You are on page 1of 16

1.

Cơ cấu tổ chức trong nhà trường THPT

2. Vai trò của người giáo viên PTTH

Trong sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của đất nước ngày nay, vai trò của người thầy
giáo đặc biệt được Đảng và nhân dân ta coi trọng.

Hiện nay trong bối cảnh đổi mới giáo dục để đáp ứng yêu cầu sư biến đổi to lớn không
ngừng xảy ra trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa và xã hội. Vai trò của
người giáo viên lại càng thêm quan trọng. Giáo dục hiện nay đang thay đổi theo hướng
đảm bảo mọi người đều được học để phát triển nhiều mặt, nội dung giáo dục phù hợp với
yêu cầu của cá nhân và xã hội , phương pháp giáo dục phải hướng vào việc phát huy vai
trò chủ động, tích cực , tự giác của người học

Trong tình hình đó vai trò của người giáo viên lại càng nặng nề hơn bao giờ hết;

a, Giáo viên là người đào tạo con người mới, đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước.

-Trong xã hội ta tất cả mọi trẻ em, thế hệ trẻ đều được học tập và giáo dục, đều chịu sự
tác động của nhà trường, cụ thể là của thầy giáo, cô giáo – những người kỹ sư tâm hồn.
Bởi vì tác động giáo dục của giáo viên đối với học sinh là tác động có chương trình, kế
hoạch, nội dung, phương pháp và phương tiện thích hợp nên tác động này có sự ảnh
hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của học sinh vừa sâu sắc, vừa toàn diện có tác
dụng đặt nền móng vững chắc, định hướng cho quá trình phát triển lâu dài trong nhân
cách của con người. Tác động giáo dục của người giáo viên đối với học sinh có vai trò to
lớn như vậy nên trong bài nói chuyện với các thầy cô giáo Trường cấp II Quảng An năm
1966, Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã khẳng định: “Đảng ta và nhân dân ta giao phó việc
dạy dỗ con em của mình cho các đồng chí, cũng tức là phó thác cho các đồng chí sứ
mệnh đào tạo tương lai cho dân tộc…”

- Muốn thực hiện vai trò này, người giáo viên chính phải tổ chức, hướng dẫn, giảng dạy
và giáo dục cho học sinh; nhằm hình thành cho học sinh hệ thống tri thức khoa học, các
kỹ năng kỹ xảo vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức để giải quyết các vấn đề do thực tiễn
xã hội đặt ra. Đồng thời yêu cầu người giáo viên phải nỗ luck vươn lên để có đủ phẩm
chất và năng lực giáo dục – đào tạo để đào tạo cho học sinh thành những con người toàn
diện như mục tiêu giáo dục đã đặt ra để đáp ứng phù hợp với yêu cầu của xã hội

-Xác định đúng đắn vai trò cực kỳ quan trọng của người giáo viên trong việc đào tạo thế
hệ tương lai cho đất nước , đồng thời chuẩn bị lực lượng chuẩn bị dự trữ và nguồn
tuyển chọn , đào tạo công nhân , cán bộ cần thiết cho nước nhà nên Đảng ta đã khẳng
định: “Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân vật trung tâm trong nhiệm
vụ này”.

-Đúng vậy, muốn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có con
người rất mực trung thành, giàu lòng yêu nước, có trình độ kiến thức hiện đại và kỹ năng
thành thạo, có khả năng làm ra những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và ngoài nước.

- Muốn xây dựng CNXH, xây dựng đất nước phồn vinh thì phải có những con người đáp
ưng với yêu cầu của xã hội, không một ai, không một cơ quan nào có thể thay thế được
vai trò đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo thế hệ nhân tài cho tương lai của đất nước như
người giáo viên. Bởi vì trong quá trình giáo dục giáo viên chính là người trực tiếp chịu
trách nhiệm trước chính quyền và nhân dân về chất lượng của việc dạy học và giáo dục
học sinh. Họ là người tổ chức điều khiển quá trình hình thành nhân cách, cũng như những
kiến thức, kỷ năng, kỷ xảo tương ứng của người học sinh phù hợp với mục đích, mục tiêu
giáo dục.

Mặt khác giáo viên còn là người được chuẩn bị về nghề nghiệp tương ứng, những hiểu
biết về những yêu cầu của xã hội đối với giáo dục, hiểu biết về học sinh, nắm vững
những kỹ năng cần thiết để tổ chức dạy học trong quá trình dạy học.

b, Giáo viên là lực lượng chủ đạo trong sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo dục

-Sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo dục là sự nghiệp cách mạng chung của quần chúng
nhân dân, cho nên có nhiều lực lượng quần chúng tham gia. Đặc biệt trong xã hội ngày
nay khi đảng ta đang thực hiện “xã hội hóa giáo dục” thì tất cả mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội đều có trách nhiệm và vị trí vai trò để tham gia vào sự nghiệp phát triển văn hóa
giáo dục đất nước.

Song lực lượng đóng vai trò chủ yếu, cốt cán trong sự nghiệp này chính là đội ngũ các
thầy giáo, cô giáo. Quy mô và tốc độ phát triển và chất lượng của nền văn hóa–giáo dục
đất nước tùy thuộc phần lớn vào số lượng, chất lượng đội ngũ các thầy cô giáo. Nếu đất
nước có một đội ngũ giáo viên đông đảo về số lượng, vững vàng về chất lượng thì sự
nghiệp phát triển văn hóa – giáo dục sẽ nhanh hơn, mạnh hơn và vững vàng hơn; đáp ứng
được đầy đủ mọi yêu cầu của đất nước, xã hội. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có cán bộ và không nói gì đến
kinh tế - văn hóa”.

Người cũng đã trực tiếp khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước
và toàn dân, nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Các thầy giáo có
nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nước nhà, là người chiến sĩ tiên
phong trên mặt trận tư tưởng, văn hoá có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng
đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại, bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển
và tiến bộ xã hội”

-Trong nhà trường, bên cạnh đội ngũ các thầy cô giáo còn có các thành phần khác cùng
tham gia giáo dục học sinh như: Đoàn, Đội, hội phụ huynh học sinh… Các lực lượng này
cũng có những vai trò quan trọng không thể thay thế được. Nhưng hoạt động giáo dục
của các lực lượng này chỉ có tác dụng hỗ trợ, tạo điều kiện thúc đẩy để hoạt động giảng
dạy, giáo dục của giáo viên đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn chứ không thể thay thế
được vai trò của các thầy, cô giáo.

-Mặt khác ,lứa tuổi học sinh là lứa tuổi hình thành nhân cách, có nhiều tác động, nhiều
luck lượng tham gia, nhưng sự ảnh hưởng tác động của giáo viên đối với học sinh luôn
giữ vai trò quyết định nhất vì hoạt động của giáo viên bao giờ cũng có mục đích, có kế
hoạch, có chương trình, có nội dung, nghệ thuật sư phạm…; người giáo viên luôn được
chuẩn bị về mọi mặt, có đầy đủ phẩm chất năng lực để dạy dỗ và giáo dục cho học sinh.
Hơn nữa người giáo viên là người trực tiếp tổ chức hoạt động giao lưu tập thể trong nhà
trường, xã hội như hoạt động đoàn, đội, hoạt động thi đấu thể dục thể thao, hoạt động
phòng chống tệ nạn…, từ đó hình thành nên nhân cách cho người học sinh; đạo tạo cho
học sinh trở thành những con người xã hội chủ nghĩa có năng lực phẩm chất toàn diện,
đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của xã hội khi các em bước vào lao động hay học tiếp lên
bậc cao hơn.

-Trong nhà trường có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục, nhưng điều đó phụ
thuộc rất nhiều vào người giáo viên, vì người giáo viên còn là người quyết định phương
hướng, tư tưởng chính trị của bài giảng.

-Trong điều kiện hiện nay dù cho các phương tiện kỹ thuật có hiện đại đến đâu vẫn
không thể thay thế được vai trò của người giáo viên. Vì vậy giáo viên đóng vai trò chủ
đạo trong sự nghiệp phát triển văn hóa- giáo dục của đất nước.

=>Người thầy ngày nay không chỉ có kiến thức mà còn phải có năng lực hướng dẫn học
sinh tự học, tự đánh giá; có năng lực lôi cuốn học sinh, biết thu thập và xử lý thông tin để
tự biến đổi mình thích ứng với sự đổi mới. Từ đó truyền thụ cho học sinh những kiến
thức đầy đủ, mang tính biện chứng trong thời đại ngày nay.Như vậy, vai trò của nhà giáo
có thay đổi, song vị trí của nhà giáo không hề giảm và có cơ hội tăng lên so với trước.
Đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho đội ngũ nhà giáo cần phải nỗ lực phấn đấu rèn
luyện mình, để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới.

3. Chức năng của giáo viên PTTH

Chức năng cơ bản của người giáo viên là giảng dạy và giáo dục học sinh:

-Trong giảng dạy, người giáo viên không những truyền đạt thông tin, kiến thức cho học
sinh mà còn tổ chức, hướng dẫn, điểu khiển quá trình tiếp thu tri thức, rèn luyện hệ thống
kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Ngoài ra, giáo viên phải quan tâm, tạo điểu kiện giúp đỡ
học sinh yếu kém, bồi dưỡng cho học sinh giỏi, tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh

Người giáo viên giảng dạy cho học sinh không những bằng nghĩa vụ, tinh thần trách
nhiệm mà cả bằng bầu nhiệt huyết , bằng tấm lòng yêu trẻ, yêu nghề, tất cả vì học sinh
thân yêu.

- Trong quá trình giáo dục học sinh, người giáo viên không chỉ giáo dục cho các em
thông qua bài giảng, trong những giờ lên lớp mà bằng cả nhân cách của mình. Mỗi người
giáo viên xứng đáng là một tấm gương sáng để học sinh học tập và noi theo. Để giáo dục
học sinh, các thầy, cô giáo tổ chức cho các em các hoạt động, sinh hoạt tập thể, hoạt động
ngoại khóa, lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động đó để giáo dục, tự rèn luyện
nhân cách của mình.

Giáo viên thường quan tâm tới tất cả học sinh để có thể động viên, khích lệ hoặc điều
khiển, điều chỉnh hành vi, thói quen hành vi cho các em, định hướng quá trình hình
thành và phát triển nhân cách cho các em

Ngoài ra, các thầy cô giáo thường quan tâm tới những học sinh có hoàn cảnh khó khăn,
học sinh cá biệt để giúp đỡ các em. Tổ chức tốt qúa trình giáo dục học sinh cũng như việc
đánh gái kết quả tự giáo dục, rèn luyện về đạo đức của các em

Không những vậy, người giáo viên còn nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động
chuyên môn, nâng cao học vấn của bản thân và tham gia các hoạt động chính trị- xã hội..
Song tất cả các hoạt động này đều nhằm giúp cho quá trình giảng dạy và giáo dục học
sinh được tốt hơn.

4. Đặc điểm của lao động sư phạm


Hoạt động của người giáo viên rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức tạp. Lao
động sư phạm là một dạng lao động nghề nghệp, có những nét đặc thù do mục đích, đối
tượng và công cụ của lao động sư phạm quy định

- Về mục đích của lao động sư phạm

-Cũng như bất kỳ một dạng lao động nào khác, lao động sư phạm cũng có mục đích nhất
định. Mục đích của lao động sư phạm là nhằm giáo dục thế hệ trẻ thành những người có
đầy đủ phẩm chất và năng lực mà xã hội yêu cầu. Nói cách khác, lao động sư phạm góp
phần “sáng tạo ra con người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xh đào tạo và bồi
dưỡng liên tục những thế hệ trẻ cho đời sau

-Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học. Trong đó,
người dạy là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được Xh giao cho nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ. Còn người học có nhiệm vụ học tập, tiếp thu những giá trị Vh của
xh loài người và rèn luyện hệ thống kĩ năng kĩ xảo để sau này có thể ra đời sống và lao
động nhằm thỏa mãn các tiêu chí mà mục đích giáo dục đã đề ra.

-Mục đích giáo dục thường quy định cách thức tổ chức, phương pháp Giáo dục và các
mqh trong Gd. Vì vậy, nếu mục đích giáo dục là đào taọ Hs trở thành những người sẵn
sàng tuân thủ, phục tùng vô điều kiện thì công tác giáo dục sẽ là áp đặt, cưỡng bức, roi
vọt, … còn nếu mục đich Gd là đào tạo ra những người năng động sáng tạo thì nội dung
Gd phải gắn liền với cuộc sống và phương pháp GD là tôn trọng nhân cách của người
được GD và phải hình thành ở họ tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo

-Ngoài ra sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội cũng kéo theo sự thay đổi của mục
đích giáo dục, nhiệm vụ, nội dung giáo dục và phương hướng hoạt động của người giáo
viên.

Về đối tượng của lao động sư phạm:

- Lao động sư phạm có đối tượng tác động ko phải là những vật vô tri, vô giác mà là
những con người, thế hệ trẻ đang trưởng thành

- Đối tượng của lao động sư phạm rất đa dạng, phúc tạp, nhiều hình, nhiều vẻ. Sản phẩm
của lao động sư phạm được “vật chất hóa” trong bộ mặt tinh thần tri thức, thể chất, kĩ
năng, kĩ xão, ý chí, phẩm chất và tính cách của Hs. Vì vậy cần phải tổ chức, điều khiển
quá trình tác động sư phạm một cách hợp quy luật nhằm làm biến đổi đối tượng giáo dục
theo chiều hướng phát triển đi lên

- Đối tượng của lao đọng sư phạm có những đặc điểm sau đây:
+ đối tượng của lđsp là HS. Hs ko chỉ chịu tác động của Gv, nhà trường mà còn chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố khác như: gđ, bạn bè, các phương tiện thông tin đại chúng… Tất
cả những nhân tố này có thể tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của hs
1 cách tích cực hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát … theo nhiều mức độ và cách thức
khác nhau. Mặt khác các mối quan hệ trong cuộc sống của Hs cũng rất phong phú. Chúng
cũng thường xuyên tác động và ảnh hưởng đến hs. Vì vậy, lao động sư phạm có nhiệm vụ
điều chỉnh mọi tác động từ các nhân tố đến người Hs nhằm đạt hiệu quả gd cao nhất.

+ Nhưng hs – đối tượng của lđ sp ko phát triển theo tỉ lệ thuận với những tác động sp mà
theoquy luật của sự hình thành nhân cách con người, tâm lí và nhận thức. Vì vây, có khi
cùng 1 tác động sp đến người hs nhưng lại có kết quả khác nhau có thể tích hoặc tiêu cực.
+ Mặt khác, kết quả của lđ sp ko chỉ phụ thuộc vào trình độ được đào tạo của Gv mà còn
phụ thuộc rất nhiều vào mqh giữa GV và hs vào thái độ, dộng cơ, hứng thú người học,
vào đặc điểm nhân cách của hs.

+ Trong quá trình sp, người Gv là chủ thể còn hs là khách thể và là đối tượng của lđ sp.
Mặt khác, hs còn là 1 thực thể xh có ý thức. Vì vậy quá trình sư phạm chỉ đem lại hiệu
quả khi phát huy đc tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học.

Về công cụ của lao động sư phạm:

- Để tác động tới hs người Gv cần có những công cụ đặc biệt đó là: hệ thống tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết để giáo dục hs và tổ chức các dạng hoạt động như: học tập, lao
động, vui chơi, giải trí cho các e.

- Nhưng nếu chỉ có hệ thống tri thức kĩ năng, kĩ xảo thì chưa đủ đảm bảo hiệu quả của lđ
sp. GV là người đào luyện con người, vì vậy, người Gv cần phải giảng dạy và giáo dục hs
với tất cả tình cảm và tâm hồn mình. Mặt khác, nhân cách của các thầy, cô giáo cũng có ý
nghĩa giáo dục to lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển nhân cách của người Hs.

- Ngoài những công cụ lđ sp này còn phải kể đến những phương tiện như đồ dùng dạy
học, thiết bị kĩ thuật. Đặc biệt, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như
hiện nay thì các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại có tác dụng quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục học sinh

Về sản phẩm của lđ sp:

Lao động sp của người gv có đối tượng là con người và sản phẩm của lđ sp cũng là con
người. Song, qua quá trình gd và tự gd lâu dài, dưới sự hướng dẫn tổ chức và điều khiển
của ng gv, những con người – Sản phẩm của lđ sp đã có những chuyển biến sâu sắc về
chất trong nhân cách. Họ đã được chuẩn bị một cách đầy đủ và toàn diện để đi vào cuộc
sống đa dạng phong phú, thích ứng và đương đầu với những sự thay đổi diễn ra liên tục
trong cs.

Về thời gian, không gian của lao động sư phạm

-Về Thời Gian thực hiện, lao động sư phạm chia thành 2 bộ phận, bộ phận làm việc theo
quy chế và bộ phận làm việc ngoài quy chế. Bộ phận theo quy chế gắn liền với tg làm
việc(giảng dạy) trên lớp và tổ chức các hđ dạy học ngoài lớp căn cứ theo chuương trình
dạy học, với thời gian tham dự các sinh hoạt chuyên môn và hành chính, thực hiện các
hoạt động của nhà trường.

-Bộ phận làm việc ngoài quy chế gắn liền với thời gian làm việc để soạn bài, chấm bài,
thăm gia đình hs, đọc sách, tài liệu; thời gian người giáo viên độc lập làm việc để chuẩn
bị cho việc dạy học và giáo dục hs được tốt hơn. Mỗi bộ phận của thời gian này đều có
tầm quan trọng của riêng nó, song chúng có liên quan mật thiết và thống nhất với nhau
nhằm thực hiện mục đích của lđ sp.

Lao động sư phạm được tiến hành trong phạm vi không gian: ở trường, nơi dạy học ngoài
thiên nhiên, trong môi trường sp, trong các cơ quan nhà máy, ở nhà

=> Tóm lại, Lao động sư phạm là một dạng lao động sản xuất đặc thù, lao động sản xuất
phi vật chất. Mục đích của nó là giáo dục thế hệ trẻ. Đối tượng của nó là người và sản
phẩm của nó cũng chính là con người đã trưởng thành chuẩn bị bước vào đời. Vì vậy,
người giáo viên cần thấy rõ các đặc điểm này để có thể tổ chức, điều khiển quá trình lao
động sư phạm một cách khoa học nhằm đạt được hiệu quả tối ưu

5. Các yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên PTTH

6. Vị trí, chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp của PTTH

- Giáo viên chủ nhiệm lwops là một giáo viên trong số các giáo viên dạy văn hóa ở một
lớp, có nhiều kinh nghiệm giáo dục học sinh, được hiệu trưởng giao trách nhiệm làm
công tác chủ nhiệm lớp

- GVCN lớp, ngoài chức năng cơ bản của người giáo viên là giảng dạy và giaosducj còn
có vị trí và chức nhnwg cụ thể như sau:

a, GVCN lớp là người thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện học sinh một lớp

Trong một trường học có rất nhiều học sinh được phân thành nhiều lớp. Hiệu trưởng
không thể quản lý quá trình phát triển nhân cách của từng học sinh trong trường. Vì vậy
cần có GVCN giúp hiệu trưởng quản lý học sinh cụ thể hơn.
Công tác quản lý học sinh thể hiện ở những công việc cơ bản như:

- Nắm được chỉ số về quản lý như: tên, tuổi, số lượng, đặc điểm tâm sinh lý và hoàn cảnh
sống, trình độ, sở thích, năng lực, những thay đổi, điều kiện, hoàn cảnh gia đình, các mối
quan hệ xã hội, bạn bè…

- Mặt khác phải dự báo được xu hướng phát triển nhân cách của học sinh và tập thể học
sinh để lập kế hoạch cho việc tổ chức giáo dục cho phù hợp với điều kiện, khả năng học
sinh, tập thể lớp

- Lập kế hoạch chủ nhiệm lớp là rất cần thiết trong công tác quản lý của GVCN Để lập kế
hoạch giáo dục khoa học, hợp lý cần phải có thời gian chuẩn bị và tìm hiểu cụ thể đối
tượng giáo dục, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục của cấp học, trường học, lớp
học, sự phát triển của học sinh và tập thể lớp

- Tổ chức cho học sinh và tập thể thực hiện kế hoạch đã đề ra. Công việc này cần có sự
phân công , phân nhiệm cho cán bộ lớp, củng cố cơ cấu tổ chức lớp học rõ rang

- Chỉ đạo cho học sinh và cán bộ lớp thực hiện kế hoạch. Chỉ đạo thể hiện sự lãnh đạo,
hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh và động viên kịp thời của GVCN. Không nên chỉ ra
lệnh, yêu cầu cao mà nên thuyết phục, tôn trong người học, phát huy tính tích cực, độc
lập, tự giác , sáng tạo của cán bộ lớp và học sinh , phát huy được tính dân chủ và khả
năng tự quản của lớp học.

- Kiểm tra, đánh giá, tổng kết việc thực hiện kế hoạch, đánh giá sự phát triển nhân cách
của học sinh. Công việc kiểm tra không chỉ giúp cho GVCN hiểu rõ học sinh để đánh gái
chính xác mà còn để chỉ đạo sự học tập và rèn luyện của học sinh tốt hơn..

-GVCN cùng GV bộ môn giúp hiệu trưởng xếp loại học lực và hạnh kiểm cho học sinh.
Việc xếp loại phải khách quan, toàn diện, hệ thống, công khai và căn cứ theo tiêu chuẩn
của Bộ, Sở GD – ĐT. Cần đánh giá khách quan, toàn diện,hệ thống và công khai để động
viên học sinh và điều chỉnh quá trình giáo dục tốt hơn

b, GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, các tổ chức trong nhà
trường với học sinh và tập thể học sinh

- GVCN có chức năng truyền đạt và đề bạt những vấn đề cần thiết trong công tác GD học
sinh cho nhà trường.
- Với tư cách là nhà sư phạm ( đại diện cho các lực lượng GD của nhà trường) GVCN có
trách nhiệm truyền đạt cho học sinh lớp chủ nhiệm tất cả những yêu cầu, nội quy, quy
chế, kế hoạch, chủ trương chính sách của nhà trường, của ngành đến tập thể lớp và từng
học sinh. Sự truyền đạt đó không phải chỉ ra lệnh mà bằng thuyết phục, giải thích của
GVCN để học sinh tự giác, tự nguyện những mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục.

- Với kinh nghiệm và uy tín của mình, GVCN có khả năng biến những chủ trương, kế
hoạch của nhà trường thành nguyện vọng và chương trình hành động của tập thể lớp và
học sinh

- Mặt khác , GVCN là người tập hợp ý kiến và hiểu rõ nguyện vọng của học sinh để phản
ánh với hiệu trưởng, với giáo viên bộ môn và các tổ chức giáo dục trong nhà trường.

- GVCN là người thường xuyên tiếp nhận thông tin từ học sinh, Khi tiếp nhận thông tin,
GVCN phải xử lý kịp thời với tư cách là nhà sư phạm . Điều đó có tác dụng giáo dục rất
lớn, bởi vì có những suy nghĩ, những thông tin của HS chỉ có thể tâm tư với GVCN, Ví
dụ nỗi oan ức, sự hiểu lầm của thầy cô giáo,.. GVCN là người giải tỏa được những băn
khoăn, vướng mắc của học sinh.

- GVCN có trách nhiệm bênh vực ,bảo vệ mọi quyền lợi của học sinh, góp phần thực hiện
các điều khoản của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền trẻ em, Luật bảo vệ và chăm sóc giáo
dục trẻ em của Nhà nước ta.

c, GVCN là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh

-Học sinh PTTH là những em ở lứa tuổi thiếu niên và đầu tuổi thanh niên ( 12 đến 18
tuổi). Là lứa tuổi đang tự khẳng định mình, giàu mơ ước, bước đầu tiên đã có kinh
nghiệm sống, có khả năng tự quản, tự tổ chức hoạt động tập thể. Tuy nhiên,cẫn là lứa tuổi
mong muốn lớn hơn khả năng, muốn tự khẳng định mình nhưng chưa đủ “ độ chín” về
kinh nghiệm sống. Khi có thnahf công thì dễ “ bôc”, “tự tin”quá mức, nhưng khi gặp thất
bại thì dễ bị dao động , chán nản. mất lòng tin. Do đo,học sinh rất cần có sự hướng dẫn ,
điều chỉnh, giúp đỡ và động viên của GVCN

- Quan hệ giữa GVCN với các tổ chức Đoàn, Đội của học sinh không phải là quan hệ
giữa người quản lý và đối tượng quản lý mà là quan hệ phối hợp. Với kinh nghiệm sống
phong phú và khả năng giáo dục của mình, GVCN là người cố vấn đáng tin cậy cho tổ
chức Đoàn, Đội trong nhà trường

.- Chức năng cố vấn đối với tập thể HS đầu cấp khác với tập thể cuối cấp, tùy theo khả
năng và mức độ độc lập tự quản của học sinh mà GVCN đưa ra các góp ý, chỉ bảo ở
chừng mực nhất định. Quan trọng nhất là giúp đợ và tạo điều kiện cho học sinh phát
huy hết khả năng độc lập, tích cực của họ.

- Vai trò cố vấn của GVCN còn là sự định hướng, điều khiển, điều chỉnh tình cảm, thái
độ, hành vi, hoạt động của từng cá nhân học sinh và dư luận của tập thể lớp

.- Chức năng cố vấn của GVCN phải được quán triệt trong toàn bộ nội dung giáo dục, kế
hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể, từ học tập đến việc rèn luyện đạo đức, văn
nghệ,vui chơi, giải trí, giao tiếp.. diễn ra trong lớp, trong trường và ngoài trường

- GVCN cần xác định tầm quan trọng của chức năng cố vấn trong mọi hoạt động , trong
các mối quan hệ ứng xử của học sinh, trong việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh ,
nhất là những lớp cuối.

d, GVCN là người đại diện cho nhà trường trong công tác phối hợp với cha mẹ học
sinh và các luck lượng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục

- Hiệu quả của việc tổ chức , giáo dục học sinh lớp chủ nhiệ phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng liên kết, phối hợp các lực lượng xã hội, phát huy mọi khả năng của các lực lượng đó
vào công tác giáo dục học sinh

- GVCN cần căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của lớp, nhà trường, của cộng đồng và gia
đình …để tổ chức phối hợp các lực lượng GD. Sự thống nhất các yêu cầu và các tác
động giáo dục nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp và môi trường GD thuận lợi, tích cực

- Sự phối hợp của nhà trường với gia đình và các lực lượng xã hội trong công tá giáo dục
HS là một nguyên tắc của quá trình GD nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục
HS. Nguyên tắc này cần được thể hiện trong việc tổ chức tất cả các hoạt động giáo dục
của nhà trường.

.- Vấn đề cơ bản trong công tác phối hợp giáo dục là không chỉ dừng ở nhận thức mà
quan trọng là xây dựng được chương trình, kế hoạch hoạt động thống nhất. GVCN khai
thác triệt để và hợp lý mọi tiềm năng của các lực lượng XH vào việc thực hiện nội dung
giáo dục, tổ chức hoạt động GD cho học sinh lớp chủ nhiệm.

7. Nội dung công tác chủ nhiệm lớp

a, Nghiên cứu ,tìm hiểu đối tượng giáo dục

b, Xây dựng tập thể lớp trở thành tập thể đoàn kết, thân ái, có sức mạnh giáo dục

c,Tổ chức thực hiện nội dung giáo dục toàn diện cho học sinh lớp chủ nhiệm
-Tổ chức các hoạt động giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật

-Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học tập văn hóa

-Tổ chức hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp

- Tổ chức các hoạt động giáo dục thể chất

- Tổ chức hoạt động giáo dục thẩm mỹ

d, Tổ chức phối hợp giáo dục với Đoàn TNCS HCM và Đội TNTP HCM

e, Phối hợp với các giáo viên bộ môn và các lực lượng giáo dục trong nhà trường để tổ
chức các hoạt động giáo dục HS

f, Tổ chức phối hợp giáo dục với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội

* Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp

a, Yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp

Nội dung công tác chủ nhiệm rất phong phú, đa dạng và toàn diện liên quan đến cả các
mặt hoạt động của HS trong lớp. Để thực hiện công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao , co
hiệu quả đòi hỏi người GVCN phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm và chỉ đạo cho học
sinh xây dựng kế hoạch hoạt động của tập thể lớp chỉ nhiệm

-Yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm :

1. Xác định đúng các cơ sở để xay dựng kế hoạch chủ nhiệm

-Mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch công tác GD của nhà trường về tất cả các mặt: học tập,
lao động, văn nghệ , TDTT.. trong năm học, học kỳ và trong từng tháng, tuần

-Đặc điểm tình hình của lớp

-Điều kiện giáo dục: Như cơ sở vật chất của trường, của lóp, khả năng phối hợp với các
lực lượng giáo dục( Đoàn,Đội, Hội, Cha mẹ học sinh, các giáo viên bộ môn)

2. Kế hoạch chủ nhiệm phải thể hiện tính toàn diện, cụ thể và có khoa học

3.Biện pháp để thực hiện kế hoạc chủ nhiệm phải cụ thể, khả thi và thể hiện được tính
sáng tạo và hiệu quả giáo dục cao

4.Phát huy và thống nhất được vai trò chủ đạo của thầy và vai trò tích cực ,chủ động,
sáng tạo của học sinh
5.Kế hoạch chủ nhiệm phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được mặt yếu, động viên
được tnh thần nỗ lực vươn lên của tập thể học sinh, đồng thời phát huy được vai trò tự
quản của cán bộ lớp

6. Kế hoạch chủ nhiệm thể hiện được sự phát triển của tập thể lớp và HS

8. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp

Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. GVCN phải thực hiện những yêu cầu cơ bản sau;

1. Phải có đầy đủ phẩm chất và năng lực của người giáo viên XHCN Việt Nam

2.Hiểu biết sâu sắc học sinh trong lớp chủ nhiệm, hết lòng thương yêu học sinh, nhiệt tình
trong công tác chủ nhiệm

3.Biết xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp và chỉ đạo cho cán bộ lớp xây dựng kế hoạch
hoạt động của tập thể lớp

4. GVCN lớp cần có những kỹ năng thực hiện công tác chủ nhiệm lớp

* Kỹ năng thực hiện công tác chủ nhiệm lớp:

- GVCN nếu không hiểu được đặc điểm, trình độ, những biến đổi của HS trong quá trình
giáo dục, tự rèn luyện thì không thể có sự định hướng,điều chỉnh kịp thời quá trình rèn
luyện của học sinh. Kỹ năng sử dụng các phương pháp nghiên cứu giáo dục để hiểu học
sinh và nắm được mục tiêu cần đạt trong quá trình giáo dục toàn diện cho HS là điều
kiện cần thiết để làm tốt công tác chủ nhiệm

- GVCN có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh những yêu cầu, kế hoạch giáo dục của
nhà trường không phải bằng mệnh lệnh mà bằng thuyết phục,cảm hóa bởi sự gương mẫu
của mình để biến những chủ trương, kế hoạch giáo dục của nhà trường thành chương
trình hành động của tập thể lớp và của mỗi HS. Vì vậy, GVCN cần phải có các kỹ năng
truyền đạt , thuyết phục học sinh

-GVCN còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng HS để phản ánh với hiệu
trưởng, vs các tôt chức trong trường và các giáo viên bộ môn, mặc dù đó là quá trình tiếp
nhận thông tin từ HS.Kỹ năng nắm bắt thông tin và xử lý thông tin để đám bảo tính khách
quan, trung thực của dư luận và nguyện vọng của HS là rất cần thiết trong việc thực hiện
công tác chủ nhiệm lớp

-Các Kỹ năng xây dựng tập thể lớp thành tập thể vững manh:
+Kỹ ăng tổ chức các hoạt động tập thể: Học tập, lao động, sinh hoạt lớp, thể dục thể thao,
văn hóa văn nghệ, căm straij, du lịch

+Kỹ năng xây dựng và điều chỉnh dư luận vào mục đích giáo dục

+Kỹ năng phát hiện kịp thời các phần tử tiêu cực, tìm hiểu nguyên nhân và tác động kịp
thời

+Kỹ năng phối hợp với các giáo viên bộ môn để xây dựng tập thể lớp và giáo dục HS

+ Xây dựng truyền thống của lớp

+ Phối hợp với hội phụ huynh HS để tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng tập thể,
các hoạt động tập thể và giáo dục HS

-Kỹ năng xác định mục tiêu của việc tổ chức hoạt động giáo dục

-Kỹ năng thiết kế chương trình, kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục

-Kỹ năng chỉ đạo cho cán bộ lớp triển khai các hoạt động giáo dục

-Kỹ năng vận động, tuyên truyền và phối hợp GD với gia đình và các lực lượng XH trong
việc tổ chức các hoạt động GD

-Kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết quả tổ chức hoạt động giáo dục

-Các kỹ năng tổ chức giáo dục tư tưởng chính trị , đạo đức và pháp luật HS

-Kỹ năng tổ chức hoạt động nâng cao chất lượng học tập văn hóa cho HS

-Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục lao động cho HS

-Kỹ năng tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi, giải trí,rèn luyện thế lực, bảo vệ sức
khỏe

-Các kỹ năng phối hợp công tác và giúp đỡ cho chi đoàn, chi đội hoạt động tốt

-Các kỹ năng phối hợp với giáo viên bộ môn để giáo dục HS

5. Để có những điều kiện trên, người GVCN phải nỗ lực phấn đấu, rèn luyện với tình cảm
nghề nghiệp “ tất cả vì học sinh thân yêu”, có kế hoạch tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt

-Luôn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trao đổi kinh nghệm
- Rèn luyện đạo đức, tác phong, mẫu mực trong giao tiếp xã hội, trong quan hệ với đồng
nghiệp, trong quan hệ thầy trò

9. Ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá

– Đối với học sinh: Việc kiểm tra và đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp
thời những thông tin “liên hệ nguợc” giúp người học điều chỉnh hoạt động học.

+ Về giáo dưỡng: Kiểm tra, đánh giá chỉ cho mỗi học sinh thấy mình đã tiếp thu điều
vừa học đến mức độ nào, còn những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi vào một
phần mới của chương trình học tập , có cơ hội để nắm bắt những yêu cầu cụ thể đối với
từng phần của chương trình.

+ Về mặt phát triển năng lực nhận thức: thông qua kiểm tra, đánh giá , học sinh có điều
kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá, khái quát hoá,
hệ thống hoá kiến thức, Nếu việc kiểm tra đánh giá chú trọng phát huy trí thông minh ,
học sinh sẽ có thuận lợi để phát triển năng luck tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến
thức đã học để giải quyết các tình huống thực tế.

+ Về mặt giáo dục: Kiểm tra, đánh giá nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ giúp học sinh
nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập; ý chí vươn lên đạt những kết quả học tập
cao hơn; củng cố lòng tin vào khả năng của mình; nâng cao ý thứcc tự giác; khắc phục
tính chủ quan tự mãn trong học tập.

– Đối với giáo viên: Kiểm tra, đánh giá cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ
ngược” ngoài giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy.

Kiểm tra đánh giá, kết hợp với theo dõi thường xuyên, tạo điều kiện cho GV nắm được
một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình độ của mỗi học sinh trong lớp mình
phụ trách để có biện pháp giúp đỡ riêng thích hợp, ít ra là đối với những học sinh giỏi và
HS kém, qua đó nâng cao chất lượng học tập chung của cả lớp

+ Kiểm tra đánh giá được tiến hành một cách công phu sẽ cung cấp cho giáo viên không
chỉ những thông tin về trình độ chung của các lớp hoặc khối lớp mà còn tạo điều kiện
cho GV nắm được những HS có tiến bộ rõ rệt hoặc sút kém đột ngột để động viên hoặc
giúp đỡ kịp thời . Người GV có trách nhiệm và kinh nghiệm thường xem kiểm tra đánh
gái như một biện pháp cá nhân hóa dạy học, giúp mỗi học sinh tự đánh giá để tự quyết
định cách học phù hợp vs mình

+Kiểm tra đánh giá tạo cơ hội cho giáo viên xem xét hiệu quả của những cải tiến nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà mình đang theo đuổi, nhất là đối vs
những giáo viên tâm huyết muốn hoàn thiện việc dạy học của mình bằng con đường thực
nghiệm nghiên cứu KH giáo dục

– Đối với cán bộ quản lí giáo dục: Kiểm tra, đánh giá cung cấp cho cán bộ quản lí giáo
dục các cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục
để có những chỉ đạo kịp thời, kịp thời uốn nắn được những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ
những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.

=> Tóm lại, việc kiểm tra đánh giá HS có ý nghĩa về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất
là đối vs bản thân mỗi HS

10. Các yêu cầu sư phạm kiểm tra, đánh giá

a, Khách quan

-Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải khách quan và chính xác tới mức tối đa
có thể, tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thực chất khả năng và trình độ của mình,
ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu trung thực khi làm bài như nhìn bài , nhắc bạn, quay cóp..

-Tránh cách đánh giá chung chung về sự tiến bộ của toàn lớp hay của một nhóm thực
hành, một tổ học tập. Việc đánh giá phải sát vs hoàn cảnh,điều kiện dạy và học, tránh
những nhận định chủ quan áp đặt thiếu căn cứ

b, Toàn diện

Một bài kiểm tra, một đợt đánh giá có thể nhằm vào một mục đích trọng tâm nào đó
nhưng toàn bộ hệ thống kiểm tra đánh giá phải đạt yêu cầu đánh giá toàn diện, không chỉ
về mặt số lượng mà quan trọng là mặt chất lượng, không chỉ về mặt kiến thức mà cả kỹ
năng, thái độ, tư duy

c, Hệ thống

-Việc kiểm tra đánh giá phải được tiến hành theo kế hoạch, có hệ thống.

-Đánh giá trước trong và sau khi học một phần của chương trình. Kết hợp theo dõi
thường xuyên với kiểm tra đánh giá định kỳ và đánh giá tổng kết cuối năm học, cuối
khóa học. Số lần kiểm tra phải đủ mức để có thể đánh giá chính xác

d, Công khai

- Việc tổ chức kiểm tra đánh giá phải được tiến hành công khai, kết quả được công bố kịp
thời để mỗi học sinh có thể tự đánh giá xếp hạng trong học tập , để tập thể học sinh hiểu
biết, học tập giúp đỡ lẫn nhau

You might also like