quí (Thái
Dương ở Mão, đứng với Thiên Lương phải sinh ban ngày mới thật
đẹp)
- Thái Dương tại Thiên Di, di căn hoán diệp (Thái Dương vào cung
Thiên Di thường không kế tiếp được tổ nghiệp, phải rời quê hương
bản quán mới thành công)
- Thái Dương hãm hội Dương Đà Hỏa Linh chủ mục tật, hình khắc
phụ mẫu (Thái Dương đóng hãm địa gặp Dương Đà Hỏa Linh dễ
đau mắt, hoặc hình khắc cha mẹ)
- Thiên Phủ thủ Mệnh, Dương Đà Hỏa Linh hội hợp, gian trá (Mệnh
có Thiên Phủ thủ, đứng cùng Dương Đà Hỏa Linh con người
không ngay thẳng)
- Nữ mệnh Thiên Tướng bất nghi đồng Xương Khúc (Số gái Thiên
Tướng thủ, không nên đứng với Xương Khúc)
- Phá Quân Vũ Khúc nhập Tài hương, đông thành tây bại (Vũ Phá
đóng vào Tài Bạch, bôn ba thành bên này bại nơi khác)
- Phá Quân Dương Đà Quan Lộc vị, đáo xứ khất cầu (Phá Quân
vào cung Quan gặp Dương Đà, lận đận công danh)
- Phá Quân Tài Bạch như thang nhiễu tuyết (Phá Quân hãm đóng
cung Tài như lấy nước sôi đổ vào tuyết)
- Phá Quân hãm tại Thiên Di bôn tẩu vô lực (cung Thiên Di Phá
Quân hãm địa, bôn tẩu cũng vô ích)
- Văn Xương Tham Lang đồng cung chính sự điên đảo (Văn
Xương Tham Lang thủ mệnh làm việc lôi thôi, không đắc lực)
- Văn Xương Liêm Sát Dương Đà trá nguỵ (Liêm Trinh Thất Sát
đứng với Văn Xương gặp Kình Đà con người lắt léo)
- Tả Hữu Trinh Dương vi đạo tặc (Liêm Trinh hãm gặp Tả Hữu
Kình Dương có khuynh hướng đạo tặc)
- Hóa Quyền ngộ Dương Đà Không Kiếp, thính sàm di lụy (Mệnh
có Hóa Quyền mà gặp Không Kiếp Dương Đà vì nghe nịnh mà
khốn khổ)
- Thủy mệnh nhân phùng Hóa Kị bất kị (Sao Hóa Kị thường xấu,
nhưng người thủy mệnh gặp nó không sao)
- Cự Môn thủ Mệnh kiến Dương Đà, nam nữ tà dâm (Thủ Mệnh là
sao Cự Môn, đứng với Kình hoặc Đà, nam nữ tà dâm)
- Phá Liêm Mão Dậu ngộ Dương Đà Hỏa Linh quan phi, tật bệnh
(Phá Liêm gặp Linh Hỏa Dương Đà bệnh hiểm nghèo, dây dính
luật pháp)
- Phá Quân Xương Khúc hình khắc lao bác (Phá Quân hãm gặp
Xương hay Khúc thường hình khắc và bôn ba)
- Tham Phá Lộc Mã nam lãng đãng, nữ đa dâm (Tham hay Phá
thủ Mệnh mà gặp Lộc Mã, số trai phiêu bạt, số gái đa dâm)
Mệnh cung để biểu thị dung mạo, tài năng và thân phận (cơ sự
nghiệp). Bào cung biểu thị anh em và quan hệ với anh em. Phối cung
biểu thị người phối ngẫu tốt xấu, cát hung trên duyên phận, sinh hoạt
lứa đôi.
Tử biểu thị quan hệ với con cái, khả năng sinh dục. Tài biểu thị tình
trạng kiếm tiền, khả năng quản thủ tiền bạc và những liên quan đến cơ
nghiệp. Tật biểu thị thể chất, sức khỏe và bệnh tật.
Thiên di biểu thị sự phấn đấu ngoài đời, khả năng hành động, lữ
hành. Nô biểu thị quan hệ với người cộng sự, quan hệ bè bạn, quan hệ
với thủ hạ. Quan biểu thị chức vị quyền hạn, công danh sự nghiệp.
Điền biểu thị gia đình sinh hoạt, quan hệ bất động sản, cát hung ra
sao. Phúc biểu thị bao quát những gì liên hệ, đến thân phận, tôn tộc,
may rủi, yểu, tâm chất và những ảnh hưởng huyết thống, mô tả có tính
cách hình nhi thọ thương.
Trên đây là chỉ nói đại cương thôi. Vì các cung còn liên hệ với nhau,
biến hóa khi luận đoán. Tỉ dụ sao Hóa Lộc vào Nô cung thường là con
người ích kỷ, bo bo giữ tiền.
Tỉ dụ nhiều sát tinh vào cung Tật ách có thể đưa đến kết quả không
tốt vào cuối đời không phải do bệnh tật mà do một tình cảnh khó khăn
như không được chôn cất tươm tất chẳng hạn.
Tỉ dụ câu phú:
Hai sao Hỏa Linh hãm vào cung Tài bạch lại ảnh hưởng sang tính
tình chứ không phải chỉ hiển hiện một tình trạng tài chính.
tình chứ không phải chỉ hiển hiện một tình trạng tài chính.
Tỉ dụ câu phú:
Khi Đào Hoa và sao Thai đóng cung Phúc đức lại ảnh hưởng sang
con cái, giả như Đào Thai vào cung Tử Tức thì chính mình có con ngoại
hôn hoặc vợ mình có con ngoại hôn, hoặc có con trước rồi mới hợp
thức hôn nhân sau.
Tỉ dụ câu phú:
Sao Thất Sát hãm đóng vào cung Phúc rất ngại cho nữ mạng dễ đi
vào những nghề nghiệp thấp kém, khó mà trở nên sang quý, hoặc có
những hành động xấu hoặc tâm chất ưa làm những việc quái dị, coi
thường dư luận
MỆnh Cung
Những chương ở trên đã có nói về sao và các câu phú vào mệnh
cung ảnh hưởng thế nào ở đây biên thêm một số tạp luận. Những điều
biên thêm chủ yếu là hình dáng và tính tình rồi đến những biến hóa mà
các chương trên không đề cập vì lẽ để cho gọn ghẽ sự phân định mục
thứ.
Hình tính phú mở đầu bằng câu: “Tử Vi đế tòa sinh vi hậu trọng chi
dung” nghĩa là người có sao Tử Vi thủ mệnh là người đầy đặn phương
phi.
Trường hợp Tử Vi đóng mệnh, đồng cung với nhiều hung sát tinh,
trong khi cá tinh chỉ hội chiếu thì đây là tình trạng quân tử tại dã tiểu
nhân tại vị (người quân tử đứng ngoài, tiểu nhân nằm bên trong) thì tính
tình Tử Vi trở thành giả đạo đức ngoài mặt thiện mà trọng lòng gian trá.
Ngụy quân tử còn đáng ngại hơn chân tiểu nhân.
Tử Vi nữ mạng đứng với Đào Hoa Tả Hữu hay Tham Lang Tả Hữu
và Tang Môn, tính lang chạ. Kể cả giáp Tả Hữu cũng vậy, Phụ Bật giáp
Tham Đế ư ? Chức dù tôn trọng dâm ô cũng là.
Thiên Cơ vào mệnh bản tính thiện lương thông tuệ thường có
khuynh hướng ẩn dật lâm tuyền, hình dáng thân dài hơn chân. Thiên
Cơ thuộc Mộc mình dài. Thiên Cơ gặp Xương Khúc thì mày xanh tóc tốt.
Thiên Cơ số nữ tâm chất đa biến, khác hẳn với nam mạng, bởi thế
Cơ Âm mới đa tình, Cự Cơ dậu mới phá đãng, thêm Đào Hoa càng
phúng túng.
Hình tính phú ghi: “Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư tình hoài
hiếu thiện” nghĩa là sao Thiên Cơ hình dáng không cao không thấp,
tâm địa hiếu thiện. Nhưng nếu Thiên Cơ đóng hãm địa vào nam mạng
mà gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì cũng có những cử chỉ hành
động thấp kém.
Như câu phú: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết”
Thiên Cơ ở trường hợp này dễ trở thành trộm đạo hoặc biển thủ lường
gạt.
Thái dương thủ mệnh, hình tính phú viết: “Thái dương tướng mạo
Thái dương thủ mệnh, hình tính phú viết: “Thái dương tướng mạo
hùn tráng diện phương viên mãn, thông minh từ ái, bất hiệu thị phi”
nghĩa là dung mạo của Thái Dương trông hùng tráng (nhiều nam tính)
mặt vuông góc cạnh, thông minh tốt bụng, nhưng không nhìn ra được
kẻ xấu người tốt rõ ràng.
Thái dương hãm địa thủ mệnh cũng có những nét đanh thép,
nhưng không bảnh. Điểm đặc biệt của Thái Dương dù gặp hung sát
hay không tinh thì tâm chất vẫn ngay thẳng chân thực. Nếu có hành
động nào quấy bị coi như gian đạo đều vì bị động mà ra.
Thái Dương chủ về quyền quý, cần gặp Thiên Hình. Thái Dương
hãm địa sống thời loạn đất loạn hợp hơn thời bình, đất bình.
Nữ mệnh Thái Dương đắc hay hãm đều không kể là toàn hảo, đắc
địa cũng vất vả mà hãm thường khắc chồng hay khắc cha. Thái Dương
hãm thủ mệnh nữ tâm tình hon loạn không nhẫn nại kiên trì như câu
phú: “Thái Dương nữ hãm chủ tâm hoang”. Thái Dương vào số nữ đắc
địa hình vóc cứng cáp, hãm địa thì vẫn còn giữ được nét người nữ.
Vũ Khúc đóng mệnh tâm tính rắn giỏi, cương nghị quả quyết, hình
dáng xương xương, tiếng nói vang vang mang ý vị sát khắc, cử chỉ
nhanh nhẹ, phản ứng mau.
Thiên Đồng thủ mệnh Hình tính phú viết: ”Thiên Đồng phì mãn mục
tú thanh kỳ” nghĩa là Thiên Đồng khổ người đầy đặn, mặt thanh tú. Tính
tốt nhưng hay thay đổi bản tâm ôn hòa chính trực, nhưng cũng dễ bị
ảnh hưởng. Bởi vậy Thiên Đồng thủ mệnh gặp Đào Riêu thường dễ bị
dụ dỗ hoặc vì nghe người khác mà thay lòng đổi dạ.
Thiên Đồng đắc địa thông tuệ. Thiên Đồng Thái Âm đa tình ở Tý
hay Ngọ đều ham sắc dục. Đồng Âm nam mạng dễ gặp tình ngoại hôn,
nữ mạng lắm người yêu.
Liêm Trinh đóng mệnh “Mi khoan khẩu khoát diện hoành, nhân
bạo hiếu tranh” nghĩa là Liêm Trinh hình dáng mày rộng, mệng lớn
mệnh góc cạnh, tính bạo ưa cạnh tranh.
“Liêm Trinh hảo diệu thân trường”. Nhãn lộ, khẩu lộ da thường
vàng xanh. Tính ưa táo bạo tương tranh, khi dữ khi lành du đãng phấn
hoa. Liêm Trinh hãm bừa bãi phóng túng không lễ nghĩa. Đóng Quan
lộc gặp Quyền Kị Tướng Quân có oai quyền. Nữ mệnh có Liêm Trinh
đắc địa thành ra con người trung trinh. Liêm Trinh vào nam hay nữ
mạng đều sợ Hỏa Tinh Không Kiếp.
Thiên Phủ tọa Mệnh cung, Hình tính phú viết “Thiên Phủ thuần hòa
chi thể, viên mãn, thanh kỳ”. Mình chắm, dáng sang, ngoài mặt nhu hòa
nhưng trong lòng cương nghị (“Ngoại hòa nội cương”) làm việc hăng
hái có chí phấn đấu mạnh.
Thiên Phủ hợp với Thanh Long Xương Khúc và Tả Hữu nhất là Lộc
Tồn. Thiên Phủ ngán Không Kiếp Triệt Tuần: “Không Kiếp Triệt Tuần ở
bên, Ấy là cô độc chẳng nên kể gì”.
Triệt Tuần đứng ngán ngữ Thiên Phủ khiến cho vóc dáng trở thành
dỏng cao chân dài hơn thân.
dỏng cao chân dài hơn thân.
Thái Âm đóng Mệnh cung khuôn mặt tròn hoặc vuông mà đầy đặn,
thân hình mặt lẳn ngoại giao văn tĩnh (vẻ ngoài nhã và an tĩnh) hay thẹn
nhưng nội tâm động. Nữ mạng Thái Âm đắc địa hay không nhan sắc
ưa nhìn. Mạng Thái Âm khoái hưởng thụ, ít lý tưởng. Mạng Thái Âm
hãm gặp nhiều hung sát tinh thì phiêu bạt.
Thái Âm đi với Lộc rất hợp. Vì hóa khí của Thái Âm là tài phú. Phú
có câu: “Thái Âm Linh Hỏa đồng vị phản thành thập ác” nghĩa là Thái
Âm đóng cùng Hỏa hay Linh tính nết không mấy tốt.
Hỏa Tinh xung phá Thái Âm giảo trá và hung bạo cố chấp. Linh
Tinh xung phá Thái Âm lanh lợi nhưng độc địa. Hỏa minh Linh ám một
lần nữa được chứng minh khi nó đi cùng Thái Âm.
Tham Lang thủ mệnh Hình tính phú viết : “Tham Lang vi thiện ác
chi tinh nhập miếu tất trường tủng, lạc hãm tất ngoan ngạo” (Tham
Lang là sao vừa thiện ác tham bán, ở miếu vượng người cao lớn, vào
hãm cung thành nhỏ bé.)
Tham Lang gặp các cát tinh có sự nghiệp vững vàng gặp hung tinh
tính nết hư phù (đa hư thiểu thực). Tham Lang dễ rơi vào khunh hướng
đam mê cờ bạc, rược chè bài bạc. Tham Lang vào nữ mạng lòng yêu
ghét thuờng cực đoan bởi vậy cổ nhân nói sao này là sao ghen tuông.
ghét thuờng cực đoan bởi vậy cổ nhân nói sao này là sao ghen tuông.
Tham Lang đi với Hóa Lộc ở nam mạng râu rậm. Thiên Lương hội
Đào Hoa ở số nữ dâm đảng nếu gặp Triệt thì bớt hẳn. Mệnh không
chính tinh mà cung Phu thấy Tham Lang dễ rơi vào phận làm lẽ.
Tham Lang đứng cùng Trường Sinh tuổi thọ cao: “Tham Lang gia
cát tọa Trường Sinh, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ” (Tham Lang đứng
cung cát tinh ở cung có Trường Sinh, tuổi thọ bằng ông Bành Tổ).
Cự Môn đóng Mệnh cung đắc địa, khổ người vuông vức, ở cung
hãm nhỏ nhắn hơn. Tính đa nghi ưa dối trá. Nữ mạng đắc hay hãm địa
thì cũng không hợp lắm với Cự Môn vì các chất thị phi của sao này về
mặt thuận hợp với lục thân (bố mẹ, anh em, chồng con).
Cự Môn làm việc lúc thế này, lúc thế khác, giao thiệp với người ban
đầu tốt, càng về sau càng hoài nghi. Cự Môn khó hợp khó thân.
Cự hãm tứ mộ đa ngôn
Thiên Tướng theo hình tính phú ghi: “Tinh thần tướng mạo trì
trọng”. Người Thiên Tướng thủ mệnh hơi chậm, người nặng, mặt đầy
đặn hơi vuông. Ở hãm cung hoặc gặp Tuần Triệt thì lại gầy nhỏ hơn.
Theo sách Trung Quốc, sao này không có hãm cung. Sai! Thiên
Tướng vào Mão Dậu hay Thìn Tuất phải xem là hãm nhàn mới đúng.
Cho rằng Thiên Tướng chỉ ở chổ vượng hay ngược lại hay nhược mà
thôi. Điều này còn chấp nhận được.
Câu phú: “Thiên Tướng thủ mệnh nhược lạc nhàn cung dã cát lợi”
nghĩa là có sao Thiên Tướng thủ mệnh dù rơi vào nhàn cung cũng vẫn
cát lợi. Rõ ràng ưu điểm của Thiên Tướng là con người cần mẫn phấn
đấu dù chẳng nên công nghiệp lớn cũng nên thân vững chãi.
Thiên Tướng vào số nữ không nên có thêm Xương Khúc là hai sao
lãng mạn, mâu thuẫn hẳn với bản chất của Thiên Tướng vốn mực
thước thủ tín. Bị Xương Khúc dễ rơi vào tình cảnh không ba năm dại
một giờ.
Thiên Tướng vào cung Quan mà gặp Tuần Triệt dễ gặp tai tiếng với
chức vị bị cách chức, nếu không cũng lụi đụi quan trường.
Thiên Tướng đứng cùng hay hội ngộ Văn Khúc, Hoa Cái, Đào Hoa,
Mộc Dục đa dâm.
Thiên Lương qua hình tính phú: Thiên Lương ẩn trọng, ngọc khiết
băng thanh, nghĩa là Thiên Lương đắc địa nam mạng tính cẩn thận kín
đáo, nữ mạng đắc địa trinh thục. Thiên Lương da trắng trang nhã.
Thuần hòa nhưng cũng quyết liệt. Thiên Lương hãm thì tính phiêu lãng
với vẻ ngoài đôn hậu. Nữ mạng Thiên Lương hãm gian dâm.
Lương hãm ngộ sát ưu phiền
Thất Sát Hình tính phú viết: “Mục đại, hung lang tính cấp” nghĩa là
mắt lớn, dữ dội và nóng nảy. Đắc địa tánh dũng mãnh, hãm thành hung
bạo. Đắc địa có mưu cơ, hãm thành hồ đồ.
Thất Sát vượng nhược tảo niên định lịch tảo gian tân (Thất Sát
miếu hay hãm thì lúc trẻ cũng phải gian tân). Đó là cái nghiệp của Thất
Sát. Đắc hãm chỉ khác nhau ở lúc thành công thôi.
Thất Sát nữ mệnh, đắc địa tháo vát, hãm địa tham lang và vô năng.
Trên đây là những câu diễn nôm từ Hình tính phú: “Phá Quân bất
nhân, bối trọng mi khoan, gian trá hiếu hành kinh hiểm”.
Phá Quân không xấu người xấu nết đến vậy. Vấn đề còn tùy vào
hãm hay đắc địa nữa. Nhưng đắc hay hãm thì Phá Quân cũng là con
người khó hiểu và gan góc. Phá Quân nếu đi với Kình Dương Hao tinh,
hay Linh Hỏa đóng Quan lộc cuộc đời lận đận bôn ba, chẳng những
không nên danh phận gì mà còn túng quẫn.
Phá Quân Thìn Tuất gặp Tuần Khoa hợp cách. Phá Quân ở Sửu
Mùi gặp Lộc Hình có uy quyền. Phá Quân hãm địa nam hay nữ đều
hiểm độc
* Tuấn nhã Văn Xương – Lỗi lạc Văn Khúc (Văn Xương thủ mệnh dáng
dấp tuấn nhã. Văn Khúc tài ba lỗi lạc.)
* Kình dương – Đà la hình sũ, mạo liệt. (Kình Dương Đà la đóng mệnh
hình dung xấu xí nếu đóng hãm địa)
* Dung mạo như xuân, nãi Lộc Tồn (Mặt tươi vui như mùa xuân là Lộc
tồn đóng mệnh).
* Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần (Tử Vi to béo, Thiên Phủ thông tuệ)
* Nhật Nguyệt Khúc Xương Đồng Lương Cơ Xương tuấn mỹ chi tư
(Nhật Nguyệt Khúc Xương hay Đồng Lương Cơ Xương phong thái đẹp
đẽ).
* Tham Lang đồng Vũ Khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại. (Tham
Vũ đồng cung, dáng nhỏ bé nhưng tiếng nói oang oang (thì hào
sảng). Trường hợp Tham Vũ gặp sát kị tinh thì tiếng nói lâm râm, tâm
địa gian xảo.)
* Thiên Đồng Đà Kị phì mãn nhi mục điểu (Thiên Đồng đứng với Đà Kị
người mập nhưng mắt lé, mắt có cườm)
Cung Bào chủ yếu để xem quan hệ anh chị em ruột thịt. Vì cung
bào xung chiếu với cung Nô nên có thể phối hợp những sao của cung
Bào với Nô mà tìm hiểu rõ thêm về bạn bè chi kỷ, về thủ hạ, về những
người đồng liêu cộng tác với mình.
Sách vở Trung Quốc luận đoán cung này không đem lại cho người
đọc hào hứng và có vẻ võ đoán. Tỉ dụ: sao Tử Vi ở đây là có thể nhờ
được anh em cùng với Thiên Phủ thì anh em chừng được ba người…
Dương Đà Hỏa Linh xuất hiện anh em khó hòa thuận. Tỉ dụ: Liêm Trinh
cư bào miếu địa có hai người, đứng với Tham Lang anh em chiêu
đoán, đứng với Thất Sát một người, Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp
đoán, đứng với Thất Sát một người, Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp
thường khắc anh em.
Luận đoán như thế coi mà phát chán, đồng thời cũng thiếu thực tế.
Tử Vi Việt có những câu phú linh động hơn.
PhỐi Cung
Cung Thê hay Phu dùng để xem quan hệ phối ngẫu thuận hòa hay
không, phải mấy đời chồng vợ, hay góa bụa chia ly, vợ đảm hay vợ
đoảng. Những khoảng thời gian đôi ngả. Mệnh bình thường mà cung
phối ngẫu tuyệt đẹp nhờ hôn nhân mà đời trở nên khá giả.
Mấy đời chồng vợ có thể xem từ Mệnh cung cùng với phối cung. Vợ
vượt quyền có thể vừa xem Mệnh cung vừa xem Phối cung. Đến như vợ
đoảng hay vợ đảm thì chủ yếu phải là Thê cung. Vợ giàu hay nghèo chủ
đoảng hay vợ đảm thì chủ yếu phải là Thê cung. Vợ giàu hay nghèo chủ
yếu vẫn là Thê cung.
Cuốn "Chính Thống Tử Vi Đẩu Số" của Trần Nhạc Kỳ ở mục Phu
Thê cung yếu quyết viết như sau: “Phu Thê đóng Tý hay Ngọ có sao Tử
Vi mà không thấy Tả Hữu thì không bị hình khắc, nhưng lại hay rơi vào
tình trạng vợ chồng đối xử với nhau ngang ngược vô lý."
Hoặc chồng hoặc vợ trong lòng tuy bất mãn nhưng vì danh dự, địa
vị và tài sản đành phải chịu ngậm bồ hòn làm ngọt. Loại ẩn nhẫn nhịn
nhõ nhau chiếm đa số. Cung Phối đẹp tốt nhưng tam hợp đối xung
nhiều sát tinh thì vợ chồng tình ý thuận toại nhưng nguyên nhân ngoại
lai làm cho phân ly.
Cung Mệnh, cung Phối hoàn hảo, mà vận hạn đến quá nhiều hung
sát tinh xung phá có thể đưa đến góa vợ góa chồng nếu như mệnh
cung của người phối ngẫu mang những dấu tích yểu vong.
Có câu phú: “Tử Phủ đồng cung đa cô khắc. Mệnh như thế phải
chậm hôn nhân, lấy sớm mà gặp người hung hãn tất phải chia lìa, hoặc
vô sinh dục mà phân ly hoặc lấy muộn mà tâm chẳng đầu, ý chẳng hợp
cũng kể là cô.
Mệnh an Tý Ngọ, không chính tinh mà cung Thê thấy Thiên Cơ,
Thiên Lương thì vợ là người hiền hậu thông minh, vận gặp nhiều hung
sát tinh hay Hồng Loan, Cô Quả thường góa vợ.
Mệnh Nữ, Thái Dương đắc địa ở miếu vượng cung là vợ đoạt phu
quyền lại dễ có những mối tình ngoại hôn. Âm Dương hãm đóng cung
Phối khó bền duyên. Âm Dương hãm gia hội Kình Kị phu thê ly biệt.
Phu Thê Cự Nhật Dần hay Thân vợ hay chồng có thái độ ngang
chướng cuộc sống lứa đôi bất an. Mệnh tốt, phối cung đẹp nhưng cung
xung chiếu Thê là Quan Lộc xuất hiện Hóa Kị, Đà Kị, Cự Kị vợ chồng
sống với nhau trong nghi kị.
Thê cung Tham Đào Hóa Lộc hội tụ, vợ có khuynh hướng ngoại
tình. Phu cung Sát Phá Tham có Quyền Lộc Xương Khúc là Mệnh Phụ
nếu thấy luôn Cô Quả tất sẽ thành Quả Phụ.
nếu thấy luôn Cô Quả tất sẽ thành Quả Phụ.
Về cung Phối, phú nôm có nhiều câu đặc sắc như sau:
T Ử T Ức Cung
Con cái đắc lực hay không, con cái có đem đến rạng rở cho tôn tộc
hay không, có con nối dõi hay không, những nổi buồn về con cái… đều
liên hệ đến cung Tử Tức.
Bản Mệnh bình thường, nhưng cung Tử tốt đẹp hẳn thì con hơn cha
mẹ. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư viết: “Như cung này mà Kình Đà, Linh
Hỏa Không Kiếp Sát Kị hãm ắt có sự hình khắc về mặt con cái. Cung
này được các thiện tinh, quý tinh thủ thì con cái thông tuệ thành công
sang quý. Ác tinh coi giữ có nổi buồn về con phá đãng nghịch tử…
Sách kể trên cũng đưa ra những luận cứ sao nào thì sinh mấy
người. Sao nào thì đưa đến tình cảnh tuyệt tự. Vào thời đại bây giờ, cái
chuyện sinh mấy người kể như không thực tế. Như bên Trung Quốc
lệnh chính quyền chỉ được đẻ một con thôi vì nạn nhân mãn, bên Ấn Độ
có chính sách khuyến cáo đàn ông hãy thiến hoặc cột (?) vì xứ Ấn đã
đông người quá rồi đẻ theo nhịp cũ sẽ đói to. Những người ở Hoa Kỳ ai
cũng phải có kế hoạch gia đình nhiều nhất là ba, đẻ thêm nữa kể là
ngoại lệ.
Cái số bao nhiêu không còn áp dụng được nữa. Câu hỏi về con cái
hiện đại chỉ là có hay không? Sớm hay muộn? Con cái hiếu thuận hay
chăng?
Hãy đọc những câu phú nôm ghi sau đây có thể hiểu được phần
nào những thắc mắc trên:
* Thai cung Tả Hữu hội chung
Sinh con có kẻ bên dòng tiểu tinh
T ài bẠch cung
Tiền là nguồn sống, cung Tài bạch được xem là cung trọng yếu đối
với số mạng con người. Cung mệnh vượng mà cung Tài xấu thì cung
mệnh sẽ bị ảnh hưởng. Cung Tài tốt mà cung Mệnh dở thì cũng không
nên cơm cháo gì an thân mà thôi. Như sách viết: “Mệnh bần nhi tài
vượng an thân nhi dĩ”.
Cung Tài cũng liên hệ khăng khít với cung Phúc Đức vì Phúc là
cung xung chiếu cung Tài. Phúc Đức là gốc của cơ may cho Tài Bạch.
Tài vượng mà cung Phúc chẳng hay khó nên cơ nghiệp hoặc phải gian
Tài vượng mà cung Phúc chẳng hay khó nên cơ nghiệp hoặc phải gian
lao vất vả mới thành. Phúc vô dụng Tài bí xị, Mệnh vẫn vơ thì cả cuộc đời
nghèo khổ. Mệnh thanh cao, phúc thanh cao mà Tài bạch bình thường
thì nên danh nhưng nghèo tiền như mấy vị nhân sỹ, nghệ sỹ bất phùng
thời, đời chuộng nể mà túi rỗng không.
Tài Bạch có hơi hướm bà con với cung Điền Trạch. Tài Phúc tốt mà
Điền quá dỡ thường đưa đến tình trạng không tụ tài. Phúc hãm, Tài
vượng, Điền trạch sáng, xuất thân thấp kém do cần kiệm mà thành
nghiệp. Phúc miếu, Tài nhược nhưng Điền Trạch thịnh, làm việc tân
cần tích tiểu thành đại. Phúc và Điền đều hãm phá, nhưng Tài vượng
thịnh chỉ được một thời sung túc. Tài hãm, Điền tối tăm mà Phúc
vượng, có đấy rồi lại mất đấy hoa nhi bất thực.
Tài Phúc có Hồng Loan Thiên Hỉ vào nghề cờ bạc có lúc phát. Cô
Quả đóng Tài khó mà khoát đạt trong việc sử dụng tiền nên hay lỡ cơ
hội.
Tử Phủ, Thái Âm, Song Lộc, Vũ Khúc đóng Tài Bạch rất tốt. Cự Môn
Tý Ngọ đóng Tài tiền tới bằng cạnh tranh hoặc đầu cơ man trá. Vì chính
là cách “Thạch trung ẩn ngọc”.
Tham Lang vào Tài thường được ân nhân chi Tài (tiền bạc do quỹ
đen hoặc gái cho). Thiên Cơ kiếm tiền bằng khả năng mình kiến tạo
được.
Thái Dương miếu địa vào Tài Bạch có thể làm giàu. Thiên Đồng
chủ phát muộn. Thái Âm hãm vào Tài Bạch không giàu nhưng sung túc.
Liêm Trinh vào Tài Bạch hoạnh phát nhưng theo khuynh hướng bất
chính. Thiên Tướng kiếm tiền trung thực. Thất Sát đắc địa bạo phát bạo
bại. Phá Quân hãm và hai sao Hao không nên vào Tài Bạch. Phá Quân
lên voi xuống chó. Khôi Việt dễ gặp may từ quý nhân. Thiên Riêu vào Tài
mê cờ bạc.
Sau đây là những câu phú nôm dành cho cung Tài Bạch:
T Ật Ách Cung
Trần Nhạc Kỳ viết trong cuốn Chính Thống Tử Vi Đẩu Số: “cung Tất
Ách chủ về bệnh thống, lại cũng chủ về tâm cảnh vui sướng hay phiền
não. Bởi vậy cung Tật Ách không nên quá vượng, nếu Tử Vi hay Thái
Dương tọa thủ cung Tật chẳng những không hay gì mà còn lắm bậnh
tật.
Cung Tật Ách cũng không nên có nhiều Sát tinh tụ vào gây ra nhiều
bệnh tật. Cung Tật Ách cũng cho hay về tai nạn gây thương tích, chết
chóc. Bệnh tật thế nào, luận đoán thường căn cứ vào các sao với ngũ
hành sở thuộc của chúng.
Tỉ dụ, Thiên Phủ thuộc Thổ, nếu thấy Sát tinh hội tụ thì con Tì yếu,
nhược điểm là Tì bệnh thường xuất hiện ở bộ phận này.
Qua kinh nghiệm chỉ có phần nào đúng thôi. Đứng trên cơ sở y
khoa bệnh tật người ta không đơn giản như vậy. Do đó mà dùng Tử Vi
mà đoán chính xác được bệnh tật là điều tin xem như hàm hồ.
Hơn nữa sách luận về bệnh tật cho khoa Tử Vi không đồng nhất.
Ngoài ra không chỉ ở cung Tật Ách bệnh tật mới hiện lên, qua Mệnh hay
Phúc cung có thể thấy. Tỉ dụ Không Kiếp đóng mệnh hay Tật Ách đều
dễ mắc bệnh ngoài da, suyễn.
Thiên Cơ Khốc Hư ở mệnh hay ở Tật Ách đều đưa đến một căn
bệnh lao nào đó. Riêng cung Phúc thì dễ tìm ra ở đây một bệnh trên
tâm thần, không phải bệnh ở cơ năng. Y khoa hiện đại tìm ra những
bệnh bắt nguồn từ trung khu thần kinh (Neurology) tất nhiên không thể
hiện lên cung Tật Ách loại bệnh trên, ngay cả ở các sách y học Trung
Quốc.
Ở khoa Tử Bình vì hoàn toàn căn cứ trên ngũ hành sinh khắc chế
hóa nên luận đoán bệnh tật gần với lý luận chẩn bệnh của y học Trung
Quốc hơn Tử Vi.
* Ách cung Bạch Hổ huyết hư
Khốc Hư Cơ lại có dư phế đàm
* Dương Đà phúc thống bệnh lâm
Mã Đà đới tật Kình làm tì thương
T HIÊN DI CUNG
Qua Thiên Di cung ta có thể tìm hiểu tài năng con người khi vào xã
hội phấn đấu hành động lực trong quan hệ người với người và những
hiện tượng thành bại về phương diệnl lập thân. Thiên Di cung xung
chiếu với Mệnh cung nên ảnh hưởng giao thoa của hai cung này rất
đậm.
Tử Vi có Tả Hữu chiếu, hoặc đồng cung ra đời được phò trợ, thêm
Phá Quân càng nhiều tay chân, gặp Hỏa Linh Kình Đà thường bị bội
phản
Thiên Cơ đứng với Cự Môn càng động càng hay. Cơ Lương xuất
ngoại xứng ý, với Thái Âm xoay sở thành tựu, bị Dương Đà hãm, Hỏa
Linh hãm vất vả lưu lạc.
Thái Dương ở Thiên Di đắc địa, ra ngoài phát phúc đừng nên tĩnh
thủ, cùng Cự Môn cung Dần càng hay. Gặp Kình Đà Linh Hỏa thân tâm
khó an nhàn.
Ở Thiên Di hay Mệnh hay bất cứ cung nào khác thì sao phải ở miếu
hay đắc địa mới tốt đó là nguyên tắc chung.
- Thiên Di xuất ngoại anh hùng
Quần thần Tử Phủ Lương Đồng cùng gia
- Khoa Quyền Lương Lộc ai đương
Bạn nhiều lại gặp quí nhân yêu dùng
- Việt Khôi là cách ung dung
Việt thường là bạn, Khôi thường gặp sang
- Vợ chồng viễn phối tha hương
Hồng Đào len lỏi vào hàng Thiên Di
- Hỉ Thần Hoa Cái yêu vì
Lộc Mã hội họp nhiều khi ngoại tài
- Vũ Tham tài phát phương ngoài
Khúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân
- Dương phùng Lực Sĩ Tướng Quân
Ra vào thường ở trong sân quí quyền
- Phá Quân Thất Sát cõi ngoài
Hãm cung thôi lại suốt đời thị phi
- Cự Môn, Thất Sát bôn trì
Lao tâm khổ trí ích gì ước mong
- Vũ Đà Kình tất âu lo
Liêm Trinh Cự Kị cũng là sát tinh
- Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình
Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui
- Thiên Riêu Hóa Kị ra ngoài
Đa chiêu mạ nhục chẳng ai yêu mình
- Tướng Quân ngộ Triệt chẳng lành
Trận tiền kia dễ bỏ mình chôn thây
(Nếu như Thân ở Thiên Di)
- Long đong đông tẩu tây trì
Bởi vì Cơ Mã Thiên Di hãm nhàn
- Chơi bời du thủy du san
Thiên Di Đào Mã họp làng kết giao
- Thiên Di Không Kiếp khốn sao
Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân
- Quan Phù gặp Hình Tuế hương
Ở Thiên Di sẽ ly hương ngộ hình
NÔ CUNG
Qua Nô cung khoa Tử Vi cho ta thấy quan hệ với thủ hạ, với bạn
đồng sự, với người thân quen. Ở cung Nô cũng có thể xem một tình
trạng nào đó về hôn phối về một cuộc tình như thế nào đó.
Tỉ dụ câu phú chữ Hán về Nô Bộc cung không được phong phú
mấy, đại khái cũng chỉ cát tinh là tốt, hung tinh là xấu và tuyệt đối không
thấy câu nào liên hệ đến vợ con duyên tình. Nhưng phú nôm thì đa
dạng hơn:
- Cung Nô mà có Hóa Quyền
Ắt rằng vợ lẽ cướp quyền người trên
- Đào Hoa Nô lại tương phùng
Vợ chồng mắc tiếng bất trung ưu phiền
- Nô cung Hoa Cái Đào Hồng
Cùng với Phụ Bật chiếu vào cho nên
Chính Thê thứ Thiếp nhiều duyên
Khác nào dây Cát sánh bên cõi Cù
- Vũ Tướng Tả Hữu đồng lưu
Nhất hô bách nặc ai đâu dám bì
- Phá Quân Vũ Khúc đồng cung
Những Quân phải bội phải phòng cho tinh
- Cự Môn oán chủ nhiều phen
Nhưng không thể kiếm được miền ra đi
- Dương Đà Kị Phá hãm bên
Bạn bè tôi tớ đảo điên khó lường
- Lương Cơ Tả Hữu Khúc Xương
Miếu cung cũng được mọi đường kết giao
- Tham Lang Trinh Tướng hợp vào
Thiếu niên bôn tẩu lại chiêu oán thù
Với sách vở Trung Quốc thì Điền Trạch được xem là một trong mấy
cường cung của nữ mạng, bằng lý luận sau đây: Điền Trạch cung cho
biết người nữ sinh ra đời tình cảnh gia đình thế nào? đến tuổi trung
niên thân tâm có được an lạc không? Con cái có chăm lo cho nơi ăn
chốn ở không? Bởi thế dù cho cung Tử Tức đẹp mà cung Điền Trạch
quá xấu thì quan hệ với con cái kém hẳn đi. Họ cũng đưa ra thuyết khi
lưu Kình Dương vào cung Điền Trạch ắt sẽ có sự đổi dời nhà cửa, hoặc
nhân khẩu không yên. Các Tử Vi gia Trung Quốc nói chung cho rằng
Kình Dương đóng Điền Trạch kể như xấu, hãm địa càng xấu hơn. Điền
Trạch không ở mãi trong tay mình hoặc nhân khẩu hao tổn. Số nữ
mệnh hay Điền có Sát, Mã thường truân chuyên.
Vũ phùng Phá diệu ư Điền Trạch nan bảo di lai tổ nghiệp (Vũ Khúc
Phá Quân đóng vào Điền Trạch không giữ được của cải cơ nghiệp của
ông bà cha mẹ)
ông bà cha mẹ)
- Phá Quân sao ấy tán tài
Cư Điền bán hết lưu lai tổ truyền
- Tham Riêu hãm địa cùng xâm
Gia trung thất vận gian lâm Trạch Tài
- Cô Thần nên giữ Điền cung
Tang Môn Ấn Lộc của mong tổ truyền
- Đào Hồng lại gặp Quí Ân
Cô dì để lại có phần phong lưu
- Cự Cơ giàu có hào hoa
Thiên Phủ Vũ Khúc mấy tòa ngênh ngang
- Hồng Loan ruộng đất giàu sang
Tử Đồng Nhật Nguyệt một đàng hanh thông
- Đồng Tham miếu vượng lâm Điền
Ấy là tay trắng làm nên cửa nhà
- Hao Không vườn ruộng được bao
Tang Môn Linh Hỏa lâm vào hỏa tai
- Tang Môn Bạch Hổ song hành
Cửa nhà vừa đủ náu mình mà thôi
Phúc cung khá phức tạp cho việc luận đoán lá số, vì nó liên hệ và
ảnh hưởng đến nhiều cung khác. Như câu phú sau đây:
“ Phúc cung tọa Hợi cung, tối hỉ Âm Dương, Tử, Phủ, Thiên Đồng
kiêm hữu Khúc Xương, Long Phượng, Bật, Quyền tất hiển vinh. Nhược
vi Sát Phá Liêm Tham tu đắc Khoa Hình, Không Kiếp, Tràng, Tồn tất
bạch thủ thành danh võ cách duy hiềm chiêu phát mộ suy”
(Cung Phúc đóng ở Hợi rất đẹp nếu có Nhật Nguyệt đắc địa, Tử Vi
Thất Sát hay Thiên Phủ lại cần Xương Khúc Long Phượng, Hữu Bật
Hóa Quyền thì được hiển vinh. Nếu là Sát Phá Tham đắc địa thì cần có
thêm Khoa Hình Không Kiếp, Tràng Sinh, Tồn tay trắng thành nghiệp võ
nhưng không lâu bền)
Những câu phú trên đây cho thấy cung Phúc Đức còn liên hệ trực
tiếp đến công danh thân phận như Mệnh cung. Phú nôm có những câu
liên quan đến Phúc Đức như dưới:
- Tang Môn Linh Hỏa chớ màng
Thường sinh hỏa hoạn trong hàng tộc tôn
- Đào Hồng Hoa Cái nhập môn
Ắt rằng có gái đẹp khôn khác người
- Đào Thai hội hợp chớ vương
Phúc cung có gái tìm đường gió trăng
- Đà La Không Kiếp án ngăn
Đẹp gì trong họ ắt rằng suy hao
- Đà La độc thủ tốt sao
Phúc có chánh diệu đệ bào tiệm hưng (?)
- Nếu gặp án ngữ Triệt Tuần
Thôi còn hy vọng ước mong được gì
- Phúc cung gặp Tang Đào Hồng Tú
Trong họ hàng ắt có quả phu
Ngoài ra còn có những câu phú chủ về cung Phúc Đức cần biết
sau đây:
- Phúc cung tại Sửu cung kiến Tham Vũ diệc cần Tả Hữu Phượng
Long nam hiển danh tài hưu Tam Hóa Hổ Riêu nữ tất giang hồ
hiển hách danh gia (Phúc đóng cung Sửu thấy Tham Vũ có thêm
Tả Hữu Phượng Long số trai tài giỏi nếu tam Hóa hội tụ cùng
Bạch Hổ Thiên Riêu số gái làm đĩ nên danh)
- Dần cung Phúc tọa tối hiềm Phá, Liêm, Dương, Đà, Hỏa, Linh lục
bại dị sinh đức tổn tài suy. Nhược kiến Âm Dương, Tham Vũ, Lộc
Quyền thừa đạt đinh tài, hỷ đắc vô tai. (cung Phúc ở Dần gặp Phá
Quân, Liêm Trinh đứng với Đà La hay Hỏa Linh thì đức tổn, tài suy.
Quân, Liêm Trinh đứng với Đà La hay Hỏa Linh thì đức tổn, tài suy.
Nếu như có Âm Dương, Tham Vũ, Hóa Lộc Hóa Quyền thì dinh tài
lưỡng vượng, không gặp họa to)
- Phúc cư quí hương nhược lai Nhật Nguyệt tu kiến Không tinh, Địa
Kiếp Kình xâm nam nhân phá bại. Nhược Việt Khoa Hổ Khốc nữ
nhân toại hưởng phúc tường vinh hoa phú quí (Phúc ở Sửu cung
Nhật Nguyệt chiếu cần thêm Tuần Triệt mới hay nếu gặp Địa Kiếp
Kình Dương thì số trai phá bại. Nếu thấy Việt, Khoa, Hổ, Khốc số
gái được vinh hoa phú quí)
- Địa Kiếp lâm Phúc Đức nhi hữu tai (Cung Phúc Đức xuất hiện
sao Địa Kiếp thường bị tai nạn)
- Phú thọ qui vinh bần ai khổ do ư phúc trạch cát hung
- Tài Phúc nhi phùng Hao Kiếp đơn ảnh cô bần (Cung Tài hay
Phúc Đức mà có hai sao Hao Kiếp thường cô đơn thanh bạch)
- Tham Vũ đồng hành, hạnh phùng Mộ tinh tứ đại hiển vinh (Cung
Phúc hay cung Mệnh có Tham Vũ đứng cùng gặp sao Mộ thì hiển
vinh. Câu này nhắc tới sao Mộ, Tham Vũ đồng hành tất nhiên phải
ở Sửu hay Mùi là Mộ địa, mà còn nói tới Mộ tinh, như vậy là vấn đề
sao Mộ một lần nữa được đặt ra. Phải chăng chỉ những người
dương nam âm nữ thì mới được hưởng sự thành công thật sự của
cách Tham Vũ đồng hành?)
Cung Phụ Mẫu thật tốt đẹp nhưng cung Tật Ách xuất hiện sao Hóa
Kị thì không được hưởng của bố mẹ cho sau khi bố mẹ qua đời.
Cung Phụ Mẫu có những sao Cự Môn hãm, Phá Quân, Hao tinh ắt
phải xa cách chia ly hoặc bố mẹ không thừa nhận. Những câu phú nôm
về cung Phụ Mẫu phần lớn chỉ nói về cha hay mẹ mất trước lại thường
chỉ căn cứ vào hai sao chủ yếu là Thái Dương, Thái Âm. Tỉ dụ:
Qua kinh nghiệm thấy không chính xác. Cha mẹ sinh nhiều con kẻ
sanh ngày người sanh đêm nếu căn cứ vào câu phú trên để đoán một
nhà đông anh em sẽ thành tình trạng hỏa mù, người anh cha mất
trước, người em lại mẹ mất trước. Thật ra ai mất trước phải xem số
chính người ấy mới mong trúng được.
- Việt Khôi phụ mẫu hiển vang
Khúc Xương Tả Hữu mọi đàng hanh thông
- Thiên Cơ Hợi Tí Sửu cung
Mẫu thân phụ tử ắt xung khắc nhiều
(Câu này chỉ đúng nếu có thêm sao Hóa Kị)
- Cơ Lương hội họp đáng yêu
Lộc Tồn Không Kiếp lại điều phá gia
- Bật Tướng cát diệu đồng hòa
Mẹ cha kia vốn con nhà danh môn
- Hỏa Linh hình khắc cô đơn
- Hỏa Linh hình khắc cô đơn
Kình Đà cha mẹ cùng con bất đồng
- Cự Liêm Vũ Sát Phá Tham
Mẹ cha con cái vốn đàng ly tông
- Thung huyên hưởng phúc ung dung
Nhờ cung Phụ Mẫu Thiên Lương vượng hành
- Tuần Triệt cư Phụ Mẫu xuất ngoại khả thành danh (Tuần Triệt
đóng vào Phụ Mẫu ly hương xuất ngoại làm nên)
Mệnh ví như chiếc xe, vận là con đường. Xe tốt đường xấu, vất vả.
Xe xấu đường tốt cũng được thoải mái. Xe tốt đường tốt thành công. Xe
tốt mà đường lúc tốt lúc xấu thăng trầm. Xe xấu đường cũng xấu luôn
cuộc hành trình của đời sống chẳng ra gì.
Đó là quan hệ khăng khít giữa mệnh với vận. Khi nói vận thì cũng
cần xem cả mệnh cung. Khi nói mệnh thì cũng nên tham khảo từng vận,
căn cứ vào mệnh để biết thành bại đến mức nào? Căn cứ vào vận để
xem lúc nào thành, lúc nào bại, lúc nào thuận lợi, lúc nào bất thuận.
Thành bại có nhiều phương diện: Quyền chức – Công danh – Tình
duyên – Hạnh phúc – Tiền bạc, những chuyện bất ngờ xảy ra (may mắn
– tai họa).
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư mỗi sao đầu có những câu ca cho mệnh
và vận. Tỉ dụ sao Vũ Khúc vào nam mệnh như sau:
Nguyên tắc căn bản là cái hộp nhỏ bỏ vào trong cái hộp lớn, hộp
lớn không bao giờ bỏ lọt vào trong hộp nhỏ. Đại vận trước đã rồi tiểu
vận thứ nhì. Chẳng có ai làm việc gì mà thành công trong đầu hôm
sáng mai. Việc lớn cả mười năm, việc nhỏ cũng phải phấn đấu một
năm. Trừ trường hợp trúng số độc đắc, trường hợp này xem là ngoại lệ,
hoặc do là một đại phúc hay một đại họa. Ở Hoa Kỳ người ta cũng viết
nhiều về những người “đột nhiên giàu có” đa số bị hậu quả như một đại
họa. những người được đại phúc kể là hiếm. Hễ đã được đại phúc thì
người ngồi trên ngai vàng còn phải chịu nhiều thứ lo, chịu búa rìu dư
luận, người ghét kẻ thù. Còn như đại phúc của người trúng số thì tọa
hưởng yên bình thoải mái.
Về vận hạn có thuyết nói: Dương nam Âm nữ gặp Nam đẩu tinh thì
tốt. Âm nam Dương nữ gặp Bắc đẩu tinh mới hay. Bắc đẩu ứng tốt xấu
5 năm đầu của đại hạn, Nam đẩu ứng tốt xấu 5 năm sau của đại vận.
Người tuổi Giáp rất kị hai sao Thương hay Sứ tại Dần. Người tuổi
canh lại sợ 2 sao ấy ở Thân. Hai hạn gặp nhau ở cung Tý thấy Kình Đà
Tuế và Thương hay Sứ nguy đến tính mạng. Người tuổi Thân mà 2 hạn
gặp phải Thiên Thương nhiều tai họa. Người Tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi
mà 2 hạn thấy Kình Đà không sợ bị họa.
Thuyết trên đây có phần “trói voi bỏ rọ” luận đoán lá số, luận đoán
những sao trong lá số không thể đánh đồng giá. Cũng như bảo rằng
đại tiểu hạn có Tử Phủ Vũ Tướng Lộc, Long Phượng Tả Hữu nhất định
phải phát giàu có lớn, Cơ Nguyệt Đồng Cơ Cự Tướng Ấn Khôi Việt Tả
Hữu nhất định sẽ thăng quan hoặc đỗ cao. Số không luận đoán dễ
dàng như vậy.
Những người sinh cùng năm tháng ngày giờ mang số y hệt nhau,
nhưng không có cuộc đời của hai người nào giống nhau như 2 giọt
nước. Không lẽ có một ngày nào đó các người tuổi Thân trên khắp thế
giới đều lăn cù ra chết vì sao Thiên Thương? Còn tùy thuộc nghề
giới đều lăn cù ra chết vì sao Thiên Thương? Còn tùy thuộc nghề
nghiệp khác nhau, tính cách chính trị xã hội khác nhau… Ấy là chưa kể
đến sự khác nhau căn bản đó là hình tướng.
Về vận hạn khi luận đoán ngoại trừ tham khảo Mệnh Thân, thì đại
hạn là căn bản rồi đến tiểu hạn từng năm.
Đại hạn bất lợi mà tiểu hạn tốt đẹp, sẽ cho ta một năm xứng ý toại
tâm. Đại hạn đẹp mà tiểu hạn xấu, công việc đang hay bỗng có thời
gian ngưng lại.
Đại hạn tốt tiểu hạn xấu bị trì trệ nhưng không làm hại đại cuộc. Đại
hạn xấu có năm tiểu hạn thật tốt thì chỉ năm ấy sáng sủa thôi, tiếp theo
là bại.
Đại hạn xấu, tiểu hạn cũng dỡ, vạn sự vô thành. Đại hạn hung tiểu
hạn cũng hung không nghèo khổ cũng phá bại.
Cuốn Tử Vi Đẩu Số của Trần Anh Hoa có một đoạn viết về hạn bất
lộc và hạn chết như sau: “Nhân sinh bách niên ắt phải có lúc chết”.
Về tử hạn, đại thể cổ nhân nhận xét như sau: “Đại tiểu hạn đều
thấy Triệt Lộ Không Vong thêm hung sát tương xung đưa đến cái chết,
đó là luận đoán thông thường.
Nhưng cung Mệnh ở miếu vượng, tới tuổi già quá nhiều sao tốt ở
miếu vượng như thế là thái quá, mất quân bình cũng có thể đưa đến sự
chết chóc bất ngờ. Như bản mệnh hãm nhược, hành hạn lại gặp xung
phá, ví như chiếc đèn khô dầu tự nhiên mà mạng vong.
Mệnh miếu vượng với những sao tốt, mà đến hạn bị tứ sát phá,
lưỡng hung tương xung lại niên vận tụ tập hung sát mà người trẻ tuổi
thân thể cường tráng thường bị hung tử.
Mệnh ở cục diện yểu triết mà gặp nhưng hạn đi với những thọ tinh,
thì khi qua khỏi những vận thọ tinh ấy, gặp hung là nguy đến tính mạng.
Người bình thường từ năm mười đến sáu chục tuổi vận có Thương Sứ
nếu như cung vận hạn có nhiều sao miếu không bị phá thì Thương Sứ
cũng chẳng gây nổi sự chết chóc.
cũng chẳng gây nổi sự chết chóc.
Mệnh thuộc cách cục diện thọ, vì những sao thọ hội tụ, đi vào vận
hạn toàn hung sát tinh nếu như mất nghiệp hay phá bại thì không chết,
như ta vẫn bảo “của đi thay người”. Của đi thay là mất cả một cơ nghiệp
chức vị, danh giá chứ không phải mất cái xe, mất vài ngàn hay mất cái
nhẫn chiếc đồng hồ. Sinh mệnh con người không rẻ mạt thế. Trường
hợp từ trước tới nay vẫn nghèo túng nghĩa là chẳng có gì để phá bại cả
thì có phúc lắm cũng ốm thập tử nhất sinh để hoặc bị cắt đi nửa bao tử,
một quãng ruột hoặc bị liệt chân tay.
Bản mệnh tầm thường, đột nhiên gặp hạn đại phát, khi ra khỏi hạn
quá tốt ấy gặp luôn vận hung sát quần đảng, nếu không phá bại thì
nguy đến tính mạng.
Mệnh bình thường vận hạn cũng không lấy chi làm hay lắm, chỉ
thấy niên vận đột nhiên hay tốt lạ thường, tiền bạc vào như nước ấy là
tình trạng gần kề cái chết đấy cũng sẽ hốt nhiên mà lìa đời.
Mệnh bình thường thấy hạn chết, hãy tìm coi có sao nào vượt được
hung mà đến cát không, nếu có thời qua khỏi dễ dàng.
Mệnh phú quý, hành hạn cũng xứng tâm, nhưng có một năm nào
đó chính tinh miếu vượng bị xung phá dữ dội, nếu biết nhìn được quán
đạt của ảo ảnh của hồng trần mà đi tu hoặc cho bớt của cải đi thì không
có cái lo ngại chết chóc. Bản mệnh tốt nhưng sao chủ tinh của bản
mệnh mang tính chất liều lĩnh hung hãn không cần phải trái mà gặp
hạn hung sát quyết liệt dễ đưa đến bất đắc kỳ tử. Bản mệnh ở cách cục
yểu triết, đến vận hạn cũng hiển hiện lên tình thế yểu triết mà bị tàn tật
rồi thì vẫn sống lâu.
Mệnh của những vĩ nhân ít nhiều quan hệ đến hưng vong an nguy
của tập thể, của xã hội, của đất nước có những vận đáng lẽ chết mà
không chết là tại vận nước chưa chuyển vậy.
Mệnh vốn cô độc thế mà lục thân đầy đủ, nội ngoại thuận hòa mãn
ý. Vào tuổi tráng niên mà gặp vận hung dễ chết, hoặc gia phá nhân ly
Những sao lưu gồm có: Lưu Thiên Mã, Lưu Tuần Triệt, Lưu Lộc
Tồn, Lưu Kình, Lưu Đà (Những sao an theo Lộc Tồn). Tử Vi khoa ở
Trung Quốc còn có lưu tứ Hóa nữa. Khi luận đoán thấy lưu thêm cả tứ
Hóa thấy hợp lý.
Bởi vậy mới đặt ra nguyên tắc bốn Lộc, ba Quyền, ba Khoa, ba Kị.
Bốn Lộc là vì đại hạn có Lộc, cung tiểu hạn có Lộc nữa rồi lưu niên Lộc
Tồn, lưu niên Hóa Lộc. Hai Lộc tốt nhất, ba Lộc thì Lộc nặng quá mà
thành phiền, đến như bốn Lộc tất đưa đến tình trạng “Lạc cực sinh bi”.
Một Quyền hanh thông, hai Quyền ra tranh chấp, ba Quyền thành
hung hiểm bất lợi. Một Khoa thêm Khoa nữa hiển vinh, đến ba Khoa lại
thành bị tiếng xấu. Một Kị đã lắm chuyện, hai Kị nhiều xung đột, ba Kị
như bốn phía thọ địch,nhưng ba Kị mà gặp các sao tốt khác hợp thời thì
lại chuyển sang bỉ lực thái lai cùng biến mà thông.
Ngoài ra, các Tử Vi gia Trung Quốc còn chú trọng đến lưu Khôi Việt,
Lưu Xương Khúc, Lưu Hồng Loan, Thiên Hỉ, Lưu Đào Hoa. Lưu Đào-
Hồng-Hỉ, Lưu Khôi Việt những sao đại biểu cho một tình trạng cảnh
huống kể là có lý nhưng lưu Xương Khúc là những sao đại biểu cho
tâm chất và khả năng, thấy không thuận.
Xem số tướng để tìm cho mình một nhận định cho mình về giàu
hay nghèo, hạnh phúc hay oan khiên, nhàn thân hay khổ cực, sống thế
nào, chết ra sao…?
Ripley Believe It Or Not là một sưu tập rất nổi danh của ông Ripley
chuyên đi tìm những chuyện khác lạ kỳ quái hiếm thấy, như người nhỏ
bé chỉ bằng ngón tay, người sanh ra không tay không chân, nằm như
một củ khoai, kẻ có cái dạ dày lạ ăn một bữa ngang bằng hai chục
người nhưng sau đó có thể nhịn cả tháng.
Vậy thì xem Tử Vi, toán mệnh là đưa ta về với cuộc sống hàng ngày
kể cả quá khứ lẫn tương lai. Tử Vi không phải là RIPLEY BELIEVE IT
OR NOT.
Mấy thập niên đầu thế kỷ thứ 19, tại Châu Phi có bộ lạc Zulu nổi lên
Chaka là vị vua trẻ của bộ lạc này. Ông ta khá giỏi về quân sự. Người
đầu tiên đã lãnh đạo một cuộc địa chiến dùng tới 10 ngàn quân để
chống lại người da trắng. Đã từng đánh bại quân Anh trong một trận mà
người Anh phải ghi vào lịch sử của họ.
Chaka không bao giờ kết hôn, vì sợ một ngày nào đó đứa con mình
sẽ làm phản cướp ngôi. Tất cả những người đàn bà nào đã có thai với
Chaka đều bị đem hành hình cả mẹ lẫn con.
Nhưng tới một ngày Chaka nằm trên giường bệnh với sự coi sóc
của bà mẹ ông đã bị các anh em ruột thịt đâm chết. Kể từ đấy bộ lạc
Zulu tiêu tan cùng với nguyện vọng của Chaka là thống nhất toàn thể
Châu Phi.
Chaka đã không thoát khỏi định luật của số mệnh: Ngươi muốn đi
tới đâu cũng được nhưng rồi ngươi sẽ phải chết vào một thời điểm ở
một nơi nào đó
TỬ VI TINH ĐIỂN
NẠP ÂM LÀ GÌ?
Tuổi Giáp Tí nếu tách rời can chi ra thì Giáp là dương mộc, Tí là
dương thủy. Tuổi Ất Sửu tách rời can chi ra thì Ất là âm mộc, Sửu là thấp
thổ thuộc âm. Gộp hai tuổi lại Giáp Tí, Ất Sửu nạp âm thành Hải Trung
Kim. Vậy Hải Trung Kim là cái tên nạp âm cho hai tuổi Giáp Tí, Ất Sửu.
Một vòng từ Giáp Tí đến Quí Hợi có sáu chục năm. Mỗi mười năm
lại có một chữ Giáp đứng đầu: a) Giáp Tí b) Giáp Tuất c) Giáp Thân d)
Giáp Ngọ e) Giáp Thìn f) Giáp Dần gọi bằng lục thập hoa giáp chia làm
ba mươi tổ kim mộc thủy hỏa thổ, mỗi hai năm một tổ. Ngũ hành Kim
Mộc Thủy Hỏa Thổ qua nạp âm để định từng tính chất khác nhau giữa
Kim với Kim, Mộc với Mộc. Như bảng dưới đây:
Rồi trong mỗi tổ hai năm lại phân ra khí thế mạnh yếu giữa hai
năm ấy. Xin đọc một đoạn dưới đây trích từ sách “Bác Vật Vựng Biên
Nghệ Thuật Điển”
“…Ngày xưa vua Hoàng Đế lấy Giáp Tí phân tích nặng nhẹ để phối
hợp nên sáu mươi gọi bằng Hoa Giáp Tí. Chữ Hoa ở đây mang hàm
nghĩa ảo diệu chỉ lấy ý mà dụ, không chấp nệ với nghĩa đen của nó. Từ
Tí đến Hợi mười hai cung đều có Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Khởi đầu là
Tí nhất Dương đến Hợi lục Âm. Ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa
Thổ ở trên trời là ngũ tinh, ở dưới đất là ngũ nhạc, ở đức độ là ngũ
thường, ở nhân thân con người là ngũ tạng, ở mệnh là ngũ hàng. Bởi
vậy Giáp Tí đem ứng dụng vào số mệnh. Mệnh là những sự việc của
một con người.
Như Tí Sửu âm dương ví như lúc còn nuôi nấng trong bào thai, vật
mới phôi thai thân gốc ẩn tàng. Dần Mão âm dương bắt đầu nảy nở,
hình thành và lớn lên. Thìn Tỵ âm dương khí thịnh, vật thành đẹp đẽ ví
như tuổi tráng niên tìm đất lập thân, tiến thủ. Ngọ Mùi âm dương tất cả
đã hiện như con người vào tuổi năm sáu mươi, giàu nghèo sang hèn
đã thấy cả, sự hưng suy tỏ lộ. Thân Dậu âm dương giai đoạn tiêu sắt
thâu liễm, chuyển sang già nua. Đến Tuất Hợi âm dương đó là thời kỳ
bế tắc, vật khí trở về gốc, để nghỉ ngơi để đi về cát bụi”
Trong quá trình kể trên, cuộc đời hoa dạng phong phú được miêu
tả bởi những ảnh hưởng của nạp âm kết hợp với các sao trong mệnh
cung.
NẠP ÂM VÀ LÁ SỐ T Ử VI
Cách năm mấy chục năm khi viết cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư
(bình chú), phần nạp âm tôi cho rằng liên quan đến Khoa Tử Bình
nhiều hơn. Nhưng sau khi được học hỏi nghiên cứu thêm, và hiểu
được ảnh hưởng của nạp âm với lá số Tử Vi như thế nào?
Căn cứ vào một số sách vở của Trung Quốc thì nạp âm ảnh hưởng
vào tính số bằng cách lấy ngay nạp âm của năm sinh để phối hợp tính
với Mệnh cung. Tỉ dụ Mệnh cung có những sao hay cách cục nói lên con
người hung bạo mà nạp âm cũng hung bạo thì tính hung bạo của
người ấy tăng gấp bội. Nếu các sao Mệnh cung hay cách cục là con
người nhu hoà mà nạp âm cũng nhu hòa thì tính nhu hòa thành nhu
nhược.
Mỗi hành có sáu tượng, như Kim gồm có: Hải Trung Kim, Kim Bá
Kim, Bạch Lạp Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, và Thoa Xuyến
Kim, Bạch Lạp Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, và Thoa Xuyến
Kim bằng một tên gọi khác là nạp âm.
KIM
“Bác Vật Vựng Biên” viết rằng: Giáp Tí Ất Sửu thì Tí thuộc thủy, nơi
hồ ao thủy vượng. Trong khi Kim “tử” ở Tí, mộ ở Sửu chỗ thủy vượng,
kim vào thế “tử mộ” nên mới gọi bằng Hải Trung Kim ví như kim trong
lòng biển, khí thế bị bao tàng, có danh mà vô hình, có tiếng gọi mà
không có thực, an tàng trong lòng biển như thai nhi nằm trong bụng
mẹ.
1. Có thể biết được tâm tưởng mà không hiểu rõ được tâm cơ,
lòng người như biển khôn dò, nếu cung Mệnh có những sao thủ
đoạn điên đảo mà lại ở nạp âm Hải Trung Kim nữa thì quyền
thuật kể vào bậc cự phách
2. Khả năng tốt nhưng thiếu sức xông xáo, tranh cướp phải nhờ
người đề bạt mới thi triển được, nếu cung bản mệnh thấy nhiều
sao do dự nhút nhát mà mệnh lại rơi vào nạp âm Hải Trung Kim
thì càng do dự nhút nhát hơn. Số nữ Hải Trung Kim đối với tình
yêu ít bộc lộ, gói kín trong lòng.
Trước nghịch cảnh, vào phấn đấu Giáp Tí mạnh hơn Ất Sửu, Ất Sửu
dễ có khuynh hướng hư nhược.
KIM BÁ KIM
Nhâm Dần Ất Mão thì Dần Mão là đất vượng của Mộc, Mộc vượng
nên Kim suy, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Mão, Kim vô lực mới gọi bằng
Kim Bá Kim. Mộc vượng Kim suy nên sức yếu, mỏng manh nhợt nhòa,
chữ bá nghĩa là yếu đuối, không sung thực.
Cổ thư viết: “Nhâm Dần Quí Mão là chất kim còn lại ở đất tuyệt cho
nên khí chất nhu nhược, mỏng như tơ lụa”. Kim Bá Kim chất kim dùng
để trang trí trang sức. Nếu được tay được khéo giỏi chạm khắc thì mới
hay đẹp.
Người có số mạng nạp âm Kim Bá Kim cần mài dũa học hành mới
mong thành tựu, phải tìm được thầy mới nên cơ đồ. Bởi vậy Kim Bá Kim
cần Xương Khúc Hóa Khoa ở Mệnh.
Nhâm Dần thì Dần Mộc bị kim khắc nên thế nhược, tinh thần tuy
vượng thịnh nhưng là thứ vượng thịnh của dây cung quá căng bởi vậy
khi ứng phó với hung vận không lì bằng Quí Mão.
Quí Mão cũng như Nhâm Dần Mộc bị Kim khắc, nhưng âm Mộc
sức khắc chế chỉ có hạn trong khi chủ kiến tự mình lại mạnh, nên
chống với hung vận đắc lực hơn.
“Chất Kim của Canh Thìn và Tân Tỵ, dưỡng ở Thìn, sinh ở Tỵ hình
chất mới thành, chưa cứng cáp nên gọi bằng Bạch Lạp Kim”
Bạch LạpKim ví như chất ngọc chưa mài giũa. Tinh thần sảng trực
tinh khiết mà thiếu tâm cơ. Người mang số Bạch Lạp Kim có hai con
đường để lập thân:
1. Học ngành chuyên môn, tập trung vào ngành ấy mà nên công
2. Bươn trải kinh lịch cho thật nhiều như ngọc được mài giũa tinh
luyện cuối cùng khi gặp vận để mà hành xử
Dù Mệnh có những sao tốt mà vận không bươn trải, hoặc không
chuyên nghiệp thì sự nghiệp chẳng có bao nhiêu. Canh Thìn thì Thìn là
thổ chất khả dĩ sinh kim, trong khi Tân Tỵ thì Tỵ là hỏa làm tan chất kim.
Canh Thìn sảng trực tâm ý trung kiên hơn, Tân Tỵ mưu chước lươn lẹo.
SA TRUNG KIM
Giáp Ngọ, Ất Mùi thì Ngọ là chỗ hỏa vượng, hoả vượng thì kim bại;
Mùi là chỗ hỏa suy, hỏa tuy suy nhưng kim cũng đã cùn nhược. Gọi
bằng Sa Trung Kim, Kim không đủ cứng cáp để chém, để đẩy cho nên
người Sa Trung Kim thường làm việc một cách đầu voi đuôi chuột.
Mệnh cung mà thêm sao Thiên Đồng hãm nữa thì càng vớ vẩn.
Sa Trung Kim cần liên tục theo đuổi mục đích nào đó, nói khác đi là
ngoan cố đeo đẳng mới đạt tới được. Giáp Ngọ thì Ngọ hỏa khắc kim
tước giảm khí thế, trong khi Ất Mùi thì Mùi thổ sinh kim. Ất Mùi đương
đầu với gian nan uyển chuyển hơn Giáp Ngọ.
Bác Vật Vựng Biên chép rằng: Nhâm Thân Quí Dậu thì Dậu là chính
vị của Kim vị trí của Lâm Quan và Đế Vượng, nên Kim già cứng cương
mãnh ví như mũi nhọn của lưỡi gươm nên gọi bằng Kiếm Phong Kim.
Nhâm Thân Quí Dậu khí thế cực thịnh.
Người Kiếm Phong Kim tự hiển tài năng mình, hành động tư tưởng
sắc bén. Hồng quang tỏa chiếu tới sao Đẩu sao Ngưu, ánh sáng rõ
ràng như sương tuyết. Có ý chí cao lớn, tâm tính tàn khốc cương nghị
ràng như sương tuyết. Có ý chí cao lớn, tâm tính tàn khốc cương nghị
và tinh nhuệ.
Những sao tốt hội vào Mệnh thuộc nạp âm Kiếm Phong Kim càng
tốt hơn nhất là những số thuộc binh nghiệp hay chính trị. Ngược lại
Mệnh cung nhiều sao xấu gây hung họa thì Kiếm Phong Kim càng tạo
hung họa, trên tính tình tư tưởng là người khó mà lay chuyển.
Nhâm Thân, Quí Dậu cả hai chi đều thuộc Kim nên đều cương
cường đối phó với hung vận bằng khả năng phấn đấu hay chịu đựng
ngang nhau.
Cổ thư viết: “Kim của Canh Tuất, Tân Hợi đến Tuất thì Suy, qua Hợi
thành Bệnh. Kim mà ở vào cái thế Suy Bệnh tất nhiên nhuyễn nhược
nên gọi Thoa Xuyến Kim. Thoa là cái trâm cho phụ nữ gài đầu. Xuyến là
cái vòng đeo ở cổ tay con gái. Thành đồ dùng của phụ nhân, tính cương
mãnh của Kim bị nhuyễn nhược. Bởi vậy Kim của Tuất Hợi trở nên ẩn
tàng, hình thể vỡ vụn. Khi vào chiếc hộp chốn phòng khuê, công dụng
của Kim chấm dứt nên gọi bằng Thoa Xuyến Kim.
Cái số hay nhất với Thoa Xuyến Kim là sống cậy vào nữ phái. Có vợ
giàu, thường giao thiệp với đàn bà con gái (buôn bán nữ trang, quần áo
vẽ kiểu thời trang). Số làm chính trị mà Thoa Xuyến Kim thường chỉ là
đồ trang sức cho chính trị.
T HỦY
Hành thủy có sáu nạp âm: Giản Hạ Thủy, Đại Khê Thủy, Thiên Hà
Thủy, Tỉnh Tuyền Thủy, Đại Hải Thủy.
GIẢN HẠ THỦY
Bác Vật Vựng Biên ghi rằng: Thủy của Bính Tí, Đinh Sửu thì vượng
ở Tí, suy ở Sửu. Vượng rồi Suy ngay tất nhiên không thể thành sông
ngòi, cho nên gọi bằng Giàn Hạ Thủy
Giản Hạ Thủy là dòng nước lạch suối, không rõ nguồn gốc và cũng
không có hướng nhất định để chảy đi, lòng lạch lòng suối lúc nông lúc
sâu.
Cồ nhân có câu: “Dục tấn dục thoái sơn khê thủy, Dục phản dục
phúc tiểu nhân tâm” Nghĩa là lúc tiến lúc lui như nước lạch, lúc phản
phúc lúc lật như lòng tiểu nhân.
Số ai có Phục Binh hay Phá Quân Địa Kiếp hoặc Tử Phá hoặc Linh
Hỏa hãm địa mà thêm nạp âm Giản Hạ Thủy nữa thì cái lòng phản
phúc lật lọng càng ghê gớm. Đứng ngôi chủ như vậy bộ hạ hãy lo giữ
đầu, đứng vai thần tử mà như vậy kẻ đứng chủ chỉ việc chờ ngày bị
phản.
Tâm chất thâm hiểm, tình ý nhỏ nhen nhưng rất thực tế và sắc bén.
Trường hợp số bình thường ắt nhu nhược bất quyết mà thêm Giản Hạ
Thủy nạp âm nữa thì hoàn toàn vô tích sự, lúng túng, hoảng loạn trước
công việc.
Giữa Bính Tí và Đinh Sửu thì Bính Tí nguy hiểm hơn Đinh Sửu thổ
khắc thủy khiến cho nhuệ khí bị tước giảm
Cổ thư biên: “Giáp Dần Ất Mão thì Dần là ranh giới Đông Bắc, Mão
là chính đi về một hướng nên gọi bằng Đại Khê Thủy”
Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi
Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi
khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con. Bởi thế Đại Khê Thủy thủy
khí lượng lớn, biến hóa đến mức gây sợ hãi, tuy không ngấm ngầm
nhưng tâm cơ sâu rộng lan tràn ngập lụt.
Tuy nhiên lại không được xem như sông ngòi. Thác lũ khi gặp lòng
sâu, hoặc hang hốc cũng chảy thành dòng, lấp đầy thành vũng. Bởi thế
đôi khi bụng dạ hẹp hòi và tư tâm.
Người nạp âm Đại Khê Thủy nếu là một chiến lược gia tất có cái
nhìn rộng rãi bao quát. Nếu Mệnh kém mà nạp âm Đại Khê Thủy lại trở
nên con người mơ mộng ước vọng, hoài bão to tát mà thiếu khả năng
hành động, vô dụng.
Giáp Dần Ất Mão hai chi đều thuộc Mộc, đều vững mạnh trước
hung vận, nhưng Ất Mão ý nhị hơn, mềm dẻo hơn vì cả Ất lẫn Mão đều
là âm mộc.
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điền chép: “Nhâm Thìn Quí Tỵ, Thìn
là thủy khố mà Tỵ là Trường Sinh của kim, kim sinh thủy vượng. Đã
vượng mà còn chứa vào kho nước không bao giờ hết nên gọi bằng
Trường Lưu Thủy.
Trường mang nghĩa vĩnh cửu, Lưu mang nghĩa chuyển động không
ngừng, cuồn cuộn vô cùng, thao thao bất tuyệt. Tham vọng to tát nhưng
tư tâm không nhiều. Nếu như số là con người giỏi giang có thể giao
việc mà không sợ phản bội.
Trường Lưu Thủy có một khuyết điểm: chỉ chú trọng đại cuộc mà
quên mất tiểu tiết, đôi khi do sơ sót mà hỏng việc. Mệnh xấu nạp âm
Trường Lưu Thủy là người không có cơ sự nghiệp nhưng biết lo xa
cũng ấm thân.
Nhâm Thìn Quí Tỵ Thìn thuộc thổ khắc thủy, Tỵ thuộc hỏa bị thủy
khắc, đứng trước khó khăn của hung vận Nhâm Thìn vững vàng hơn
Quí Tỵ.
THIÊN HÀ THỦY
Cổ thư chép: “Bính Ngọ Đinh Mùi, Bính Đinh Hỏa, Ngọ nơi chốn
Hỏa vượng mà nạp âm lại là thủy từ hỏa xuất thì phải từ trên trời xuống
nên gọi bằng Thiên Hà Thủy.
Bính Ngọ Đinh Mùi đều là chỗ hỏa vượng mà sinh ra thuỷ, thủy từ
hỏa xuất thì chỉ có từ trên trời xuống. Thiên Hà Thủy đổ xuống khắp mọi
nơi trên trái đất đó là mưa. Vạn vật đều nhờ mưa mà tươi tốt màu mỡ.
Tình yêu thương chan hoà. Nhưng mưa có mưa nhỏ mưa to, mưa xuân
mưa hạ, mưa giông mưa bão. Không phải mưa nào cũng hữu ích cho
bàn dân thiên hạ. Cần mưa nhỏ mà lại mưa lớn, cần mưa lớn mà chỉ
lâm râm, mưa như thế kể bằng vô ích.
Người có Mệnh hợp với Thiên Hà Thủy cần phải thêm trí tuệ mới
hay. Thiên Hà Thủy làm việc xã hội, làm việc tôn giáo hợp cách.
Đứng ngôi chủ vào thời bình mà không nắm quyền sinh sát, dân
gian được nhờ. Mệnh nhiều sát tinh, hung tinh mà Thiên Hà Thủy thành
ra mâu thuẩn khó thành công trên kinh doanh hay chính trị quân sự.
Bính Ngọ can chi hỏa đều bị thủy khắc, Đinh Mùi thì chỉ Mùi thuộc
thổ khắc thủy nên ứng phó với hung vận linh hoạt hơn Bính Ngọ.
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển chép: “Giáp Thân Ất Dậu thì
Thân là Lâm Quan, Dậu là Đế Vượng. Kim vượng tất nhiên thủy cũng
nhờ thế mà sinh tuy nhiên thủy ở tình trạng này chưa hùng dũng lớn
mạnh cho nên gọi bằng Tỉnh Tuyền Thủy.
Tỉnh Tuyền Thủy (nước giếng) không có gốc nguồn rõ rệt. Ở dưới
sâu khơi lên từ lòng đất nên tư tưởng thâm thúy, hành động ẩn mật.
Giếng tốt, nước lấy chẳng bao giờ cạn, bởi vậy đức vọng của người Tỉnh
Tuyền Thủy vô cùng.
Người xưa giảng rằng: “Nước giếng từ suối lạnh nên trong và lạnh,
lấy mãi không hết, mọi người đều uống, trăm nhà dùng nước giếng mà
sống”. Trong là tinh khiết hay liêm khiết, lạnh là thiếu nhiệt tâm đối với
người.
Tỉnh Tuyền Thủy không bao giờ tự phát, phải dựa vào thời thế, dựa
vào thời cơ đi theo thôi mà không mở đầu. Người có nạp âm Tỉnh
Tuyền Thủy theo ngành tình báo gián điệp hợp cách nếu như mệnh
cung có những sao hợp với Tỉnh Tuyền Thủy.
Giáp Thân Ất Dậu đều là Tỉnh Tuyền Thủy. Thân Dậu cả hai đều
thuộc kim, kim sinh thủy bản thân mất nguyên khí, sau tuổi trung niên
sức phấn đấu suy vi.
Cổ thư chép: “Nhâm Tuất Quí Hợi thủy, Quan Đới ở Tuất, Lâm
Quan tại Hợi lực lượng hùng hậu. Hợi ví như dòng sông lớn nên gọi
bằng Đại Hải Thủy.
Nước của Đại Hải Thủy diện tích quảng khoát, thế tượng bao la,
xung kích lực mạnh, làm thiện hay làm ác đều dữ dội. Hoặc là gian
hùng của thời đại, hoặc là anh hùng cái thế.
Người xưa giảng rằng: “Nước Đại Hải Thủy thâu gồm trăm sông
chảy miên man về biển cả, bao quát tính thăng trầm của đất trời, thâu
tóm ánh sáng của nhật nguyệt. Nguồn của Đại Hải Thủy có trong có
đục. Nhâm Tuất chứa thổ khí nên đục, Quí Hợi toàn thủy nên trong.
Nếu mệnh đáng bậc chính nhân thì khi ở ngôi vị thường bao dung đại
lượng ưa làm điều thiện không ưa điều ác, ngược lại mệnh tầm thường
hạ tiện sẽ thành con người lấy oán mà trả ân, tâm địa hẹp hòi như hai
dòng nước trong đục vậy.
Nhâm Thủy Quí Hợi đều là Đại Hải Thủy, có điều Tuất thổ khiến
cho Đại Hải Thủy chảy thành dòng như lòng sông, đầu óc sáng suốt cử
chỉ minh bạch thiện ác phân minh.
Quí Thủy là chính vị, thủy vượng cực chảy tràn lan không bờ bến
nên tâm chất khó hiểu, muốn đề phòng cũng khó mà đề phòng nổi,
thiện ác không rõ rệt. Quí Hợi mà có những sao ở Mệnh mang khuynh
hướng làm chính trị sẽ là người ứng phó với những biến động lớn rất
giỏi, lúc lâm nguy thì quyền biến.
MỘC
Hành Mộc có sáu nạp âm chia thành: Tang Đố Mộc, Tùng Bách
Mộc, Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, Thạch Lựu Mộc, Bình Địa Mộc.
TANG ĐỐ MỘC
Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Nhâm Tí, Quí Sửu thì Tí thuộc thủy,
Sửu thuộc kim. Thủy vừa sinh mộc, kim đã phạt mộc như hình tượng
của cây dâu vừa trổ lá non đã bị hái xuống mà nuôi tằm.
Lá dâu tằm ăn, thân dâu làm cung dùng vào nhiều việc. Từ chiếc lá
đến cành đến thân đều bị sử dụng cho nên Tang Đố Mộc hoàn toàn bị
động, tâm tình rộng rãi, nhưng cái rộng rãi do người điều khiển. . Khi có
tiền, lúc thành công thường bị đẩy vào tình trạng giúp người này đỡ kẻ
nọ từ anh em đến họ hàng bè bạn.
Người Tang Đố Mộc không thể ở ngôi vị lãnh đạo. Mệnh tốt mà cho
điều khiển công việc xã hội hợp cách. Quí Sửu so với Nhâm Tí bản thân
bị tước giảm nguyên khí nên gặp hung vận kém khả năng ứng phó.
TÙNG BÁCH MỘC
Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Canh Dần, Tân Mão mộc, lâm quan
tại Dần, đế vượng tại mão, mộc đến hồi cực thịnh nên gọi bằng Tùng
Bách Mộc.
Tùng Bách Mộc trong sương tuyết mà vẫn cứng cỏi vươn lên xanh
tươi, vừa kiên nhẫn chịu đựng vừa đầy ắp nghị lực chống với khí hậu ác
liệt. Kiên định, dù thử thách nào cũng không bị bẽ gãy. Ý chí luôn luôn
muốn vượt thiên hạ và kỷ luật ngay cả đối với bản thân.
Mệnh tốt, người Tùng Bách Mộc sẽ thành công khác người trên bất
cứ lĩnh vực nào. Mệnh xấu luôn luôn thành kẻ bất đắc chí. Tân Mão
nhẫn nại hơn Canh Dần, Canh Dần cương nghị hơn Tân Mão.
Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Mậu Thìn Kỷ Tỵ, Thìn là giải bình
nguyên rộng lớn, Tỵ là ánh thái dương chói chang tạo thành cây cối
phồn vinh như rừng nên gọi bằng Đại Lâm Mộc. Cây trong rừng um
tùm, rậm rạp khắp nơi một màu xanh nên tâm chất không mưu cầu đột
xuất.
Trí tuệ minh mẫn với sự ngả theo thời thế, làm chức thừa hành tốt,
vào cương vị chỉ huy không hay. Khả năng cũng như khuynh hướng
không có màu sắc riêng của mình
Số Mậu Thìn với Kỷ Tỵ, thì Mậu Thìn đều thuộc thổ, mộc khắc thổ
làm nhược khí thế, trong khi Kỷ Tỵ thì Tỵ hỏa. Bởi vậy Kỷ Tỵ trong cuộc
phấn đấu chống với hung vận dễ dàng hơn Mậu Thìn.
DƯƠNG LIỄU MỘC
Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Nhâm Ngọ Quí Mùi, mộc tử ở Ngọ,
mộ ở Mùi. Mộc vào đất tử mộ dù được Nhâm Quí thủy sinh cũng vẫn yếu
nhược nên gọi bằng Dương Liễu Mộc. Cành liễu mảnh mai, lá liễu
buông rũ, thứ mộc không có cốt khí. Hình chất thì vậy nhưng tâm sự lại
rất thấu đáo, tình cảm phức tạp đa đoan.
Dương Liễu Mộc thuộc âm nên tính tình kín đáo, chỉ thiếu căn bản
suy tư luôn luôn theo gió mà ngả nghiêng. Bén nhậy với thực tế, tâm
không mấy chính trực. Dương Liễu Mộc khó là một người tâm phúc
trung thành.
Nhâm Ngọ vì Ngọ là hỏa, mộc sinh hỏa cho nên mệnh vượng cứng
rắn hơn Quí Mùi thổ bị mộc khắc
Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Canh Thân Tân Dậu, Thân là tháng
bảy, Dậu là tháng tám, thời gian này mộc suy yếu cơ hồ tuyệt diệt chỉ có
cây lựu kết trái cho nên gọi bằng Thạch Lựu Mộc.
Kim khắc Mộc, Kim như đao búa, thạch lựu mộc cứng cáp, đao búa
không thể đốn ngã. Canh Thân Tân Dậu cả chi can đều thuộc kim thế
mà nạp âm thành mộc, lấy cái lẽ tương khắc chống chọi mà thủ tượng
vậy. Hình mộc mà chất đá nên gọi thạch lựu. Mệnh mang những sao
trung kiên là một trung thành ánh ánh, là một người bạn khả dĩ tin cậy.
Mệnh mang những sao gan dạ nên con người can trường dám
làm dám chịu. Mệnh hiện những sao thiếu trí tuệ thành ra con người
ngoan cố khó mà cảm hóa.
Canh Thân Tân Dậu, mộc hoàn toàn bị kim chế ngự nên ít có khả
năng bén nhạy với biến động. Người Thạch Lựu Mộc vào nghiên cứu là
hợp cách vì ít thay đổi chí hướng.
BÌNH ĐỊA MỘC
Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là
cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn,
âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để
nảy nở.
Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không
hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như
bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân
cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa
Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài
năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình
thường dù được vận hay.
Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế
Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất.
HỎA
Hành Hỏa có sáu nạp âm chia như sau: Tích Lịch Hỏa, Lô Trung
Hỏa, Phú Đăng Hỏa, Thiên Thượng Hỏa, Sơn Hà Hỏa, Sơn Đầu Hỏa.
Sách Bác Vật Vựng Biên chép: “Mậu Tý, Kỷ Sửu, Sửu thuộc Thổ, Tý
thuộc Thủy, Thủy ở chính vị mà nạp âm lại là Hỏa, nếu không phải thần
long tất nhiên Thủy không biến ra Hỏa được, cho nên gọi bằng Tích
Lịch Hỏa như tia lửa từ sấm chớp tức Thủy trung chi Hỏa”.
Tích Lịch Hỏa lẫm liệt như tiếng sấm vang, nhanh tựa tia điện.
Người Tích Lịch Hỏa mệnh nhiều sao tốt sự nghiệp cơ nghiệp thành
công hơn người, thích làm việc to tát, càng loạn lạc càng xáo trộn khả
năng càng phát triển.
Người Tích Lịch Hỏa mà mệnh cung tầm thường chuộng hư danh
thích nổi trôi dễ bị xúi giục làm những việc xuẩn ngốc như kiểu ôm bom
ba càng nằm chắn xe tăng.
Người Tích Lịch Hỏa ưa vào cờ bạc thường bị bịp làm những
chuyện bất ngờ, tâm ý nhiệt thành không giảo quyệt, luôn luôn ngăn
nắp và kỷ luật.
LÔ TRUNG HỎA
Sách Bác Vật Vựng Biên chép: “Bính Dần, Đinh Mão, Dần là Tam
dương, Mão là Tứ dương, Hỏa được đất lại có Dần Mão Mộc trợ lực, trời
đất lúc ấy như lò lửa và vạn vật nảy sinh, nên gọi bằng Lô Trung Hỏa”.
Bính Dần Đinh Mão, khí thế phát huy nhờ chất đốt mà hiển minh,
âm dương còn lẫn, thiên địa chung một lò lửa. Lửa dung hóa tất cả từ
âm dương đến sáng tối cả trời lẫn đất nói chung là vạn vật trong vũ trụ.
Dùng Hỏa để cải tạo vạn vật.
Có câu: “Lô Trung Hỏa giả, thiên địa vi lô, âm dương vi thán, quang
huy ưu vũ trụ, đào dã ưu càn khôn” (Lửa trong lò vũ trụ, trời đất, âm
dương, càn khôn đều được đào luyện).
Người Lô Trung Hỏa có mệnh lớn, tâm tưởng bao la, lúc đắc thế
khả dĩ hiển hiện tài hoa danh tiếng với đời. Lô Trung Hỏa mang một
khuyết điểm nếu mệnh kèm theo những hung sát tinh hãm dễ thành
kiêu căng ngạo mạn, dễ bị nghe theo lời nịnh hót mà thất bại.
Bính Dần Đinh Mão hai hàng chi đều thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa
tước nhược gặp hung vận thiếu trầm tĩnh giải quyết công việc.
PHÚ ĐĂNG HỎA
Sách Bác Vật Vựng Biên ghi: “Giáp Thìn, Ất Tỵ, Tỵ là độ gốc lúc mặt
trời lên đến đỉnh và sắp lẫn về Tây. Ánh chiều tà còn tung ra chiếu sáng
vạn vật. Đồng thời cũng là lúc thiên hạ sửa soạn lên đèn. Phú Đăng
Hỏa là ánh lửa ban đêm khả dĩ chiếu sáng những nơi mà mặt trời mặt
trăng không chiếu tới được, gọi khác đi bằng “Địa minh chi hỏa”.
Giữa ban ngày, ánh lửa đèn không thể thi triển quang huy. Bởi vậy,
người mang nạp âm Phú Đăng Hỏa hay “dạ minh chi hỏa” thường thích
bóng tối không thích xuất đầu lộ diện, nhưng lại rất tài hoa, lúc cần đến
thật được việc. Lúc bình thường, lúc chưa đắc thế sống âm thầm ẩn
nặc. Khi gặp thời cơ như ánh đèn soi vào bóng tối.
Giáp Thìn thì Thìn thuộc Thổ, Hỏa sinh Thổ tính chất cương mãnh
hơn, trong khi Ất Tỵ thì Tỵ là Hỏa đồng tính với Hỏa, sức mạnh không
bằng Giáp Thìn. Sức mạnh ở đây nói về khí chất tinh thần để ứng phó
với hung vận.
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Ngọ là
nơi Hỏa Vượng, Mộc ở trong chi Mùi lại sinh Hỏa. Hỏa khi bung lên gặp
đất sinh nên gọi bằng “Thiên Thượng Hỏa”.
Thiên Thượng Hỏa là lửa trên trời. Mậu Ngọ là mặt trời, Kỷ Mùi là
mặt trăng sưởi ấm sông núi, chiếu sáng vũ trụ chan hòa mọi chỗ không
thiên vị. Bởi vậy Thiên Thượng Hỏa rất công bình, chính trực hào sảng
khai hoài.
Số nạp âm Thiên Thượng Hỏa mà có nhiều cát tinh tại mệnh đứng
ngôi chủ vào thời bình, bàn dân thiên hạ được nhờ. Nhưng Thiên
Thượng Hỏa mà tuổi Kỷ Mùi là mặt trăng tính chất nhu hòa, lắm khi lại
lạnh nhạt và vô tình đứng ngôi chủ, các cận thần phải coi chừng, đặc
lạnh nhạt và vô tình đứng ngôi chủ, các cận thần phải coi chừng, đặc
biệt nếu mệnh cung mang những sao thủ đoạn mưu chước. Thiên
Thượng Hỏa dù Mậu Ngọ hay Kỷ Mùi thẩy đều ưa danh vị tiếng tăm.
SƠN HẠ HỎA
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Bính Thân Đinh Dậu.
Thân là cửa của đất, Dậu là cổng của mặt trời lặn. Ánh dương quang
đến chỗ này thì ẩn tàng nên gọi bằng Sơn Hạ Hỏa”.
Bính Thân Đinh Dậu, khí tắt hình tàng như mặt trời lặn phía Tây,
sức đã yếu nhược, càng tối càng hiu hắt vàng vọt. Sơn Hạ Hỏa tâm chất
hẹp hòi, tự tư tự lợi, mưu lược không đủ, nhưng vẻ ngoài lại vênh vang,
lúc nào cũng lý luận.
Nạp âm Sơn Hạ Hỏa số xấu hay tốt cũng không nên dùng làm tâm
phúc, không bao giờ là người cộng sự chân thành. Thân Dậu Kim đều
bị Hỏa khắc nên thường rối ren trước biến động hay hung vận.
Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Giáp Tuất Ất Hợi thì
Tuất Hợi là cửa trời, hỏa chiếu thiên môn, quang huy cực cao”
Sơn Đầu Hỏa chỉ thấy sáng rực mà không thấy lửa nên tâm cơ
thâm trầm, ít ai hiểu, vui giận không lộ ra sắc diện, tài trí cao mà không
cho người thấy được. Thành công tấn tốc như đám cháy rừng khi gặp
vận.
Người Sơn Đầu Hỏa lúc gặp thời thâm trầm làm việc không biết
mệt. Gặp thời rồi cũng không lãng phí thời gian. Mệnh tốt danh vọng sự
mệt. Gặp thời rồi cũng không lãng phí thời gian. Mệnh tốt danh vọng sự
nghiệp hơn người. Mệnh xấu cũng đắc lực nhanh nhẹn để phục vụ thừa
hành.
Giáp Tuất, Tuất là Thổ được Hỏa sinh. Ất Hợi, Hợi là Thủy bị Hỏa
khắc. Giáp Tuất ứng phó với hung vận biến động linh động hơn Ất Hợi.
T HỔ
Hành Thổ có 6 nạp âm: Bích Thượng Thổ, Thành Đầu Thổ, Sa
Trung Thổ, Lộ Bàng Thổ, Đại Dịch Thổ, Ốc Thượng Thổ.
Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Canh Tý Tân Sửu
thì Sửu là chính vị của Thổ, mà Tý là đất vượng của Thủy, Thổ gặp Thủy
biến thành bùn cho nên gọi bằng Bích Thượng Thổ”.
Bùn nhuyễn mềm muốn trát thành vách phải tựa vào kèo cột phên,
thiếu chỗ tựa khó thành vánh tường. Bởi thế, người mang nạp âm Bích
Thượng Thổ phải tựa vào người mà thành sự, làm quản lý, làm kẻ thừa
hành tốt, đứng ngôi chủ dễ thất bại. Tuy nhiên cũng có những loại đất
chất dính mạnh phơi nắng trở thành cứng cáp không phải dựa vào kèo
cột cũng đứng vững được. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng
Thổ cần phải trải nhiều kinh lịch mới hay.
Vách để che gió, chắn mưa cho nên tâm chất thường bao dong.
Mệnh nhiều hung sát đa nghi thủ đoạn mà mang nạp âm Bích Thượng
Thổ dễ đưa đến sơ hở mà bị hại. Canh Tý, Tý Thủy bị Thổ khắc, khí thế
nhược. Tân Sửu, Thổ vào chính vị sức đề kháng cương mãnh.
Quẻ Cấn, Kinh dịch giải thích là núi (Cấn vi sơn). Mạng nạp âm
Thành Đầu Thổ tính tình trung trực chất phác, thích giúp người, trung
thành nếu như mệnh số bình thường.
Mệnh số hội tụ cách cục tốt thì khí thế khác hẳn, núi chính là nơi
của rồng ấp, cọp ở. Người này mang chí lớn với tâm chất sảng trực xem
thành bại làm thường tình. Thời loạn cũng như lúc bình đều có thể
dùng vào vai trò lãnh đạo gây cơ dựng nghiệp theo chiều hướng thiện.
Mậu Dần Kỷ Mão thì Dần Mão đều thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ cho
nên ở bình thời dễ nên công hơn loạn thế.
SA TRUNG THỔ
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Bính Thìn Đinh Tỵ, Thìn
khố Tỵ tuyệt, Thiên can Bính Đinh đều thuộc Hỏa. Thổ vào tuyệt địa, đến
chổ ẩn tàng (khố) lại được hỏa sinh cho nên gọi bằng Sa Trung Thổ”.
Thổ tới khố không phải cát của sa mạc mà là cát của đất phù sa vì
Thìn thuộc Thủy khố. Gặp sông nước đẩy đưa tập trung tài bồi thành bãi
thành bờ nhiều mầu mỡ.
Sa Trung Thổ tùy sóng, tùy gió nên tính chất uyển chuyển, giỏi đầu
cơ, lợi dụng thời thế. Khả năng 2 mặt thiện ác - khi là rồng lúc thành
rắn. Anh hùng và gian hùng.
Bính Thìn, Thìn thuộc Thổ chính vị cho nên cứng rắn hơn. Đinh Tỵ,
Tỵ thuộc Hỏa tiết thân mà sinh Thổ nên nguyên khí giảm không kiên trì
bằng Bính Thìn.
LỘ BÀNG THỔ
Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Canh Ngọ Tân Mùi, mộc
trong Mùi sinh Hỏa của Ngọ. Hỏa vượng tạo hình cho Thổ, Thổ mới
sinh chưa đủ sức để nuôi dưỡng vạn vật nên gọi bằng “Lộ Bàng Thổ”.
Hỏa vượng, Thổ thành hình, đất cứng bởi vậy tâm chất quật cường
mà quá nóng nảy, tâm tình chính trực nhưng lại không chín chắn để
phân biệt cho rõ ràng thiện ác thuận lợi hay không thuận lợi.
Lộ Bàng Thổ đất rộng, trải dài miên viễn cần có Thủy cho đất hết
khô để cây cỏ mọc. Lộ Bàng Thổ vào nghiên cứu, học vấn sẽ như chất
Thủy tưới cho Thổ trở nên hữu dụng.
Lộ Bàng Thổ thiếu khả năng làm con người hành động để xoay
chuyển thời thế nên đứng vị thế một lý thuyết gia hay hơn. Canh Ngọ,
Ngọ thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ làm mất nguyên khí sức đề kháng hung
vận không bằng Tân Mùi, vì Mùi ở vào chính vị Thổ nên nhẫn nại kiên trì
hơn.
Sách Bác Vật Vựng Biên nói: “Mậu Thân Kỷ Dậu thì Thân thuộc
Khôn là đất. Dậu thuộc Đoài là đầm nước (trạch). Chữ dịch có một nửa
chữ trạch, thật ra phải gọi bằng trạch thổ.
Mệnh tốt mà nạp âm Đại Dịch Thổ thường làm được công lớn ích
lợi cho thiên hạ. Mệnh thường, phụ giúp các việc thiện luôn luôn có
thành tâm.
Mệnh nhiều hung sát mà cho cáng đáng những công tác nhân đạo
chỉ đưa đến hỏng việc. Thân Dậu đều thuộc Kim, Thổ sinh Kim nên
Mậu Thân hay Kỷ Dậu đều có khả năng kiên trì ít bối rối.
ỐC THƯỢNG THỔ
Sách Bác Vật Vựng Biên ghi: “Bính Tuất Đinh Hợi. Bính Đinh thuộc
Hỏa. Tuất Hợi là của trời (Thiên môn). Hỏa ở trên cao dĩ nhiên đất
không sinh dưới thấp nên gọi bằng Ốc Thượng Thổ. Ốc Thượng Thổ là
ngói lợp mái nhà để che sương, tuyết mưa. Muốn thành ngói, Thổ phải
trộn với nước lại đưa vào lò lửa luyện nung. Người mang nạp âm Ốc
Thượng Thổ dù số hay cũng phải trải thiên ma bách triết để thoát thai
hoán cốt mới thành công. Nếu đi con đường dễ thì cái thành công chỉ là
thứ thành công chóng tàn dễ vỡ như hòn ngói chưa nung chín gặp mưa
nhanh chóng nát ra.
Bính Tuất, Tuất thuộc Thổ chính vị sức chiến đấu dẻo dai cứng cỏi
hơn. Đinh Hợi vì Hợi thuộc Thủy Thổ khắc Thủy sức đề kháng không
khỏe bằng Bính Tuất.
Chuyện tranh luận về thế thuận nghịch của vòng Tràng Sinh.
Dương nam đi thuận chiều, Âm nam đi ngược chiều. Dương nữ đi
ngược chiều, Âm nữ đi thuận chiều.
Vòng Tràng Sinh của Tử Vi, vì tính theo cục (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ) đưa đến tình trạng là cứ đi thuận thì Mộ khố mới hiện ra ở các
cung Thìn Tuất Sửu Mùi, trong khi đi ngược thì không. Cho nên có đề
nghị an vòng Tràng Sinh phải giống như an vòng Thái Tuế, đều phải
theo chiều thuận. Như thế sẽ không có thuận nghịch, và không có thuận
theo chiều thuận. Như thế sẽ không có thuận nghịch, và không có thuận
nghịch thì sẽ không có âm dương.
Tranh luận thuận nghịch cho vòng Tràng Sanh không tìm thấy lối
thoát. Vì an theo cục thì tự nó không có sự phân biệt âm dương nên
phải căn cứ vào Âm nam Dương nữ thì lại đi trật đường của cung Mộ.
Trong khi đó số Tử Bình hay gọi nôm na là số Bát Tự, lại tính
chuyện Sinh Vượng Tử Tuyệt bằng chính hàng Can với âm dương
thuận nghịch thì Dương thuận hay Âm nghịch đều đưa cung Mộ vào
chính vị của nó.
Để quý vị độc giả tham khảo tôi liệt kê cách tính trên của số Bát
Tự như dưới đây:
- Tuổi Giáp (mộc) Tràng Sinh tại Hợi, Mộc Dục ở Tý, Quan Đới ở
Sửu, Lâm Quan tại Dần, Đế Vượng đóng Mão, Suy ở Thìn, Bệnh tại
Tỵ, Tử ở Ngọ, Mộ sang Mùi, Tuyệt đến Thân, Thai tại Dậu và Dưỡng
đóng Tuất.
- Tuổi Ất (mộc) Tràng Sinh tại Ngọ (theo cái nghĩa Dương tử Âm
sinh khi mà Giáp tử ở Ngọ thì Ất lại sinh ra ở đây), Mộc Dục sẽ là
Tỵ, Quan Đới ở Thìn, Lâm Quan đóng Mão, Đế Vượng tới Dần, Suy
ở Sửu, Bệnh đóng Tý, Tử ở Hợi (dương sinh âm tử), Mộ đến Tuất,
Tuyệt ở Dậu, Thai đóng Thân và Dưỡng sang Mùi. (Ất là âm nên
tính theo chiều ngược).
- Bính Hỏa Mậu Thổ thì Tràng Sinh tại Dần, Mộc Dục đóng Mão,
Quan Đới về Thìn, Lâm Quan sang Tỵ, Đế Vượng ở Ngọ, Suy ở Mùi,
Bệnh đóng Thân, Tử đến Dậu, Mộ đến Tuất, Tuyệt đóng Hợi, Thai ở
Tí và Dưỡng đóng Sửu. (Bính Hỏa Mậu Thổ nên đi theo chiều
thuận).
- Đinh Hỏa Kỷ Thổ, Tràng Sinh tại Dậu (theo cái nghĩa Dương tử
Âm sinh), Mộc Dục sẽ là Thân, Quan Đới ở Mùi, Lâm Quan sang
Ngọ, Đế Vượng tại Tỵ, Suy đến Thìn, Bệnh về Mão, Tử ở Dần
(dương sinh âm tử), Mộ đến Sửu, Tuyệt ở Tý, Thai ở Hợi và Dưỡng
qua Tuất.
- Canh Kim, Tràng Sinh tại Tỵ, Mộc Dục là ở Ngọ, Quan Đới sang
Mùi, Lâm Quan đóng Thân, Đế Vượng tới Dậu, Suy ở Tuất, Bệnh
Mùi, Lâm Quan đóng Thân, Đế Vượng tới Dậu, Suy ở Tuất, Bệnh
đóng Hợi, Tử ở Tý, Mộ đến Sửu, Tuyệt ở Dần, Thai đóng Mão và
Dưỡng sang Thìn. (Canh Kim là Dương nên tính theo chiều thuận).
- Tân Kim, Tràng Sinh tại Tí (Dương tử Âm sinh), Mộc Dục sẽ là
Hợi, Quan Đới ở Tuất, Lâm Quan đóng Dậu, Đế Vượng tới Thân,
Suy ở Mùi, Bệnh về Ngọ, Tử ở Tỵ, Mộ qua Thìn, Tuyệt ở Mão, Thai
đóng Dần và Dưỡng sang Sửu. (Tân kim theo chiều nghịch vì là
thuộc âm).
- Nhâm Thủy, Tràng Sinh tại Thân, Mộc Dục sẽ đến Dậu, Quan Đới
ở Tuất, Lâm Quan đóng Hợi, Đế Vượng tới Tý, Suy ở Sửu, Bệnh
đóng Dần, Tử ở Mão, Mộ đến Thìn, Tuyệt ở Tỵ, Thai đóng Ngọ và
Dưỡng sang Mùi. (chiều thuận).
- Quý Thủy, Tràng Sinh tại Mão (Dương tử Âm), Mộc Dục sẽ là Dần,
Quan Đới về Sửu, Lâm Quan đóng Tý, Đế Vượng tới Hợi, Suy ở
Tuất, Bệnh đóng Dậu, Tử ở Thân (Dương sinh Âm tử), Mộ đến Mùi,
Tuyệt ở Ngọ, Thai ở Tỵ và Dưỡng sang Thìn. (Quý thủy là âm nên
tính theo chiều nghịch).
Dương Can Tràng Sinh có 4 chỗ: Dần cho Bính Mậu, Thân cho
Nhâm, Tỵ cho Canh, Hợi cho Giáp.
Âm Can Tràng Sinh có 4 nơi: Tí cho Tân, Ngọ cho Ất, Mão cho Quý
và Dậu cho Đinh.
Như thế cách an Tràng Sinh theo cục thấy là gượng ép vì chỉ an
theo con trai hay con gái chứ không kể gì đến bản thân của can Dương
hay can Âm. Câu hỏi đặt ra là: “Có nên dùng thẳng dương âm của niên
Can để an Tràng Sinh cho số Tử Vi không ?”
Trang
- Lời nói
đầu.............................................................................................................................
3
- Lời
dẫn..................................................................................................................................
5
- Các cách
sao.........................................................................................................................
6
- Luận về sao Tử
Vi................................................................................................................... 7
- Luận về sao Vũ
Khúc.............................................................................................................
19
- Luận về sao Cự
Môn..............................................................................................................
37
- Luận về Xương
Khúc.............................................................................................................
58
- Luận về Lộc
Mã.....................................................................................................................
69
- Luận về Tuần
Triệt.................................................................................................................
91
- Luận về Thiên
Hình................................................................................................................
98
- Luận về Thiên
Riêu...............................................................................................................
100
- Luận về Kiếp
Sát.................................................................................................................
101
- Luận về Phá
Toái.................................................................................................................
102
- Luận về Quốc
Ấn.................................................................................................................
103
- Luận về Hoa
Cái..................................................................................................................
108
- Luận về Tràng
Sinh..............................................................................................................
111
- Luận về Mộc
Dục.................................................................................................................
111
- Luận về Quan
Đới................................................................................................................
111
- Luận về Lâm
Quan...............................................................................................................
111
- Luận về Đế
Vượng...............................................................................................................
112
- Luận về
Suy........................................................................................................................
112
112
- Luận về
Bệnh......................................................................................................................
112
- Luận về
Tử..........................................................................................................................
112
- Luận về
Mộ.........................................................................................................................
112
- Luận về
Tuyệt......................................................................................................................
113
- Luận về
Thai........................................................................................................................
113
- Luận về
Dưỡng....................................................................................................................
114
- Luận về Lực
Sĩ....................................................................................................................
115
- Luận về Thanh
Long.............................................................................................................
115
- Luận về Tiểu
Hao.................................................................................................................
115
- Luận về Tướng
Quân...........................................................................................................
115
- Luận về Tấu
Thư..................................................................................................................
116
- Luận về Phi
Liêm.................................................................................................................
116
- Luận về Hỉ
Thần...................................................................................................................
116
- Luận về Bệnh
Phù................................................................................................................
116
- Luận về Đại
Hao..................................................................................................................
116
- Luận về Phục
Binh...............................................................................................................
117
- Luận về Quan
Phủ...............................................................................................................
118
- Luận về Thái
Tuế..................................................................................................................
119
- Luận về Thiếu
Dương...........................................................................................................
120
- Luận về Tang
Môn................................................................................................................
120
- Luận về Bạch
Hổ.................................................................................................................
120
- Luận về Thiếu
Âm................................................................................................................
123
- Luận về Quan
Phù...............................................................................................................
123
- Luận về Tử
Phù...................................................................................................................
123
- Luận về Tuế
Phá..................................................................................................................
123
- Luận về sao Âm
Sát.............................................................................................................
125
- Luận về Hóa
Lộc..................................................................................................................
127
- Luận về Hóa
Quyền..............................................................................................................
127
- Luận về Hóa
Khoa................................................................................................................
127
- Luận về Hóa
Kị....................................................................................................................
127
Tác động của Tứ Hóa
............................................................................................................. 128
- Hóa Lộc - Vũ
Khúc............................................................................................................
131
- Hóa Lộc - Cự
Môn..............................................................................................................
132
- Hóa Lộc - Thiên
Lương.......................................................................................................
132
- Hóa Quyền - Cự
Môn...........................................................................................................
133
- Hóa Quyền - Vũ
Khúc..........................................................................................................
134
- Hóa Quyền - Tử
Vi...............................................................................................................
134
- Hóa Khoa - Vũ
khúc.............................................................................................................
137
- Hóa Khoa - Tử
Vi.................................................................................................................
137
- Hóa Kị - Thái
dương............................................................................................................
142
- Hóa Kị - Thái
Âm.................................................................................................................
142
- Hóa Kị - Cự
Môn.................................................................................................................
143
- Hóa Kị - Thiên
Đồng.............................................................................................................
143
- Hóa Kị - Thiên Cơ
............................................................................................................... 144
- Hóa Kị - Vũ Khúc
................................................................................................................ 144
TẠp luẬn vỀ cung cách Ngũ hành, NhỮng câu phú và vẬn hẠn
- Những cách
cục..................................................................................................................
150
- Những bài
phú.....................................................................................................................
152
- Mệnh
cung..........................................................................................................................
156
- Bào
cung............................................................................................................................
cung............................................................................................................................
165
- Phối
cung...........................................................................................................................
166
- Tử Tức
cung.......................................................................................................................
168
- Tài Bạch
cung.....................................................................................................................
170
- Tật Ách
cung.......................................................................................................................
171
- Thiên Di
cung......................................................................................................................
173
- Nô
cung..............................................................................................................................
174
- Quan Lộc
cung....................................................................................................................
175
- Điền Trạch
cung..................................................................................................................
176
- Phúc Đức
cung...................................................................................................................
177
177
- Phụ Mẫu
cung.....................................................................................................................
178
- Nói về vận
hạn.....................................................................................................................
179
- Nạp âm là
gì?......................................................................................................................
183
- Nạp âm và lá số Tử
Vi.......................................................................................................... 184
KIM
- Hải Trung
Kim.....................................................................................................................
184
- Kim Bá
Kim........................................................................................................................
Kim........................................................................................................................
185
- Bạch Lạp
Kim.....................................................................................................................
185
- Sa Trung
Kim......................................................................................................................
185
- Kiếm Phong
Kim.................................................................................................................
185
- Thoa Xuyến
Kim..................................................................................................................
186
THỦY
- Giản Hạ
Thủy......................................................................................................................
186
- Đại Khê
Thủy......................................................................................................................
186
- Trường Lưu
Thủy................................................................................................................
187
- Thiên Hà
Thủy.....................................................................................................................
187
- Tỉnh Tuyền
- Tỉnh Tuyền
Thủy..................................................................................................................
187
- Đại Hải
Thủy.......................................................................................................................
187
MỘC
- Tang Đố
Mộc.......................................................................................................................
188
- Tùng Bách
Mộc...................................................................................................................
188
- Đại Lâm
Mộc.......................................................................................................................
188
- Dương Liễu
Mộc.................................................................................................................
189
- Thạch Lựu
Mộc...................................................................................................................
189
- Bình Địa
Mộc......................................................................................................................
189
HỎA
- Tích Lịch
Hỏa......................................................................................................................
189
- Lô Trung
Hỏa.......................................................................................................................
190
- Phú Đăng
Hỏa.....................................................................................................................
190
- Thiên Thượng
Hỏa...............................................................................................................
190
- Sơn Hạ
Hỏa........................................................................................................................
190
- Sơn Đầu
Hỏa......................................................................................................................
191
THỔ
- Bích Thượng
Thổ.................................................................................................................
191
- Thành Đầu
Thổ....................................................................................................................
191
- Sa Trung
Thổ.......................................................................................................................
191
- Lộ Bàng
Thổ........................................................................................................................
192
- Đại Dịch
Thổ.......................................................................................................................
192
- Ốc Thượng
Thổ...................................................................................................................
192
Sách Tham
Khảo.......................................................................................................................
194
VÀI BẤT ĐỒNG VỚI LỜI BÀN CỦA ÔNG VŨ TÀI LỤC
Tình cờ vào trang này, thấy vài điểm bất đồng, xin ghi ra đây cho quý độc
giả diễn đàn tùy nghi quyết định:
"- Thủy mệnh nhân phùng Hóa Kị bất kị (Sao Hóa Kị thường xấu, nhưng
người thủy mệnh gặp nó không sao)"
Ý kiến riêng: Đây không phải là một trong những câu phú nguyên
thủy (được định nghĩa là có mặt trong hai quyển "Tử Vi đẩu số toàn thư"
hoặc "Tử vi đẩu số toàn tập") mà do người đời sau đặt thêm. Độc giả
tùy nghi phán đoán, nhưng theo thiển ý thì đây là một trường hợp mà lý
ngũ hành đã bị suy diễn quá lố (hóa Kị thuộc thủy nên người mệnh thủy
không sợ), không thể tin được. Hóa Kị là một yếu tố tác hại hết sức to
lớn, bỏ hóa Kị đi thì bài toán tứ Hóa mất hẳn quân bình.
Ông Vũ Tài Lục nhận xét như sau (trong ngoặc kép "") về lý của
cách lưu Xương Khúc mà một số sách chữ Hán xử dụng:
"...Ngoài ra, các Tử Vi gia Trung Quốc còn chú trọng đến lưu Khôi Việt,
Lưu Xương Khúc, Lưu Hồng Loan, Thiên Hỉ, Lưu Đào Hoa. Lưu Đào-
Hồng-Hỉ, Lưu Khôi Việt những sao đại biểu cho một tình trạng cảnh
huống kể là có lý nhưng lưu Xương Khúc là những sao đại biểu cho
tâm chất và khả năng, thấy không thuận."
Thực ra, đây là vì nghe thấy tên đặt giống mà hiểu lầm thôi, chứ hai sao
lưu Xương lưu Khúc chẳng dính líu gì đến Xương Khúc.
-Lưu Xương chính là lưu "Lưu Niên Văn Tinh". Sở dĩ gọi là lưu Xương vì
trong phép tính ngũ hành thông thường (kể cả bát tự) thì đây là cách an
trong phép tính ngũ hành thông thường (kể cả bát tự) thì đây là cách an
Văn Xương quý nhân (chỉ có khác biệt là Tử Vi an VXQN theo can năm,
bát tự theo can ngày).
Trong Tử Vi, cách an lưu Xương tiêu chuẩn là: Năm Giáp lưu Xương
ở Tỵ, Ất ở Ngọ, Bính Mậu ở Thân, Đinh Kỷ ở Dậu, Canh ở Hợi, Tân ở Tý,
Nhâm ở Dần, Quý ở Mão.
Cách an giản dị (cho cùng kết quả) là: Gọi cung an lưu Lộc Tồn là
cung 1, đếm theo chiều thuận, đến cung thứ 4 an lưu Xương.
Chú ý rằng lưu Xương luôn luôn tam hợp với lưu Đà La (nếu an Đà
La theo cách truyền thống).
-Lưu Khúc đối xứng lưu Xương qua trục Sửu Mùi.
Có thể thấy rằng lưu Xương, lưu Khúc thuộc hàng sao "quí nhân" như
lưu Khôi, lưu Việt, nhằm diễn tả một cảnh huống (may mắn về mặt chữ
nghĩa); nên việc đặt ra chúng chẳng có gì là không thuận (còn tín hiệu
có thực sự đáng chú ý hay không lại là chuyện khác).
Cũng cần chú ý rằng -ngay trong tập hợp sách Hán- lưu Xương lưu
Khúc chỉ có một số trường phái xử dụng thôi, chẳng phải sách chữ Hán
nào cũng dùng cách này.
T.B. Người nghiên cứu Tử Vi rất cần để ý đến chuyện một số sao khác
nhau được gọi cùng tên. Ngoài lưu Xương lưu Khúc ra đặc biệt cần chú
ý:
Đại Tiểu Hao, nhiều sách Tàu dùng để gọi sao Tử Phù, Tuế Phá của
vòng Thái Tuế.
Phi Liêm, nhiều sách Tàu dùng để chỉ sao Tang Môn hoặc Bạch Hổ
(tùy năm âm hoặc dương).
và dĩ nhiên Thiên Không, nhiều sách Tàu dùng để chỉ sao Địa Không.
Một điều quái đản là một số sách chữ Hán an luôn hai cặp Đại Tiểu
Hao, một cặp Phi Liêm v.v... khiến người xem số chẳng biết đường nào
mà lần. Trầm trọng hơn nữa, có sách an hai sao Thiên Không (một là
Thiên Không trước Thái Tuế, một là sao cặp của Địa Kiếp.
Ông Vũ Tài Lục viết (trong dấu ngoặc kép ""):
"Tranh luận thuận nghịch cho vòng Tràng Sanh không tìm thấy lối thoát.
Vì an theo cục thì tự nó không có sự phân biệt âm dương nên phải căn
cứ vào Âm nam Dương nữ thì lại đi trật đường của cung Mộ."
Ý kiến: Cung Mộ mà ông Vũ Tài Lục nói đến dựa trên ngũ hành đơn
(tức thuyết ngũ hành theo đó thì Dần Mão thuộc mộc, Tỵ Ngọ hỏa, Thân
Dậu kim, Hợi Tí thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ). Theo thuyết ngũ hành đơn
Dậu kim, Hợi Tí thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ). Theo thuyết ngũ hành đơn
thì Thìn Tuất Sửu Mùi là mộ địa vì thuộc thổ.
Nhưng đừng quên rằng cục không phải là ngũ hành đơn, mà là ngũ
hành nạp âm. Khi xét ngũ hành nạp âm thì mỗi cung đều tàng đủ 5
hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Thí dụ cung Dần có Thủy (Đại Khê, Giáp
Dần), Hỏa (Lô Trung, Bính Dần), Thổ (Thành Đầu, Mậu Dần), Mộc (Tùng
Bách, Canh Dần), Kim (Bạc Kim, Nhâm Dần). Bởi vậy đặt vấn đề có
đúng mộ cung hay không e là đã áp dụng nhầm luật của ngũ hành rồi.
Ông Vũ Tài Lục viết (trong ngoặc kép ""):
"Trong khi đó số Tử Bình hay gọi nôm na là số Bát Tự, lại tính chuyện
Sinh Vượng Tử Tuyệt bằng chính hàng Can với âm dương thuận
nghịch thì Dương thuận hay Âm nghịch đều đưa cung Mộ vào chính vị
của nó."
Ý kiến: Sự thật, không phải mọi nhà nghiên cứu Tử Bình đều theo
cách này (gọi là phép "âm sinh dương tử").
Ngoài ra còn có trường phái ngược lại là "Đồng sinh cộng tử", theo
đó Giáp Ất mộc đều trường sinh ở Hợi thuận hành, Bính Đinh hỏa đều
trường sinh ở Dần thuận hành, Canh Tân kim đều trường sinh ở Tỵ
thuận hành, Nhâm Quý thủy đều trường sinh ở Thân thuận hành, (Mậu
Kỷ thổ thì hoặc theo hỏa hoặc theo thủy).
Một danh gia hiện tại bác bỏ phái "âm sinh dương tử", theo phái
"đồng sinh cộng tử" là ông Đoạn Kiến Nghiệp, người hoa Lục. Sau khi
đã thành danh ông Nghiệp lại bái một ông thầy mù làm sư phụ, học
thêm nhiều bí quyết lạ lùng chưa từng có sách bát tự nào nói đến.
Ông Nghiệp đã soạn nhiều sách bát tự trong đó có "Mệnh lý chỉ yếu"
và "mệnh lý trân bảo". Quyển sau ("mệnh lý trân bảo", viết sau khi ông
thầy mù chết) chứa nhiều bí quyết mà ông thầy mù đã dạy cho ông.
Cần nói rõ ông Nghiệp không phải là người duy nhất theo phái "đồng
sinh cộng tử".
(Sở dĩ phải giải thích dài dòng là cốt tránh trường hợp có người
tưởng cứ dính líu đến ngũ hành thì phải lấy Tử Bình là tối thượng, nên
Tử Bình theo "âm sinh dương tử" ta cũng phải theo âm sinh dương tử.
Sự thật thì chính các chuyên gia Tử Bình vẫn còn chia làm nhiều phái,
theo họ thì theo ai, đã chắc gì ai đúng mà theo?)
Xin góp ý về câu hỏi của THIEN DONG , vê` mục TANG ĐỐ MỘC
bên trên ,theo đó sách BAC VAT VUNG BIEN có viết : NHÂM TÝ , QUÝ
SỬU thì TÝ thuộc THỦY , SỬU thuộc KIM , Thuỷ vừa sinh Mộc , Kim đã
phạt Mộc ...
Dĩ nhiên sách viết không sai , chỉ vì ý không diễn rõ mà thôi , TÝ dĩ nhiên
thuộc THỦY , SỬU không phải là KIM , chữ THUỘC ở đây có nghĩa là TÝ
thuộc THỦY , SỬU không phải là KIM , chữ THUỘC ở đây có nghĩa là TÝ
THUỘC VỀ THÂN TÝ THÌN ( Thủy cục ), chứ không ám chỉ TÝ là THỦY ,
cũng vậy SỬU thuộc KIM ở đây ám chỉ SỦU thuộc KIM CỤC ( TỴ DẬU
SỬU ) chứ không nên hiểu Sửu là KIM .
Trong quá trình tìm NẠP ÂM người xưa đã dùng SỐ ( Đại diễn số / hay
Nạp âm số ) để XÁC ĐỊNH TRƯỚC ,
Buớc thứ 2 mới dùng LÝ ( nghĩa lý / lý gỉai ) để giải thích , do đó mới có
đến 3,4 CÁCH lý giải khác nhau về 1 loại NẠP ÂM .
Như theo trên , ta có thể bài bác luận điệu của Sách BÁC VẬT , Bỡi
NHÂM TÝ / QUÝ SỬU Thủy sinh Mộc thì đúng , nhưng liệu KIM trong
SỬU có khắc được Mộc không ? trong khi KIM ở đây chỉ là dạng KIM
KHỐ ( chưa thành hình ) , vã lại bị tiết khí qúa đáng khi phải sinh cho 3
THỦY , Kim chưa thành hình lại bị duệ khí thì làm sao PHẠT MỘC cho
được ???
Ông Vũ Tài Lục viết:
"Sách Bác Vật Vựng Biên viết: Nhâm Tí, Quí Sửu thì Tí thuộc thủy, Sửu
thuộc kim. Thủy vừa sinh mộc, kim đã phạt mộc như hình tượng của
cây dâu vừa trổ lá non đã bị hái xuống mà nuôi tằm."
Ý riêng: Về lý Sửu kim Tí thủy, xin xem phần luận của ông Kim Hạc ở
trên.
Về ý nghĩa của câu, tôi đọc trong một tài liệu khác, thấy viết: 'Thủy
phương sinh mộc, kim tắc phạt mộc, do như tựa tang, cố viết Tang Đố
Mộc', không rõ có phải giống với bản của ông Vũ Tài Lục không. Tôi xin
tạm dịch: "Thủy thì sinh mộc, kim tất phạt mộc, giống như (hoàn cảnh
của) cây dâu, nên gọi là Tang Đố Mộc." Ý có khác với lời dịch của ông
Vũ Tài Lục.
Không rõ bản của ông Vũ Tài Lục thế nào, chỉ ghi lại đây ý riêng của
tôi cho độc giả tham khảo.
Tuy nhiên, vì đời vốn là cõi bất toàn, ta cũng phải chú ý đến điểm
bất toàn của tác phẩm này là thỉnh thoảng có những dữ kiện không phù
hợp.
Bài trên đây nói đến cách "lưng trời gãy cánh" đã giả sử đó là cách
của sao Thiên Không (trước Thái Tuế). Giả sử này khởi từ một hiểu lầm
do một số sách chữ Hán xử dụng tên "Thiên Không" cốt ám chỉ sao Địa
Không (cùng cặp với sao Địa Kiếp) theo lối gọi của Tử Vi Việt Nam.
Chẳng hạn hai câu phú:
"Hạng Vũ anh hùng, hạn đáo Thiên Không nhi táng quốc,
"Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa Kiếp dĩ vong gia".
Là cốt nói đến cái sức phá hoại khủng khiếp của cặp sát tinh Không
Kiếp, tức Địa Không+Địa Kiếp, không phải là Thiên Không+Địa Kiếp.
Kiếp, tức Địa Không+Địa Kiếp, không phải là Thiên Không+Địa Kiếp.
Các bạn trẻ nghiên cứu Tử Vi cứ ngẫm lại thì sẽ thấy Địa Không+Địa
Kiếp hay là Thiên Không+Địa Kiếp có lý.
Vì Tử Vi Việt Nam (và một số phái ở Hồng Kông, Đài Loan) xử dụng
cả hai sao Thiên Không và Địa Không, hai câu phú trên đây nên đổi
như sau để tránh hiểu lầm:
"Hạng Vũ anh hùng, hạn đáo ĐỊA Không nhi táng quốc,
"Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa Kiếp dĩ vong gia".
Trở về lá số Hạng Vũ mà câu phú nói đến. Theo truyền thuyết Hạng
Vũ sinh giờ Mão ngày 12 tháng 8 năm Đinh Mão, mệnh cư Ngọ có
Thiên Cơ miếu vượng thủ, đắc Lộc Tồn thành cách mệnh quan Song
Lộc, lại gồm thâu tứ Hóa nên một bước xưng hùng, lưu danh muôn
thuở. Tiếc là Cự Môn hóa Kỵ ở di sức tàn phá rất mạnh, thành thử sự
nghiệp khó bền.
Hai câu phú trên đây dựa theo một lối xem cũ (sau gọi là lối xem của
bắc phái). Theo truyền thuyết Hạng Vũ tự sát ở Ô Giang năm 32 tuổi ta.
Âm nam dương nữ khởi đại hạn đầu tiên ở huynh đệ, hạn 32-41 vào
Dần gặp Địa Kiếp, xung Địa Không, nhưng người viết câu phú này
(hoặc người học lại câu phú này rồi truyền lại cho đời sau) gọi Địa
Không là "Thiên Không" nên mới thành câu "hạn đáo Thiên Không nhi
táng quốc", chứ sao Thiên Không (trước Thái Tuế) ở cung Thìn hạn
chết của Hạng Vũ lại ở cung Dần thì làm sao gặp được?
Theo cách xem tương đối mới (được trên 90% các nhà theo, trong đó
có Việt phái) thì "mệnh cung bất khả vô đại hạn" (trích lời ông Liễu Vô cư
sĩ) nên nhất luật đều khởi đại hạn ở mệnh cả (sau ta gọi quen là cách
của nam phái). Theo cách xem này hạn chết (32-41) của Hạng Vũ vào
cung Mão có Vũ Sát (Sát Phá Liêm Tham cách) Hữu Bật ngộ Triệt, hội
Tả Xương Khúc Lộc Kỵ. Không Kiếp ở hạn 42-51 nên câu phú trên dĩ
nhiên không kể.
ThamLang đã viết:
Bác VDTT, như vậy nguyên hung tạo nên cách "lưng trời gãy
cánh" là do Địa Không phải không bác?. Còn Thiên Không (trước
Thái Tuế) + Đào Hoa, theo một số sách cũng gọi là "bán thiên triết
sĩ" Có phải hai cách này đều giống nhau chăng? Cùng một ý nghĩa
"lưng trời gãy cánh"?
Kính mến
TL
Đọc các sách rồi kiểm lại, tôi kết luận rằng cách "bán thiên chiết sí",
tức "giữa trời gãy cánh" nguyên thủy ám chỉ Địa Không, rồi vì người ta
tức "giữa trời gãy cánh" nguyên thủy ám chỉ Địa Không, rồi vì người ta
hiểu lầm Địa Không với Thiên Không, lại tam sao thất bổn, dần dần
mới thêm Thiên Không.
Thế nhưng bảo rằng Thiên Không là cách "bán thiên chiết sí" thì về
mặt thực hành chưa chắc đã sai. Bởi Thiên Không cũng có thể tác họa
khủng khiếp.
Về Thiên Không (tức Thiên Không trước Thái Tuế), sách Đẩu Số Đàn
Vi xuất bản năm 1928 ở hoa Lục có 4 câu:
"Giá tiền nhất vị thị Thiên Không
"Thân mệnh nguyên lai bất khả phùng
"Nhị chủ Lộc Tồn nhược trị thử
"Diêm vưong bất phạ nhĩ anh hùng"
Tạm dịch là:
"Trước mặt Thái Tuế là Thiên Không
"Cư mệnh cư thân thật khốn cùng
"Hai chủ Lộc Tồn* mà gặp nó
"Diêm vương chẳng sợ bạn anh hùng
Sau tập giáo án Tử Vi "Tử Vi đẩu số giảng nghĩa" do tiền bối Lục Bân
Triệu viết trong thập niên 1950's ở Hoa Nam cũng có nói đến Thiên
Không (trước Thái Tuế), ý nghĩa tương tự như trên.
Thành thử thiết nghĩ người học Tử Vi chẳng nên câu nệ nguồn gốc
câu phú thế nào, miễn áp dụng đúng là được.
Trả lời chung các bạn hỏi về Thiên Không ở Dần Thân Tỵ Hợi.
Thiên Không luôn luôn có sao Thiếu Dương cùng cung, và vĩnh viễn
có tứ Đức hội họp. Đây Thiếu Dương và tứ Đức ví như một ông sư và
có tứ Đức hội họp. Đây Thiếu Dương và tứ Đức ví như một ông sư và
những lời kinh tiếng kệ. Ai cũng biết sống theo lời kinh dạy là hơn cả (tứ
Đức), nhưng mấy ai làm được như vậy. Tại sao khó làm? Thưa, vì Thiên
Không luôn luôn có Đào Hoa và tối thiểu một trong hai sao Hồng Hỉ hội
họp. Bộ tam minh "Đào Hồng Hỉ" đại biểu "sắc". Bắt người ta bỏ "sắc"
theo kinh thật là khó lắm. Bởi thế con người thường thể hiện khuynh
hướng của Thiên Không (gian hùng, quỷ quyệt, tính toán), còn cái thiên
lương đại biểu bởi Thiếu Dương và tứ Đức bị nhận chìm vào quên
lãng.
Nhưng Thiên Không ở Dần Thân Tỵ Hợi tất nhiên có Cô Thần Kiếp
Sát cùng cung, thêm Hồng Loan Thiên Hỉ hoặc cùng cung hoặc xung
chiếu, lại tam hợp Đào Hoa; tổng cộng lại cách là "Đào Hồng Hỉ Cô
Quả Sát". Như đã bàn trên nhóm "Đào Hồng Hỉ" hiển nhiên đại biểu
"sắc". "Cô Quả" thì rõ là đại biểu không, nhưng (Kiếp) Sát thì sao? Nghĩ
kỹ lại Kiếp Sát là sao cặp của Đào Hoa. Đào Hoa đại biểu vị trí "mộc
dục" của tam hợp hành, Kiếp Sát đại biểu vị trí "tuyệt" cũng của tam hợp
hành. Tuyệt là mất hẳn đi, không còn nữa. Nên theo nghĩa của "đời" thì
Kiếp Sát thật chẳng hay, nhưng theo nghĩa "tu là cội phúc" thì khi người
ta còn phân vân giữa đời và đạo, Kiếp Sát có thể ví như tiếng chuông
thức tỉnh, giúp người ta bình thản đoạn tuyệt trần gian. Dông dài như
vậy cốt chỉ nói rằng bộ ba "Cô Quả Sát" ứng với "không", đối nghịch lại
cái "sắc" đại biểu bởi bộ tam minh "Đào Hồng Hỉ".
Xét lại hai lực lượng, có thể thấy rằng ở Dần Thân Tỵ Hợi, phe
"không" được tiếp viện nên có khả năng cầm đồng với phe "sắc" (Thiếu
Dương tứ đức Cô Quả Sát lấn áp Thiên Không Đào Hồng Hỉ). Đây ví
như cảnh tranh tối tranh sáng, như người vỡ lẽ ra rằng mọi sắc hương
của cuôc đời đều là giả dối nên nảy ra ý muốn cắt tóc đi tu. Tu được hay
không dĩ nhiên còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác.
Nói tóm lược, Thiên Không tung hoành ở tứ mộ, phân vân ở tứ chính,
riêng ở tứ mã thì chịu nhường bước Thiếu Dương. Bảo rằng Thiên
Không ở Dần Thân Tỵ Hợi (tứ mã) có nghĩa "không vong" chính là vì lý
do đó.