Professional Documents
Culture Documents
Chương 3
Chương 3
Hình 1:Cơ chế điều hòa xuống khi kích thích quá mức thụ thể β ở bệnh nhân suy tim
(Nguồn: Drugs for the Heart, Elsevier Saunders, 2013, Lionel H. Opie và Bernard
J.Gersh)
Vì có nhiều mức độ tác động của trương lực giao cảm trên tim, nên việc sử dụng các
thuốc ức chế thụ thể beta có thể dẫn đến giảm tần số tim (chronotropy), giảm co bóp cơ
tim (inotropy), dẫn truyền xung động (electrical conduction) và giúp thư dãn cơ tim
(lusitropy).
Các thuốc ức chế thụ thể beta giảm huyết áp bằng cách giảm cung lượng tim.
Ngoài ra, các thuốc ức chế thụ thể beta còn làm giảm renin được tiết ra từ thận, từ
đó làm giảm AG II và aldosterone, gây tăng mất Na và nước qua thận, dẫn đến
giảm huyết áp động mạch.
Tăng huyết áp ở 1 số BN còn do stress cảm xúc, gây kích hoạt hệ thần kinh giao
cảm. Sử dụng các thuốc ức chế beta ở các BN này rất hiệu quả.
Ngoài ra, các thuốc ức chế beta còn được dùng để điều trị tăng huyết áp do u tủy
thượng thận trước khi tiến hành phẫu thuật.
Tuy nhiên việc sử dụng thuốc ức chế beta để điều trị tăng huyết áp hiện nay rất
hạn chế vì nhiều nghiên cứu cho thấy lợi ích và hiệu quả hạ áp của các thuốc khác
như ACEI (ức chế men chuyển), ARB (ức chế thụ thể angiotensine II), CCB (chẹn
canxi), lợi tiểu. Đồng thời, cùng 1 chỉ số huyết áp động mạch cánh tay, thì so với
các thuốc khác, chẹn beta làm giảm áp lực động mạch chủ trung tâm kém hơn. 1
lý do khác là sử dụng chẹn beta làm tăng nguy cơ xuất hiện đái tháo đường trên
BN sử dụng thuốc
1.1.2. Đau thắt ngực
Đau thắt ngực xảy ra là do mất cân bình cán cân cung – cầu oxy cho tế bào cơ
tim. Chẹn beta làm giảm nhu cần oxy của tế bào cơ tim qua việc giảm tần số tim,
huyết áp, và lực co bóp cơ tim (có thể gia tăng do gắng sức). Ngoài ra, nhu cầu
oxy tăng lên còn do thất trái dãn nở, vì vậy bất cứ trường hợp suy thất nào cũng
đều cần phải điều trị tích cực.
Chẹn beta nên được sử dụng cho tất cả các trường hợp BN bị đau thắt ngực.
Kết hợp với các thuốc khác như: nitrate, ACEI (ức chế men chuyển), ARB (ức chế
thụ thể AGII), aspirin, statin. Với CCB (chẹn canxi), có thể kết hợp với CCB
dihydropyridine tác dụng dài (amlodipin, felodipine); nhưng không thể kết hợp
với CCB nondihydropyridine do làm tăng nguy cơ chậm nhịp tim quá mức và
nguy cơ suy tim nặng lên.
Ở BN đau thắt ngực Prinzmetal (Là một dạng đặc biệt của cơn đau thắt ngực
không ổn định. Đau tự phát, không liên quan đến gắng sức, đau dữ dội có thể gây
ngất. Cơn đau kéo dài 5-15 phút, thường xảy ra vào những giờ cố định, diễn tiến
theo chu kỳ. Điện tim trong cơn đau thấy đoạn ST chênh lên rõ rệt, ít khi có ST
chênh xuống, không thấy sóng Q hoại tử. Ngoài cơn đau thì điện tâm đồ bình
thường hoặc chỉ thay đổi ít. Không thấy các dấu hiệu sinh hoá biểu hiện hoại tử
cơ tim. Nguyên nhân: do co thắt mạch vành. Diễn biến bệnh thường nặng, cần
phải được điều trị khẩn cấp), sử dụng chẹn beta không có lợi, thậm chí có hại. Chỉ
nên sử dụng CCB (chẹn canxi)
1.1.3. Nhồi máu cơ tim:
Chẹn thụ thể beta là 1 trong 4 thuốc nền tảng của điều trị trong bệnh viện. Ba
thuốc khác là: ACEI (ức chế men chuyển), statin, aspirin. Việc sử dụng 4 thuốc
này làm giảm nguy cơ tử vong trong vòng 6 tháng. Sử dụng sớm chẹn beta giúp
làm giảm nhu cầu oxy của cơ tim và giảm thiểu tình trạng thiếu máu cơ tim.
Các thuốc chẹn beta được khuyến cáo sử dụng ở BN sau nhồi máu cơ tim là:
carvedilol, metoprolol succinat, bisoprolol.
Lợi ích của việc sử dụng: chống tái cấu trúc cơ tim, giảm nguy cơ loạn nhịp thất
và tái nhồi máu, từ đó làm giảm tử vong
1.1.4. Loạn nhịp tim:
Có hiệu quả trong điều trị loạn nhịp trên thất và thất
Theo logic, chẹn beta thích hợp dùng để điều trị các trường hơp loạn nhịp tim do
tăng hoạt tính adrenergic (NMCT cấp pha sớm, suy tim, u tủy thượng thận, lo
lắng, tiền mê, hậu phẫu) hay do tăng tính nhạy cảm của cơ tim với catecholamine
(cường giáp).
Loạn nhịp thất: sử dụng sotalol (class III: thuốc điều trị loạn nhịp) có hiệu quả
hơn 1 số thuốc class I
1.1.5. Suy tim
Chẹn beta giúp làm giảm tái cấu trúc cơ tim, giảm ảnh hưởng có hại của hệ giao
cảm trên tim, cải thiện chức năng của tim
Các thuốc được sử dụng: carvedilol, metoprolol succinate, bisoprolol, nebivolol
1.2. Các đặc tính cần lưu ý của nhóm thuốc ức chế thụ thể beta
1.2.1. Tính chọn lọc thụ thể β1
Thế hệ 1: không chọn lọc (tác động trên cả β1 và β2) như propranolol (tác động
trên β2 gây co mạch)
Thế hệ 2: chọn lọc trên tim (khi ở liều thấp, tác động tương đối chọn lọc trên β1;
nhưng khi liều cao, tác động chọn lọc này sẽ mất đi): atenolol, bisoprolol,
metoprolol, acebutolol, nên có thể sử dụng trên BN có bệnh phổi mạn tính, hút
thuốc lá kéo dài, đái tháo đường phụ thuộc insulin, phòng ngừa đột quỵ
Thế hệ 3: có 1 số đặc tính khác
Giãn mạch trực tiếp qua việc phóng thích NO: carvedilol và nebivolol
Giãn mạch qua tác dụng ức chế thụ thể : labetalol, carvedilol.
1.2.2. Hoạt tính giống giao cảm nội tại (ISA)
Là đặc tính gây giãn mạch qua việc bắt chước tính chất của hệ giao cảm kích thích β2:
acebutolol, pindolol
Cùng gắn kết trên tiểu đơn vị tại cùng 1 vị trí, tạo ra tác động đối kháng kênh calci. Tuy
mức độ tác động khác nhau, nhưng chúng cùng phát huy tác dụng ức chế trên tế bào cơ
trơn mạch máu hơn là tế bào cơ tim. Tuy nhiên, vẫn cần lưu ý đến nguy cơ suy giảm chức
năng cơ tim khi sử dụng thuốc trong các tình huống như: tiền căn bệnh cơ tim, sử dụng
chẹn β hay các thuốc chẹn calci kém chọn lọc. Thực tế trên lâm sàng, tác động của các
thuốc thuộc nhóm DHPs trên nút xoang và nút nhĩ thất có thể được bỏ qua.
Nifedipine là thuốc chẹn calci có khởi phát tác dụng nhanh và thời gian tác dụng ngắn.
Khi được sử dụng, nifedipine làm giãn mạch nhanh chóng, dẫn đến hạ áp (trong tăng
huyết áp nặng) và chấm dứt sự co thắt mạch vành 1 cách nhanh chóng. Sự dãn mạch
ngoại biên và hạ áp cấp kì này lại gây ra phản ứng hoạt hóa hệ giao cảm. Hiện tượng này
giải thích vì sao khi sử dụng các thuốc DHPs tác dụng ngắn lại gây ra những biến cố
nghiêm trọng ở Bn đau thắt ngực không ổn định
Vì vậy, hiện nay, người ta có khuynh hướng lựa chọn các thuốc chẹn calci tác dụng kéo
dài như amlodipine, felodipine hoặc dạng nifedipine – phóng – thích – kéo – dài để giảm
thiểu các tác dụng phụ trên. Tuy nhiên, vẫn có 2 tác dụng phụ đáng lưu ý khi sử dụng
CCBs là: đau đầu và phù mắt cá chân . Để giảm thiểu tác dụng phụ phù mắt cá chân do
CCBs, nên hiện nay có nhiều kiến nghị sử dụng phối hợp ban đầu UCMC và chẹn calci
trong điều trị tăng huyết áp
2.2.2. Non – dihydropyridines
Verapamil và Diltiazem gắn kết với tiểu đơn vị của kênh calci ở những vị trí khác nhau,
tuy vậy, 2 thuốc này vẫn có những đặc tính chung. 1) Tác động lên mô nút (nút xoang,
nút nhĩ thất) nên hiệu quả trong điều trị nhịp nhanh trên thất 2) Có khuynh hướng làm
giảm nhịp xoang 3) giảm co bóp tế bào cơ tim 4) giãn mạch ngoại biên (tiểu động mạch)
làm giảm nhu cầu oxy của cơ tim 5)Không có hiệu quả trong điều trị nhịp nhanh thất
(chống chỉ định) 6) không có lợi khi sử dụng trong điều trị suy tim 7) ít tác động trên cơ
trơn mạch máu nên không có các tác dụng phụ liên quan đến dãn mạch như: đỏ bừng
mặt, đau đầu, phù mắt cá chân. Verapamil có thể gây táo bón nhưng không rõ cơ chế
2.3. Chỉ định
Tăng huyết áp:
Hạ huyết áp rất hiệu quả, đặc biệt ở người già và bệnh nhân da đen
Đau thắt ngực:
Đau thắt ngực ổn định
Đau thắt ngực không ổn định
Co thắt mạch vành (do lạnh, tăng thông khí hay đau thắt ngực Prinzmetal): các thuốc
chẹn calci đều có hiệu quả, nhưng được cho phép sử dụng chỉ có amlodipine và
verapamil
Loạn nhịp tim (chỉ nhịp nhanh trên thất): chỉ chẹn calci non DHPs (verapamil và
diltiazem) có hiệu quả vì có tác dụng ức chế nút nhĩ thất; còn chẹn calci DHPs không có
hiệu quả.
Bảo vệ cơ tim sau nhồi máu: mặc dù chẹn β là thuốc ưu tiên chọn lựa, nhưng verapamil
và diltiazem vẫn có thể sử dụng với điều kiện không có tình trạng suy thất trái đi kèm
Bảo vệ mạch máu: tăng tạo NO và cải thiện chức năng nội mạc, từ đó làm chậm tiến trình
xơ vữa mạch cảnh, dẫn đến giảm tai biến mạch máu não.
2.4. Dược động học
Chẹn calci DHPs chuyển hóa ở gan thành dạng không hoạt tính, sau đó được thải qua
thận
Verapamil chuyển hóa ở gan thành dạng có hoạt tính, sau đó thải qua thận 75%, thải qua
đường tiêu hóa 25%
Diltiazem chuyển hóa ở gan thành dạng có hoạt tính (nhưng chỉ bằng 40% so với ban
đầu), thải qua thận chỉ 35% (khác với các thuốc khác trong nhóm chẹn calci) và qua
đường tiêu hóa là 65%.
Các thuốc chẹn canxi sử dụng đường uống và được hấp thu tốt, chuyển hóa ở gan và bài
tiết qua nước tiểu. Những thuốc này có thể qua nhau thai và tiết vào trong sữa.
Nicardipine và clevidipine có dạng dùng đường tĩnh mạch trong thời gian ngắn khi không
thể dùng đường uống.
2.5. Chống chỉ định
Quá mẫn với thuốc
Nhịp chậm hay hội chứng suy nút xoang.
2.6. Tương tác thuốc
Khi dùng chung với nước bưởi, nồng độ thuốc ức chế canxi tăng lên trong máu, dẫn đến
ngộ độc do tăng tác dụng phụ
3. LỢI TIỂU
3.1. Sinh lý
Khi đi qua thận, dòng máu sẽ vào mao mạch cầu thận hiện diện trong vùng vỏ thận. Các
mao mạch cầu thận này có tính thấm cao với nước và các chất điện giải. Áp suất thủy tĩnh
tại mao mạch cầu thận đẩy nước và các chất điện giải vào khoang Bowman, tạo dịch lọc
tiểu cầu thận . Ống lượn gần là nơi xảy ra sự vận chuyển Na+, nước và HCO3- từ dịch
lọc, qua tế bào ống lượn gần, vào trong mô kẽ của vùng vỏ thận. Khoảng 65 – 70% Na
được lọc qua mao mạch cầu thận sẽ được tái hấp thu tại đây. Sự tái hấp thu này được xem
như là đẳng trương vì cứ mỗi một phân tử Na được tái hấp thu, sẽ có một phân tử nước
được hấp thu đi kèm. Ở ống lượn gần, Na+ được tái hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích
cực nguyên phát ở bờ màng đáy, và vận chuyển tích cực thứ phát, khuếch tán thụ động ở
bờ lòng ống. Về phía mặt bên và màng đáy của tế bào biểu mô ống, trên màng tế bào có
protein mang và men Na+-K+-ATPase. Đầu ngoài của protein mang gắn 2 ion K+, đầu
trong của protein mang gắn 3 ion Na+, khi gắn đủ 5 ion thì men Na+-K+-ATPase phân
hủy ATP cho năng lượng để bơm 3 ion Na+ từ trong bào tương ra dịch kẽ và bơm 2 ion
K+ từ dịch kẽ vào bào tương. Tuy nhiên phía màng bên của tế bào biểu mô ống thì thấm
ion K+ cực kỳ mạnh, nên tất cả K+ vào tế bào lại thấm ra ngoài dịch kẽ. Do đó tác dụng
thực sự của vận chuyển tích cực nguyên phát là bơm Na+ ra ngoài để làm giảm Na+
trong tế bào, vì thế dịch trong tế bào còn lại điện thế rất âm. Cho nên ở bờ lòng ống lượng
gần, có hai yếu tố làm Na+ khuếch tán qua màng từ lòng ống vào trong tế bào: (1) bậc
thang nồng độ Na+ rất lớn qua màng tế bào (nồng độ cao ở lòng ống và nồng độ thấp
trong tế bào); (2) sự chênh lệch điện thế (điện thế dương do Na+ ở trong lòng ống so với
điện thế âm trong tế bào). Bờ lòng ống là bờ bàn chải làm tăng diện tích bề mặt và có tính
thấm cáo đối với Na+, do đó Na+ khuếch tán thụ động từ lòng ống vào tế bào. Cơ chế thứ
2 là trong màng của bờ bàn chải, có các protein mang Na+, đồng thời nó cũng có thể
mang thêm các chất khác như glucose, acid amin, Ca2+, Mg2+… Tất nhiên là mỗi chất
mang đặc hiệu chỉ mang Na+ và một chất khác tương ứng. Sau khi gắn đủ cả 2, nó sẽ
đồng vận chuyển Na+ và một chất khác từ lòng ống vào tế bào mà không cần năng lượng
do ATP cung cấp. Hiện tượng này gọi là vận chuyển tích cực thứ phát đồng vận chuyển.
Khi đoạn ống lượn gần đi vào tủy thận, ống này trở nên hẹp hơn và tạo thành phần xuống
quai Henle, sau đó quai Henle sẽ dày hơn và đi ngược trở lại vào phần vỏ của tủy thận
tạo thành ngành lên của quai Henle. Áp suất thẩm thấu của mô kẽ tại vùng tủy thận rất
cao nên quai Henle có tính thấm cao đối với nước, dẫn đến tình trạng cô đặc nước tiểu
sau khi dịch lọc đi qua ngành xuống quai Henle.
Ngành lên quai Henle là nơi không có tính thấm nước, tại đây chỉ xảy ra hiện tượng đồng
vận chuyển để tái hấp thu Na+, K+, Clo- theo tỷ lệ 1 : 1 : 2. Khoảng 25% Na có trong
dịch lọc ban đầu sẽ được tái hấp thu ở ngành lên quai Henle. Từ ngành lên quai Henle,
dịch sẽ di chuyển đến ống lượn xa, tại đây khoảng 5% Na sẽ được tái hấp thu và đi vào
vùng mô kẽ của tủy thận (ống lượn xa cũng không có tính thấm với nước). Cuối cùng,
ống lượn xa đi vào vùng tủy thận và trở thành ống góp, đổ vào vùng bể thận. Đoạn xa của
ống lượn xa và phần trên của ống góp xảy ra sự vận chuyển tích cực Na+ – K+ và Na+ –
H+, giúp tái hấp thu Na+ (khoảng 1 – 2% của dịch lọc ban đầu), đồng thời bài tiết K+ và
H+ ra nước tiểu.
Hai điểm quan trọng đáng lưu ý trong các cơ chế vận chuyển này: 1) hoạt động phụ thuộc
vào nồng độ Na có trong dịch lọc, vì vậy khi nồng độ Na có trong dịch lọc đi đến phần
ống thận này càng cao, thì càng nhiều Na được tái hấp thu, đồng thời càng nhiều K+, H+
được bài tiết ra nước tiểu 2) Cơ chế vận chuyển này được điều hòa bởi aldosterone (1
hormone mineralcorticoid được tiết từ vỏ thận). Tăng nồng độ aldosterone trong máu làm
tăng tái hấp thu Na+, và tăng bài tiết H+, K+. Cuối cùng nước được tái hấp thu ở ống góp
qua những lỗ đặc biệt dưới sự điều hòa của hormone bài niệu (ADH) (được giải phóng từ
thùy sau tuyến yên). ADH tăng tính thấm của ống góp của thận đối với nước, từ đó làm
tăng tái hấp thu nước, dẫn đến cô đặc nước tiểu. Phần lớn Na+ được tái hấp thu ở ống
thận, chỉ còn 1% Na được thải ra ngoài qua nước tiểu.
Hình 3: Hệ thống vận chuyển và vị trí tác động của các thuốc lợi tiểu
3.2. Tổng quan và phân loại
Lợi tiểu là những thuốc làm tăng tốc độ đào thải nước tiểu. Ngoại trừ lợi tiểu thẩm thấu,
các thuốc lợi tiểu còn lại chủ yếu làm giảm khả năng tái hấp thu Na+ của ống thận, từ đó
ức chế sự tái hấp thu Cl- và nước.
Vì thế, đây là những thuốc:
Chính yếu là thải trừ muối (= ↑ đào thải NaCl) và
Thứ yếu là lợi niệu (=↑ đào thải nước)
Việc phân loại thuốc lợi tiểu có thể dựa trên những đặc tính khác nhau của thuốc
Có thể dựa trên hiệu ứng lợi tiểu của từng thuốc mà chia thành thuốc lợi tiểu mạnh, trung
bình và yếu
Thuốc lợi tiểu mạnh Lợi tiểu quai (furosemide, bumetamide, torasemide,
Ức chế tái hấp thu 25% Na+ ethacrynic acid)
Mannitol (khi truyền liều cao)
Thuốc lợi tiểu trung bình Thiazide (chlorothiazide, hydrochlorothiazide)
Ức chế tái hấp thu 6% Na+ Giống thiazide (clopamide, indapamide, chlorthalidon)
Thuốc lợi tiểu yếu Thuốc ức chế carbonic anhydrase (acetazolamide)
Ức chế tái hấp thu 3% Na+ Thuốc ức chế kênh Na+ (amiloride, triamterene)
Thuốc đối kháng thụ thể aldosterone (spironolactone,
eplerenone, canrenoate)
Có thể phân loại dựa trên tác động của thuốc đối với K+
Hình 6 và 7: Cơ chế vận chuyển Glucose ở ống lượn gần và vị trí tác động của thuốc ức
chế SGLT2
Dược động học
Thuốc ức chế SGLT2 được hấp thu nhanh chóng bằng đường uống. Thời gian bán thải
của dapagliflozin là 10-12 tiếng.
Chỉ định
Điều trị bệnh đái tháo đường. Thuốc ức chế SGLT2 có thể làm giảm HbA1c khoảng 0.5%
đến 1.0%, tương tự các thuốc uống khác. Thuốc có thể gây giảm cân, hạ huyết áp, cải
thiện triệu chứng ở bệnh nhân suy tim.
Tác dụng phụ
Ít gây hạ đường huyết, có thể gây nhiễm trùng vùng niệu dục.
3.3.4. Lợi tiểu quai: Furosemide
Tổng quan
1 trong số các thuốc lợi tiểu quai, là dẫn xuất của sulfonamide, dùng để điều trị trong suy
tim nặng. Furosemide là thuốc khởi đầu điều trị trong trường hợp phù phổi cấp hay sung
huyết phổi do suy thất trái với nguyên nhân có thể do nhồi máu cơ tim cấp. Giảm khó thở
cho BN trên lâm sàng ban đầu không phải do tình trạng tăng bài niệu mà là do dãn tĩnh
mạch và giảm tiền tải.
Dược động học
Lợi tiểu quai ức chế quá trình đồng vận chuyển Na+/K+/2Clo- ở ngành lên quai Henle
Na+, K+, Clo-, và H+ vẫn ở trong lòng ống và mất qua nước tiểu tác dụng phụ của
thuốc có thể gặp: hạ Na+ máu, hạ K+ máu, hạ Clo- máu, kiềm hóa máu. Tuy nhiên, khi
so sánh với lợi tiểu thiazide, thì lợi tiểu gây mất nước nhiều hơn và mất ít muối hơn. Giãn
tĩnh mạch giúp làm giảm tiền tải trong suy thất trái cấp xảy ra trong vòng 5 – 15 phút, cơ
chế khả năng là do ức chế men prostglandn dehydrogenase, ức chế sự phân hủy
prostaglandin E2, gây dãn mạch, và có thể xảy ra tình trạng co mạch sau đó.
Khi dùng đường uống, Furosemide được hấp thu khoảng 60 – 64% so với đường tĩnh
mạch. Khi dùng đường uống, thời gian khởi phát tác dụng là 1 giờ, đạt nồng độ đỉnh là 1
– 2 giờ sau uống, và thời gian tác dụng là 4 – 6 giờ, có thể lên đến 8 giờ.
Khi dùng đường tĩnh mạch, thời gian khởi phát tác dụng là 5 phút, đạt nồng độ đỉnh là 30
phút sau tiêm, và thời gian tác dụng là 2 giờ.
Khoảng 50% furosemide được bài tiết qua mao mạch cầu thận và ống lượn gần dưới dạng
không đổi và được đưa đến vị trí ngành lên quai Henle – là nơi thuốc tác động, phần còn
lại liên kết với acid glucuronic ở thận. Vì vậy, khi suy thận, do sự bài tiết và quá trình liên
kết với acid glucuronic ở thận đều giảm nên t1/2 kéo dài (do giảm số lượng cầu thận và
ống thận nhưng tốc độ và tỷ lệ bài tiết furosemide ở cầu thận và ống thận còn nguyên thì
không đổi so với người bình thường). Gan chỉ chịu trách nhiệm chuyển hóa 1 lượng nhỏ
furosemide, khoảng 10%; phân furosemide được chuyển hóa này cùng 1 ít furosemide
được thải dưới dạng không đổi qua phân.
Thức ăn làm chậm hấp thu furosemide. > 90% Furosemide vào máu gắn kết chủ yếu với
albumin
Liều dùng
Đường tĩnh mạch: thường khởi đầu tiêm chậm với liều 40 mg (không hơn 4mg/phút để
tránh tác dụng phụ độc tai). Khi chức năng thận giảm, cũng như ở người già, có thể dùng
liều cao hơn.
Đường uống: 20 – 240 mg/ ngày, hoặc có thể hơn. Vì furosemide có thời gian tác dụng
ngắn, nên thường phải dùng 2 lần 1 ngày nếu cần, để đảm bảo khả năng lợi niệu của
thuốc trong ngày. Nên cho Bn dùng furosemide 1 lần vào buổi sáng, 1 lần vào buổi trưa
để tránh tiểu nhiều vào buổi tối và suy giảm lưu lượng tuần hoàn.
Đối với tăng huyết áp, furosemide 20 mg x 2 lần/ ngày tương đương với
hydrochlorothiazide 25mg / ngày. Furosemide gây mất lượng muối nhiều hơn so với
HCTZ trong vòng 0 – 6 giờ đầu. Tuy nhiên, do thời gian tác dụng ngắn, nếu chỉ dùng 1
lần thì tổng lượng Na mất đi trong ngày không đủ để duy trì hiệu quả hạ áp (ngoài ra khi
nồng độ Na xuống ống lượn xa và phần đầu ống góp giảm, sẽ gây kích thích tiết
aldosterone làm tăng tái hấp thu Na sau đó, dẫn đến lượng Na+ mất đi do tác dụng
furosemide sẽ giảm xuống). Vì vậy, furosemide cần dùng 2 lần / ngày.
Ở bệnh nhân thiểu niệu (không phải do suy giảm lưu lượng tuần hoàn gây ra), khi GFR <
20 ml/phút; lượng furosemide cần dùng có thể từ 240 mg đến 2000 mg do giảm lượng
furosemide được bài tiết ở mao mạch cầu thận và ống lượn gần.
Chỉ định
Suy tim nặng
Phù phổi cấp
Tăng huyết áp
Cơn tăng huyết áp (khi có tình trạng quá tải dịch)
Suy thận nặng.
Chống chỉ định
Suy tim mà không có tình trạng quá tải tuần hoàn
Vô niệu: tuy vậy, như thiểu niệu, thỉnh thoảng được dùng với hy vọng bài niệu, sau khi đã
loại trừ sự hiện diện của tình trạng suy giảm khối lượng tuần hoàn và tiền căn mẫn cảm
với furosemide hay các chất có dẫn xuất sulfonamide.
Tác dụng phụ
Hạ Na+
Hạ K+
Hạ Clo-
Giảm thể tích tuần hoàn
Kiềm hóa máu
Tăng acid uric
Tăng đường huyết
Độc tai: truyền tĩnh mạch không quá 4 mg/phút, liều uống không quá 1000 mg/ngày
Là thuốc độc bảng C đối với phụ nữ mang thai; bài tiết qua sữa ở phụ nữ cho con bú
Tương tác thuốc
Dùng chung với aminoglycoside làm tăng tác dụng phụ độc tai
Probenecid làm giảm bài tiết furosemide vào ống thận, làm giảm tác dụng của thuốc.
Indomethacin và các thuốc NSAIDs khác làm giảm đáp ứng của thận đối với thuốc do
giảm prostaglandins
Furosemide liều cao ức chế bài tiết salicylate, gây độc tai.
Steroid và các hormone vỏ thượng thận làm tăng hạ kali máu.
Không ảnh hưởng đến digoxin và warfarin.
3.3.5. Thiazide và các lợi tiểu tương tự thiazide
Tổng quan
Lợi tiểu thiazide và các lợi tiểu tương tự thiazide là những thuốc lợi tiểu được sử dụng
phổ biến, hữu hiệu khi dùng bằng đường uống, có hiệu ứng bài niệu trung bình và gây
một số tác dụng phụ cho bệnh nhân.
Lợi tiểu thiazide và các lợi tiểu tương tự thiazide là các dẫn xuất của sulfonamide và là
những thuốc lợi tiểu đường uống đầu tiên được sử dụng rộng rãi để điều trị tăng huyết áp.
Các thuốc này có sinh khả dụng tốt và được các tế bào ống lượn gần bài tiết chủ động vào
trong lòng ống. Sau đó các thuốc này di chuyển dọc theo lòng ống đến vị trí tác động ở
ống lượn xa. Một số thuốc này được chuyển hóa một phần trước khi bài tiết vào nước
tiểu.
Các thuốc này tác động lên kênh đồng vận chuyển Na+ - Cl- ở đoạn đầu ống lượn xa, gây
ức chế tái hấp thu khoảng 5% natri. Điều này dẫn đến một lượng dịch giàu natri đi xuống
đoạn ống lượn xa và ống góp, từ đó kích thích sự trao đổi giữa natri và kali ở những vị trí
này. Theo đó, một lượng nhỏ natri sẽ được tái hấp thu, còn kali sẽ được bài tiết vào nước
tiểu.
Thiazide và các lợi tiểu tương tự thiazide giảm huyết áp qua hai cơ chế là tăng thải muối,
nước và giảm sức cản ngoai biên. Khi bệnh nhân dùng thuốc lần đầu, thuốc sẽ làm giảm
thể tích tuần hoàn và từ đó làm giảm cung lượng tim. Nếu sử dụng lâu dài (hàng tuần
hoặc hàng tháng), thuốc sẽ làm giảm sức cản mạch ngoại biên, và chính điều này là cơ
chế chính dẫn đến tác dụng hạ áp lâu dài. Giảm sức cản mạch ngoại biên có thể do giảm
nồng độ natri trong tế bào cơ trơn của tiểu động mạch, dẫn đến giảm đáp ứng co thắt cơ
khi có kích thích của các chất vận mạch như norepinephrine và angiotensin. Mối liên
quan này được minh chứng khi một người đang sử dụng lợi tiểu thiazide ăn đủ lượng
muối để chống lại tác dụng bài natri thì thuốc này bị giảm tác dụng. Sử dụng lợi tiểu
thiazide giúp giảm huyết áp 10-15 mmHg.
Đặc tính
Hydroclorothiazide là thuốc lợi tiểu nhóm thiazide được sử dụng nhiều nhất để điều trị
tăng huyết áp. Indapamide có thêm tác dụng giãn mạch thông qua cơ chế ức chế kênh
canxi. Các thử nghiệm lâm sàng gần đây cho thấy phối hợp giữa indapamide và các thuốc
ức chế angiotensin giúp giảm huyết áp hiệu quả đồng thời giảm nguy cơ đột quỵ và nhồi
máu cơ tim ở bệnh nhân tăng huyết áp.
Hydroclorothiazide được sử dụng để điều trị khởi đầu cho bệnh nhân tăng huyết áp từ
nhẹ đến trung bình, mặc dù các thử nghiệm lâm sàng gần đây cho thấy thuốc ức chế
angiotensine hoặc thuốc ức chế canxi phù hợp với nhiều bệnh nhân hơn bởi vì những
thuốc này có khả năng ưu việt giúp kiểm soát huyết áp cả ngày hơn và bởi vì thuốc này ít
có tác dụng phụ hơn. Lợi tiểu thiazide thường được sử dụng để kết hợp với các nhóm
thuốc hạ áp khác để tạo thành tác dụng hiệp đồng hoặc công hưởng. Thuốc lợi tiểu có thể
ngăn ngừa tình trạng ứ dịch bù trừ do các thuốc khác gây ra. Người ta cũng nhận thấy có
tới hơn 2/3 bệnh nhân tăng huyết áp không thể kiểm soát huyết áp chỉ với 1 thuốc.
Thiazide có thể gây hạ kali máu, từ đó có thể gây loạn nhịp tim và yếu cơ. Sử dụng lợi
tiểu liều thấp (12.5 mg đến 50 mg/ ngày) thường cho hiệu ứng hạ áp tối đa và tác dụng
phụ tối thiểu. Sử dụng liều cao dễ gây hạ kali máu hơn nhưng tác dụng hạ áp không tăng
lên.Thiazide làm tăng nồng độ glucose, acid uric, và lipid trong huyết tương ở một số
bệnh nhân. Hiếm gặp hơn, thuốc có thể gây rối loạn huyết học và năng thêm bệnh gan.
Ngoài ra thuốc còn có thể gây tăng tiết rennin bù trừ, đó là lý do vì sao phối hợp thuốc
thiazide - ức chế angiotensine lại có có hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều thử nghiệm lâm sàng
đã cho thấy thiazide là thuốc có hiệu quả và tương đối an toàn khi đảm bảo việc theo dõi
nồng độ kali, glucose, acid uric và lipid huyết thanh. Bên cạnh đó, thiazide là thuốc điều
trị tăng huyết áp rẻ nhất.
Cơ chế tăng acid uric của lợi tiểu thiazide: có 2 thụ thể nằm trên tế bào biểu mô ống lượn
gần tham gia vào quá trình điều hòa nồng độ acid uric trong huyết thanh, đó chính là:
organic anion transporter 1 (OAT1) and urate/anion exchanger 1 (URAT1). OAT 1 chịu
trách nhiệm vận chuyển các hợp chất acid hữu cơ từ mô kẽ vào bên trong tế bào ống lượn
gần và acid uric cũng theo con đường vận chuyển này. Tuy nhiên OAT 1 cũng tham gia
vận chuyển 1 số thuốc là acid hữu cơ như HCTZ. HCTZ cạnh tranh với acid uric tại OAT
1 khiến cho nồng độ acid uric tăng lên trong máu. Còn URAT1 chịu trách nhiệm vận
chuyển acid uric từ lòng ống vào bên trong tế bào ống lượn gần thông qua quá trình trao
đổi với 1 acid hữu cơ. Nhiều aicd hữu cơ (trong trường hợp này là HCTZ) khiến cho tăng
cường vận chuyển acid uric vào bên trong tế bào và từ đó tái hấp thụ vào máu. Ngoài ra,
lợi tiểu làm giảm thể tích tuần hoàn, từ đó gia tăng nồng độ acid uric trong máu và mô,
tăng cường lắng đọng acid uric tại mô cơ thể nên gây gout.
Hình 8: Cơ chế vận chuyển acid uric ở tế bào ống lượn gần
Một ưu điểm khác của thiazide là dường như thuốc này chống lại tình trạng loãng xương.
Thiazide làm giảm bài tiết canxi qua nước tiểu, cơ chế được cho là do (1) thiazide ức chế
tái hấp thu Natri ở ống lượn xa, nên làm tăng cường tái hấp thu Natri và Canxi ở ống
lượn gần, (2) Lợi tiểu thiazide tăng cường tái hấp thu Canxi ở ống lượn xa. Thông qua
quá trình giảm nồng độ Natri trong tế bào biểu mô ống thận, thiazide làm tăng hoạt động
của bơm đối vận Na/Ca. Điều này tạo thuận lợi cho sự di chuyển của ion Canxi từ tế bào
biểu mô vào mô kẽ thận. Sự chuyển dịch này khiến nồng độ Canxi trong tế bào biểu mô
giảm, nên cho phép nhiều ion Canxi khuếch tán từ lòng ống vào tế bào biểu mô thông
qua kênh Canxi chọn lọc
3.3.6. LỢI TIỂU TIẾT KIỆM KALI
Bao gồm 2 nhóm: ức chế kênh natri ở tế bào biểu mô và đối kháng thụ thể aldosterone.
Amiloride hấp thu bằng đường uống tốt, đào thải r nước tiểu dưới dạng không đổi. T1/2 khoảng
6-9 giờ (giống HCTZ). Triamteren hấp thu trung bình, đào thải chủ yếu qua thận và phần lớn
dưới dạng hydroxyl hóa và sulfate hóa, là dạng có hoạt tính và T1/2 là 3 giờ.
Tác dụng phụ đặc trưng nhất của thuốc lợi tiểu tiết kiệm Kali là tăng kali máu, nhưng điều này
hiếm khi xảy ra nếu bệnh nhân không sử dụng các chế phẩm bổ sung Kali hoặc các thuốc làm
tăng Kali máu hoặc bị rối loạn chức năng thận làm tăng Kali máu.
Spironolactone được hấp thu từ ruột và có thời gian tác dụng dài mặc dù thời gian bán thải ngắn,
điều này cho thấy hoạt tính của thuốc tại tế bào kéo dài hơn so với thời gian thuốc lưu thông
trong tuần hoàn. Spironolactone được sử dụng để ngăn ngừa hạ Kali máu tương tự như amiloride
và triamterene, và thuốc này có vai trò đặc biệt trong điều trị cường aldosterone nguyên phát.
Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy spironolactone làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân bị suy tim.
Ngoài ra, spironolactone còn có đặc tính kháng androgen, nên được sử dụng trong điều trị buồng
trứng đa nang và chứng rậm lông ở phụ nữ.
Tác dụng phụ của spironolactone bao gồm nữ hóa tuyến vú, bất lực ở nam giới (do hoạt tính
kháng androgen), rối loạn kinh nguyệt ở nữ giới, tăng Kali máu, toan hóa máu. Spironolactone
được sử dụng để phối hợp với lợi tiểu quai hoặc lợi tiểu thiazide nhằm giảm tác dụng phụ mất
K+ và H+, trong điều trị cường aldosterone nguyên phát (u tuyến thượng thận hoặc tăng sản
tuyến thượng thận), cường aldosterone thứ phát (suy tim do tăng hoạt hệ RAAS, xơ gan do giảm
đào thải aldosterone ở gan), giảm sự phì đại và xơ hóa cơ tim và mạch máu do hoạt hóa quá mức
RAAS hoặc trong điều trị chứng rậm lông, mụn, tiết bã ở người nữ với vai trò là chất kháng
androgen.
Eplerenone là một thuốc kháng aldosterone thế hệ mới, ít gây tác dụng phụ về nội tiết hơn so với
spironolactone.
Hình 9: Cơ chế tác dụng của thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể
AGII
4.2. Dược động học
Sinh khả dụng là 25% - 75%. So với các thuốc UCMC khác chỉ cần dùng 1 hoặc 2
lần/ngày, thì captopril có T1/2 ngắn nên phải dùng nhiều lần trong ngày (từ 2 đến
3 lần/ngày).
4.3. Đặc điểm của thuốc: các thuốc có kết thúc là “il”
Giãn mạch: cả động mạch và tĩnh mạch giảm tiền tải và hậu tải
Giảm thể tích máu: do tác dụng bài Na niệu và lợi tiểu
Giảm hoạt tính giao cảm
Ức chế sự phì đại tim và mạch máu
Giải thích:
UCMC có tác dụng kép: phòng ngừa (nguyên phát và thứ phát) và điều trị
bệnh tim mạch
Phòng ngừa nguyên phát: hạ áp và giảm phì đại thất trái, ức chế sự hình
thành xơ vữa động mạch cảnh và huyết khối
Phòng ngừa thứ phát: cho BN bị NMCT sử dụng cải thiện tiên lượng tử
vong ở BN nguy cơ cao do 1) chống loạn nhịp ngăn đột tử 2) giảm
căng thành thất chống tái cấu trúc thất sau nhồi máu, giảm nguy cơ suy
thất trái
4.4. Chỉ định:
Mọi giai đoạn suy tim
Giảm tiền tải và hậu tải.
Giảm hoạt tính giao cảm
Cải thiện cán cân cung cầu oxy.
Chống tái cấu trúc thất trái.
Tăng huyết áp, đặc biệt ở BN có nguy cơ tim mạch cao và có đái tháo đường
NMCT cấp
Bệnh thận mạn ở BN có đái tháo đường hoặc không đái tháo đường.
Đột quỵ: UCMC giảm tỷ lệ mắc đột quỵ
4.5. Chống chỉ định
Phụ nữ mang thai
Hẹp động mạch thận 2 bên hoặc trên thận độc nhất
Mẫn cảm với thuốc
Tăng kali máu
4.6. Tác dụng phụ
Ho khan
Phù mạch
Giảm bạch cầu
Tăng kali máu
Suy thận
Hạ áp
4.7. Tương tác thuốc
Khi dùng chung với lợi tiểu hoặc thuốc ức chế canxi, tác dụng hạ áp của UCMC
sẽ tăng lên.
Khi kết hợp UCMC với lợi tiểu giữ kali và các chế phẩm chứa kali, có nguy cơ
tăng kali máu.
Các thuốc kháng viêm không steroid như ibuprofen sẽ làm giảm tác dụng hạ áp
của thuốc UCMC cũng như các thuốc hạ áp khác.
5. Ức chế thụ thể AG II
5.1. Cơ chế tác dụng:
Đối kháng với AGII trên thụ thể của AGII là AT1 ức chế tác dụng của AGII
gây dãn mạch, giảm bài tiết aldosterone, giảm tái hấp thu natri ở ống lượn xa.
Không tác động lên men chuyển nên không ảnh hưởng đến sự phân hủy
bradykinin giảm nồng độ bradykinin không có tác dụng phụ gây ho khan
5.2. Chỉ định
Tăng huyết áp
Nhồi máu cơ tim
Suy tim
Bệnh thận mạn
Đột quỵ
Ở bệnh nhân đái tháo đường có tăng huyết áp hoặc bệnh thận mạn, sử dụng
UCTT AGII như telmisartan làm tăng nhạy cảm với insulin do hoạt hóa
peroxisome proliferator–activated receptor-γ
5.3. Chống chỉ định
Phụ nữ mang thai
Hẹp động mạch thận 2 bên hoặc 1 bên ở thận độc nhất
5.4. Tác dụng phụ:
Gây tăng kali máu, giảm bạch cầu đa nhân trung tính, tăng men gan
6. Nitrate
Nitrate là một trong những thuốc lâu đời nhất được sử dử dụng để trị đau thắt ngực. Các
thuốc của nhóm này cũng được sử dụng trong hội chứng mạch vành cấp và suy tim. Cơ
chế tác dụng chính của nitrate là dãn mạch, đặc biệt hệ tĩnh mạch.
Bao gồm: Isosorbide trinitrate, isosorbide dinitrate và isosorbide mononitrate
6.1. Dược động học
Nitroglycerin có đặc điểm dược động học đến nay vẫn chưa được hiểu rõ. Nitroglycerin
nhanh chóng biến mất khỏi hệ tuần hoàn với thời gian bán thải chỉ kéo dài vài phút, chủ
yếu bởi cơ chế ngoài gan để chuyển thành dinitrate có thời gian tác dụng dài hơn.
Isosorbide dinitrate chuyển hóa qua gan thành mononitrate có thời gian bán thải là 4-6
giờ. Mononitrate đã có sẵn hoạt tính sinh học mà không cần phải chuyển hóa qua gan với
thời gian bán thải là 4-6 giờ.
6.2. Cơ chế tác dụng
Nôi mạc là lớp trong cùng của các mạch máu. Nội mạc bình thường có thể sản xuất các
hoá chất trung gian để cải thiện chức năng nội mạch và duy trì trương lực mạch máu. Rối
loạn chức năng nội mạc trong bệnh mạch vành làm giảm sản xuất yếu tố dãn mạch từ nội
mạc (EDRF: endothelium derived relaxing factor) là nitric oxide (NO). Nitrate hữu cơ
như nitroglycerin sẽ được chuyển thành NO, có khả năng phục hồi lượng EDRF và NO
đã mất ở bệnh nhân bệnh mạch vành.
Nitrate gây dãn cơ trơn mạch máu. Cơ chế chủ yếu là sự chuyển hóa của thuốc thành
dạng nitric oxide tại hoặc gần màng bào tương của cơ trơn mạch máu. Nitric oxide hoạt
hóa guanylyl cyclase để tạo guanosine monophosphate vòng (cGMP), và sự tích tụ của
cGMP dẫn đến dãn cơ trơn.
Hình 3.3: Cơ chế tác dụng của nitrate. (Nguồn: Pathophysiology of the heart disease 5th,
Leonard D. Lilly)
6.3. Hiệu ứng huyết động
Ở liều thấp, nitroglycerin (một thuốc điển hình của nhóm nitrate hữu cơ) gây dãn tĩnh
mạch nhiều hơn động mạch. Tình trạng dãn tĩnh mạch dẫn đến sự tạo thành các hồ chứa
tĩnh mạch, từ đó làm giảm lượng máu trở về tim, gây giảm áp lực đổ đầy thất phải và thất
trái. Kháng lực động mạch hệ thống nhìn chung không bị ảnh hưởng, nhưng cung lượng
tim có thể giảm do giảm tiền tải, đặc biệt ở những bệnh nhân có tình trạng suy giảm thể
tích nội mạch. Tình trạng dãn động mạch chủ yếu xảy ra ở động mạch vành, cũng có thể
xảy ra ở các mạch máu vùng mặt và màng não, từ đó dẫn đến tác dụng phụ là đỏ bừng
mặt và đau đầu.
Ỡ liều cao, nitrate có thể gây dãn các tiểu động mạch, dẫn đến hạ huyết áp hệ thống và
nhịp nhanh phản xạ. Tuy nhiên, sự gia tăng nhịp tim này có thể không biểu hiện rõ ở các
bệnh nhân suy tim, do sự giảm hậu tải trong tình huống này giúp cải thiện cung lượng
tim, từ đó giảm hoạt tính giao cảm tác động lên tim.
6.4. Các ứng dụng trên lâm sàng
Nitrate được sử dụng chủ yếu trong điều trị đau thắt ngực thông qua việc dãn hệ thống
tĩnh mạch, từ đó giảm tiền tải, giảm áp lực đổ đầy thất trái. Kích thước buồng thất trái thu
nhỏ hơn, dẫn đến áp lực căng thành thất trái giảm, mức tiêu thụ oxy của cơ tim giảm, từ
đó tái lập lại cán cân cung cầu oxy. Nitrate cũng hữu ích ở bệnh nhân bị tình trạng co thắt
động mạch vành (đau thắt ngực Prinzmetal) do làm dãn các nhánh động mạch vành
6.5. Các chế phẩm và dược động học
Rất nhiều dạng chế phẩm nitrate có mặt trên thị trường.
Nitrate tác dụng ngắn dùng trong đau ngực cấp
Nitroglycerin ngậm dưới lưỡi được công nhận là biện pháp điều trị đầu tay đối với tình
trạng đau thắt ngực do gắng sức. Khi tình trạng đau thắt ngực xảy ra, bệnh nhân nên ngồi
yên (tư thế đứng có thể dẫn đên ngất, tư thế nằm có thể khiến máu tĩnh mạch trở về tim
và khiến tim phải hoạt động nhiều hơn), sử dụng nitroglycerine ngậm dưới lưỡi (0.3-0.6
mg) mỗi 5 phút cho đến khi cơn đau thoái lui hoặc khi đã dùng tối đa 4-5 viên.
Nitrolycerin dạng xịt cũng có thể được sử thay thế cho dạng ngậm dưới lưỡi, và thường
được bệnh nhân dễ chấp nhận hơn. Nitroglycerin dạng xịt gây dãn mạch sớm hơn.
Isosorbide dinitrate có thể sử dụng dưới dạng ngậm dưới lượi (5 mg) khi xảy ra cơn đau
ngực và hiệu quả chống đau ngực có thể kéo dài đến khoảng 1 tiếng. Bởi vì dinitrate phải
bị chuyển hóa ở gan thành mononitrate, nên tác dụng chống đau ngực xảy ra muộn hơn
(thời gian trung bình: 3.4 phút) so với nitroglycerin (thời gian trung bình: 1.9 phút). Do
đó, các nhà sản xuất khuyến cáo chỉ nên sử dụng dinitrate dạng dưới lưỡi khi không có
sẵn hoặc bệnh nhân không đáp ứng hoặc không dung nạp với nitroglycerin.
Nitrate tác dụng kéo dài dùng trong phòng ngừa đau thắt ngực
Nitrate tác dụng kéo dài nếu sử dụng liên tục trong thời gian dài thường không hiệu quả.
Suy giảm chức năng nội mạc liên quan đến sự xuất hiện và tích tụ peroxynitrite và tăng
độ nhạy cảm với các chất co mạch thứ phát. Ngoài ra, đáp ứng hệ thống của cơ thể cũng
liên quan đến việc giảm hiệu quả của nitrate vì khi có hiện tượng giãn mạch, hệ giao cảm
cũng như RAA được kích hoạt, dẫn đến giữ muối nước cũng như xảy ra hiện tượng co
mạch. Isosorbid dinitrate và mononitrate là những thuốc thường xuyên được sử dụng để
phòng ngừa đau thắt ngực.
6.6. Tương tác thuốc
Tương tác với các thuốc có hiệu ứng dãn mạch như ức chế kênh canxi, ức chế
phosphodisterase type V, thuốc ức chế thụ thể α
Lợi tiểu là các thuốc làm tăng lượng nước tiểu. Đa phần các thuốc lợi tiểu đều ức chế sự tái hấp
thu Natri ở nhiều vị trí khác nhau của nephron.
Lợi tiểu quai ức chế kênh vận chuyển Na+-K+-2Cl- ở ngành lên quai Henle, làm tăng thải Na+,
K+, Cl-, Ca2+ và Mg2+. Lợi tiểu quai được sử dụng chủ yếu trong điều trị suy tim, suy thận,
phù phổi cấp và tăng canxi máu.
Lợi tiểu thiazide ức chế sự tái hấp thu Na+ ở ống lượn xa. Các thuốc thuộc nhóm này gây bài
xuất Na+ và K+ ra nước tiểu, nhưng lại giảm bài xuất Ca2+. Các thuốc thuộc nhóm này được sử
dụng để điều trị tăng huyết áp, phù, tăng canxi niệu. Lợi tiểu thiazide có tác dụng làm giảm thể
tích tuần hoàn và cung lượng tim, nhưng hiệu ứng lâu dài đối với huyết áp chủ yếu là do giảm
kháng lực ngoại biên
Cả lợi tiểu quai và lợi tiểu thiazide đều có thể gây hạ Kali máu và các rối loạn điện giải khác,
cũng như gây rối loạn đường huyết và tăng acid uric máu.
Lợi tiểu tiết kiệm Kali có tác dụng ức chế sự bài xuất Kali ở ống góp, được sử dụng chủ yếu để
ngăn ngừa tình trạng hạ Kali máu gây ra bởi thiazide và lợi tiểu quai. Spironolactone còn được
sử dụng để điều trị suy tim và cường aldosterone.
Ức chế angiotensin bao gồm ức chế men chuyển và ức chế thụ thể angiotensine II. Những thuốc
này giúp giảm kháng lực ngoại biên và nồng độ aldosterone trong máu, ít ảnh hưởng đến thể tích
tuần hoàn hoặc cung lượng tim ở bệnh nhân không có suy tim.
Thuốc ức chế kênh canxi bao gồm nhóm dihydropyridine và non-dihydropyridine. Các thuốc
thuộc nhóm dihydropyridine có tác dụng làm giảm kháng lực ngoại biên nhưng có thể gây nhịp
nhanh phản xạ. Verapamil và diltiazem tác động chủ yếu lên tim, làm giảm nhịp tim, giảm sức co
bóp cơ tim. Thuốc ức chế kênh canxi có hiệu quả trong việc phòng ngừa cơn đau thắt ngực do co
thắt, trong khi ức chế thụ thể beta lại không hiệu quả.
Thuốc ức chế thụ thể beta làm giảm nhịp tim và sức co bóp cơ tim. Ở bệnh nhân có tiền căn nhồi
máu cơ tim, thuốc ức chế thụ thể beta được ghi nhận giúp giảm loạn nhịp thất, một yếu tố có thể
dẫn đến tử vong ở nhóm bệnh nhân này.
TỪ KHÓA
Lợi tiểu; Lợi tiểu quai; Thiazide; Lợi tiểu tiết kiệm Kali; Ức chế men chuyển; Ức chế thụ thể
Angiotensine II; Ức chế thụ thể beta; Ức chế kênh Canxi; Dihydropyridine; Non-dihydropyridine
1. Trần Thị Thu Hằng (2016), Dược lực học, 21th edition, Nhà xuất bản Phương Đông Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. George M.Brenner và Craig W. Stevens (2013), Pharmacology, 4th edition, Elsevier Saunders.
3. Lionel H. Opie và Bernard J.Gersh (2013), Drugs for the Heart, 8th edition, Elsevier Saunders