- Theo Hồ Chí Minh: “Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng sự biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. - Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người. - Một số ví dụ: Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành, Cồng chiêng Tây Nguyên, nhã nhạc cung đình Huế…. 2. Quan họ Bắc Ninh a) Giới thiệu chung - Dân ca Quan họ Bắc Ninh là một hình thức hát giao duyên giữa các liền anh liền chị (liền anh và liền chị là những lối nói mang tính biệt ngữ trong sinh hoạt dân ca Quan họ, dùng để chỉ hoặc gọi từng thành viên nam hoặc nữ của một bọn Quan họ). Đây là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng. - Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người hát Quan họ. - Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, trong sách “Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam” có thể chia hát quan họ thành những dạng sau: – Hát quan họ ở hội còn gọi là hát Hội. – Hát quan họ ở đám còn gọi là hát Mừng. – Hát quan họ ở cửa đình, cửa đền còn gọi là hát Thờ hát Cầu. – Hát quan họ tại nhà giữa hai nhóm quan họ trai gái mời nhau còn gọi là hát Canh. Trong các dạng hát quan họ kể trên, hát hội và hát canh là hai hình thức hát quan họ nổi bật có giá trị văn hóa cao. b) Nguồn gốc - Cho đến nay, tuy có nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về Quan họ nhưng chúng ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc của nó. Có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc của Quan họ. Tên gọi “quan họ” đã có từ rất xa xưa, không ai biết chính xác vì sao lại có tên gọi này. Có rất nhiều giả thuyết lý giải nhưng cho đến nay chưa có giả thuyết nào có đủ tính thuyết phục.Có giả thuyết cho rằng “quan họ” là thể loại âm nhạc của “họ nhà quan” nên được gọi là “quan họ” (khác với các thể loại dân ca khác, quan họ không được sinh ra từ tầng lớp nhân dân lao động, mà được sinh ra từ tầng lớp trung lưu nông thôn). Cũng có truyền thuyết cho rằng, có một ông quan cưỡi ngựa đi qua làng Diềm Xá (xã Hòa Long, huyện Yên Phong), gặp một cô gái đang hát điệu dân ca. Ông quan dừng ngựa lại (họ) để nghe, mê tiếng hát và đặt tên là làn điệu quan họ. - Còn nhiều truyền thuyết khác, nhưng cái chung của đa số các truyền thuyết đó là lối hát đối đáp giữa hai họ, hai làng, hai đối tượng. c) Thời gian diễn ra và trang phục - Thời gian diễn ra: Từ mồng 4 Tết âm lịch, trong gần ba tháng mùa xuân đầu năm, hội làng ở các làng Quan họ và các làng kế cận liên tiếp diễn ra. Suốt tháng 8 âm lịch lại là các hội lệ vào đám của các làng. Cho nên mùa xuân và mùa thu là mùa hội cũng là mùa ca hát Quan họ nhộn nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới. - Trang phục: Trong hát quan họ trai thường mặc trang phục áo lụa, áo the, quần sớ, khăn xếp; nữ thì mặc mớ bảy mớ ba, áo tứ thân nhiều điều, nhiều tía, yếm xẻ con nhạn, thắt lưng hoa đào, hoa lý, đeo khuyên vàng xà tích. Khi hát ngoài trời thì nam thường che ô còn nữ che nón thúng quai thao để tăng thêm vẻ lịch sự, duyên dáng. 3. Quan họ trong thời kỳ hội nhập (Quá trình thay đồi không có đâu mày, chỉ nói đến thực trạng ngày nay thôi nhé )))