Professional Documents
Culture Documents
PH Gia Dinh Dư Ng-Tuyet Anh 06H2A
PH Gia Dinh Dư Ng-Tuyet Anh 06H2A
Cùng với sự phát triển không ngừng về khoa học, kỹ thuật của xã hội, mức sống
cũng như những nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Trong những nhu cầu đó,
sử dụng thực phẩm không là một ngoại lệ và vì thế, yêu cầu về chất lượng thực phẩm,
bao gồm cả chất lượng dinh dưỡng và chất lượng cảm quan đã trở thành những yếu tố
hàng đầu được người tiêu dùng và các nhà sản xuất lưu tâm.
Sự cân bằng và đầy đủ về mặt dinh dưỡng quyết định trực tiếp đến chất lượng
bữa ăn, cũng như đến sức khỏe con người. Khi không được cung cấp đầy đủ một hay
vài chất dinh dưỡng nào đó, các hoạt động sống bình thường của cơ thể, ví dụ như sinh
trưởng, phát triển, đề kháng … sẽ bị gián đoạn và ngừng trệ. Tuy nhiên, không một loại
thực phẩm nào có thể chứa đầy đủ tất cả các loại chất dinh dưỡng cần thiết cho con
người. Vì thế, ngoài kết hợp các món ăn từ nhiều nguồn thực phẩm, việc bổ sung các
chất dinh dưỡng vào thực phẩm một cách hợp lý cũng là một trong những giải pháp có
hiệu quả rất cao và là mối quan tâm được ưu tiên nhất của các nhà thực phẩm.
Các chất phụ gia làm tăng giá trị dinh dưỡng của thực phẩm (nutrient additive) là
các chất dinh dưỡng được nghiên cứu và bổ sung vào thực phẩm đó. Việc bổ sung phụ
gia dinh dưỡng vào thực phẩm cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, không những về chức
năng và tác dụng của chúng, mà còn về nhu cầu của cơ thể cũng như những tác hại khi
sử dụng quá liều lượng hoặc những tương tác có lợi và bất lợi giữa chúng với các thành
phần khác trong cơ thể. Và vì thế, phụ gia làm tăng giá trị dinh dưỡng của thực phẩm
cũng chính là đối tượng nghiên cứu của em trong đồ án này.
Đề tài số 1: Phụ gia thực phẩm: các phụ gia làm tăng giá trị dinh dưỡng của thực
phẩm (nutritional additive)
Bữa ăn, có lúc không phải là một nhu cầu, là sự cần thiết, mà là một sự giải trí,
hoặc bắt buộc. Do đó chúng ta cần các món ăn có màu và hình dáng thật hấp dẫn,
hương vị thật kích thích, và khẩu vị có thể thích hợp với mọi người trong tất cả các điều
kiện. Trong chế biến thực phẩm, do nhiều tác nhân cơ, lý, hoá, hương vị tự nhiên của
thực phẩm sẽ bị giảm, và chúng ta không thể không tìm cách đưa thêm các chất có tác
dụng tăng vị vào thực phẩm.
Việc sản xuất nhiều loại thực phẩm mới, thay thế cho các sản phẩm động vật,
thực vật tự nhiên, cần rất nhiều các chất phụ gia. Thí dụ chế biến giả thịt bò, lợn, gà,
xúc xích ... Từ đậu tương hoặc men lơ-vuya được sinh tổng hợp từ parafine dầu hoả,
với một số chất phụ gia có tác dụng kết dính được tăng thêm mầu và hương vị. Trong
lĩnh vực các chất phụ gia về hương liệu, các nhà khoa học đã có thành công đáng kể.
Người ta đã chiết tách được ở cà fê có tới trên 300 thành phần hương liệu khác nhau.
Tới nay riêng các loại bánh, bơ, fomat, rượu, quả, người ta đã phát hiện được trên 800
loại hương liệu, có mùi đặc trưng và việc làm giả các sản phẩm giống như thiên nhiên,
không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi sản xuất nhỏ nữa.
Phụ gia dinh dưỡng ngày nay đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc
sống hiện đại. Nó không những giải quyết tình trạng thiếu dinh dưỡng dẫn đến mắc
phải các bệnh tật nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng con người, mà còn góp phần
làm tăng chất lượng cuộc sống của con người thông qua các loại thực phẩm bổ sung
chất dinh dưỡng. [34]
Sản phẩm chế Thất thoát vitamin (%) (So với rau củ mới nấu xong và xả nước)
biến, đóng hộp Vitamin A Vitamin B1 Vitamin B2 Niacin Vitamin C
(c)
Sản phẩm đông 12 20 24 24 26
lạnh(a) 0-50 (d)
0-61 0-45 0-56 0-78
Sản phẩm tiệt 10 67 42 49 51
trùng(b) 0-32 56-83 14-50 31-65 28-67
a
Gồm măng tây, đậu lima, đậu xanh, súp lơ, bắp cải, đậu Hà lan, khoai tây, rau
spinach, giá đỗ, lõi ngô non.
b
Giống thí nghiệm a, ngoại trừ súp lơ, bắp cải, giá đỗ.
c
Giá trị trung bình.
Hình 2.2 : Tinh thể vitamin A dưới ánh sáng phân cực [7]
• Giới thiệu:
Vitamin A là một thuật ngữ chung cho một nhóm các hợp chất hòa tan trong chất
béo thuộc họ trans-retinol. Vitamin A chỉ có trong các tế bào động vật, như trong dầu
gan cá, gan động vật, chất béo của sữa, lòng đỏ trứng. Thực vật không chưa vitamin A
nhưng chứa các carotenoid có thể chuyển thành viatmin A nhờ phân cắt một nối đôi ở
trung tâm. Carotenoid có nhiều trong các loại rau củ có màu xanh đậm và màu vàng
như cà rốt, cải bó xôi, ớt, cà chua, và đặc biệt nhiều trong bí ngô, mơ, cam, dầu cọ…
Các loại carotenoid trong động vật đều có nguồi gốc từ thực vật do động vật nhận được
từ nguồn thực phẩm hàng ngày, thường gặp nhất là beta caroten.[1]
• Chức năng:
Retinal, dạng oxi hóa của retinol, cần thiết cho các hoạt động thị giác. Acid retinoic,
một dạng chuyển hóa khác của vitamin A được xem như là chất đóng vai trò chính cho
tất cả các chức năng còn lại của vitamin A. Acid retinoic liên kết với các protein hấp
thụ nhân đặc hiệu, có chức năng đính vào DNA và điều tiết các biểu hiện gene, từ đó
ảnh hưởng đến nhiều quá trình sinh lý, do đó được coi như là một hormone.
+ Thị giác: Các tế bào hình que trong võng mạc mắt chưa một loại sắc tố rất nhạy
cảm với ánh sáng gọi là rhodopsin, một dạng phức của protein opsin và retinal. Võng
mạc nằm ở phía sau mắt. Khi ánh sáng vào mắt, nó kích thích võng mạc, chuyển đổi
thành một xung thần kinh và được não giải mã. Retinol được vận chuyển đến võng mạc
thông qua các mạch máu và tích lũy trong các biểu mô tế bào sắc tố. Ở đây, retinol sẽ bị
este hóa để tạo thành dạng retinyl ester, có thể lưu trữ được. Khi cần thiết, retinyl este
bị thủy phân và chuyển thành đồng phân 11-cis-retinol - chất có thể bị oxy hóa để tạo
thành 11-cis-retinal. 11-cis-retinal sẽ chuyển động ngang qua một ma trận các tế bào
nhận kích thích ánh sáng đến các tế bào hình que, nơi nó hình thành liên kết với protein
opsin để hình thành sắc tố thị giác rhodopsin. Các tế bào hình que và rhodopsin có thể
nhận biết những tia sáng có cường độ rất yếu, vì thế chúng rất quan trọng cho việc nhìn
vào ban đêm. Sự hấp thụ photon ánh sáng làm xúc tác quá trình chuyển 11-cis-retinal
thành dạng đồng phân trans-retinal, các đồng phân này sẽ phóng ra tạo thành một chuỗi
các tín hiệu điện truyền đến các tế bào thần kinh thị giác. Xung động thần kinh tạo ra
Bảng 2.6: RDA của vitamin A cho từng đối tượng [17]
Nhóm tuổi RDA μg/ngày UL μg/ngày
Trẻ sơ sinh 0 -6 tháng tuổi 400 600
Trẻ sơ sinh 7 -12 tháng tuổi 500 600
Trẻ em 1 – 3 tuổi 300 600
Trẻ em 4-8 tuổi 400 900
Bé trai 9-13 tuổi 600 1700
Nam giới 14 -18 tuổi 900 2800
Nam giới 19-30 tuổi 900 3000
Nam giới 31-50 tuổi 900 3000
Nam giới 50-70 tuổi 900 3000
Nam giới trên 70 tuổi 900 3000
Bé gái 9-13 tuổi 600 1700
Phụ nữ 14 -18 tuổi 700 2800
Phụ nữ 19-30 tuổi 700 3000
Phụ nữ 31-50 tuổi 700 3000
Phụ nữ 50-70 tuổi 700 3000
Phụ nữ trên 70 tuổi 700 3000
Phụ nữ mang thai ≤ 18 tuổi 750 2800
Phụ nữ mang thai 19-30 tuổi 770 3000
Phụ nữ mang thai 31-50 tuổi 770 3000
2.2.1.4 Vitamin D:
Hình 2.3: Tinh thể vitamin D dưới ánh sáng phân cực [7]
• Tên gọi khác: Calciferol; nhân tố chống còi xương; “sunshine” vitamin
Hình 2.7: Tinh thể vitamin E dưới ánh sáng phân cực
Trong số các tính chất hóa học của tocopherol, tính chất quan trọng hơn cả là
khả năng bị oxy hóa bởi các chất oxy hóa khác nhau như sắt III hoặc acid nitric. Khi đó
sẽ tạo nên các sản phẩm oxy hóa khác nhau, trong đó có tocopherylquinon. Chất này có
cấu trúc hóa học gần giống với cấu trúc của các vitamin K và Q, do đó các loại vitamin
Để tính số mg alpha-tocopherol có thể sử dụng được có mặt trong phụ gia, người ta
sử dụng công thức sau:
+ RRR-alpha-tocopherol (dạng tự nhiên hoặc alpha-tocopherol):
IU x 0.67 = mg RRR-alpha-tocopherol.
Ví dụ: 100 IU = 67 mg
+ all-rac-alpha-tocopherol (dạng tổng hợp hoặc dl-alpha-tocopherol):
IU x 0.45 = mg RRR-alpha-tocopherol.
Ví dụ: 100 IU = 45 mg
• Thiếu vitamin E:
Sự thiếu hụt vitamin E đã được quan sát trên các cá thể bị suy dinh dưỡng nặng,
bị dị tật di truyền ảnh hưởng đến protein chuyển hóa alpha-tocopherol và hội chứng
kém hấp thụ chất béo. Thiếu hụt vitamin E trầm trọng thường gây ra những triệu chứng
liên quan đến thần kinh, bao gồm cân bằng kém và mất điều hòa, tổn thương đến các
dây thần kinh cảm giác (thần kinh ngoại biên), suy nhược cơ và tổn hại võng mạc mắt
(sắc tố võng mạc). Vì lý do này, những người mắc các bệnh về thần kinh ngoại vi, mất
điều hòa hoặc giảm sắc tố võng mạc được chẩn đoán là do thiếu vitamin E. Ví dụ, ở trẻ
em nếu thiếu hụt trầm trọng vitamin E từ khi sinh ra và không được điều trị bằng
vitamin E thì sẽ nhanh chóng phát triển các triệu chứng thần kinh
Mặc dù thiếu hụt vitamin E là rất hiếm nhưng Viện y học Hoa Kỳ vẫn đưa ra
khuyến nghị RDA cho người trưởng thành là 15mg/ngày. Và trên thực tế có đến 90%
người Mỹ không đáp ứng đủ khuyến nghị này.
Bảng 2.11 : Recommended Dietary Allowance (RDA) của RRR-alpha-tocopherol
(d-alpha-tocopherol) [23]
Nhóm người Độ tuổi Nam giới; Phụ nữ;
mg/ngày (IU/ngày) mg/ngày (IU/ngày)
Trẻ sơ sinh (AI) 0-6 tháng tuổi 4 mg (6 IU) 4 mg (6 IU)
Trẻ sơ sinh (AI) 7-12 tuổi 5 mg (7.5 IU) 5 mg (7.5 IU)
Hình 2.9: Tinh thể vitamin B1 dưới ánh sáng phân cực. [7]
• Tính chất hóa học:
Vitamin B1 chỉ bền trong môi trường acid còn ở môi trường kiềm nó bị phá hủy
nhanh chóng khi đun nóng. Vitamin B1 là những tinh thể hòa tan tốt trong nước và chịu
được các quá trình gia nhiệt thông thường. Khi oxy hóa vitamin B1 sẽ chuyển thành
một hợp chất gọi là thiocrom phát huỳnh quang. Tính chất này được ứng dụng phổ biến
để định lượng vitamin B1 trong các thực phẩm khác nhau. Vitamin B1 được tổng hợp
dễ dàng bởi thực vật, một số vi sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật ở ruột các động vật nhai
lại.
• Nguồn vitamin B1:
Cơ thể người và đa số động vật không có khả năng đó nên phải lấy từ các thực
phẩm. Nấm men cung cấp một lượng vitamin B1 rất lớn nên thường được dùng vào các
mục đích chữa bệnh khi thiếu vitamin nhóm B. Trong thịt của một số cá nước ngọt hoặc
một số nhuyễn thể có chứa các chất chống tác dụng của thiamin do chúng có khả năng
làm phân giải thiamin.
Bảng 2.13: Hàm lượng vitamin B1 trong một số loại thực phẩm. [7]
Thực phẩm Vitamin B1 (mg/100g)
Nấm men bia 12
Mầm lúa mạch 2
Hạt hướng dương 1.5
Quả hạch Brasil 1
Thịt heo 0.9
Đậu 0.8
Bột yến mạch 0.59
Thịt bò 0.23
• Chức năng:
Dựa vào cơ chế tác dụng của thiamin, người ta đã biết rõ rằng thiamin-
pirophosphat là coenzyme của các enzyme piruvat T decarboxylase hoặc alpha-
xetoglutarat decarboxylase. Các axit piruvic và các axit alpha-xetoglutaric chính là các
sản phẩm của quá trình trao đổi gluxit. Chính vì vậy khi thiếu vitamin B1 thì sự trao đổi
gluxit sẽ ngừng trệ. Trong cơ thể người và động vật, thiamin chuyển thành
pirophosphat. Dưới dạng này nói tham gia phân giải acid piruvic tạo ra sản phẩm cuối
cùng là oxyetylpirophosphat.
Thiamin pyrophosphate (TPP) là một coenzyme cần thiết cho một lượng nhỏ
các enzyme rất quan trọng.
Sự tổng hợp TPP từ thiamin đòi hỏi sự có mặt của magnesium, adenosine
triphosphate (ATP) và enzyme thiamin pyrophosphokinase. Pyruvate dehydrogenase,
ketoglutarate dehydrogenase và enzyme dehydrogenase của chuỗi phân nhánh ketoacid.
Mỗi enzyme trên đều được tìm thấy trong ti thể của tế bào. Chúng xúc tác các quá trình
decarboxylate của pyruvate, ketogluatarate và các amino acid có mạch phân nhánh để
tạo thành acetyl coenzyme A,succinyl coenzyme A và các dẫn xuất của amino acid có
mạch phân nhánh tương ứng. Tất cả các sản phẩm của quá trình này đều đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc giải phóng năng lượng từ thức ăn. Ngoài ra trong các
TPP, mỗi phức hệ enzyme dehydrogenase đều cần niacin-chất chứa coenzyme NAD và
lipoic acid thiamin pyrophosphokinase.
Transketolase xúc tác những phản ứng quan trọng trong quá trình trao đổi chất
khác như là con đường pentose phosphate. Mà một trong những bước trung gian quan
trọng nhất của con đường nàu là ribose-5-phosphate, một đường 5 carbon liên quan đến
quá trình phosphoryl hóa cần thiết cho sự tổng hợp ATP và GTP. Nó cũng cần thiết cho
qúa trình tổng hợp các axit nucleic, DNA và RNA, và coenzyme chưa niacin –
NADPH, chất cần thiết cho rất nhiều các phản ứng tổng hợp sinh học. Vì transketolase
sẽ bị giảm rất nhanh trong các trưởng hợp thiếu thianin, việc đánh giá độ hoạt động của
nó trong tế bào hồng cầu cũng được sử dụng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của
thiamin.
Dưới dạng thiaminpirophosphat, vitamin B1 tham gia vào hệ ezyme decarboxyl
oxy hóa các xeto acid như acid piruvic hoặc acid alpha-xetoglutaric. Vì vậy khi cơ thể
bị thiếu vitamin B1 sẽ dẫn tới tích lũy các xeto acid làm hỗn loạn trao đổi chất kèm theo
hiện tượng bệnh lý trầm trọng, ví dụ giảm xuất tiết dịch vị, tê phù… Ngoài ra vitamin
Hình 2.11: Tinh thể riboflavin dưới ánh sáng phân cực [7]
Vitamin B2 là loại vitamin tan trong nước được phân bố rộng rãi nhất. vì trong
cấu tạo của vitamin B2 có hợp chất riboza nên người ta gọi tên là riboflavin.
Tinh thể vitamin B2 màu vàng, hòa tan tốt trong nước và rượu, không hòa tan
trong các dung môi của chất béo. Tinh thể khô bền với nhiệt độ và dung dịch axit.
Trong cơ thể, vitamin B2 dễ bị phosphorin hóa tạo nên nhóm hoạt động của các enzyme
xúc tác cho các quá trình oxy hóa khử, các coenzyme thường gặp là riboflavin
mononucleotit hoặc riboflavin-adenin-dinucleotit. Khi gắn vào các protein sẽ tạo nên
các enzyme như các loại dehydrogenaza khác nhau, men vàng Vacbua, oxydaza D-
axitamin, reductase… Vitamin B2 tham gia vận chuyển hydro ở nhiều enzyme, trong
đó nó tồn tại ở dạng flavin adenin dinucleotit. Quá trình vận chuyển hydro của vitamin
B2 được thực hiện nhờ khả năng gắn hydro vào các nguyên tử nito ở các vị trí 1 và 10.
Khi đó vitamin B2 sẽ chuyển từ dạng có màu sang dạng không màu.
• Nguồn vitamin B2:
Vitamin B2 có nhiều trong các sản phẩm thiên nhiên: nấm men bánh mì, nấm
men bia, đậu, thịt, gan, thận, tim, sữa, trúng và cá sản phẩm từ cá. Trong rau xanh cũng
chứa nhiều vitamin B2. Nó được tổng hợp bởi các tế bào thực vật và vi sinh vật. Các
động vật có sừng không cần tới riboflavin vì ở ruột của chúng, các vi sinh vật tổng hợp
được riboflavin và cung cấp cho động vật chủ.
Để sản xuất vitamin B2 từ các nguyên liệu thiên nhiên có thể dựa vào khả năng
sinh tổng hợp riboflavin từ các vi sinh vật như các loại nấm mốc Eremothecium
• Độ bền:
Riboflavin dễ bị phân giải khi đun sôi và để ngoài ánh sáng. Trong trường hợp
đun sôi và giữ riboflavin ở môi trường kiềm, nó sẽ chuyển thành lumiflavin còn trong
môi trường trung tính hoặc axit yếu thì sẽ thu được dẫn xuất lumicrom.
Trong quá trình bảo quản gạo và các loại hạt khác, người ta nhận thấy rằng ngược với
vitamin B1, vitamin B2 có xu hường tăng lên rõ rệt nhất là khi bảo quản ở dạng bao
cói, bao tải, bao PP, nghĩa là có sự xâm nhập dễ dàng của oxy không khí.
Đối với trứng gà, vitamin B2 trong lòng trắng không biến đổi trong quá trình bảo quản,
còn ở lòng đỏ, có lẽ do nó tồn tại ở dạng tự do nhiều hơn nên vitamin B2 dễ bị biến đổi
hơn. [3]
• Hấp thụ và chuyển hóa:
Hầu hết các riboflavin có trong chế độ ăn uống được hấp thụ trong protein thực
phẩm với FMN và FAD. Các riboflavin được tách ra trong dạ dày của quá trình axit hóa
và hấp thu nhanh ở phần trên của ruột non, cơ chế vận chuyển bão hòa. Tỷ lệ hấp thụ
tỷ lệ thuận với lượng riboflavin được tiêu thụ cùng với các loại thực phẩm khác. Vì vậy,
khoảng 15% được hấp thụ nếu thực hiện một mình và hấp thụ 60% so với khi dùng
cùng với thức ăn. Sự khuyết tán thụ động chỉ đóng một vai trò nhỏ ở liều sinh lý tiêu
hóa trong chế độ ăn uống.
Trong các tế bào màng nhầy của ruột non ,riboflavin được chuyển đến
mononucleotide Flavin coenzyme mẫu (FMN). Trong hệ thống cổng Roboflavin dựoc
giới hạn với albumin huyết tương hoặc với các protein khác, chủ yếu là globulin miễn
dịch, và vận chuyển đến gan, tại đó nó được chuyển hóa thành dạng coenzyme khác,
FAD, và đựoc quy định giới hạn với protein cụ thể như flavoproteins.
Riboflavin, chủ yếu là FAD, được phân bố trong tất cả các mô, nhưng nồng độ
thấp và ít được lưu giữ. Gan và các mô võng mạc là những nơi lưu trữ chính.
Riboflavin được bài tiết chủ yếu là trong nước tiểu và nó góp phần làm cho nước tiểu
có màu vàng. Một lượng nhỏ đựoc bài tiết qua mồ hôi và bài tiết qua mật. Trong thời
gian cho con bú, khoảng 10% riboflavin hấp thu qua nguồn sữa mẹ.
• Tương tác dinh dưỡng:
Hình 2.12 : Tinh thể vitamin C trong ánh sáng phân cực [7]
• Chức năng:
Vitamin C có chức năng chung như một chất khử sinh học, đặc biệt trong các
phản ứng hydroxyl hoá và như một chất chống oxy hoá để bảo vệ cơ thể chống lại các
tác nhân gây oxy hoá có hại. Khi tham gia vào các phản ứng hydroxyl hoá, vitamin C
thường hoạt động dưới dạng kết hợp với ion Fe2+ hoặc Cu+.
- Tạo keo (hình thành collagen): Chức năng đặc trưng riêng của vitamin C là vai
trò trong quá trình hình thành collagen (chiếm khoảng 1/4 toàn bộ lượng protein trong
cơ thể). Collagen là một protein là cấu trúc chủ yếu của mô liên kết, xương, răng, sụn,
da và mô sẹo. Vitamin C cần thiết đặc biệt cho các tế bào nguyên bào sợi của mô liên
kết (chịu trách nhiệm tổng hợp collagen) và nguyên bào xương (hình thành xương).
Thiếu vitamin C làm cho quá trình tổng hợp collagen bị khiếm khuyết, gây chậm
liền vết thương, vỡ thành mao mạch, răng và xương không tốt. Những dấu hiệu sớm là
xuất huyết điểm nhỏ, do các sợi xơ yếu và thành mạch máu kém bền vững. Khung
xương cấu thành 1/5 trọng lượng của xương mà chủ yếu là collagen. Nếu khung xương
bị khiếm khuyết do sự suy yếu của hệ thống collagen nó sẽ khó có thể tích luỹ calci và
phospho cần thiết cho quá trình khoáng hoá một cách đầy đủ. Đây là nguyên nhân làm
cho xương bị yếu và đôi khi bị vẹo. Một số xương đôi khi còn bị sai lệch ra khỏi khớp
khi sụn chống đỡ có thành phần chủ yếu là collagen bị yếu. Lớp men răng không bình
thường khi bị thiếu calci, cấu trúc răng bị yếu, dễ bị tổn thương cơ học và sâu răng.
- Vitamin C là một trong số các chất chống oxy hoá của cơ thể. Vitamin C có thể
kết hợp và như một chiếc bẫy nhiều gốc oxy hoá tự do; nó cũng có thể phục hồi dạng
khử của vitamin E, chuyển sang dạng hoạt động chống oxy hoá. Vitamin C là một chất
chống oxy hoá quan trọng trong huyết tương, trong các dịch ngoài tế bào khác và trong
các tế bào. Một số các nhà nghiên cứu cho rằng chức năng chính của vitamin C là
chống oxy hoá.
- Sử dụng sắt, calci và acid folic: Vì vitamin C hoạt động như một chất khử, nó có
thể giữ ion sắt dưới dạng sắt ferrous (Fe2+), giúp cho việc hấp thu sắt không hem ở
ruột non dễ dàng hơn. Vitamin C cũng giúp cho việc di chuyển sắt từ huyết tương vào
*chế độ ăn cần 3-10 lần cao hơn,phụ thuộc nguồn và dạng sắt sử dụng
2.3.2.2 Calci (Ca)
Calcium là khoáng chất có hàm lượng cao nhất trong cơ thể người. Trên 99%
lượng calcium trong cơ thể được tìm thấy ở xương và răng, trong khi 1% còn lại được
tìm thấy trong máu và các mô mềm. Mức calcium trong máu và dịch ngoại bào phải
được giữ trong một giới hạn nồng độ rất hẹp để đảm bảo các chức năng sinh lý bình
thường. Các chức năng sinh lý này là tối cần thiết cho sự sinh tồn của cơ thể khi lượng
calcium trong máu bị giảm thấp nhờ việc lấy đi calcium từ xương chuyển vào máu. Vì
thế, chế độ ăn uống đầy đủ calcium là yếu tố cần thiết để duy trì một bộ xương khỏe
mạnh.
• Chức năng:
Hình 2.13 : Cấu trúc bậc nhất của protein là một chuỗi các aminoacid [25]
Bảng 2.17 : Nhu cầu từng loại amino acid – đơn vị mg/kg cân nặng [30]
Amino acid Trẻ sơ sinh Trẻ em Người lớn
3 - 6 tháng tuổi 10 - 12 tuổi
Histidine 33 Chưa biết Chưa biết
Isoleucine 80 28 12
Leucine 128 42 16
Lysine 97 44 12
Các amino acid chứa lưu huỳnh 45 22 10
Aromatic amino acids 132 22 16
Threonine 63 28 8
Tryptophan 19 4 3
Valine 89 25 14
2.3.3.1 Alanine:
• Tên gọi khác: 2-Aminopropanoic acid
• Tên IUPAC: Alanine
• Công thức phân tử: C3H7NO2
• Khối lượng phân tử: 89.09 g mol−1
(1) (2)
Hình : Công thức cấu tạo của L-Isoleucine (1) và D-Isoleucine (2) [11]
Isoleucine là một acid amin cần thiết cho rất nhiều quá trình liên quan đến máu,
bao gồm điều chỉnh lượng đường máu và các mức năng lượng cũng như việc hình
thành hemoglobin. Cùng với leucine và valine, isoleucine được xếp vào nhóm amino
acid dạng chuỗi phân nhánh (BCAAs).
Cả ba loại amino acid này đều là những amino acid không thay thế đối với dinh
dưỡng người và cần thiết để duy trì sự khỏe mạnh của các mô cơ bắp trong toàn bộ cơ
thể người. Ngoài ra, nó cũng tham gia vào quá trình làm đông máu ở người.
BCAAs cũng tăng cường và bảo vệ hàm lượng glycogen trong các cơ xương.
Điều này rất quan trọng bởi vì glycogen chính là công cụ trong việc thục hiện các quá
trinh vật lý hàng ngày. Dễ dàng chuyển đổi thành năng lượng cho cơ thể, glycogen là
nguồn năng lượng carbohydrate chính được dự trữ trong cơ bắp.
Các thành viên trong họ các amino acid mạch chuỗi phân nhánh chiếm gần 70%
tổng lượng protein trong cơ thể. Chúng đem lại sự nhất quán liên tục về cả mặt chức
năng và mặt cấu trúc cho cho cơ thể người về mặt sinh học.
• Nguồn isoleucine :
• Chức năng :
Leucine có thể được chuyển đổi thành glucose nhanh hơn valine và isoleucine.
Điều này có nghĩa rằng nó hiệu quả nhất trong việc phòng ngừa thiệt hại hoặc phân hủy
các khối cơ bắp để cung cấp năng lượng cho cơ thể. [ 7]
Leucine còn giúp điều chỉnh lượng đường trong máu, sư tăng trưởng và sửa chữa
các mô cơ (như xương, da và cơ bắp), sản xuất hormone tăng trưởng, chữa lành vết
thương cũng như điều chỉnh năng lượng. Nó còn có thể giúp ngăn ngừa sự phân hủy
các protein trong cơ bắp, hiện tượng thường xảy ra sau những chấn thương hoặc stress
nặng. Leucine còn có ích cho các bệnh nhân mắc bệnh phenylketone niệu - một bệnh
mà cơ thể không thể chuyển hóa các amino acid phenylalanine. [16]
• Nguồn thực phẩm:
Leucine được tìm thấy chủ yếu trong các loại thực phẩm chất lượng cao chứa
nhiều protein như đậu, men bua, cám gạo nâu, caseinate, ngô, sản phẩm từ sữa, trứng,
cá, hạt cây gai dầu, rau, thịt, các loại hạt, hải sản, đậu nành... [ 36]
• Lượng leucine khuyến nghị:
Lượng leucine được khuyến cáo được kê trong bảng . Tuy nhiên đây mới chỉ là
mức tối thiểu cơ thể cần trong một ngày để ngăn chặn sự thiếu hụt chất dinh dưỡng đặc
biệt này. Để điều trị việc thiếu hụt leucine, người ta thường tăng hàm lượng loại acid
amin này một cách đáng kể, tuy nhiên phải luôn chú ý đến mức độ gây ngộ độc.
Với những nội dung nghiên cứu về phụ gia làm tăng giá trị dinh
dưỡng của thực phẩm trên đây, một lần nữa ta thấy được vai trò quan trọng
của chúng đối với sức khỏe của con người, mà cụ thể hơn, là sự sinh trưởng
và phát triển cũng như những hoạt động chức năng của cơ thể. Việc bổ sung
thừa hay thiếu các chất phụ gia dinh dưỡng vào thực đơn hàng ngày của con
người đều dẫn đến những hậu quả nhất định, ảnh hưởng đến hoạt động và sự
hấp thụ của chúng và của các chất dinh dưỡng khác trong những mối quan
hệ tương tác rất chặt chẽ. Điều này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng
của việc nghiên cứu và đưa vào thực nghiệm phụ gia dinh dưỡng vào sản
phẩm thực phẩm trong khoa học thực phẩm ngày nay. Nghiên cứu về phụ
gia thực phẩm sẽ mở ra những bước tiến xa hơn trong công nghiệp thực
phẩm, để không những giải quyết được những nhu cầu tối thiểu về các chất
dinh dưỡng mà còn đem vào bữa ăn hàng ngày của con người đầy đủ các
chất dinh dưỡng với một tỉ lệ hợp lý và ngày càng hoàn hảo.