You are on page 1of 79

Khởi động lập trình Iphone

I. Thông tin chung:


Bái này sẽ tóm gọn cách để học lập trình ios theo từng bước và hướng dẫn chi tiết các
bước để học lập trình ios một cách chi tiết nhất.
Câu đầu tiên bạn phải nhớ và hiểu rằng: ”Lập trình trên IOS là dễ dàng, chỉ có điều nó
khác biệt so với những thức chúng ta đã làm nên nó trở nên khó”.
Những người thấy lập trình IOS khó là do sự tiết kiệm không mua máy tính Mac, xài
phần mềm lậu lâu ngày quen tay. Thử hỏi, nếu phải trả tiền để có các công cụ thì các
lập trình viên sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho mỗi ngôn ngữ?
* IOS là miễn phí sau khi mua máy Mac (iMac, Macbook, Macbook Pro,...)
* .Net là hơn 10.000 $ vì phải tính tới đủ các thứ như hệ điều hành, IDE, các phần phụ
trợ
* PHP cũng phải tốn mấy trăm đô mua Dreamweaver hay bất cứ thứ gì giúp các bạn bắt
đầu với lập trình

=> Vậy với một thứ miễn phí và một cái chi phí cao ngất, bạn thích cái nào?
II. Nội dung chính:
* Thông tin chung về hệ sinh thái Apple:
- Làm việc với Apple hay chính xác hơn vơi IOS thì số tlượng những sản phẩm chúng
ta cần nhắm tới rất nhỏ. Bao gồm:
+ Ipod
+ Iphone
+ Ipad
=> Số lượng những sản phẩm khá là nhỏ le

1. Bước chuẩn bị ban đầu


Cách học thì theo tôi cách học từ đầu là bạn hãy tập trung làm những cái đơn giản nhất:
* Đầu tiên hãy ghi lại những ý tưởng và mục tiêu lại trên một tài liệu nào đó trong quá
trình bạn học nhưng khoan hãy bắt tay và làm nó vội
=> Những ý tưởng này của bạn sẽ chính là mục tiêu của bạn sau khi đọc và thực hành
xong eBook.
Vì thực tế có một điểm mà ít ai biết được ngay từ đầu là các cuốn eBook không đưa ra
đầy đủ những kiến thức cần thiết mà chứa tất cả những kiến thức cơ bản nhất mà từ đó
bạn có thể hoàn thành được ý tưởng của bạn.

- Hầu hết mọi người sau khi hoàn tất một cuốn eBook sẽ không biết phải làm gì tiếp
nữa. Đợi đến lúc đó mới nghĩ ra ý tưởng thì hứng thú sẽ cạn kiệt dần trừ phi hứng thú
quá cao thì ý tưởng ra xong trước khi nó giảm hết có thể tìm ra được ý tưởng để phát
triển tiếp được.
- Cho nên, quá trình làm việc của tôi đi kèm theo việc suy nghĩ ra ý tưởng theo kèm
ngay từ lúc bắt đầu. Sau khi bạn có đủ kiến thức là bạn có thể bắt đầu luôn.

2. Luyện căn bản với Ebook:


- Cầm một cuốn eBook ra để luyện trước
+ Theo kinh nghiệm thì nên sử dụng sách của Apress vì các hướng dẫn rất đầy đủ chi
tiết và tác giả không ngại việc nhắc lại những kiến thức cũ và bổ sung thêm khi bạn tới
những cột mốc như vậy

+ Sách của Apress còn có thêm mã nguồn rất đầy đủ và chi tiết
=> Hãy luyện hết một cuốn (Chừng 24 chương cho những phần căn bản nhất) (Sách thì
bên phần eBook của website)
=> Lúc này bạn đã có đầy đủ kiến thức cơ bản để hiểu được một chương trình viết gì,
đây là lúc tham khảo 1 chương trình thực tế
- Tuy nhiên, sách của Apress có kuyết điểm là không chỉ cách tạo database (Array,
pList) nên việc sử dụng nó hầu như bạn phải sử dụng đúng database của Apress mới
chạy được

3. Khởi động với chương trình tương tự:


- Sau đó hãy kiếm một chương trình trên Internet có cấu trúc gần giống nhất với chương
trình bạn muốn viết
- Dựa vào cấu trúc đó viết lại chương trình bạn muốn
- Sau đó phát triển nó lên
=> Cách làm này giúp bạn có kiến thức và sản phẩm theo kèm rất nhanh chóng
=> Sau khi được chừng 3 chương trình thì đó là lúc bạn đã đầy đủ kiến thức có thể
chiến ở bất cứ nơi đâu

- Chương trình này có thể sẽ là chương trình chính của bạn trong tương lai, hãy làm nó
cho thật tốt vì lợi ích của nó là rất lớn. Những gì cần tham khảo thường sẽ tới từ chương
trình này.
- Ngoài ra, nếu bạn muốn xin việc ở một công ty chuyên về App thì việc show ra các
chương trình kiểu mẫu thế này sẽ được điểm rất cao.

4. Phát triển chương trình căn bản:


- Mỗi chương trình luôn có phần chính là chức năng nòng cốt. Chức năng này cần làm
tốt trước tiên. Sau đó mới tính tới những phần phụ theo kèm:
+ Giao diện
+ Hiệu ứng trong chương trình
+ Hình ảnh mô tả
+ Luồng đi hợp lý.
- Chức năng chính của chương trình luôn luôn phải chạy tốt, nếu không chạy tốt thì bạn
sẽ gặp rắc rối lớn và giảm uy tín rất nhiều.
- Chính vì vậy đầu tiên, bạn cần phát triển chương trình làm tốt nhất chức năng chính
của nó.

4. Nâng cấp chương trình:


- Đầu tiên phải lưu ý đến phần giao diện
+ Intro View là thứ đầu tiên bạn cần quan tâm vì đây là screen đầu tiên mà người sử
dụng nhìn thấy và là ấn tượng ban đầu để họ có tiếp tục sử dụng hay không?
+ Những chức năng mới nên làm trên những view mới còn vẫn muốn update trên view
chính thì việc bạn nên chắc chắn là tạo một bản sao lưu ở chỗ khác hoặc tạo một ảnh
bản sao (SnapShot) của chương trình để có thể quay ngược trở lại phiên bản làm việc
được gần nhất.
+ Lưu ý: Lới khuyên là nên sử dụng chức năng SnapShot của Xcode. Chức năng này
rất mạnh và chạy cực nhanh không tốn quá nhiều thời gian lại có thể điều khiển
(control) được những bản sao lưu và có thể trở lại bất cứ lúc nào. Đây là một điểm vượt
trội của Xcode so với những IDE khác.

III. Kết luận:


Đây là phần chuẩn bị để bắt đầu lập trình với Iphone.
Phần này còn cung cấp cho bạn một cái nhìn tổng quát và những mục tiêu trong tương
lai.
-----

Phần 1: Lịch sử và nguyên nhân

I/ Giới thiệu về Mac OS X

Lịch sử Mac OS:


Mac OS (viết tắt của Macintosh Operating System) là hệ điều hành có giao diện cửa sổ
và được phát triển bởi công ty Apple Computer cho các máy tính Apple Macintosh.
Phiên bản đầu tiên ra đời năm 1984. Thật ra ban đầu Mac OS cũng chả có tên, chỉ mang
cái tiếng là phần mềm kèm theo máy Macintosh, thời năm 1984 người ta vẫn gọi nó là
“System software”.

Mac OS 1984
Ngay sau khi Mac OS ra mắt 1 năm, năm 1985 Windows danh tiếng của bác Bill ra đời.
Mang tiếng là hệ điều hành, Windows lúc bấy giờ vẫn chỉ là một add-on cho MS-DOS
để có thêm tí giao diện đồ họa, chạy theo trào lưu nhà nhà dùng GUI lúc bấy giờ. Tất
nhiên, Windows ra mắt vì mục đích cạnh tranh với Mac OS, và chiếm cứ kiến trúc x86
của Intel trên các máy IBM compatible làm đại bản doanh của mình.
Sau hàng mấy chục năm phát triển và không ngừng đấu tranh, cho tới nay thì Mac OS
đã bị Windows vượt mặt xa lắc, tỉ lệ phần trăm thị trường lần lượt là 90% và 7% gì đó.
Điều này có được chủ yếu do phương pháp kinh doanh khác biệt của 2 hãng, chứ cũng
không liên quan nhiều đến việc Windows và Mac OS, ai tốt hơn ai.
Trở lại với Mac, máy Macintosh ban đầu sử dụng CPU Motorola 68000, cho tới khi
Apple, Moto và IBM chế ra kiến trúc PowerPC (Không phải Apple hâm tới mức vác PC
vào người đâu nhé, đó là viết tắt của “Performance Optimization With Enhanced RISC
– Performance Computing”, tên dài vãi đạn), thì Mac OS cũng chuyển qua hỗ trợ thêm
kiến trúc này. 8.1 là bản cuối cùng của Mac OS hỗ trợ 68000-class CPU. Sau này Intel
x86 cũng nhảy vào chiếm phần, và như chúng ta đã biết, Mac OS vừa đi qua một mốc
lịch sử khác bằng việc từ bỏ hỗ trợ PowerPC, bắt đầu với phiên bản Snow Leopard
10.6.

Mac OS X nói riêng:


Xét riêng bản Mac OS X, phiên bản Mac OS đầu tiên sử dụng chữ số la mã để đặt tên
(trước đó là Mac OS 9), đây là seri OS đã trải qua 6 phiên bản khác nhau của Apple.
Đánh dấu sự trở lại chói sáng của Steve Jobs, ông cũng mang theo vào Mac OS X
những thành tựu có được với Nextstep OS khi còn ở NeXT – công ty do chính ông sáng
lập và sau được Apple mua lại. Mac OS X là hệ điều hành BSD-based, sử dụng
microkernel có tên Mach kernel. Mac OS X mang trong mình nền tảng cốt lõi của Unix,
đặc điểm mang lại cho nó tính ổn định và bảo mật cao, cũng như nhiều khả năng ưu việt
khác.
Từ trái qua phải: 10.0 (Cheetah) và 10.1 (Puma) dùng chung vỏ hộp, 10.2 (Jaguar), 10.3
(Panther), 10.4 (Tiger), 10.5 (Leopard), 10.6 (Snow Leopard).

Các phiên bản Mac OS X được đặt tên theo các con vật lớn họ nhà mèo (chủ yếu là các
loại báo – không phải newspaper). Phiên bản hiện tại 10.6 có tên Snow Leopard – Báo
tuyết. Có lẽ khi nào không còn loài nào họ mèo để đặt tên nữa thì Apple mới chuyển lên
Mac OS XI được.

[SIZE=1.9px]Ảnh đã được thu nhỏ, Bấm vào đây để xem kích thước đầy đủ[/SIZE]

Mac OS X desktop

Mac OS X còn mang trong nó một ý nghĩa lớn đối với cộng đồng hackintosh (những
người chuyên chọc phá tìm cách đem Mac sang chạy trên các nền tảng khác). Kể từ bản
Tiger 10.4, Mac OS X chính thức thực hiện bước chuyển đổi sang sử dụng nền tảng
Intel x86, có nghĩa là hầu hết linh kiện phần cứng của một chiếc Macintosh đều giống y
xì một chiếc PC thứ thiệt. Điều này đem lại cơ hội lớn cùng nhiều thách thức cho việc
cài đặt Mac OS X lên một chiếc Intel PC (tất nhiên là rẻ hơn nhiều so với Macintosh
tương đương). Đây cũng là mục đích chính của loạt bài này.

II/ Khác biệt giữa Intel Mac và PC – OSX86 project ra đời

Khác biệt về hardware & firmware:


Nếu bỏ qua các thế hệ máy Macintosh sử dụng chip Motorola và PowerPC vì khác biệt
kiến trúc, thì máy Macintosh ra đời năm 2006 trở về sau, về cơ bản, có các thành phần
và cấu trúc giống hệt như một chiếc PC dùng CPU Intel phổ thông. Nói rằng về cơ bản
giống nhau không có nghĩa là không có khác biệt, cũng không có nghĩa là bạn có thể
mua một chiếc DVD Mac OS X để cài đặt lên PC ở nhà của mình. Và đây cũng là thời
điểm OSX86 project ra đời.
Tiếp tục bỏ qua các thế hệ tiền bối đã từng nghiên cứu giả lập Mac trên PC, OSX86
project ra đời với điều kiện khách quan và lực lượng hỗ trợ đông đảo hơn rất nhiều. Sự
tương đồng trong kiến trúc x86 đã giúp cho việc chạy OS X thực (run natively) trên PC
thành hiện thực.
Nói về khác biệt giữa Intel Mac và PC, thật ra cũng không có nhiều. Chúng ta chủ yếu
nói về khác biệt phần cứng hoặc firmware, xử lý nó ổn thỏa là có thể san bằng khác biệt
về phần mềm.

Các khác biệt chủ yếu:


- Mac không thể chạy tất cả các thiết bị của PC: Máy Mac sử dụng các linh kiện giống
với PC, có điều không nhiều chủng loại và nhà sản xuất như PC. Điều này có nghĩa là
Mac OS X chỉ có sẵn driver cho một số thiết bị có device ID và vendor ID đặc thù. VD
như onboard Ethernet Realtek RTL8139 có mã IOPCIPrimaryMatch là 0×813910EC,
có thể chạy ngay khi cài đặt (run out-of-the-box) do driver có sẵn, nhưng các thế hệ
Ethernet Realtek khác thì không. Điều này dẫn đến việc chỉ một bộ phận PC có cấu
hình hợp lý (ý ở đây là giống với một máy Mac tương ứng, có thể là Macbook hay
iMac, Mac Pro) có thể chạy được Mac OS X mà thôi.
- Mac có những thiết bị có firmware riêng biệt: Đối với các thiết bị có firmware như
VGA, card Ethernet, và wireless card, Apple còn có thể đặt hàng một seri sản phẩm sản
xuất riêng cho mình, có firmware riêng biệt khác với thiết bị sử dụng trên PC. Điều này
có thể làm một số thiết bị, VD như Geforce GTX 285 trên PC không thể chạy trên Mac,
do nó có firmware khác với GTX 285 Mac edition.
- Mac sử dụng EFI: EFI được mệnh danh là hệ điều hành thu nhỏ trên mainboard. Đây
là một kĩ thuật mới do Intel phát triển nhằm giao tiếp tốt hơn với system firmware, EFI
có nhiều ưu thế vượt trội so với BIOS truyền thống. BIOS trên PC viết bằng assembly,
trong khi EFI viết bằng C. Một vài hệ thống như HP Itanium cũng đã chuyển sang sử
dụng EFI từ lâu. Trên PC đã phát triển thế hệ Unified EFI và tương lai các mainboard sẽ
chuyển qua sử dụng hệ thống EFI này. Trước đây từng có một mainboard MSI giới
thiệu UEFI, MSI P45D3 Platinum.

- Mac sử dụng bảng DSDT khác với PC: DSDT trên Mac chi là một bản không hoàn
chỉnh của DSDT trên PC. Do vậy việc patching DSDT là cần thiết để Mac OS X có thể
giao tiếp và hỗ trợ tốt các thiết bị trên PC.
- Mac sử dụng SMC khác với PC: firmware SMC (System Management Controller)
trên Mac giúp hệ điều hành điều khiển một vài tính năng phần cứng (chẳng hạn như đọc
temp CPU và điều chỉnh tốc độ quạt). SMC cũng tồn tại trên PC, nhưng hoàn toàn
không giống Mac.
- Mac sử dụng keyboard khác với PC: Đương nhiên trên bàn phím của Mac không thể
có nút Windows, và đồng thời có một số nút cũng không có trên bàn phím PC, như
Command và Option.

OSX86 Project:
OSX86 project là dự án mở (GNU Public License) của cộng đồng công nghệ toàn thế
giới, ra đời nhằm khắc phục những khác biệt trên, đem Mac OS X đến với thế giới x86
của PC. OSX86 project bắt nguồn chủ yếu từ cộng đồng thành viên diễn đàn
InsanelyMac. Rất nhiều dự án nhỏ đã ra đời từ cộng đồng OSX86 này, thành tựu tiêu
biểu phải kể đến Chameleon bootloader, Voodoo group, 4500MHD opensource driver
project…

Nguồn: VOZ Forums

Phần 2: Khác biệt giữa Mac và PC – Cách giải quyết

III/ Giới thiệu về EFI và DSDT, hệ thống driver trên Windows và kext trên Mac OS X

EFI là gì?

EFI là từ viết tắt của Extensible Firmware Interface, một bộ đặc tả giao thức phần mềm
chịu trách nhiệm giao tiếp giữa hệ điều hành (OS) và firmware hệ thống. Nói tới EFI thì
quả là lạ lẫm, nhưng nếu nói tới BIOS (Basic Input/Output System) thì chắc các bạn,
nhất là anh em tại vOz chẳng xa lạ gì. Và thật vui khi biết rằng, EFI và BIOS thực ra có
thể coi là huynh đệ của nhau.
BIOS chính xác cũng là một firmware interface, viết bằng assembly, có chức năng tự
chạy đầu tiên khi bật máy tính, nó thực hiện quá trình Power On-Self Test, kiểm tra các
thiết bị và rồi giao hết lại cho hệ điều hành (như Windows chẳng hạn). OS vẫn phải dựa
vào BIOS để liên lạc với một số thiết bị, chẳng hạn như pin trên laptop hoặc đọc một số
thông số hệ thống. Do việc phải thức khuya dậy sớm như vậy nên BIOS được đặc cách
ngủ một phòng riêng có tên là EPPROM ngay trong nhà mainboard. EFI thì khác, viết
bằng C, đô con hơn, mở rộng tốt hơn, phức tạp hơn và giống một hệ điều hành thu nhỏ
hơn. EFI được phát triển bởi Intel, tương lai sẽ là kẻ kế vị cho BIOS khi gã cao tuổi này
về hưu.

Nhưng vì sao chúng ta phải nhắc đến EFI nhỉ? À, thật ra là vì Mac dùng EFI (hay đúng
hơn là một mô tả riêng từ chuẩn EFI ban đầu của Intel), chứ không phải BIOS như PC.
Đây là vấn đề gay go đầu tiên cho mộng ước hợp nhất của chúng ta. Ngoài việc nó khác
nhau ra, thì EFI còn nắm giữ nhiều thành phần quan trọng của một hệ điều hành mà
không nhắc tới nó không được: service, protocol, device driver, driver cho file system,
disk support, và cả boot manager.
Ngày xưa, dân OSX86 ta đơn giản bỏ qua EFI vì nó phức tạp và khó nhai quá, trực tiếp
sửa đổi kernel của Mac OS X cho nó chạy trên PC là xong. Nhưng sự thực thì sau đó
không ít phiền toái kéo tới. Các kext (kernel extension) chuẩn không chạy được với
kernel sửa đồi, rồi thì mỗi lần Apple tung gói update mới lại phải hì hụi sửa lại cái
kernel. Sau này phương pháp giả lập EFI thông qua bootloader được đưa ra bởi các bác
hacker Nga khét tiếng (Netkas), giúp cho dân đen chúng ta tránh được rất nhiều phiền
phức.
Về thiết bị phần cứng, có một thiết bị gọi là EFI-X được bày bán, cắm vào máy là chạy
EFI được ngay. Đáng tiếc công ty sản xuất thiết bị hay ho này về sau bị pháp luật tóm
gáy, và vậy là OSX86 cho ra đời phương pháp giả lập EFI khác có tên Boot-132, hoạt
động y chang thiết bị kia (đúng hơn thì Boot-132 có trước và EFI-X bắt chước mà thôi).
Chúng ta sẽ sử dụng phương pháp giả lập Boot-132 này trong phần 3 của loạt bài.

DSDT là gì?
Thêm một thuật ngữ khó nhằn khác cần được giải thích, rất may là phần DSDT này
cũng ngắn mà thôi.

DSDT (Differentiated System Description Table) là một bảng quan trọng trong đặc tả
ACPI, compiled dưới dạng file .aml (ACPI Machine Language), cung cấp thông tin cho
hệ điều hành về một số thiết bi bên dưới. Thiếu hoặc sai bảng DSDT thường dẫn đến
những trục trặc như không thể sleep, quạt không điều chỉnh tốc độ được, màn hình
không tắt khi đóng laptop (close lid), v..v.. Vấn đề là đa số PC đều được sản xuất với
DSDT đặc tả cho Windows, vì vậy ngay cả Linux đôi khi cũng phải sửa đổi DSDT để
có thể hoạt động trơn tru. Mac thì như chúng ta đã biết, đỏng đảnh hơn nhiều chứ đâu
bình dân như Linux, vì vậy Mac sử dụng hẳn một bảng DSDT khác (đúng hơn là một
subset không hoàn chỉnh) với DSDT của đặc tả ACPI trên PC.
Việc thay đổi DSDT thường được thực hiện như sau: trích xuất DSDT từ ACPI trên
mainboard -> patching & modifying DSDT -> chỉ dẫn bootloader sử dụng DSDT mới
này thay vì DSDT nguyên gốc trong BIOS (tránh việc ghi đè lại DSDT của hệ thống).
Công việc patching khó khăn này giờ đã được đảm nhận bởi những công cụ với giao
diện đồ họa, sử dụng hết sức đơn giản.

Hệ thống driver trên Windows và kernel extensions trên Mac:


Do sử dụng 2 trường phái kernel khác nhau, Windows với monolithic kernel (vâng,
“thiết kế nguyên khối” y như quảng cáo Sony Bravia gần đây) còn Mac sử dụng
microkernel nên 2 hệ điều hành này cũng có hệ thống driver cho thiết bị khác nhau. Bản
chất các file .kext (kernel extension) cũng giống với device driver trên Windows, giúp
mở rộng khả năng của nhân hệ điều hành, điều khiển và tích hợp các thiết bị phần cứng
khác của máy tính.
Vậy điều khác biệt ở đây là gì? Driver Windows được các hãng sản xuất thiết bị viết ra
theo một chuẩn chung (nói nôm na là driver interface) do Microsoft ban hành, và
Microsoft không can thiệp gì vào quá trình viết driver này. Ví dụ như driver wireless
card nào cũng phải tuân theo nguyên tắc chung: capture broadcast SSID, signal
strength, encryption method, etc rồi trả về cho Windows. Các tính năng đặc trưng của
mỗi NSX tính sau. Chính nhờ hệ thống driver interface này mà Windows có thể kết nối
với vô số thiết bị, miễn là NSX viết driver theo đúng chuẩn của Microsoft. Microsoft
không phải và không cần can thiệp vào quá trình viết driver, chỉ việc ngồi đóng dấu
chứng chỉ WHQL là xong. Các NSX cũng không phải ngồi chầu chực đợi nói chuyện
với Microsoft về vấn đề viết driver như thế nào, chỉ việc viết xong đem test WHQL là
xong. Do vậy số thiết bị được sản xuất cho PC (một nền tảng mở) và tương thích với
Windows (driver interface mở) là nhiều hơn rất nhiều so với Mac.

Về phần Apple, ngược lại, do sử dụng microkernel và không thiết lập chuẩn chung cho
driver, Mac OS lại mang tính chất proprietary (sở hữu riêng, mã đóng), nên các thiết bị
sử dụng cho Mac OS phải được Apple và NSX cùng nhau viết driver. Thêm một quy
định khác của Apple là Mac OS chỉ chạy trên máy Macintosh, vì vậy kext của các thiết
bị được tích hợp sẵn vào Mac OS luôn cho tiện, chứ ít được phân phối bởi NSX thiết bị
như trên Windows.

Các kext của Mac OS X nằm trong thư mục /System/Library/Extensions/ (đường dẫn
Unix), cách cài đặt và gỡ bỏ “driver” này cũng hết sức đơn giản, chúng ta sẽ nói thêm ở
phần 3 của bài.

IV/ Giới thiệu Chameleon – bootloader cho Mac OS X

Bootloader là gì?

Bootloader, hiểu đơn giản, là một đoạn mã chỉ dẫn nằm ở phần Master Boot Record
(đối với MBR disk) hoặc EFI parition (đối với GPT disk). Sau khi BIOS giao lại quyền
boot hệ thống cho đĩa cứng, đây là đoạn mã được chạy đầu tiên để từ đó dò tìm file boot
của hệ điều hành tương ứng. Do mỗi hệ điều hành có file boot đặc trưng nên bootloader
của mỗi OS cũng sẽ khác nhau. Windows NT sử dụng file ntldr, Vista và 7 sử dụng
bootmgr. Trong các hệ thống có nhiều OS, bootloader còn kiêm luôn chức năng hiển thị
menu lựa chọn và boot vào OS tương ứng.
Chameleon là gì?
Do Mac OS X sử dụng file system thuộc dạng “nông thôn miền núi” mang tên HFS+
(kiểu như NTFS trên Windows), gần như chẳng có bootloader thông dụng nào có thể
đọc được phân vùng của nó. Trên nguyên bản Macintosh thì bootloader cho Mac OS X
nằm trong chính EFI, trong đó tích hợp cả driver read-only cho file system HFS+ và
nhiều thứ linh tinh khác. Không chấp nhận bó tay với chiêu này của Apple, cộng đồng
OSX86 nổi lên một vị anh hùng tài năng cái thế tên là Voodoo team. Ngoài việc viết
driver sound card, driver cho keyboard và trackpad linh tinh, thì đóng góp lớn nhất của
Voodoo team chính là Chameleon – bootloader đa năng có khả năng đọc được HFS+
của Mac OS X. Từ đây, khả năng multi-boot Mac OS X cùng nhiều hệ điều hành khác
đã trở thành hiện thực.

V/ Cách kiểm tra thông số phần cứng – device ID & vendor ID. So sánh compatibility
list

Device ID và Vendor ID:


Có lẽ nhiều bạn đã gục ngã trên bàn phím sau mớ lý thuyết lòng thòng phía trên, và để
đổi gió trước khi bước qua phần cài đặt chính thức, chúng ta hãy cùng thử tìm hiểu kĩ
hơn về những thiết bị phần cứng mình đang sử dụng.
Việc cài đặt Mac OS X và tìm kiếm driver cho các thiết bị là một công việc khá gian
khổ, đồng thời tốn không ít thời gian, do vậy các bạn cần có sự chuẩn bị thật tốt trước
khi bắt tay vào quậy phá. Đầu tiên cần phải kể đến phải là thông số chi tiết của các thiết
bị phần cứng trên máy PC của bạn. Đối với Windows, để tìm kiếm driver có lẽ quá dễ
với một cái tên chung chung kiểu Intel X3100 GMA, sound card onboard Realtek, v..v..
nhưng đối với Mac OS X, mọi việc không đơn giản như vậy. Bạn cần xác định rõ devce
ID và vendor ID của thiết bị, chẳng hạn riêng GMA 950 của Intel đã có tới 3 device ID
khác nhau: 27AE, 27A2, 2702. Việc xác định này cũng hết sức đơn giản: Mở device
manager, tìm tới properties của thiết bị cần tìm và copy lại dòng hardware Ids là xong.
Các thiết bị cần được xác định rõ là: VGA, audio chip, network card, wireless card,
SATA/IDE controller, chipset series, các thiết bị phụ kiện khác.
Đây là thông tin VGA 4500MHD của Intel (vendor ID 8086 - device ID 2A42).
Các bạn chú ý đây là sound HDMI (có vendor ID 8086 của Intel) chứ không phải sound
chip trên máy.
Đây mới là sound chip Conexant High Definition Audio-Venice 5051.

Các bạn sau khi có device ID và vendor ID có thể lên tra tên thiết bị ở PCIDatabase.
Compatibility list:
Cũng như Windows, cộng đồng OSX86 đã xây dựng một database Hardware
Compatibility List, ghi rõ các thiết bị tương thích với Mac OS X và cách cài đặt cũng
như giải quyết sự cố. Trước khi tiến hành cài đặt, các bạn nên tham khảo qua danh sách
này để biết “vận may” của mình đến đâu. Trang wiki của OSX86 và HCL có tại:
http://wiki.osx86project.org
Nguồn:VOZ Forums

Phần 3: Cài đặt Mac OS X

VI/ Giới thiệu hệ thống thử nghiệm – thành phần và lý do sử dụng

Nhắc lại 1 tí về phần trước: Do giới hạn phần cứng của những chiếc Macintosh, chỉ một
số lượng PC nhất định có cấu hình hợp lý (có thành phần giống với một chiếc
Macintosh tương ứng) mới có khả năng cài đặt và chạy được Mac OS X trơn tru. Đừng
buồn nếu chiếc PC của bạn không nằm trong số ít đó, vì ít ra bạn cũng đã hiểu thêm về
thế giới Macintosh bí ẩn. Và nếu tình yêu dành cho Mac đủ lớn, bạn cũng biết được có
thể thay thế thành phần nào trong chiếc PC của mình để “rước nàng về dinh”.
Hiện nay desktop PC sử dụng socket LGA775 chiếm số lượng khá lớn trên thị trường,
do vậy chúng tôi chọn hệ thống thử nghiệm bao gồm mainboard LGA775 và một CPU
Core 2 Duo.
Qua kinh nghiệm cài đặt Mac OS X trên khá nhiều mainboard khác nhau, chúng tôi
nhận thấy mainboard Gigabyte hỗ trợ khá tốt cho Mac OS X. Từ việc sử dụng các linh
kiện thành phần thuộc các hãng OEM nổi tiếng (Ethernet và sound onboard Realtek),
cho tới việc BIOS được viết có độ tương thích cao với các chuẩn chung, mainboard
Gigabyte ít khi phải can thiệp sâu vào bảng DSDT, cũng như tìm kiếm driver (của Mac
OS X) cho các giao tiếp kết nối khá dễ dàng. Ngoài ra các mainboard Gigabyte còn có
được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ cộng đồng OSX86 do số lượng người dùng cài đặt thành
công rất cao, không ít trường hợp có thể chạy ngay mà không can thiệp gì (run out-of-
the-box).
Cấu hình thử nghiệm của chúng tôi bao gồm:

Mainboard: Gigabyte EP45-UD3L – socket 775 chipset P45.


CPU: Core 2 Duo 7400 2.8GHz.
RAM: 2×2GB DRR2 800MHz.
VGA: Gigabyte GeForce 9600GT.

VII/ Đồ nghề chuẩn bị


Liệt kê và download:
Do sử dụng phương pháp boot-132 để khởi tạo môi trường cho Mac, chúng ta cần đĩa
cài đặt retail của Mac OS X và một đĩa boot khởi tạo.
Đĩa boot khởi tạo môi trường EFI: Empire EFI 1.085 hoặc 1.085 R2 (download tại đây
– chọn phiên bản thích hợp cho PC của mình).
Đĩa retail Mac OS X phiên bản Snow Leopard 10.6.3 (mới nhất hiện nay). Các bạn có
thể mua từ các cửa hàng Apple với giá 29$, hoặc download tại đây. Do có dung lượng
gần 7GB nên chúng ta cần một đĩa DVD+R double-layer.
Bootloader: Chameleon 2 RC4. Download tại đây.
DSDT Patcher GUI. Download tại đây.
OSX86 Tools Utility. Download tại đây.
Voodoo HDA kexts. Download tại đây.
Boot screen gốc hoặc theme cho Chameleon để làm đẹp. Tham khảo tại đây.

VIII/ Giới thiệu các bước cài đặt

1. Thiết lập lại BIOS.


2. Khởi động với đĩa giả lập EFI.
3. Boot đĩa retail Mac OS X.
4. Chia và format phân vùng Mac OS X.
5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.
6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.
7. Cài đặt các thiết bị.

Đầu tiên chúng ta giải quyết nhanh 3 bước đầu.


1. Thiết lập lại BIOS: chúng ta cần thiết lập BIOS sao cho giống nhất với một chiếc
Macintosh.
Đầu tiên là disable floppy disk.
Tiếp theo tạm thời tắt C1E/C2E/C4E gì đó của CPU đi (có thể gây rắc rối khi boot), về
sau cài đặt kext đầy đủ chúng ta sẽ bật lại.
Mac chỉ sử dụng AHCI nên chúng ta cũng chuyển qua thiết lập này cho các cổng
SATA. Tiện thể enable USB support cho keyboard và mouse. Mac không hỗ trợ cổng
PS/2 trên PC nên tốt nhất là keyboard và mouse sử dụng USB. Nếu không chúng ta
cũng có thể cài đặt kext cho PS/2 keyboard/mouse.
Bật HPET (High Precision Event Timer) nếu có và chuyển về chế độ 32bit. Nếu bạn dự
định chạy kernel của Mac ở mode 64bit thì chuyển HPET sang 64bit.
2. Khởi động với đĩa giả lập EFI.
Tiếp theo bỏ đĩa EFI vào và boot tới khi xuất hiện màn hình như trong hình. Bạn có thể
sử dụng các bản EFI khác nhau, như với mainboard P55 có thể sử dụng bản của
tonymacx86. Bài viết này tôi sử dụng Empire EFI, đây là bản EFI nổi tiếng nhất và có
đầy đủ các phiên bản support cho các hệ PC khác nhau, bao gồm cả P55 và ATI VGA
và một số dòng CPU & chipset AMD cũ.
3. Boot đĩa retail Mac OS X.
Tiếp theo lấy đĩa EFI ra, bỏ đĩa Mac OS X retail vào, đợi khoảng 20s (quan trọng) và
nhấn F5. Khi đĩa Mac OS X Install DVD xuất hiện trong menu thì chọn boot.
Tiếp theo sau khi load các kext default thì ta enter để load tiếp kernel. Nếu sau bước
này các bạn có thể boot vào tới màn hình chào mừng của Mac OS X Installation thì coi
như bước 3 thành công. Nếu không, xem lại đĩa EFI của bạn hoặc đổi sang bản khác.

IX/ Chia phân vùng

4. Chia và format phân vùng Mac OS X.


Sau khi màn hình install Mac OS X xuất hiện, bước tiếp theo cần làm là chia đĩa và
format.
Bản Mac OS X 10.5 Leopard vẫn còn hỗ trợ đồng thời 2 kiểu phân vùng ổ cứng MBR
và GPT, nhưng kể từ Mac OS X 10.6 thì Apple đã chuyển hẳn sang sử dụng GPT. MBR
và GPT là 2 định dạng phân vùng ổ cứng khác nhau, quy định cách thức lưu trữ các
thông tin về partition (phân vùng), boot sector cũng như Master boot record trên đĩa.
MBR và GPT không liên quan gì đến hệ thống tập tin (file system) cả, đó là cách mỗi
phân vùng tổ chức và quản lý dữ liệu (các file) của riêng mình. Kể từ Windows Vista
SP1 trở đi Microsoft mới chính thức hỗ trợ định dạng ổ đĩa GPT.

Cấu trúc MBR


Tất nhiên các ổ cứng PC đều được phân vùng theo chuẩn MBR là chủ yếu, dù rằng GPT
(như trong hình) cho thấy nhiều tính năng tiến bộ hơn. điều này một phần là do
Windows mới chỉ hỗ trợ GPT gần đây chứ chưa chuyển hẳn qua, và một lý do khác nữa
là các trình chia đĩa (partitioner) cũ như Acronis Disk Director và Partition Magic chỉ
hỗ trợ MBR mà thôi. Ngay cả các chương trình backup như Acronis True Image cũng
chỉ hỗ trợ MBR, phiên bản mới nhất mới bắt đầu hỗ trợ GPT. Tạm thời chúng ta không
bàn tới thế giới của Linux, chú chim cánh cụt này hỗ trợ được tất cả các chuẩn ngay khi
ra mắt do đặc tính mã nguồn mở của mình.
Để chia partition và format đĩa cứng, các bạn truy cập vào Disk Utility trong menu
Utilities.
Lưu ý: format theo chuẩn GPT sẽ xóa trắng toàn bộ ổ cứng của bạn (hiện đang theo
chuẩn MBR), sau đó mới tiến hành phân vùng. Do vậy bạn nên sử dụng một ổ cứng
riêng cho Snow Leopard, hoặc có thể tìm download bản OS X đã được sửa đổi để hỗ trợ
MBR. Nếu bạn sử dụng bản Snow Leopard MBR, sau khi chia và format HFS+, nhớ
dùng Acronis Disk Director để chuyển phân vùng đó thành primary active mới có thể
cài đặt được.
Đây là hướng dẫn cho GPT: Nhấn vào ổ đĩa muốn cái đặt (tên đĩa cứng chứ không phải
phân vùng), vào mục Partition. Chọn số partition muốn tạo (1 hoặc nhiều hơn). Nhấn
Option và chọn GUID Partition Table (GPT). Điền tên cho mỗi phân vùng, chọn format
Mac OS Extended (Journaled) hay còn gọi là HFS+ cho phân vùng cài đặt. Cuối cùng là
nhấn Apply.
HFS+ của Mac và NTFS của Windows đều là 2 hệ thống tập tin tiên tiến và có nhiều ưu
điểm. Thời kì FAT32 cũ kĩ, hệ thống tập tin này chỉ lưu được những file có dung lượng
<4GB mà thôi, đồng thời không có được khả năng chịu lỗi cũng như tự sửa lỗi và bảo
trì (self-correcting & maintenance). NTFS được Microsoft phát triển, tích hợp nhiều
tính năng quan trọng như khả năng ghi nhật kí (journaling), tích hợp hệ thống phân
quyền tập tin ACL (Access Control List), hỗ trợ mã hóa, nén dữ liệu và hàng tá những
thứ khác. NTFS được đưa vào sử dụng từ thời Windows 2000 mãi cho tới nay.

Ở bên kia chiến tuyến, HFS+ (Hierarchical File System Plus) cũng được Apple trang bị
nhiều vũ khí hạng nặng không kém. HFS+ hỗ trợ Unicode UTF-16, khả năng lưu giữ
tập tin với dung lượng file lớn không hạn chế. Tuy không hỗ trợ transparent encryption
nhưng HFS+ có khả năng nén dữ liệu rất mạnh mà không làm ảnh hưởng nhiều tốc độ
truy cập. Giống với Windows sử dụng ACL, HFS+ hỗ trợ hệ thống phân quyền Unix
Permissions (sẽ nhắc tới ở phần cài đặt kext). HFS+ còn có khả năng bật tắt tính năng
ghi nhật kí (journaling) nhằm tăng cường chống lỗi trong trường hợp mất điện. Đặc
biệt, HFS+ có khả năng chống phân mảnh (Mà NTFS và Windows không có) đối với
các tập tin dung lượng < 20MB, đồng nghĩa với việc bạn không phải bận tâm về việc
defragment ổ đĩa của mình nữa.

Từ Mac OS X 10.5 trở đi, Apple đã tích hợp vào OS của mình khả năng read-only với
phân vùng NTFS. Với Windows, tuy chưa được hỗ trợ từ Microsoft nhưng cũng có thể
dùng một phần mềm hãng thứ 3 như Mac Drive để truy cập phân vùng HFS+.

Lưu ý phát nữa: các bước trên đây đều có khả năng ảnh hưởng đến dữ liệu trên ổ cứng
của bạn, vì vậy suy nghĩ kĩ trước khi hành động. Tác giả không chịu bất kì trách nhiệm
nào trong trường hợp mất mát xảy ra.

X/ Boot & Installation

Sau khi format xong thì chúng ta thẳng tiến tới màn hình cài đặt. Trước khi nhấn Install
cần customize lại để lựa chọn một vài thứ. Rosetta là một phần mềm giả lập để Mac
chạy được các phần mềm viết cho kiến trúc PowerPC cũ, vì vậy cứ select cho an tâm.
Sau khi cài đặt xong (khoảng 20 phút), máy sẽ khởi động lại. Ở bước này các bạn lại bỏ
đĩa EFI vào boot (do chưa có bootloader trên đĩa cứng). Chọn phân vùng vừa mới cài
Snow Leopard và tiếp tục.
Ở bước này có thể sẽ có một vài máy không boot được (treo giữa chừng, xuất hiện
thông báo kernel panic hoặc tương tự). Các bạn có thể sử dụng tham số cpus=1 (chỉ sử
dụng 1 nhân CPU) để tiếp tục. Sau khi cài đặt hoàn chỉnh chúng ta có thể boot bình
thường.

5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.


Sau khi xuất hiện màn hình welcome của Apple Mac OS X (chúc mừng được 70% rồi
nhé), bạn điền các thông số cho tài khoản người dùng và tiếp tục. Desktop cùng dock và
menu quen thuộc của Mac hiện ra.
Việc đầu tiên chúng ta cần làm là tắt chức năng sleep của hệ thống. Nó có thể gây treo
máy và nhiều lỗi linh tinh khác. Bật System Preferences trên thanh dock, vào Energy
Saver và tắt như trong hình.

6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.


Tiếp theo chúng ta sẽ cài đặt bootloader và các kext cơ bản của hệ thống. Vào đĩa
Empire EFI, thư mục Extra/Post-Installation và chạy gói cài đặt myHack. Chương trình
này sẽ cài đặt Chameleon 2.0 RC3, PC EFI 10.5, FakeSMC v2, lspci, pfix v2.1.1 để bạn
có thể boot mà không cần đĩa EFI nữa đồng thời cũng có các kext cơ bản cần thiết. Nhớ
đọc kĩ hướng dẫn sử dụng trước khi chọn bất kì mục nào. Giữ trong đầu tư tưởng “thiếu
còn hơn thừa”, vì thiếu thì có thể boot vào lại cài thêm, còn thừa thì mất công lắm.

Sau khi cài đặt xong đừng restart vội. Tôi sẽ hướng dẫn các bạn cài đặt Chameleon 2
RC4. Nhét USB chứa Chameleon 2 RC4 đã chuẩn bị từ đầu, giải nén và copy thư mục
Chameleon ra desktop.

Tiếp theo tìm thư mục Extra trên thư mục root phân vùng cài đặt SL. Copy các thứ
trong Chameleon/Optional Extras vào theo như trong hình.
Bật chương trình terminal (đường dẫn /Applications/Utilities/Terminal.app) lên và gõ
các lệnh cài đặt như sau:

sudo -s (nhập password khi tạo user account vào để chuyển sang chế độ super user).
cd Desktop/Chameleon/i386
diskutil list (liệt kê tên các ổ đĩa trên máy – ghi lại tên của ổ đĩa cài Mac OS X, của tôi
là đĩa disk0, phân vùng disk0s2).
fdisk -f boot0 -u -y /dev/rdisk0 (ghi master boot record cho đĩa).
dd if=boot1h of=/dev/rdisk0s2 (ghi boot sector cho phân vùng).
cp boot / (copy file boot vào root).
Sau khi hoàn thành các bước trên thì chúng ta có thể restart máy được rồi.
Restart và màn hình bootloader Chameleon sẽ hiện ra, chọn Snow Leopard và boot.
Tiếp theo chúng ta sẽ xử lý phần còn lại: driver (kext) cho các thiết bị VGA, ethernet và
sound.

7. Cài đặt các thiết bị

Mở Apple menu, chọn About This Mac, nhấn More Info để xem thông tin các thiết bị.
Đảm bảo ổ cứng và hệ thống USB đã được nhận diện đầy đủ. VGA của tôi dùng là
Geforce 9600GT chưa được nhận diện đầy đủ dù đã cài gói Graphics Enabler (QE/CI
chưa enable, chỉ mới ở chế độ software accelerated, chưa nhận đúng độ phân giải, chưa
có hiệu ứng gợn sóng khi add widget vào dashboard). Có nhiều cách để khiến cho VGA
của bạn hoạt động. Đầu tiên nên check trên insanelymac xem VGA của mình có nằm
trong diện hỗ trợ hay không.
Chủ yếu có 3 cách để activate VGA: cài đặt customized kext, add EFI string hoặc patch
DSDT. Ngoài ra còn có thể sử dụng các gói graphics enabler tìm được trên mạng (tự
động hóa công việc add kext hoặc add EFI string cho bạn mà thôi). Ở đây tôi dùng cách
add EFI string bằng phần mềm OSX86 Tools. Các cách khác các bạn có thể tham khảo
thêm trên insanelymac. VGA ATI hay NVIDIA đều có thể activate như nhau, miễn là
nằm trong diện hỗ trợ.

Hướng dẫn: Chạy OSX86 tools, chọn add EFI strings. Chọn tiếp GFX strings, nếu tên
VGA của bạn không có trong danh sách (như trường hợp của tôi) thì chọn Custom
Graphics Card. Sau đó điền tên, select dung lượng bộ nhớ, cổng kết nối, cuối cùng là
“Import String to Boot Editor” và “Apply changes to com.apple.Boot.plist”.
Lưu ý: OSX86 Tools được viết để chạy trên Leopard 10.5, do vậy các tính năng khác
hoạt động không chính xác.
Sau khi khởi động lại VGA đã nhận diện đầy đủ, QE/CI enabled và nhận đúng độ phân
giải màn hình (và nhất là đã có thể chụp screenshot trực tiếp). Tiếp theo chúng ta xử lý
sound và Ethernet.

Sound và Ethernet:
Ethernet của mainboard EP45-UD3L là Realtek 8169, được hỗ trợ mặc định bởi Apple,
vì vậy chạy được ngay mà không cần can thiệp. Các bạn có thể vào System Preferences
phần Network, kiểm tra MAC Address và IP xem đã được cấp đúng chưa. Nếu các bạn
sử dụng Ethernet không được nhận diện mặc định, có thể tìm thêm kext trên
http://www.kexts.com/ và xem thêm hướng dẫn trong box LAN and Wireless tại
InsanelyMac. Cách cài đặt kext sẽ được hướng dẫn ở phần cuối bài.
Sound của tôi là Realtek ALC888 chưa hoạt động, chúng ta cần cài đặt VoodooHDA.
Extract gói VoodooHDA đã chuẩn bị ban đầu, copy VoodooHDA.kext vào
/System/Library/Extensions/ sau đó bật terminal gõ các lệnh sau:

sudo chmod -R 775 /System/Library/Extensions/VoodooHDA.kext


sudo chown -R root:wheel /System/Library/Extensions/VoodooHDA.kext 2 lệnh này
nhằm sửa lại permission của kext cho chính xác. Sau đó chúng ta khởi động lại.
Sau khi restart kiểm tra sound đã hoạt động chưa (System Preferences -> Sound). Nếu
đã hoạt động thì ta cài thêm panel điều khiển cho sound. Double click vào tập tin
VoodooHDA.prefpane để cài đặt. Trong System Preferences sẽ xuất hiện thêm một
panel mới để điều khiển các thiết lập cho sound chip.
XI/ Các vấn đề sau cài đặt

Các bạn có thể sẽ gặp phải một số vấn đề nếu việc lựa chọn kext cơ bản (ở bước cài đặt
gói myHack) sai hoặc thiếu. Trong trường hợp này chúng ta chỉ việc chạy lại gói cài đặt
và lựa chọn lại là xong. Đối với PC có sử dụng các thiết bị keyboard hoặc mouse PS/2,
bắt buộc phải cài kext cho PS/2.
Đối với các thành phần khác trong PC, trở ngại lớn nhất là graphics card. Nếu bạn sử
dụng NVIDIA thì hầu hết card từ 5200 trở về sau đều có thể cài đặt thành công, bao
gồm cả GT200 series. Điểm quan trọng nhất đối với graphics card là hardware
accelerated, phải có Quartz Extreme / Core Image enabled (Desktop Compositor và
Image Processing quan trọng của Mac). Để kiểm tra QE/CI đã bật hay chưa, các bạn có
thể add thử một widget vào dashboard, nếu có hiệu ứng ripple (gợn sóng) thì QE/CI đã
enabled. Một đặc điểm khác là VGA nhận đúng độ phân giải của màn hình cùng color
profile cho màn hình đó.
Với cách add EFI string thì đảm bảo card đồ họa của bạn có thể sử dụng hết khả năng
của mình như trên máy Mac nguyên gốc và không hề gặp bất cứ trục trặc gì. Dù không
thể tận dụng các tập lệnh DirectX vốn được viết riêng cho Windows, nhưng khả năng
sử dụng OpenGL / OpenCL cũng đã là quá đủ cho Mac. Nếu VGA không họat động
đầy đủ (chỉ có software accelerated), các bạn sẽ không thể chạy các phần mềm đòi hỏi
tính năng đồ họa nâng cao trên Mac như bộ iWork, iLife cùng nhiều phần mềm khác.
Do vậy đảm bảo VGA họat động được là yếu tố cần nhất trên Mac.
Các thiết bị như Ethernet hiện đã có khá nhiều vendor / device họat động được trên
Mac. Tuy nhiên, nếu bạn không nằm trong số đó, các bạn có thể chữa cháy bằng một
card Ethernet PCI sử dụng Realtek 8139 / 8169 (hỗ trợ out-of-the-box). Ethernet PCI
10/100 Mb/sec của DLink cũng sử dụng chip này.
Về sound chip, VoodooHDA hiện đã hỗ trợ rất nhiều sound chip khác nhau, từ Realtek
cho tới Coxenant, Sigmatel, etc. Chất lượng âm thanh từ bản VoodooHDA 0.2.4.2 trở đi
có thể đảm bảo không kém gì trên Windows.
Về vấn đề bị crash (kernel panic) khi mở file DMG, các bạn cần cài seatbelt.kext để
khắc phục lỗi này. Một số lỗi khác các bạn có thể tham khảo thêm trên diễn đàn
insanelymac.com.
Các hệ thống P55, X58 hoặc sử dụng ATI Radeon HD 4800 series có thể cài đặt Mac
OS X dựa theo hướng dẫn trong bài, chỉ việc lưu ý khi chọn bản EFI và các kext cho
thiết bị phù hợp mà thôi.
Sau khi cài xong bạn sẽ khởi động với màn hình khởi động có sẵn, nhưng có lẽ các bạn
rất muốn đổi hình khởi động này. Cách đổi như sau: Ở ổ đĩa cài SL sẽ có thư mục
Extra/Themes. file boot.png và background.png chính là 2 file bạn cần đổi để thay hình
khởi động.
Chameleon cũng hỗ trợ việc thay đổi theme phục vụ cho nhu cầu làm đẹp của không ít
bạn. Chỉ cần download theme ưng ý, copy thư mục theme vào /Extra/Themes/, sau đó
thêm dòng sau vào file com.apple.Boot.plist (cũng trong thư mục Extra):

<key>Theme</key>

<string>THEME_NAME</string> Kết quả sẽ được như sau:


Kết luận:

Việc cài đặt Mac trên PC cho tới bây giờ vẫn thực sự là một công việc gian khổ và quá
sức với không ít người. Việc cài đặt hàng chục, thậm chí hàng trăm lần để đi từ chỗ
“không biết tí gì” tới “biết chút chút” đã là cả một vấn đề. Tuy nhiên, nó hoàn tòan
không vô ích. Trong quá trình tìm hiểu và can thiệp sâu vào hệ điều hành, bạn sẽ có
được không ít kiến thức quan trọng và quý giá mà nếu chỉ đọc sơ qua sách vở thì không
thể nào hiểu được. Vượt qua tất cả những khó khăn đó, chịu khó bỏ ra thêm 3 ngày (hơi
nhiều) để học sử dụng Mac OS X, tôi tin bạn sẽ hài lòng với thành quả của mình.
Ngoài cách cài Mac OS X với đĩa retail bằng phương pháp boot-132 trong bài, các bạn
có thể tìm download các phiên bản tổng hợp / đóng gói sẵn (sửa đổi đĩa retail để tích
hợp các thành phần cần thiết cho PC). Tuy nhiên khả năng cài đặt thành công là khá hạn
chế, và bạn sẽ phải thử qua khá nhiều phiên bản khác nhau. Tôi đã từng thất bại với
combo P55 + ATI VGA bằng phương pháp boot-132 do không tìm được đĩa EFI vừa ý,
nhưng lại thành công khi sử dụng distro Snow 3.6 Universal.
Với nhiều bạn vẫn băn khoăn về khả năng gặp lỗi hay các phiền phức khác khi chạy
Mac trên PC, tôi có thể khẳng định rằng, “hack” Mac trên PC gần như là việc “hack”
hòan hảo nhất, tất nhiên là với những chiếc PC có cấu hình phần cứng gần giống Mac.
Bản thân tôi cài đặt và sử dụng Mac trên PC đã gần 2 năm, và hòan toàn hài lòng với
chiếc “Mac” của mình. Phương pháp boot-132 đã giảm thiểu tới mức thấp nhất việc can
thiệp vào hệ điều hành (có chăng là mở rộng vài khả năng cho nó mà thôi). Nhân hệ
điều hành cũng hoàn toàn không bị chỉnh sửa, do vậy sẽ không bao giờ xảy ra lỗi gì
nghiêm trọng (crash, kernel panic) có nguyên nhân từ việc cài Mac trên PC cả. Đây là
một bước tiến rất lớn so với các phương pháp can thiệp kernel trước đây.
Không phải cứ “hack” là sẽ gặp lỗi, ngược lại, ngay cả phần mềm do chính Apple thiết
kế trên bản gốc còn có lỗi kia mà. Nếu bạn đủ may mắn cũng như khả năng để có được
một chiếc hackintosh hoàn chỉnh, hãy tự hào tận hưởng thế giới mới này, vì bạn hoàn
toàn có thể làm bất cứ điều gì một chiếc Mac thật có thể làm.

Nguồn: VOZ Forums


Phần 4: Multiboot & Đôi điều về Mac
Sau phần 3, chắc hẳn rất nhiều bạn đã thử cài đặt Snow Leopard trên máy tính của
mình. Thật sự thì tôi không hi vọng nhiều, hoặc sẽ ngạc nhiên, nếu chỉ 13 trang demo
của mình có thể giúp ai đó cài đặt thành công Snow Leopard (!). Sự thật là vậy, vì đặc
tính khác biệt quá đa dạng trong thế giới PC, bắt tay vào cài đặt hackintosh trên một
chiếc máy mới, đồng nghĩa với một kinh nghiệm mới. Chúng ta chỉ có thể tích lũy kiến
thức để sử dụng khi cần thiết mà thôi, còn sự thật thì hiếm có 2 lần cài đặt nào của tôi
lại giống nhau cả.
Ok, không nói nhiều nữa nhỉ. Nói thật là bài demo cài đặt tuần rồi của tôi không mang
nhiều tính thực hành cho lắm, đơn giản là vì chúng ta chưa có giải pháp multi-boot cho
Mac OS X và Windows. Rất hiếm có ai đủ điều kiện thực hành ngay mà vẫn tiếp tục
được những công việc thường ngày của mình với Windows, vì với đa số người dùng
PC, Windows là hệ điều hành không thể thiếu. Phần 4 này sẽ bắt đầu với hướng dẫn
dual-boot cùng lúc 2 hệ điều hành này, cả trên đĩa cứng MBR lẫn GPT.

XII/ Multiboot Mac OS X và Windows.

Nếu các bạn cài đặt Mac OS X trên đĩa cứng vật lý riêng biệt, bạn hoàn toàn có thể set
đĩa cứng chứa Snow Leopard được ưu tiên boot trong BIOS và dùng Chameleon để
chọn vào Windows khi cần, rất đơn giản. Nhưng nếu chúng ta chỉ có một ổ đĩa thì sao?

Multiboot trên MBR:


Với đĩa cứng đang format dạng MBR (đa phần ổ cứng PC hiện nay đều dùng MBR) và
Windows được cài đặt trước, chúng ta cần bản retail Snow Leopard đã được chỉnh sửa
để cài đặt trên đĩa MBR (bản gốc của Apple chỉ cho phép cài trên GPT). Bước tiếp theo
là dùng Acronis Disk Director (dùng trong Hiren’s Boot cho tiện), chia một phân vùng
primary khoảng 20GB trở lên cho Snow Leopard, cuối cùng là active phân vùng đó như
trong hình. Dữ liệu và Windows của bạn sẽ không bị gì hết.

Tiếp theo chúng ta boot vào đĩa cài đặt SL (như hướng dẫn trong phần 3), vào Disk
Utility và format phân vùng 20GB khi nãy mới chia theo chuẩn Mac OS Extended
(Journaled). Nhớ đừng format nhầm đấy nhé. Các bước cài đặt còn lại diễn ra bình
thường.
Sau khi cài đặt Snow Leopard đã hoàn tất, bạn hãy thử dùng Chameleon chọn boot vào
phân cùng Windows 7 xem sao? Không được à? Đúng vậy. Do Master Boot Record của
đĩa cứng đã bị ghi đè bởi Chameleon (trong lệnh fdisk -f boot0 -u -y /dev/rdisk0 ở phần
3). Chúng ta cần sửa lại một chút boot sector cho phân vùng Windows 7 là được. Cách
làm như sau:
Boot vào đĩa Hiren Boot, khởi động Acronis Disk Director và active lại phân vùng của
Windows 7.
Boot vào đĩa cài đặt Windows 7 và chọn Repair my computer.
Sau khi quá trình repair kết thúc, khởi động lại máy và dùng Aronis active lại phân
vùng Snow Leopard. (nếu không thể repair tự động, các bạn vào tiếp command line
trong mục các công cụ repair và gõ lệnh bootrec.exe /fixboot).
Khởi động lại lần nữa, dùng Chameleon để chọn boot vào Windows 7, bây giờ thì mọi
thứ ổn thỏa rồi nhé.

Multiboot trên GPT:

Nếu bạn quyết tâm format đĩa cứng theo GPT, điều này đồng nghĩa với việc xóa trắng
toàn bộ dữ liệu (như đã nói phần 3) để định dạng lại đĩa. Sau khi dùng Disk Utility
trong đĩa Snow Leopard format lại theo chuẩn GPT, chúng ta sẽ cài đặt Windows trước
rồi Snow Leopard sau.
Lưu ý chỉ Vista SP1 trở về sau mới có thể nhận diện và cài đặt trên đĩa cứng GPT. Sau
khi cài đặt thành công Windows, các bạn cài đặt tiếp Snow Leopard như bình thường.
Sau khi cài đặt hoàn tất, MBR cũng sẽ bị mất do Chameleon ghi đè. Các bạn làm theo
hướng dẫn ở phần đĩa MBR để phục hồi boot record cho Windows.

“Ghost” cho Snow Leopard?

Ok, sau khi có Windows và Mac OS X dual-boot ổn thỏa, chúng ta làm gì tiếp nhỉ? Có
lẽ sẽ nhiều bạn nghĩ ngay tới việc sao lưu. Đúng vậy, sau bao nhiêu công sức bỏ ra thì
một bản sao lưu sẽ là rất cần thiết, dễ bề “chữa cháy” cho xui xèo gì đó xảy ra trong quá
trình khám phá Mac OS X sau này.
Để backup Snow Leopard thực ra cũng không đơn giản tí nào. Tôi đã từng nghiền ngẫm
rất nhiều công cụ khác nhau và “tạm” rút tỉa được một vài phương pháp sau:

Phương pháp 1: Sử dụng phân vùng riêng biệt để backup toàn phần. Chúng ta sử dụng
chương trình miễn phí Carbon Copy Cloner trên Mac. Yêu cầu: Một phân vùng trống có
dung lượng bằng phân vùng hiện tại chứa Snow Leopard. Format theo HFS+ hoặc
NTFS.

Đối với phương pháp 1, các bạn sử dụng phần mềm Carbon Copy Cloner trên Mac để
copy toàn bộ nội dung đĩa file-by-file vào phân vùng mới (yêu cầu phân vùng backup
format HFS+), hoặc save toàn bộ đĩa chứa Snow Leopard thành file .dmg (một loại ảnh
đĩa, giống với iso nhưng có thêm khả năng nén và mã hóa dữ liệu). Các bạn nên sử
dụng backup theo kiểu incremental, thời gian và dung lượng mỗi đợt backup sẽ rất thấp.
Chi tiết các bạn có thể đọc thêm tài liệu hướng dẫn của CCC.

Khi restore, các bạn boot vào đĩa cài đặt SL và mở Disk Utility. Chọn ổ đĩa cần restore
và vào tab Restore. Source: chọn file dmg đã backup từ trước (nếu sử dụng backup file-
by-file thì kéo thả phân vùng chứa dữ liệu backup vào dòng này). Destination: kéo thả
đĩa cần restore từ bên cột trái vào (trong hình thì Destination đúng ra phải là Snow
Leopard. Do tôi đang sử dụng nên phân vùng bị khóa, nhét đỡ ổ đĩa khác vào thay thế).
Sau khi restore hoàn tất bạn có thể restart.
Phương pháp 2: Sử dụng phần mềm Acronis True Image hoặc Acronis Backup &
Recovery.

Phương pháp 2, các bạn sử dụng Acronis True Image cho đĩa MBR hoặc Acronis
Backup & Recovery (phiên bản mới hơn của True Image) cho GPT, từ bản này trở đi
Acronis mới thêm vào khả năng hỗ trợ GPT. Các bạn chọn chế độ backup sector-by-
sector, vì True Image sẽ không hiểu được file system HFS+ của Mac. Ưu điểm của
phương pháp này là khả năng nén ảnh đĩa cho dung lượng nhỏ hơn cách 1, nhưng bù lại
tốc độ tạo ảnh đĩa rất chậm (khoảng 15 phút 1 lần). Phương pháp 1 nếu dùng
incremental backup sẽ rất nhanh, khoảng 2 phút 1 lần backup. Restore lại phân vùng
cũng đơn giản, các bạn tham khảo hướng dẫn từ Acronis.
Rất nhiều các phương pháp backup khác hoàn toàn không sử dụng được đối với Snow
Leopard, vì nhiều hạn chế nhất định.

XIII/ Giới thiệu sơ lược Mac OS X desktop & cách cài đặt sử dụng phần mềm, bàn
phím.

Hiệu năng hệ điều hành, các công nghệ trên Mac OS X.

Ở phần trước, rất nhiều bạn đã hỏi tôi: “Có gì hay ở Mac OS X mà phải khổ sở thế?”.
Thực sự thì câu hỏi này không dễ trả lời chút nào. Có nhiều điểm Mac không bằng
Windows, và bất cứ PC fan nào cũng kể ra được: ít phần mềm chuyên dụng (1 số
ngành), ít games, số lượng phần mềm ít hơn, v..v.. Nhưng ngược lại, có những vấn đề
Mac tốt hơn hẳn Windows mà phải dùng qua mới biết.
Đầu tiên là vấn đề về trải nghiệm. Hệ điều hành Mac OS X được Apple thiết kế rất hợp
lý, logic và đặt biệt dễ sử dụng, đó là điều phải khẳng định. Nói không quá thì chỉ cần
chưa tới 3 ngày, thậm chí trong 1 ngày, các bạn có thể sử dụng được dễ dàng hệ điều
hành này. Mac có một số tính năng tôi rất thích mà Windows không có, chẳng hạn tính
năng preview tập tin ngay trong Finder (trình quản lý tập tin của Mac), và tính năng kéo
thả spring-loaded cực kì tiện lợi khi di chuyển tập tin. Khả năng xem cover-flow bất kì
đâu, Exposé rất hiệu quả trong quản lý cửa sổ, Spaces cho phép quản lý nhiều desktop,
từ điển có sẵn hiệu quả với chức năng on-screen translate (dám cá rất nhiều bạn dùng
Mac không biết phím tắt này), một số công cụ Uiniversal Access thông minh, khả năng
ra lệnh bằng giọng nói, v..v.. chỉ là số ít trong rất nhiều cải tiến đáng giá trong giao tiếp
người dùng của Mac.
Thời gian khởi động và tắt máy cũng cực kì nhanh, chỉ 15s bật và 2s tắt (!), với một
chiếc máy 4 năm tuổi Core 2 Duo đời đầu 1.86GHz và 2GB RAM. Khi khởi động xong
Mac chiếm khoảng trên 150MB RAM, quá ít so với số lượng tính năng và hiệu ứng
hình ảnh đồ sộ hệ điều hành này mang lại. Thực tế Snow Leopard có thể chạy rất, rất tốt
trên các máy netbook Atom và Pentium 4 cổ lỗ với chỉ 512 MB RAM.
Độ ổn định của Mac cũng được chứng minh khi hiệu suất sử dụng không hề giảm trong
quá trình làm việc dài (48-72 tiếng). Mac cũng ít downgrade như Windows sau quá
trình sử dụng 6-12 tháng, ít yêu cầu bảo trì thường xuyên, điều này đặc biệt có lợi đối
với người dùng không chuyên. Bên cạnh đó là khả năng quản lý phần lõi hệ điều hành
rất tốt của một Unix-based OS, khiến cho việc người dùng vô tình làm hỏng hệ điều
hành rất khó xảy ra.
Mặc dù Snow Leopard mặc định sử dụng kernel 32-bit, nhưng vẫn có thể chạy các ứng
dụng 64-bit và truy xuất bộ nhớ 4GB trở lên. Các bạn có thể google để tìm hiểu thêm
cách chuyển đổi sang kernel 64-bit, dù điều này hiện tại vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu
tính tương thích với một số phần mềm.

Về các ứng dụng đi kèm, tôi ấn tượng nhất với tốc độ load các ứng dụng 64-bit, thêm
vào đó là khả năng duyệt web với tốc độ tuyệt vời của Safari và việc quản lý email đơn
giản tiện lợi của Apple Mail. Việc cài đặt ứng dụng cũng tuyệt vời không kém với khả
năng drag -> drop -> run. Quên đi registry phức tạp và việc remove ứng dụng không
sạch sẽ của Windows. Việc cài đặt và sử dụng phần mềm đối với Mac đơn gỉản tới mức
tôi hoàn toàn quên mất nguồn gốc Unix của nó (làm khó tôi không ít lần trong bài
trước).
Hiệu suất hệ điều hành:

Nếu bạn đủ may mắn có thể chạy tất cả các device trên PC của mình với kext nguyên
bản của Apple, hiệu suất của hệ điều hành là điều chắc chắn được đảm bảo (EP45-
UD3L trong bài 3 là một trong số những hệ thống hoàn chỉnh như vậy). Quan trọng
nhất vẫn là chipset và VGA, các thiết bị phụ như sound chip & ethernet không ảnh
hưởng tới hiệu suất.
Sau nhiều phép đo giữa máy PC của tôi và máy Macintosh có cấu hình tương đương
(dùng Geek Bench, XBench, etc), kết quả cho thấy không hề có chút khoảng cách nào
giữa hackintosh và Mac chính thống. Nhờ vào khả năng thay thế thành phần linh họat
của mình, PC còn có lợi thế hơn Mac rất nhiều khi cần nâng cấp, cũng như rất nhiều PC
hiện tại đều có cấu hình cao hơn Macbook – dòng Macintosh được sử dụng nhiều nhất.
Về vấn đề bảo mật, có lẽ cũng không cần phải phân tích gì nhiều thêm. Rất nhiều bài
viết đã nói về chủ đề này, và tất cả đều có chung một kết luận: khó đánh giá được
Windows và Mac ai bảo mật hơn, nhưng Mac ít virus & malware hơn là điều không
phải bàn cãi.

Mac OS X Desktop:

Desktop trên Mac có bố cục khác khá nhiều với Windows. Thay thế cho taskbar quen
thuộc là thanh dock với biểu tượng 3D của các chương trình thường sử dụng. Bên phải
dock là khu vực dành cho stack & folder. Tất cả các icon trên dock đều có thể kéo thả.
Phía trên màn hình desktop của Mac là thanh menu bar, đây cũng là thanh menu chính
trong hệ thống. Menu này được sử dụng chung bởi tất cả các cửa sổ. Khi cửa sổ Safari
active, menu bar sẽ hiện lên các option của Safari, các chương trình khác cũng vậy.
Thiết kế này cho phép tiết kiệm được diện tích màn hình, khi mà tất cả các cửa sổ đều
sẽ loại bỏ được thanh menu vướng víu.

Menu bar cũng có một menu đặc biệt với biểu tượng Apple, đó là system menu. Đây là
nơi bạn Shut down / Restart hệ thống, truy cập thông tin About this Mac, update hệ điều
hành và truy cập tới System Preferences – Control Panel của Mac. Bên phải menu bar là
nơi kiêm chức năng giống như system tray của Windows.
Một thành phần khác của Mac desktop là Dashboard. Đây cũng có thể coi là hệ thống
quản lý các gadget, giống như gadget trên Windows. Bạn có thể thiết lập Exposé để
truy cập nhanh Dashboard bằng các góc màn hình.

Sử dụng bàn phím trên Mac:

Nếu ai đã từng tiếp xúc qua sẽ nhận thấy một điều: bàn phím trên Macintosh khác với
bàn phím PC. Thật ra không phải cứ bàn phím và chuột do Apple sản xuất mới sử dụng
được với Mac, chúng ta vẫn có thể sử dụng “bộ đôi Mitsumi quen thuộc” để làm quen
với cô nàng Mac kiêu sa.
Về chuột thì không có gì để nói nhiều, nhưng về bàn phím bạn chỉ cần nhớ quy tắc sau
đây:

Phím Command (ring button – bông hoa hình vuông) ứng với phím Alt trên bàn phím
PC.
Phím Option trên Mac tương ứng với phím Windows trên PC.
Phím Control vẫn là Control quen thuộc.
Các bạn có thễ xem bảng này để hiểu được các kí hiệu tổ hợp shortcut key trên Mac:
Phần mềm trên Mac OS X:

Như đã nói ở phần trên, phần mềm trên Mac OS X đa phần cài đặt vô cùng đơn giản,
thậm chí còn tiện lợi và dễ hiểu hơn cả Windows. Nếu ai bị ám ảnh vì các câu lệnh cài
đặt để lôi software xuống “từ đám mây” trên Linux, thì bạn sẽ không phải lo lắng về
điều này trên Mac.
Phần mềm trên Mac xét về số lượng thì không nhiều bằng Windows, nhưng đa số các
phần mềm cần thiết đều có (trừ một số “cần câu cơm” của các bạn chuyên ngành xây
dựng, CAD/CAM). Nếu các bạn tìm đúng nguồn thì sự thiếu hụt phần mềm sẽ là
chuyện không bao giờ xảy ra. Các phần mềm tôi dùng đa số đều có bản dành riêng cho
Mac, và nếu quan sát kĩ, bạn sẽ thấy đa số phần mềm viết cho Mac (tính cả các loại
dùng Cocoa framework) đều được “trau chuốt” kĩ càng về giao diện hơn nhiều so với
bản Windows.
Khoan bàn về phần mềm tính phí, số lượng phần mềm miễn phí trên Mac cũng không
hề ít. Có thể kể ra một số phần mềm tiêu biểu như: Adium, VLC player, bộ codec
Perian, Dropbox, Filezilla, Picasa, Real Player, iStat menus,Teamviewer, Yahoo!
Messenger, bộ phần mềm iLife, iPhone SDK của chính Apple, v..v.. Các dạng plug-in
rất hữu dụng dành cho Safari như Glims, Safaristand, cùng nhiều phần mềm tính phí
nhưng cũng rất cần thiết khác: VMWare Fusion, Speed Download, Socialite, Crossover
(chạy phần mềm Windows trên Mac), bộ Adobe Creative Suite, v..v..

Có một vấn đề lâu nay vẫn là nỗi băn khoăn của nhiều bạn khi so sánh Mac và
Windows. Khi hỏi “vì sao tôi nên dùng Mac?” thì câu trả lời đa phần rất chung chung là
“Mac là dành cho dân đồ họa, thiết kế bạn ơi”. Quả thật dù không phải là dân trong
nghề, nhưng tôi cũng cố gắng giải thích thử nguyên nhân mà nhiều người “truyền tai”
nhau xem sao:
Thứ nhất, máy Mac đẹp và nghệ thuật, tôn lên vẻ “độc nhất vô nhị” của chủ nhân. Tất
nhiên Vaio cũng đẹp, Dell Adamo cũng không kém ai, nhưng chẳng phải tất cả đều là
PC sao? Với giới nghệ thuật và ưa thích sáng tạo, thì sự “độc nhất” là tiêu chí mà họ
luôn tôn thờ và hướng đến. Sáng tạo thì phải khác người, phải khác so với tất cả số còn
lại, không ai cho sự sao chép là một cách sáng tạo cả. Mac vô tình đáp ứng được nhu
cầu này.
Thứ hai, Mac dễ sử dụng và thiết kế rất thẩm mĩ, logic, đặc biệt phù hợp với những
người không có thiên hướng tìm tòi kĩ thuật, phải bỏ nhiều thời gian ra khám phá sản
phẩm. Đó là lí do vì sao đa số người dùng Mac không quan tâm nhiều đến chiếc máy họ
họat động ra sao, chỉ cần biết nó xứng đáng với số tiền bỏ ra là đủ. Giao diện thẩm mĩ
cùng nhiều hiệu ứng mượt mà cũng là môi trường xúc tác quan trọng giúp khả năng
sáng tạo bay cao.
Thứ ba, mọi người vẫn cho rằng giới làm nghệ thuật và sáng tạo nội dung rất giỏi kiếm
tiền, và chỉ có họ mới có thể sẵn sàng chi tiền cho những chiếc máy tính 40-50 triệu
đồng vì mục đích công việc, giải trí.

Thứ tư, Mac là hệ điều hành có giao diện đồ họa hoàn chỉnh đầu tiên, trước Windows
khá lâu. Tất cả các phần mềm lớn, các chuẩn công nghiệp trong giới thiết kế và đồ họa
đều hướng về Mac như cột chỉ đường. Điều này là không thể chối cãi, khi các phần
mềm chuyên dụng trong xử lý in ấn, ấn bản, đồ họa và dựng phim chuyên nghiệp đều
được sử dụng trên Mac. Trong giới này, Mac là phổ biến nên việc bạn sử dụng
Windows sẽ chẳng giống ai, rất khó giao tiếp với mọi người.

Thứ năm, Apple cũng tối ưu hệ điều hành và máy tính của họ hướng đến giới sáng tạo
nội dung chuyên nghiệp. Từ lâu Mac đã là chiếc máy tính có màn hình hiển thị màu sắc
thuộc loại tốt nhất trên thị trường, màu sắc chân thật giúp việc in ấn giảm bớt được
nhiều rủi ro và công sức sửa đổi hơn. Dân làm đồ họa chắc chắn đều ngán ngẩm mỗi
khi nhắc đến sự khác biệt màu sắc một trời một vực khi chuyển đổi tài liệu từ Mac sang
PC. Ngay cả hệ thống font chữ và render engine trên Mac OS cũng rất phức tạp, và
được tối ưu cho hiển thị hình ảnh hơn là đọc văn bản nhiều. Từ font chữ raw phải qua ít
nhất 3 bước render và làm mịn với anti-aliasing trước khi xuất ra màn hình. Lướt web,
đọc văn bản hay ebook trên Mac cũng là một trải nghiệm cực kì thoải mái.
Thứ sáu, các phần mềm đồ họa danh tiếng như Creative Suite của Adobe họat động trơn
tru và hiệu suất cao hơn đáng kể so với trên PC cùng cấu hình. Thực tế đã kiểm nghiệm
những trường hợp tận dụng tài nguyên không tốt trên PC, dẫn tới crash khi mở file đồ
họa dung lượng lớn, trong khi với Mac thì hoàn toàn không xảy ra.

Vậy thì sao nào?

Rõ ràng, với 6 nguyên nhân kể trên, chiếc máy tính Apple rất phù hợp dành cho giới đồ
họa và sáng tạo nội dung số. Tuy nhiên bên cạnh đó, nếu bạn yêu thích Mac OS X, yêu
thích sự đơn giản của nó và có đủ khả năng tậu cho mình một chiếc Mac vì thấy nó phù
hợp, “đủ xài” cho nhu cầu giải trí và làm việc hàng ngày (như tôi chẳng hạn), bạn hòan
tòan có thể đến với Mac dù không biết Photoshop nó mặt mũi thế nào cả (Tất nhiên tôi
không nói đến những bạn mua Mac vì nhu cầu trang trí, trang sức hoặc các thể loại
khác).

Kết luận:

Tất nhiên những điều nhận xét về Mac OS X tôi viết ở trên đều hoàn toàn đứng trên
quan điểm cá nhân, và được rút ra từ kinh nghiệm bản thân khi đã sư dụng qua rất nhiều
hệ điều hành khác nhau, tôi không bàn về Windows vì đa số chúng ta đều quá quen
thuộc và dùng cả chục năm nay rồi. Có thể bạn sẽ có một trải nghiệm khác của tôi,
nhưng dù sao đi nữa, Mac OS X vẫn đáng cho một lần thử.

You might also like