Professional Documents
Culture Documents
Sứ Điệp Cựu Ước - Viện Thần Học Việt Nam
Sứ Điệp Cựu Ước - Viện Thần Học Việt Nam
LỜI TỰA
Người ta thường đổ trách nhiệm cho quá khứ về tình trạng hư hỏng hiện tại .
Nhiều người ngày nay trách cứ cha ông họ đã để cho những nhà "phê bình
cao cấp" Higher Criticism) tước đọat mất niềm tin ơn chân lý và giá trị của
Kinh Thánh, nhất là Kinh Thánh Cựu Ước
Cũng như mọi phong trào khác của con người , phê bình cao cấp có những
điểm tốt cũng như điểm xấu, nhưng không thể chối cãi rằng họ phải chịu
phần lớn trách nhiệm về tình trạng lơ là và kém hiểu biết đối với Cựu Ước
ngày nay.
Quyển sách nhỏ này không đề cập đến các nhà phê bình cao cấp và phương
pháp của họ, dầu rằng không có họ thì có lẽ cũng không có quyển sách này.
Mục tiêu duy nhất của chúng tôi là giúp cho thế hệ trẻ có thể hiểu Cựu Ước
dễ dàng hơn. Vì muốn đưa độc giả đến với Kinh Thánh , nên chúng tôi
không liệt kê những sách cần phải đọc thêm. Ai muốn tham khảo thêm về
vấn đề này có thể đến các tiệm sách Tin lành hoặc thư viện.
CÁC THÁNH TỔ
Các chương đầu của sách Sáng Thế Ký, như đã nói, đề cập đến những sự
kiện làm nền tảng cho toàn bộ Khải Thị của Kinh Thánh.
Cá tính của người xuất hiện trong đó ít có quan hệ đến những việc xảy ra,
nên không được mô tả. Thình lình từ chương 12 mọi sự đều thay đổi. Chúng
ta bắt đầu được giới Thiệu một số nhân vật và trở thành quen biết với họ đến
độ cảm thấy có thể nhận ra họ nếu gặp họ ngoài đường.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các câu chuyện kỹ càng hơn, ta mới thấy sự việc
không đơn giản như mình nghĩ. Rất nhiều người đã thử viết lại tiểu sử của
các vị thánh tổ, điều đó chứng tỏ chúng ta biết rất ít về họ, và phần lớn
những chuyện đó chỉ là những tiểu thuyết hạng nhì đầy những mảnh chắp
vá. Rồi chúng ta lại quay sang nhà khảo cổ học, ông ta chiếu rọi ánh sáng
vào thời kỳ của các thánh tổ nhiều hơn bất cứ thời nào trong Cựu Ước,
nhưng những điều ông cho biết ít khi giúp chúng ta hiểu được câu chuyện
tường tận hơn. Trái lại, theo kinh nghiệm của tôi, nhiều sinh viên thấy khó
đem những sự kiện khảo cổ học vào cuộc sống, những sự kiện ấy rất thường
bị những người không chuyên nghiệm hiểu lầm và sử dụng sai.
Có một điểm tương đồng giữa những chuyện này và câu chuyện sáng tạo
trong SaSt 1:1-2, 3. Cả hai đều đơn giản đến độ thích hợp cho mọi lứa tuổi,
mọi nền văn hóa và mọi trình độ trí thức. Tất cả những gì có thể khiến ta xao
lãng khỏi ý nghĩa khải thị của các câu chuyện này đều bị loại bỏ. Đây là
những câu chụyện nói về liên hệ giữa con người và Đức Chúa Trời. Cách
viết lịch sử như thế ngày nay thường gọi là ''lịch sử cứu rỗi'', vì nó nhằm giới
Thiệu cho ta biết cách thức Đức Chúa Trời hành động để cứu nhân loại.
Trong phòng cao, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha về các môn đệ của
Ngài rằng:''Con không cầu Cha cất họ khỏi thế gian ... Họ không thuộc về
thế gian'' (GiGa 17:15, 16). Việc ''Ở trong'' nhưng không ''thuộc về'' này
không phải là một mặc khải mới mà chỉ làm sáng tỏ những điều hàm ẩn
trong Cựu Ước. Người nào đọc cẩn thận có thể thấy rõ điều đó trong câu
chuyện về các thánh tổ .
Bối Cảnh Của Sáng Thế Ký 12-50
Khi đọc những câu chuyện về các thánh tổ, có thể ta vẽ ra trong trí hình ảnh
họ di chuyển trong một vùng đất gần như trống trải, bởi vậy ta cần nên nhớ
rằng ''lúc ấy có người Ca-na-an và người Phê-rê-sít ở trong xứ '' (SaSt 13:7;
12:6). Họ chỉ là những kiều dân được dung nạp, bởi vậy họ phải theo những
đòi hỏi của những người ở nơi họ đến. Các nhà khảo cổ học cho chúng ta
biết rằng đó là thời kỳ thịnh vượng của các phong trào dân tộc, nhiều dân tộc
đã xuất hiện trên Vành Đai Phì Nhiêu, một vùng đất màu mỡ nằm giữa núi
và sa mạc, giữa biển và sa mạc, chạy từ Vịnh Ba Tư qua Irak, Syri đến biên
giới Ai Cập. Cuối cùng đã đưa đến kết quả là người Hyksos đã chinh phục
Ai Cập. Những phong trào đó chỉ để lại một dấu vết rất nhỏ trong 14:1-16,
làm bối cảnh cho câu chuyện Ap-ra-ham và Mên-chi-xê-đec. Hản nhiên là
các phong trào đó đã đóng góp vào việc hoàn tất mục đích của Đức Chúa
Trời, nhưng tự chúng không phải là thành phần của lịch sử cứu rỗi, nên
chúng ra không thấy nhắc đến.
Ngày nay chúng ta biết rằng người Hê-bơ-rơ cũng cùng là giống người Ha-
bi-ru được nhắc đến trong các bảng đá Ba-by-lon và A-sy-ri cũng như những
văn bản Ai-Cập. W.F.Albright lý luận rằng chữ Hê-bơ-rơ hay Ha-bi-ru vốn
có nghĩa là những người Hê-bơ-rơ trong 14:13. Điều đó có thể cắt nghĩa tại
sao thình lình ông có thể huy động một lúc được 318 người đã được huấn
luyện (14:14). Chắc họ là những người lái lừa cho ông. Trong thời kỳ chinh
chiến của bốn vua, nghề lữ hành phải đình chỉ, chắc Ap-ra-ham đã triệu tập
họ về bản doanh của ông ở Hếp-rôn. Không có bằng chứng nào về khảo cổ
học cho ta kết luận tương tự về các thánh tổ khác, nhưng dầu có đi nữa,
chúng ta cũng không thể hiểu họ nhiều hơn, cũng như nếu cho Ap-ra-ham
làm nghề lữ hành thì khó có thể thích hợp với những bài học ta cần học nơi
các câu chuyện về ông trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, ta cần lưu ý rằng,
những người lái lừa không giống những người lữ hành lạc đà về sau này, họ
chỉ là những người bán du mục, sống bên lề xã hội mà không trực thuộc vào
xã hội.
Con người phải sống trong xã hội và là thành phần của xã hội ấy, nhưng
trước hết họ phải sống trong tương giao với Đức Chúa Trời. Bởi vậy, trước
khi gặp xã hội Y-sơ-ra-ên do Đức Chúa Trời Thiết lập, chúng ta thấy hình
ảnh các vị thánh tổ trong tương giao với Đức Chúa Trời, một mối tương giao
mà Y-sơ-ra-ên và cả chúng ta đều cần phải có. Kinh Thánh tránh không đề
cập nhiều đến những giao Thiệp của các thánh tổ với những người khác, hầu
khỏi ngăn trở ta hiểu biết ở khía cạnh tâm linh.
Một dẫn chứng là ta thấy các thánh tổ là những mẫu người đức tin, những gì
không liên hệ đến mẫu người này đều bị dẹp bỏ hay đặt xuống hàng thứ yếu,
như 25:1-6 cho thấy. Các con cái của Kê-tu-ra không phải là con của lời hứa,
như Sa-ra đã từng hy vọng có một người con như vậy qua A-ga. Bởi vậy họ
không thể có chỗ đứng trong Kinh Thánh để khỏi làm gián đoạn câu chuyện
đức tin.
Chúng ta không cần phải có lời nào khác ngoài HeDt 11:1-40, để xác nhận
các thánh tổ là những anh hùng đức tin, nhưng chúng ta thường quên điều
đó, bởi vì chúng ta cố đặt một biểu tượng của Đức Chúa Cha, I-Sác và Giô-
sép là biểu tượng của Đức Chúa Con. Quản gia E-li-e-se là biểu tượng của
Đức Thánh Linh. Lối giải kinh như thế dầu có hấp dẫn đến đâu vẫn bế tắc, vì
không thể áp dụng câu chuyện một cách nhất quán hay chi tiết được. Những
người áp dụng lối giải kinh như thế đã quên đi nguyên tắc tương đồng. Cũng
như mỗi tín đồ Cơ Đốc từ thời Chúa đến nay đều có bày tỏ Ngài ra ít nhiều
trong cuộc sống, thì mọi người của Đức Chúa Trời trước thời của Ngài cũng
phác họa trước hình ảnh của Ngài ở một mức độ nào đó, và điều này rất
đúng đối với các vị thánh tổ trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên, dẫu chúng
ta có thể vạch ra những điểm tương đồng đáng yêu, chúng ta cũng không có
quyền nâng họ lên hàng tiêu biểu được Đức Chúa Trời qui định.
Cần phải có một quyển sách mới diễn giải được mọi bài học về đức tin trong
các chương này. Vì vậy chúng ta phải bằng lòng với những bài học nổi bật
của bốn nhân vật chủ yếu.
Ap-ra-ham
Dường như Kinh Thánh muốn cho chúng ta thấy tinh túy của đức tin trong
cuộc đời của Ap-ra-ham. Nhờ có Giô-suê (Gios Gs 24:2) chúng ta mới biết
được ông lớn lên trong một gia đình đa thần. Chúng ta biết rất ít về con
đường dẫn ông tới đức tin, vì rằng, dù có rất ít người nhận thức được điều
này, điều quan trọng không phải là chúng ta đến với đức tin cách nào mà là
chúng ta bước đi trong đức tin như thế nào.
Đức tin của Ap-ra-ham biểu lộ trong ba chiều hướng đặc biệt. Thứ nhất là
vâng phục. ''Người đi mà không biết mình đi đâu'' (HeDt 11:8). Chúng ta
hãy coi chừng đừng phóng đại. Nếu phần lớn cuộc đời của ông sống với
nghề lữ hành, thì nhìn vào bản đồ Cận Đông Cổ, chúng ta sẽ thấy ông đã biết
khá rõ phương hướng di chuyển của ông. Chúng ta chỉ không biết hành trình
ông chấm dứt ở đâu. Không có gì gợi ý rằng ông được gọi đến một nơi hoàn
toàn xa lạ đối với ông. Mãi đến Giô-sép ta mới thấy điều đó .
Thứ hai là niềm tin cậy nơi quyền năng giữ gìn của Đức Chúa Trời. Toàn thể
nền văn minh từ Vịnh Ba-Tư đến biên cương Ai Cập dựa vào những nhóm
định cư trong thành quách, mà Kinh Thánh gọi là ''thành phố ''. Cuộc đào bới
của cô Kenyon chỉ thấy tường thành Giê-ri-cô có từ năm 7000 TC, còn cư
dân ở đó có thể đã có từ cả ngàn năm trước ! Nói cách khác, truyền thống ở
vùng vành đai phì nhiêu xem phương pháp bảo vệ con người bằng thành phố
là chuyện đương nhiên. Nhưng Ap-ra-ham sẵn sàng sống trong các lều trại
ngoài đồng trống, hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Chúa Trời để được bảo vệ
khỏi người ác và thú dữ (11:9).
Yếu tố thứ ba trong đức tin của ông là sẵn lòng tin vào mục đích tương lai
của Đức Chúa Trời. Đến thời kỳ, cuộc di hành bền bỉ đã đạt đến đích, người
ở lều trại đã kinh nghiệm được bức tường Đức Chúa Trời bao bọc quanh
mình. Nhưng Ap-ra-ham phải đi vào mộ phần ở hang Mặc-bê-la với niềm tin
cậy rằng một ngày kia tấy cả các lừa hứa sẽ được thành tựu. Sự ra đời của Y-
sac chứng tỏ điều đó, và sự nhận lại Y-sac từ cõi chết, theo nghĩa bóng
(11:19), xác nhận rằng ông là dòng dõi lời hứa. Nhưng khi ông nằm xuống,
mắt ông vẫn trông chờ bình minh đến để mọi sự được ứng nghiệm.
Chúng ta cũng cần để ý những nhược điểm trong đức tin Ap-ra-ham. Chúng
ta không thấy nói lý do tại sao ông dừng chân tại Chan-ran (SaSt 11:31;
Cong Cv 7:4), vì không thể biết được, chúng ta cũng chẳng nên đoán mò, lại
càng không nên phê bình. Ông đã nghi ngờ sự bảo vệ của Đức Chúa Trời tại
Ai Cập (SaSt 12:10-20) và giữa vòng người Phi-li-tin (20:1-18). Ông đã
nghi ngờ phần nào lời hứa của Đức Chúa Trời khi lấy A-ga để sinh con thay
cho Sa-ra (16:1-4). Toàn thể khu vực văn minh từ Sumeria đến Ca-na-an
được cai trị bằng những luật lệ tuy có khác nhau về tiểu tiết, nhưng vẫn có
cùng một quan điểm về cuộc sống. Họ cũng có chung một nền văn minh,
cũng giống như những nước ở Tây Âu bên này bức màn sắt. Về tôn giáo
cũng có nhiều điểm tương đồng. Nhưng với Ai Cập và dân Phi-li-tin thì lại
khác, họ có một nền văn minh khác, văn hóa, tôn giáo khác nên rất xa lạ đối
với xứ Cannan. Nói cách khác, Ap-ra-ham không phải là người đầu tiên phải
lưỡng lự suy tính khi phải đối phó với một người lạ mặt. Cũng vậy, hành
động của Sa-ra đưa A-ga cho chồng để sinh con thay cho mình cũng là một
phần của truyền thống nơi Ap-ra-ham lớn lên, xem thêm 30:1-39. Đức tin
mà lưỡng lự trước hoàn cảnh xa lạ sẽ có nguy cơ buông xuôi mặc cho dòng
đời đưa đẩy.
Y-Sác
Có hai đặc điểm trong đời sống của Y-sác. Một là ông sẵn sàng làm một nạn
nhân hy sinh. Người trai trẻ đủ sức mang củi lên đồi để làm lễ Thiêu hiển
nhiên là đã có thể tránh thoát khỏi tay một ông già 120 tuổi muốn bắt chàng
làm của lễ hy sinh. Nếu đọc kỹ 22:1-24, bắt buộc ta phải tin rằng Y-sác đã
sẵn sàng chịu hy sinh cũng như Ap-ra-ham sẵn sàng dâng hi sinh.
Một đặc điểm nữa là ông sẵn sàng tiếp nối lối sống của cha mình. Ta không
nên xem điều đó như là đương nhiên. 24:10, 22-27 cho thấy rằng Re-bê-ca
sống ở Cha-ran hay một thành phố nào gần đó. Rất có thể bà đã giục chồng
đi tìm một mái nhà yên ấm, nhưng nếu có đi nữa, ông đã chẳng nghe, dầu
rằng dường như ông đã dừng lại tại Ghê-ra một thời gian. Có thể là ông
đóng trại bên trong tường thành (26:6-8), nhưng không ở trong nhà.
Thất bại lớn nhất của ông là một thất bại mà những con người đức tin
thường vấp phải, là tin rằng mình đã biết trọn vẹn ý chí của Đức Chúa Trời.
Dầu lời tiên tri cho Re-be-ca (25:23) Y-sác đã biết rất rõ, vậy mà Y-sác vẫn
để cho vóc dáng và sức mạnh của Ê-sau thuyết phục ông rằng Ê-sau mới là
kẻ được hưởng phước lành. Đức Chúa Trời đã hành động cách công bằng.
Nếu Gia-cốp được hưởng phước lành thì Ê-sau được hưởng quyền trưởng
nam. Nhưng vì Y-sác không chấp nhận lời tiên báo của Đức Chúa Trời nên
ông đã làm cho Ê-sau mất cả phước lành lẫn quyền trưởng nam.
Gia-Cốp
Chúng ta dễ phán xét Gia-cốp bằng những định kiến của anh ông (27:36).
Dầu Ê-sau nghĩ thể nào đi nữa, ông cũng đã mất quyền được chúc phước rồi
vì ông đã bán quyền trưởng nam trong một lúc không cân nhắc. Có lẽ bản
dịch hơi phóng đại lời nói của Ê-sau, câu ông nói về Gia-cốp có thể diễn ý
như sau: ''Đặt cho nó cái tên Đa mưu thật đúng quá, nó đã chẳng từng ăn đứt
tôi hai lần rồi sao ?''.
Dẫu chúng ta không ưa Gia-cốp đến đâu, ông vẫn xem là con người đức tin.
Ông biết và xem trọng những điều Đức Chúa Trời hứa với mình, nhưng thay
vì để cho Đức Trời thực hiện lời hứa theo cách của Ngài thì ông lại dùng
phương thuật bất kể tốt xấu để được những điều ông tin là của ông. Chính vì
vậy mà không thấy có lời nào lên án màn kịch mà Re-be-ca và Gia-cốp
đóng. Họ phải đối phó với một ông già ương ngạnh, cứ cho là mình làm
đúng theo ý Đức Chúa Trời. Khi ông thấy rằng Đức Chúa Trời đi ngược lại
những cố gắng của mình, lúc ấy ông mới xìu như một bong bóng bị xì
(27:33), và cứng rắn đối với lời khẩn cầu của Ê-sau.
Không có bằng chứng nào cho thấy là Gia-cốp xao lãng lòng tin nơi lời hứa
của Đức Chúa Trời, nhưng phải đợi đến khi ông vật lộn với Đức Chúa Trời
ông mới học biết rằng Đức Chúa Trời có những phương cách của Ngài để
hoàn thành lời hứa. Bản cũ dịch nghĩa của tên Y-sơ-ra-ên không được đúng
lắm. Nghĩa tên ấy là ''người vươn lên cùng Đức Chúa Trời'' hay ''Đức Chúa
Trời nỗ lực''. Ý sau này thích hợp hơn vì nó nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời
ử dũng chọn Gia-cốp và không chịu buông bỏ ông cho đến chừng Ngài hoàn
thành mục đích Ngài. Gia-cốp không phải là một nhân vật hấp dẫn, nhưng
con người cố thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời bằng sức lực và sự khôn
ngoan riêng của mình thì không bao giờ hấp dẫn người khác được. Ông tự
nhận xét về cuộc đời ông rằng: ''Những năm của đời tôi lấy làm ngắn ngủi
mà lại nhọc nhằn (47:9)
Giô-Sép
Giô-sép là một lời chứng cho RoRm 8:28 ''Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại
làm ích cho kẻ yên mến Đức Chúa Trời''. Nhiều người tín đồ thấy khó có thể
tin được điều đó. Ngoài Chúa Giê-xu ra, ta không thấy nơi nào có thể chứng
minh lẽ thật trên đầy đủ cho bằng cuộc đời Giô-sép. Chính Giô-sép cũng
hiểu điều đó. Ông nói với các anh rằng: ''Đừng sầu não và đừng tiếc chi về
điều các anh đã bán tôi đặng dẫn tôi đến xứ này, vì để giữ gìn mạng sống các
anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh ... Chẳng phải các
anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức Chúa Trời (SaSt 45:5, 8).
Có những đặc điểm khác nơi Giô-sép cần được chú ý. Chúng ta thường xem
chuyện Giô-sép được cất nhắc lên làm quản gia cho nhà Phô-ti-pha là
chuyện đương nhiên. Nhưng chúng ta quên một điều là muốn được như vậy
chẳng những phải biết tiếng Ai Cập mà lại còn phải biết đọc biết viết chữ Ai
Cập nữa. Điều này rất khó vì ít ai có thể có cơ hội học hỏi, nhưng khi Đức
Chúa Trời đã can Thiệp thì một kẻ nô lệ cũng có thể có cơ hội đó. Một trong
những khía cạnh quan trọng của đức tin là sẵn sàng nhìn thấy ý chí của Đức
Chúa Trời trong những cơ hội Ngài đưa lại cho chúng ta.
Có người tưởng tượng Giô-sép, vị thủ tướng của Ai-Cập và là cận thần của
Pha-ra-ôn, đi xuống vựa lúa chính bán lúa mì cho những ai đến mua. Ý ấy
thật buồn cười. Dĩ nhiên là ông có tuần hành các kho vựa để xem chừng
công việc của thuộc hạ để không ai làm giàu trên những nhu cầu của người
khác, nhưng không phải là tình cờ mà ông đến ngay chỗ anh em ông định
mua lúa. Người ngoại quốc muốn qua biên giới phải được phép từ thủ đô,
chúng ta có thể biết chắc mỗi ngày ông đều liếc qua danh sách người xin và
cuộc tuần tra đã đưa ông đến đúng chỗ đúng lúc. Nhưng tại sao Giô-sép
không tìm ra chỗ ở của cha ông từ trước kia ? Bề gì thì nguồn tin tức tình
báo của Ai Cập cũng ở trong tay ông mà. Chúng ta buộc phải cho là Giô-sép
biết rằng ông không thể không biết mà không hành động, mà hành động
chưa phải lúc là làm tan rã gia đình ông, vì Gia-cốp hẳn sẽ giận ghê gớm.
Ông cứ đợi cho đến thời điểm Chúa chọn cho sự sum họp của gia đình ông,
vì Đức Chúa Trời đã hứa như vậy; từ khi ông còn nhỏ Ngài đã ban ông hai
giấc mộng báo trước những việc xảy ra.
Cuối cùng chúng ta nhận thấy Giô-sép có đủ phú quí, vinh hoa và quyền thế
mà ít người của Đức Chúa Trời đạt được, và ông được hưởng như vậy suốt
đời. Nhưng ông không hề thay lòng đổi dạ như thường thấy nơi Các Vua
chúa. Đối với ông, những thứ đó không phải là cứu cánh, ông cũng chẳng
xem Ai Cập là quê hương của mình. Ông biết rằng mình là công cụ để Đức
Chúa Trời Thi hành kế hoạch của Ngài, kế hoạch đó sẽ hoàn tất ở một thời
đại khác, một xứ sở khác và ông muốn rằng ít nhất nắm xương tàn của ông
cũng sẽ được dự phần khi kế hoạch hoàn thành (50:24, 25).
Tân Ước không nhắc gì đến Giô-sép ngoại trừ trường hợp liên hệ đến lời trối
trăn của ông (HeDt 11:22), cũng không có nơi nào gợi ý rằng ông là tiêu
biểu cho Chúa Giê-xu. Là một trong những vị thánh khả kính nhất của Cựu
Ước, nơi ông có nhiều điểm dự tả về Chúa Giê-xu, nhưng đó lại là một
chuyện khác.
LUẬT PHÁP
Trong chương trước, chúng ta đã thấy dịch chữ 'Torah' và ngay cả chữ
'Nomos' trong Tân Ước bằng chữ luật pháp thì không được chỉnh lắm. Nghĩa
chính của “Torah” là giáo huấn. Lời cảnh giác này sẽ thấy rõ hơn, khi ta tìm
đến Ngũ kinh để học “luật pháp Môi se”. Nếu chúng ta dùng từ đó cho thật
sát, chúng ta sẽ không thấy có nó trong Kinh Thánh.
Luật pháp Môi se mà ta thường thấy trong Tân Ước là kết quả của nhiều thế
kỷ làm việc khởi đầu từ Ê-xơ-ra hoặc sớm hơn, và cứ tiếp tục mãi cho đến
khi hoàn thành bộ Talmud vào khoảng năm 550 T.C. Thật ra theo một
phương diện nào đó thì công v iệc vẫn cứ tiếp tục cho đến ngày nay. Người
Do Thái thường dựa vào những câu có tính cách thần học trong Kinh Thánh
được để lập ra những hệ thống thần học, họ quên rằng nếu Đức Chúa Trời
muốn, Ngài có thể làm công việc đó tốt hơn họ nhiều.
Luật Pháp Căn Bản
Luật pháp nguyên thủy ban cho dân Y-sơ-ra-ên khác xa luật pháp mà các đời
sau quan niệm. Trong chương trước, chúng ta thấy Y-sơ-ra-ên chấp nhận
những điều kiện giao ước của Đức Chúa Trời trước cả khi họ biết điều kiện
đó là gì (XuXh 19:3-8). Ba ngày sau, Đức Chúa Trời phán truyền Mười Điều
Răn cho cả dân sự (20:1-17) chỉ có những điều này là được Đức Chúa Trời
phán trực tiếp, còn lại những điều khác là qua trung gian của Môi se. Điều
này cho chúng ta kết luận rằng Mười Điều Răn chiếm một vị trí đặc bi ệt
trong việc bày tỏ ý chỉ Đức Chúa Trời.
Quyển sách Giao Ước (xem từ này trong 24:7) tiếp theo Mười Điều Răn
(20:22-23, 33) ban cho Môi se để truyền cho dân Y-sơ-ra-ên (20:19, 22) và
họ đã nhận (24:7) lúc ấy giao ước đã được lập cách long trọng.
Chúng ta cần nên biết rõ rằng Đức Chúa Trời không đẩy dân Ngài vào thế
bất lợi và ép buộc họ nhận mạnh lịnh này đến mạng lệnh khác một khi họ tỏ
Thiện chí sẵn sàng làm theo ý Ngài. Nếu chúng ta hiểu đúng Mười Điều Răn
và sách Giao Ước, trong đó có chứa đựng tất cả những gì Ngài đòi hỏi nơi
dânNgài, nếu đó là tương quan giao ước của Ngài. Nếu chúng ta suy gẫm về
sách Giao Ước cả những điều nói minh bạch hoặc hiểu ngầm, chác chắn
chúng ta phải đi đến kết luận rằng đó là lời bình luận diễn giải rộng cách Thi
hành Mười Điều Răn. Ta có thể nói rằng Mười Điều Răn chứa đựng những
nguyên tắc căn bản mà tâm tính cần phải có nếu muốn tương giao với Đức
Chúa Trời, phần còn lại bình luận và chỉ dẫn cách để tạo nên tâm tính đó.
Việc đặt hai bảng đá chớ không đặt sách Giao Ước trong hòm Thánh biểu
minh cho điều đó. Hòm Thánh được bao phủ bởi Ngôi Thi An hay Kapporet.
Các cánh Chê-ru-bin giương ra trên ngôi Thi ân, tượng trưng ngôi của Đức
Chúa Trời giữa dân ngài. Nếu quan niệm Đức Chúa Trời như đang ngự trên
ngôi, thì chân Ngài phải đặt trên ngôi Thi ân và như vậy hai bảng luật pháp
được bảo vệ. Nguyên tắc thì không thể thay đổi theo từng thế hệ. Nếu
nghiên cứu chi tiết sách Giao Ước chúng ta sẽ thấy rằng sách ấy dành cho
dân tộc sống trong một xã hội nông nghiệp khá thô sơ. Chính vì vậy mà các
vị tiên tri ít khi theo những kẻ chủ trương nghi lễ mà công kích những việc
vi phạm nghi thức luật pháp là cái mà Mười Điều Răn không quan tâm.
Các Bộ Luật Khác
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về bản chất và mục đích của ba bộ luật về
đời sống thường ngày.
Bộ luật trong 34:10-28 quá vắn tắt nên ở đây chúng ta có thể bỏ qua. Việc
chọn các điều răn dường như không có chủ đích đặc biệt nào. Chỉ trừ câu 13,
còn tất cả đều lặp lại trực tiếp hay ngụ ý về luật pháp đã được ban bố. Chúng
ta thấy câu 13 trong PhuDnl 7:5; 12:3 nhưng tội thờ bò vàng cũng đủ để giải
thích những điều ghi lại ở đây.
Bộ lụật kế tiếp theo niên biểu là luật về sự thánh khiết (LeLv 17:26) các học
giả hiện đại gọi như vậy vì thường lặp đi lặp lại câu: “Các ngươi hãy nên
thánh vì ta là thánh, Đức Giê hô va vạn quân phán vậy”. Rồi đến cuối thời
kỳ đồng vắng chúng ta có bộ luật Phục Truyền (PhuDnl 5:12-20) cũng đặt
Mười Điều Răn ở địa vị tôn quý.
Nếu chúng ta làm công việc tuy nhàm chán nhưng rất bổ ích là so sánh bộ
sách Giao Ước, Luật Thánh Khiết và Luật Phục Truyền với nhau, chúng ta
sẽ thấy sự khác biệt trong đó. Sách Giao ước phần lớn là luật thuần túy. Thật
vậy, tuy nó không được diễn đạt bằng những thuật ngữ pháp luật hiện đại,
nhưng đó là luật mà luật gia hiện đại có thể nhận biết và có thể viết lại bằng
những từ ngữ hiện đại. Hiển nhiên ta phải ngoại trừ những phước lành và rủa
sử làm thành một bộ phận trong những luật này, như trong XuXh 23:20-33.
Trong luật về sự thánh khiết chúng ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa Trời bày
tỏ ý muốn Ngài cho chúng ta dựa trên nền tảng của sự mặc khải về sự thánh
khiết của Ngài trong Lều Tạm. Đó không còn là luật pháp thuần túy nữa mà
là một phản ảnh của sự thánh khiết của Đức Chúa Trời trong dân Ngài.
Trong Phục Truyền lời tiêu biểu nhất có lẽ là: “Các ngươi là con cái Giê hô
va Đức Chúa Trời các người . Chớ ...” (PhuDnl 14:1). Phần luật trong quyển
sách gần giống như một bài giảng thực tế cho những kẻ đã có kinh nghiệm
sâu xa với Đức Chúa Trời chớ không phải chỉ lặp lại luật pháp như chúng ta
thường nghĩ, khi nghe đến cái tên rất phiến diện xuất phát từ tiếng Hy Lạp.
Nói cách khác mục đích giáo dục của Ngũ Kinh (Torah) hiển hiện trên các
trang giấy.
Vậy thì, đứng về mặt giáo dục thì sự hiện diện của ba bộ luật không có gì
đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, khi nhìn vào những luật lệ làm thành những bộ
đó, chúng ta gặp điều bất ngờ. Có một số lớn nằm riêng trong mỗi bộ luật,
trong khi chỉ có một số rất ít có mặt trong cả ba. Hơn nữa, không thể nào
dựa vào số lần các điều răn được nhắc đến mà sắp thứ tự quan trọng của điều
răn. Lạ hơn nữa là sách Giao Ước không tuyên bố đã hoàn tất. Có nhiều điều
nó không nhắc đến, chẳng hạn luật lệ về hôn nhân mà luật pháp nào cũng
phải có.
Luật Dân Vụ Và Luật Thiên Vụ
Người ta chia luật pháp thành hai loại, luật dân vụ và luật Thiên vụ. Điều
này giúp ta dễ hiểu vấn đề hơn. Như đã nói, hầu hết luật lệ đều thuộc về loại
mà các luật gia hiện đại đều nhìn nhận, mặc dù không hẳn họ đã đồng ý đem
nó vào một bộ luật. Đặc biệt là trong Phục Truyền, có những “hãy” và
“chớ”, hầu hết đều có tính chất khá sơ đẳng, phát xuất từ chỗ Y-sơ-ra-ên là
dân Đức Chúa Trời, như trong 22:5-8. Nhưng nói chung thì nó cũng có
chung một mô thức với những bộ luật xưa của Cận Đông Cổ. Nó cho người
ta biết rằng hễ một người làm gì dó thì sẽ bị phạt như thế này. Thường
thường nó đưa ra một hành động do một động lực nào hay trong một hoàn
cảnh nào đó rồi đưa ra một trừng phạt tương ứng. Những luật lệ này được
học giả gọi là Luật dân vụ vì nó đề cập đến từng vụ vi phạm.
Tuy nhiên, có những luật lệ khác rất xa lạ với dân luật bình thường. Sở dĩ
chúng ta không ngạc nhiên sửng sốt là vì chúng ta đã quá quen với chúng.
Đó là những đòi hỏi không có chừa một miễn trừ nào, và chỉ có một trừng
phạt chung cho mọi trường hợp. Chúng ta sẽ hiểu rõ tính chất của luật này
hơn nếu đơn cử một số luật quan trọng thuộc loại này.
Trên hết là Mười Điều Răn. Sự bàn cãi liên tục về cách hiểu các điều răn
nhất là những điều cấm trong bảng thứ hai, cũng đủ để chứng tỏ rằng chúng
khác lạ với cách suy nghĩ thông thường của chúng ta. Rồi lại có những vi
phạm mà hình phạt là “sẽ bị xử tử” (bản RSV), 'Chắc chắn sẽ bị xử tử' (ban
AV) tiếng Hêbơrơ là mut yamut, như trong XuXh 21:12; 21:15, 16, 17;
22:18; LeLv 20:10, 12; 24:16. Cuối cùng có một loạt những lời rủa sả
nghiêm trọng đối với một số hành động như trong PhuDnl 27:15-26.
Loại luật này các học giả thời nay gọi là luật Thiên sự. Nó chỉ dành riêng
cho dân Y-sơ-ra-ên và bắt nguồn từ mối quan hệ giữa họ với Đức Chúa Trời.
Những đòi hỏi có tính cách tuyệt đối như thế rất ít khi cộng đồng đem áp
dụng đối với cá nhân. Trong khi đọc Ngũ Kinh, ta có thể suy diễn rằng áp ra
ham đã mang theo một b ộ luật và qui tắc cư xử của vùng Mê-sô-bô-ta-mi,
dù đơn giản hơn những bộ luật như luật Hammurabi rất nhiều, nhưng cũng
cùng một loại với chúng. Y-sơ-ra-ên ở tại Ai Cập cũng đã tiếp tục sử dụng bộ
luật này của tổ tiên.
Tại si nai Đức Chúa Trời cho dân Ngài một loạt những đòi hỏi tuyệt đối.
Đức Chúa Trời xem đó là ý muốn của Ngài. Tuy nhiên, con người không
phải chỉ sống với một mình Đức Chúa Trời mà còn có những tương quan với
cuộc đời và xã hội. Bởi vậy, dường như là Đức Chúa Trời đã lấynhững luật
lệ truyền thống của dân Y-sơ-ra-ên quy định lại dưới ánh sáng của Mười
Điều Răn để tỏ cho họ th ấy họ phải định hình lại toàn thể nếp sống của họ
như thế nào. Nếu đúng như vậy thì Đức Chúa Trời không cần phải bao quát
mọi khía cạnh của cuộc sống, như về sau các Ra-bi cảm thấy bắt buộc phải
làm. Ngài đang dạy dỗ họ, và khi tiến từ sách Giao Ước qua Luật Thánh
Khiết rồi đến Phục Truyền, chúng ta có thể theo dấu những bước giáo huấn
của Ngài. Đa vít chỉ theo khuôn mẫu này khi ông lập luật trong ISa1Sm
30:24. Nó được nhắc đến trong Kinh Thánh cho thấy nó được Đức Thánh
lInh chứng nhận rằng ông đã nghĩ đúng. Sự dạy dỗ này được đưa xa hơn
trong bài giảng trên núi. Chúa chúng ta cũng lấy những nguyên tắc trên áp
dụng cho đời sống của những người có tâm tánh phù hợp với bức tranh vẽ ra
trong các phước lành.
Luật Nghi Lễ
Ngoài những bộ luật đã học còn có nhiều luật về nghi lễ. Nó không Thiếu
hẳn trong các bộ luật, nhưng giữ một vai trò rất nhỏ trong đó. Phần chính
của luật nghi lễ là XuXh 25:1-31:18; LeLv 1:1-16:34 và nhiều đoạn trong
Dân Số Ký.
Điều trước tiên ta cần để ý là luật nghi lễ được ban bố sau khi đã Thiết lập
giao ước. Hiển nhiên là dân Y-sơ-ra-ên cần phải có những nghi thức hiến tế
song song với dân luật của họ. Vì rằng Kinh Thánh không cho chúng ta biết
nó đến từ đâu và thành hình như th ế nào, cho nên chúng ta có quyền suy
đoán những điều mà chúng ta cho là có lý do vững vàng chắc, nhưng có lý
do vững chắc chưa hẳn đã chứng minh là suy đoán đúng. Đức Chúa Trời
dùng cái cũ để giao ước rồi ban cái mới. Rất có thể là cái mới, như trường
hợp của dân luật, là sự nám đúc lại cái cũ để nó có thể mang bài học của
Đức Chúa Trời.
Nếu nghi thức hiến tế và đền tạm chỉ được ban bố sau khi đã lập giao ưóc
xong , ắt nó có nghĩa rằng không phải nhờ có nghi thức đúng mới lập được
giao ước, mà nghi thức chỉ có ý nghĩa và sức mạnh nhờ giao ước.
Nói cách khác, luật nghi lễ về sự thờ phượng và hiến tế được lập ra không
phải để tạo thành giao ước, nhưng để duy trì giao ước sau khi giao ước đã
được Thiết lập. Một việc nữa xác nhận điều này, là ngày Đại lễ chuộc Tội
không được quy định ngay từ đầu, mà chỉ sau khi hai con trai của A rôn
phạm tội mới thấy cần Thiết lập ra(Lê 16: 1-3). Từ lâu người giảng đạo tinh
ý đã nhận thấy rằng họ có thể căn cứ vào sinh tế Lễ Vượt Qua để giảng về
thập tự giá một cách có hiệu lực, nhưng sứ điệp về các tế lễ trong Lê vi khó
hấp dẫn được người ta trừ ra những người đã tin, hay những người đã thông
thạo các tín lý Cơ đốc.
Đền tạm , sau này là Đền thờ, với các sinh tế trong đó, là một hiện thực
thuộc linh, nhưng hiện thực đó chỉ là cái bóng của những việc tốt lành hầu
đến. Máu bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi ; nó chỉ nó về sinh tế đời
đời là Chúa Cơ đốc, nhờ đó nó mới có giá trị. Tân Ước không nhấn mạnh
việc Chúa hòa mình với luật nghi lễ, dầu có nhiều chỗ cho thấy Ngài đã làm
vậy. Điều nổi bật là cách Ngài làm trọn luật đạo đức, vượt lên trên mọi chỉ
trích và lên án.
Những ai trong cuộc sống dã từng kinh nghiệm cái hiện thực nằm đằng sau
các nghi thức thể chế, sẽ thấy mình đang sống như Chúa đã sống. Họ sẽ giữ
nguyên tắc căn bản của luật pháp, không phải vì họ cảm thấy bắt buộc phải
làm vậy, mà là vị sự sống của Chúa Cơ đốc từ trong họ phát huy ra. Mười
Điều Răn diễn tả bản tính đạo đức của Đức Chúa Trời trong ngôn ngữ và
hoàn cảnh của con người. Cho nên hễ chúng ta không thực hiện được những
điều ấy nơi tâm linh chúng ta, là chúng ta đã chối bỏ danh phận con cái của
Đức Chúa Trời.
Nhà trước thuật sách Sa-mu-en chia quyển sách thành nhiều phần bằng
những khúc tóm tắt ngắn, xem ISa1Sm 7:15-17; 13:1; 14:49-52; IISa 2Sm
8:15-18; 20:23-26. Những phần đó cho ta thấy sách về Sa-mu-en (ISa1Sm
1:1-7:17) chế độ quân chủ (8:1-12:25), sách về Sau-lơ (13:1-14:52) sách về
Đa-vít làm Vua (15:1-35; IISa 2Sm 8:1-18) sách về con người Đa-vít (9:1-
20:26) và một phụ lục (21:1-24:25)
Trong sách về Sa-mu-en chúng ta thấy tôn giáo bại hoại đã ăn vào tận trung
tâm Y-sơ-ra-ên dưới hình thức thường thấy, là những hành vi đồi bại về nhục
dục. Khi người ta không còn kính trọng giới tư tế thì người ta cũng chẳng
kinh sở Đức Chúa Trời nữa. Việc đem hòm thánh vào trại quân Y-sơ-ra-ên
không phải là tiếng kêu cứu tuyệt vọng cuối cùng xin ơn Đức Chúa Trời, mà
là cố gắng ép buộc Đức Chúa Trời phải cứu lấy ngaiâNgì ngoài hòm thánh.
Dân tộc đã chịu một cuộc bại trận nhục nhã nhất lịch sử, hòm thánh bị cướp
mất, thánh đường tại Si-lô được lửa tẩy sạch (Gie Gr 7:12), nhưng danh dự
của Đức Chúa Trời không mảy may suy giảm vì Ngài đãỵ thắng các thần
Phi-li-tin khi sai dịch hạch đến trên họ và đã đáp ứng nhu cầu của Y-sơ-ra-ên
khi dấy Sa-mu-en lên, là người được sắp ngang hàng với Ap-ra-ham và Môi-
se, là một trong ba nhân vật lỗi lạc nhất Cựu Ước.
Dân chúng không tin Đức Chúa Trời có thể dấy lên một người thích hợp để
kế vị Sa-mu-en, vì vậy họ đòi cho được một vua để có thể bảo đảm sự kế tục
bằng cách truyền ngôi cho con. Sau-lơ có tất cả bề ngoài cần Thiết để làm
một ông vua lý tưởng, nhưng Kinh Thánh coi thường ông, chỉ dành có hai
chương để nói về cuộc trị vì của ông, mà cũng chẳng hề đá động đến tuổi tác
và thời gian trị vì đều làm bối cảnh cho câu chuyện Đa-vít. Sách Sử ký có
thái độ tương tự, chỉ kể lại cái chết của ông thôi.
Người viết đã khéo léo quân bình câu chuyện Đa-vít, hình ảnh vị vua thành
công với hình ảnh biđát của con người nơi ông, điều đó dạy cho ta bài học
rằng không có người nào đủ sức để đại diện Đức Chúa Trời như cách dân Y-
sơ-ra-ên kỳ vọng. Lòng tin cậy, khiêm nhường và ăn năn thành thật của ông
khiên ông được khen là có tấm lòng vẹn lành so với những kẻ kế vị ông,
nhưng Thi 51 là lời của Đa-vít phán xét về chính mình.
Các Vua
Sách Các Vua chạy suốt từ triều đình hào nhoáng lộng lẫy của Sa-lô-môn
cho đến lúc phóng thích vua tù Giê-hô-gia-kin khỏi ngục ở Ba-ly-lôn. Chúng
ta có thể khen ngợi Sa-lô-môn vì ông đã chọn sự khôn ngoan của ông chẳng
khác chi của dân tộc ở những xứ xung quanh (IVua 1V 4:29-31). Ông có của
cải vô số, nhưng ông nhờ cậy vào liên minh hôn nhân với công công chúa
Pha-ra-ôn để bảo vệ nó, bởi vậy một Pha-ra-ôn khác đã đến hoạt động hết
vào đời trị vì của vua kế vị ông (14:25, 26). Triều đình sống xa hoa, nhưng
dân chúng cảm thấy gánh nặng thuế khóa nặng hơn bao giờ hết, bởi ông đến
đời con ông đã mất hai phần ba di sản cha ông để lại cho ông. Sa -lô-môn
khôn ngoan, nhưng ông đã quên kính sợ Đức Chúa Trời và đã chạy theo các
thần khác.
Chúng ta khen ngợi Ê-xê-chia và Giô-si-a về những cải cách của họ, nhưng
tìm trong sách Ê-sai chúng ta chẳng thấy một lời nào khen Ê-sai-chia (để ý
sách Các Vua chỉ nói sơ lược về ông), còn Giê-rê-mi chỉ nói vắn tắt vài lời
kể lại công nghiệp của Giô-si-a. Nhân vật chính trong sách Các Vua không
phải là những vị vua trung thành, nhưng là những phát ngôn viên của Đức
Chúa Trời, các vị tiên tri. Chúng ta lại còn thấy sau Giô-sa-phát có A-cha-
xia, sau Ê-xê-chia có Ma-na-se, sau Giô-si-a có Giê-hô-gia-kim. Chẳng có
một cuộc cải cách thật sự nào mà chỉ là những cố gắng ngắn ngủi đắp đê
ngăn chặn điều ác, nhưng khi đê đã vỡ, nó còn làm cho sự hủy diệt cuối
cùng đến chắc chắn hơn.
Trong số các vị tiên tri có ghi lại sứ điệp cho chúng ta, Giê-rê-mi độc đáo ở
chỗ cuộc sống của ông đóng góp phần lớn vào sứ điệp này. Thật vậy, ông là
vị tiên tri duy nhất mà ta có thể viết ra một phần tiểu sử. Nơi ông, sứ điệp và
cuộc sống hòa trộn vào nhau, chỉ có Ô-sê mới đạt được phần nào điều đó.
Trước khi những gia đình quyền quý của các chi tộc miền bắc nhìn lại lần
cuối mảnh đất quê hương khi họ bị đoàn quân A-sy-ri dẫn đi, thì đã có nhiều
cá nhân và gia đình Y-sơ-ra-ên đem thân làm nô lệ nơi xứ người. Chỉ có
thường dân được để lại. Nhưng qua suốt những biến cố đó, công cuộc tế lễ
nơi đền thánh Giê-ru-sa-lem vẫn cứ tiếp tục không gián đoạn. Ngay cả khi
Ráp-sa-kê thốt ra những lới đe đọa bên ngòai tường thành Giê-ru-sa-lem
trong đời trị vì của Ê-xê-chia, ngay cả trong thời kỳ Ma-na-se bày la liệt các
thần tượng và bàn thờ trong khắp đền thờ, thì công cuộc tế lễ ở Giê-su-sa-
lem vẫn tiếp tục họat động. Dường như đó là điểm trung tâm, ổn cố, chắc
chắn duy nhất giữa mọi rối động của đời sống. Không lạ gì dân chúng dưới
sự thúc giục của các thầy tế và tiên tri, đã tìm cách thủ tiêu Giê-rê-mi khi
ông tiên báo về sự hủy diệt đền thờ (Gie Gr 26:1-19; 7:1-15)
Đọc Ca Thương chúng ta thấy nỗi sững sờ kinh ngạc vì thành Giê-ru-sa-lem
và đền thờ bị hủy phá. Giọng điệu bi ai não nề vọng ra từ những trang sách
là cái thước đo nỗi niềm đó. Bởi vậy, Đức Chúa Trời cần phải đưa ra một
mình chứng rằng bởi ân điển, con người có thể sống một cuộc đời tin cậy
khi mọi sự giúp đỡ và duy trì bên ngoài đều không còn nữa. Ngài đã làm
điều đó qua Giê-rê-mi.
Cuộc phán xét đang gần kề khiến cho những lời tiên tri của Giê-rê-mi càng
rõ rệt hơn những vị tiền bối của ông, nhưng nói chung trong lời tiên tri ít có
điều gì mới. Đồng thời cuộc cải cách hời hợt thời Giô-si-a đã đưa đến một
quan niệm có lẽ là sâu sắc nhất về sự ăn năn trong Cựu Ước. “Hãy cày mở
ruộng mới” (4:3) nghĩa là nếu chỉ quay về với quá khứ thì vẫn chưa đủ, mà
phải bắt đầu mới hoàn toàn.
Trong năm năm đầu đời trị vì của Giê-hô-gia-kim chúng ta thấy Giê-rê-mi
hết hoạn nạn này đến họan nạn khác. Trước hết ông bị dân chúng chống đối
những lời tiên tri và săn lùng mạng sống ông (26:1-19). Tiếp theo những
người đồng hương với ông ở A-na-tốt có sự tiếp tay của chính gia đình ông,
tìm cách giết ông (11:18-12:6). Ong bị nhục mạ bêu riết (15:10-18) cô đơn,
không vợ con (16:1-4), đã thế ông lại còn bị Đức Chúa Trời cấm không được
chia vui xẻ buồn với hàng xóm láng giềng (16:5-9). Có lẽ điều khiến ông tê
tái nhất là các nhà lãnh đạo tôn giáo nghe ông giảng chỉ để bới tìm lý do để
công kích ông (18:18-23). Rồi ông lại bị đánh đòn và bỏ tù (20:2) và bị từ
chối không cho vào đền thờ (36:5). Ong lại còn phải ttrốn chui nhủi để tránh
cơn thịnh nộ của vua Giê-hô-gia-kim (36:26). Có lúc ông hầu như suy sụp
hoàn toàn (20:7-18). Khi những đám mây họan nạn bủa vây Giê-hô-gia-kim,
Giê-rê-mi lại trở về vị trí cũ của ông (35:) mà ông không hề từ bỏ dù phải
đối diện với đói khát, tù tội, chết chóc (38:1-13). Đến cái tuổi mà người khác
đã về nghỉ hưu trí, ông vẫn cứ bám theo dân ông đi xuống Ai Cập, và theo
lời truyèn khẩu, ông đã chết tại đó.
Chúng ta phải giải thích lời hứa về giao ước mới dựa trên bối cảnh đó
(31:31-34). Giê-rê-mi là một trong những người trước Chúa Giê-xu đã làm
điều đó, ông đã kinh nghiệm được phước lành và năng lực trong khi chứng
minh rằng con người vẫn có thể bước đi theo đường lối của Đức Chúa Trời
dù bị tước đoạt hết mọi sự hỗ trợ của loài người. Nhân dân có thể tin vào lời
hứa vì ông đã làm cho nó ra hiện thực, và chắc chắn ông đã giúp cho nhiều
người chịu dựng nổi cuộc lưu đày.
Ê-xê-chi-ên
Giê-rê-mi nói tiên tri cho những kẻ sẽ đi đầy, Ê-xê-chi-ên nói cho những kẻ
đã ở đó.Công tác của ông là thuyết phục họ rằng họ ở trong nơi lưu đày là do
hành động ân sủng của Đức Chúa Trời .Đó không phải là hình phạt thảm
khốc mà là phương cách duy nhất Ngài có thể cứu họ khỏi cơn tai ương sắp
đổ xuống Giê-ru-sa-lem. Ong củng kể về quá khứ của Y-sơ-ra-ên bằng
những màu sắc đen tối hơn bất cứ nơi nào trong cựu ước . Cho đến ngày nay
cũng chưa có ai sẵng sàng nhìn nhận giá trị của những chương 16, 20, 23,
đầu chúng rất quan trọng để giúp ta hiểu được toàn bộ Cựu Ước. Quan điểm
cho rằng Kinh Thánh chứng tỏ con người khám phá và nhận thức về Đức
Chúa Trời cách tiệm tiến là căn cứ vào tư tưởng con người về sự tiến hóa
của vạn vật chớ không phải là căn cứ trên Kinh Thánh. Nhưng ngay trong số
những người nhận biết điều đó cũng có những kẻ nghĩ rằng Cựu Ước vẽ ra
một bức tranh tiến hóa. Thật ra bản án của Đức ChúaTrời về sự tàn phá Giê-
ru-sa-lem đã được Nê-bu-cát-nết-sa thực hiện phần đầu vàTitus thực hiện
phần sau.
Chính vì vậy mà ông đánh giá giao ước mới sâu sắc hơn Giê-rê-mi nhiều
(Exe Ed 36:24-27). Cũng vì lí do đó mà ông sắp đặt lại và xây dựng lại toàn
bộ chương trình phục hồi qua suốt các vị tiên tri trước . Luôn có những bước
bội đạo, phán xét, ăn năng, phục hồi. Giê-rê-mi làm sáng tỏ điểm con người
không thể đi đến chỗ ăn năn, còn Ê-xê-chi-en vạch ra thứ tự bội đạo, phán
xét, phục hồi và ăn năn, nhưng bước cuối cùng chỉ hoàn toàn dựa vào hành
động ân huệ của Đức Chúa Trời mà thôi.
Đối với những người quen nghĩ theo cách loài người thì họ thấy trình bày
như thế là vô lí, như một số người bình luận về quốc gia Y-sơ-ra-ên cho rằng
nó không phải là của Đức Chúa Trời vì không có sự ăn năn của người Do
Thái dọn đường. Điều đơn giản là nhiều khi Đức Chúa Trời hành động trái
với sự khôn ngoan của con người, và những ẩn ý của Ngài không thể bày tỏ
cho đến khi sự bất toàn của con người bị bóc trần.
Vì lí do đó mà khác với hầu hết các vị tiên tri, Ê-xê-chi-ên dành những
chương chót cho những ngày cuối cùng, những ngày của Đấng Thiên Sai.
Không có bằng chứng nào cho thấy những người trở về vào đời trị vì của
vua Sy-ru cho rằng họ đã làm ứng nghiệm các lời tiên tri của Ê-xê-chi-ên.
Vấn đề giải thích 40:1-48:35 có lẽ tự nó không có gì quan trọng lắm . Một số
người xem đó là bản đồ án vẽ đền thờ và sự thờ phượng trong đó, lúc Chúa
Cơ Đốc cai trị loài người cách hữu hình sau khi ngài tái lâm. Nhiều người
khác lại cho rằng giải thích như thế sẽ gây nhiều nan đề cho việc giải kinh và
cho lãnh vực thuộc linh, khó mà chấp nhận được, bởi vậy họ giải thích theo
lối biểu tượng cho rằng nó mặc khải chân lý mà tuyệt đỉnh là Giê-ru-sa-lem
mới trong KhKh 21:1-22:20. Cả hai trường hợp đều nhìn nhận rằng sự biến
cải con người dưới giao ước mới sẽ đưa đến kế hoạch và trật tự toàn bảo của
Đức Chúa Trời. Những người lưu dầy trở về không hề để ý đến những
chương đó chứng tỏ rằng họ không cho là những chương đó áp dụng cho họ.
Đầy Tớ Đức Giê-Hô-Va
Lý luận cho Ê-sai không phải là tác giả những chương EsIs 40:1-45:25 dầu
tỏ ra là yếu ớt hơn là người dùng nó vẫn tưởng ta vẫn có lợi nếu xét riêng sứ
điệp của những chương đó ở đây. (Chương 55-66 liên kết với chương 1-45
hay 40-45 tùy theo nội dung, vì vậy không cần phải xét riêng). Dù có nêu lý
do gì để bảo chương 40-45 không phải do một vị tiên tri thời lưu đày viết ra,
thì trong đó vẫn giả định đã có sự lưu đày hoặc do tổ phụ họ, mà cho những
người đang thật sự bị lưu đày.
Trong chương 40-48 chúng ta có hình ảnh của Giê-hô-va, Đấng tể trị vạn vật
sắp sửa thực hiện một cuộc xuất hành mới. Chúng ta thấy Ngài một đấng
kiểm soát Thiên nhiên và các vua đang hoàn thành các mục đích Ngài. Cuối
phần này cho thấy Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi ách đô hộ của Ba-by-lôn,
nhưng không thoát được ách tôi lỗi. Chương 49-55 nói về Y-sơ-ra-ên, đầy tớ
đuôi điếc của Chúa, có thể đươc giải thoát khỏi tội lỗi như thế nào. Như thế
chúng ta được đưa đến với vị đầy tớ thật, có tất cả những gì mà Y-sơ-ra-ên
đáng phải có mà không bao giờ có, làm tất cả những gì mà Y-sơ-ra-ên muốn
làm nhưng không làm được. Ngài là người Dân Sót mà số Dân Sót trước kia
chỉ về.
Lịch sử chứng tỏ rằng vào thời của chúa, chỉ có một số rất ít người Y-sơ-ra-
ên coi trọng lời mặc khải này, mà ngay những người đó cũng chưa lãnh hội
được ý nghĩa thật sự của nó. Trong đó có những yếu tố khiến con người
hoang mang trước khi Giê-xu người Na-xa-rét làm sáng tỏ và hoàn thành nó.
Đến ngày nay những người không chịu nhận Ngài là Đấng làm ứng nghiệm
nó cũng thấy khó hiểu nó. Trong những đoạn nói về những người đày tớ này,
chúng ta thấy kết hiệp cả những sắc thái của vị vua, vị tiên tri và vị thượng
tế nên nó chỉ về một người duy nhất mà thật sự gồm cả ba.
Các Vị Tiên Tri Sau Thời Lưu Đày
Sau khi lưu đày trở về chức vụ tiên tri chóng bị phai mờ vì nhiều lý do. Về
phía quần chúng , những tiên tri đã bị những tiên tri thật sự như Giê-rê-mi,
Ê-xê-chi-ên tố cáo, không còn được tin tưởng nữa khi thành Giê-ru-sa-lem
bị phá hủy. Những lời tuyên đoán lạc quan của họ đã đưa đến cuộc bi thảm
tai hại, chứng tỏ họ không hề đứng trong phòng hội của Đức Chúa Trời (Gie
Gr 23:18, 21, 22). Cao hơn một chút, nhân không còn thấy người tiên tri cần
Thiết nữa khi họ đã được biết luật pháp qua cuộc cải cách của Ê-xơ-ra
(NeNe 8:1-18). Tuy nhiên, trên hết, người tiên tri phải biến mất vì Đức Chúa
Trời không còn gì để mặc khải cho đến khi Đấng Hoàn Thành lời tiên tri
phải đến. Lời tiên tri của ba vị A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi bắc một nhịp cầu
giữa những lời tiên tri và bài giảng.
Chỉ đến phần cuối của sách A-ghê (AgKg 2:20-23) chúng ta mới thấy công
thức thường dùng cho lời tiên tri, “có lời Đức Giê-hô-va phán cho A-ghê”;
còn các chỗ khác (1:1, 3; 2:1, 10) thì dùng công thức bất thường “có lời Đức
Giê-hô-va phán bởi A-ghê”(cũng xem 1:12, 13). Trong một lĩnh vực mà
những diễn tả đều được chuẩn hóa thì sự thay đổi đó bao hàm một thay đổi
về thể loại sứ điệp. A-ghê đã dựa vào mặc khải của quá khứ để đem luận lý
Đức Thánh Linh đã dạy mà áp dụng cho hoàng cảnh lúc bấy giờ. Còn sứ
điệp truyền cho Xô-rô-ba-bên không rút ra từ quá khứ nên nó nằm trong địa
hạt của lời tiên tri bình thường.
Trong sáu chương đầu của Xa-cha-ri, chúng ta gặp một loại tiên tri mà người
ta gọi là khải huyền, đặc biệt liên kết với sách Đa-ni-ên và Khải-thị (11.)Thể
loai này ít được các vị tiên tri tiền bối của ông xử dụng. Nó ít chú ý tới tình
trạng thuộc linh của những người nghe đầu tiên cho bằng cách Đức Chúa
Trời thực hiện mục đích của Ngài trong tương lai. Nói cách khác, những
người sống sau thời kỳ lưu đày được kêu gọi hãy sống một cuộc đời tin cậy
vào những mục đích tương lai của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ ra. Lời tiên
tri đó khải minh bản tánh của Đức Chúa Trời ở mức độ cần Thiết hay có thể
thấu triệt được cho đến khi Đấng Khải Minh toàn hảo hiện đến. Ta cũng có
thể nói như vậy về nội dung chính của những chương khác trong sách, có lẽ
tác phẩm của một vị tiên tri vô danh thời bấy giờ.
Sách Ma-la-chi được dùng rộng rãi trên toà giảng trong một số cộng đồng
bởi vì sứ điệp của ông gần như là một loại bài giảng ngắn trong Cựu Uớc.
Nhà bình giải thời nay thấy mình chẳng cần làm gì hơn là giải thích một đôi
thành ngữ rải rác đây đó, nhấn mạnh quan điểm của vị tiên tri và áp dụng
cho hoàn cảnh thay đổi của thời nay.
Từ xưa đến nay chưa ai đặt vấn đề là tên Ma-la-chi vốn có nghĩa là”sứ giả
của ta” nên để nguyên như trong MaMl 1:1 hay nên xem như là một chức vị
mà vị tiên tri sử dụng. Dầu thế nào thì đó cũng không phải là một tên riêng.
Điều này tự nó là một dấu hiệu của thời kì chuyển tiếp từ vị trí tiên tri có
phẩm tính nổi bật đến những nhà truyền giảng vô danh hơn nhiều.
BỘ NĂM CUỐN
Trong Kinh Thánh Hê bơ rơ, sách Ketubim ( Thi Văn) có một nhóm sách
nhỏ gọi là Megillot, hay Những Cuốn Sách . Ngoài sách Thị Vịnh, đây là
phần duy nhất của sách Ketubim được đọc trong Giáo đường (synagogue) và
trong các lễ chính mỗi năm, như sách Nhã Ca hayBài ca của mọi bài ca, đọc
trong lễ Vượt qua, Ru tơ trong Lễ Ngũ Tuần, Ca Thương trong Lễ kiêng ăn
Tisha b'Ab, Truyền Đạo trong ngày đại lễ chuộc tội và Ê xơ tê trong lễ
Purim
Sách truyền đạo bàn về tính cách hư không của một sự khôn ngoan và nổ lực
của con người, đã được xét đến ở chương 9 liên hệ đến các sách khôn ngoan,
ở đây sẽ không đề cập đến các sách khôn ngoan, ở đây sẽ không đề cập đến
nữa. Ta thấy rõ sách đó rất thích hợp cho đạt lễ chuộc tội.
Sách Nhã Ca
Câu mở đầu không nhất Thiết ngụ ý Sa-lô-môn là tác giả . Nó chỉ xác nhận
có một liên hệ giữa bài thơ và vua Sa-lô-môn mà không chỉ rõ như thế nào .
Do đó trong sự giải thích sách này,chúng ta không phải bắt đầu từ một lý
thuyết nào về tác giả cả.
Các Ra-bi xưa thường giải thích sách này theo nghĩa hình bóng. Trong cuộc
hội nghị Ra-bi tại Jamnia ( năm 90 TC), Sở dĩ người ta nêu lên vấn đề tập
kinh ( connonicity) của nó là vì lúc ấy người ta dùng nhiều phần theo nghĩa
đen như là những bài ca trong đám tiệc hay có thể cả trong quán rượu nữa. Ít
lâu sau, những ai dùng theo cách đó đều bị rủa rả . Các Ra bi cho rằng đây là
hình bóng của tình yêu của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên , dầu
không thể dùng cách giải thích cố định trong tất cả các phần khác nhau.
Tân ước không có trích sách này, nhưng từ lúc đầu, các giáo phụ dùng nó
theo nghĩa bóng. Chỉ thấy có một người có tên tuổi giải thích theo nghĩa đen,
đó à Theodore ở Mopsuestia ( 350-428) . Có lẽ vì đó mà ông bị Giáo Hội kết
án sau khi ông qua đời. Theo quan điểm Cơ đốc, cô dâu chỉ Hội Thánh hay
Nữ Đồng Trinh Ma ri . Từ cuộc cải cách trở đi, càng ngày càng có nhiều
người giải thích cô dâu là cá nhân tín đồ hơn tập thể Hội Thánh.
Người ta không đồng ý với nhau về cách giải thích theo nghĩa bóng những
khúc sách khó nhất. Một vài người đến chổ cực đoan khôi hài. Nhưng nếu ai
chưa đọc quyển Union and Communlon ( Liên Hiệp và Hiệp Thông ) của
Hudson Tay lor thì đừng nên nghĩ tới chuyện bỏ cách giải thích theo nghĩa
bóng: Sách này minh giải những thực tại tâm linh phong phú theo chiều
hướng trên.
Tuy nhiên, có nhiều người cảm thấy lối giải hình bóng này không lột hết
được sự sinh động và say đắm của lời thơ . Vì vậy họ cho đó là một biểu
tượng. Nói cách khác, đó là một bài thơ trữ tình có thật trong dân gian,
nhưng nó mô tả một thứ tình yêu mà trong quyển Introduction to the Old
Testament, thẳng tay bác bỏ quan điểm đó. Trong Kinh Thánh không có nơi
nào dùng hình bóng đến một mức độ như vậy. Nhưng chỉ vào vài chổ đúng
nó trong Ê xê chi en cũng đủ cho ta tin rằng đó đúng là hình bóng.
Gần đây hơn, lối giải thích phổ thông nhất là cho rằng đó là một vở kịch.
Một số người thấy trong đó có hai nhân vật chính, Sa lô môn và cô dâu.
Người khác thì thấy ba nhân vật, Sa lô môn, cô dâu và người tình chăn chiên
mà cô rất trung thành dù có bao nhiêu quyến rũ của hoàng cung. Dầu rằng cả
hai lời giải thích đều thỏa đáng về phương diện tâm linh, nhưng chưa ai
chứng minh được rằng ngày xưa dân Y-sơ-ra-ên có những tuồng kịch như
vậy. Lý lẽ đó cũng đúng để bác bỏ ý kiến nói rằng nó phát xuất từ những vở
kịch thờ cúng của ngoại giáo.
Những giải thích hiện đại nhất thì cho rằng đó là một loại bài thơ về hôn
nhân. Nói cách khác , theo quan điểm này thì nó không diễn ta một tình yêu
lãng mạn, những diễn tả hạnh phúc của người vợ , người chồng trong niềm
vui và tình yêu mà Chúa ban cho họ. Nếu chúng ta thấy ngôn ngữ của nó
quá sống sượng, thì đó là tại sự sa đọa của thời đại chúng ta. Nếu chúng ta
cũng dùng nó theo nghĩa biểu tượng nữa , thì lối giải thích này có vẻ hợp lý
nhất. Đối với mọi tình trạng và mọi khía cạnh của đời sống con ngưòi. Kinh
Thánh đều có lời để nói. Như vậy ở đây ta có lời ca ngợi tình yêu hôn nhân
chân thật, thuần khiết, nhưng đừng quên rằng nó rút sức mạnh và ý nghĩa từ
một tình yêu sâu sắc và tinh khiết hơn mà nó dự tả.
Sách Ru Tơ
Chúng ta chẳng biết ai viết sách này và viết với mục đích gì. Một câu bình
luận như 4:7 chứng tỏ rằng một thời gian dài sau khi câu chuyện xảy ra nó
mới mang hình thức ta có hiện nay. Những nhà hình bóng học và biểu tượng
học cũng thấy nhiều điều có thể áp dụng lý thuyết họ ở đây, nhưng tôi không
khỏi có cảm tưởng họ phí thì giờ. Vẻ đẹp của câu chuyện đủ để biện minh
cho sự hiện diện của nó trong Kinh Thánh, và tình yêu trung thành tỏa ra
trong mọi ngõ ngách của câu chuyện có thể dùng một đồng hình (analogy)
của tình yêu trung thành ở khắp mọi nơi, dù cho đó là của Đức Chúa Trời
hay của con người.
Nó có một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh Hê bơ rơ, vì vào mọi thời, nó bảo
đảm cho người dân ngoại bang tìm được một chỗ trong dân của Đức Chúa
Trời. Đối với chúng ta cũng vậy, nó nói lên tính cách ngoại lệ cho những ai
“đến ẩn náu dưới cánh của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”
Sách Ca Thương
Lễ Tisha b'Ab, ngày kiêng ăn đen - còn Đại lễ chuộc Tội là ngày kiêng ăn
trắng, là ngày tưởng niệm sự hủy phá cả hai trong ngày đó đã quá rõ ý nghĩa
không cần phải bình luận thêm.
Quyển sách gồm có năm phiên khúc hay ca thương viết trong những năm
ngay sau khi đền thờ Giê-ru-sa-lem bị Nê-bu-cát-nết-sa hủy phá. Không có
lý do nào vững chắc để gán tất cả cho cùng một tác giả. Chỉ có một bài có
thể cho là của Giê-rê-mi, đó là bài thứ ba, và ngay cả ở đây giả thuyết cũng
bấp bênh. Các đầu đề trong các bản dịch tiêu chuẩn hiện nay đều dựa vào
truyền thống của bản Septuagint và bản Talmud, còn trong bản Hêbơrơ
không nói gì đến tác giả.
Lập luận chính để bác bỏ quyền tác giả của Giê-rê-mi là cảm tưởng sững sờ
và vô vọng bộc lộ trong sách ta khó có thể gán cho Giê-rê-mi vì ngay từ đầu
ông đã biết những điều đó phải xảy đến. Đặc điểm nổi bậc nhất của quyển
sách là bốn bài thơ làm theo thứ tự chữ cái ở đầu dòng, còn bài thứ năm có
hai mươi hai câu, theo số chữ cái của bộ mẫu tự Hê-bơ-rơ. Mục đích có lẽ là
giữ cho nỗi đau buồn của người viết tuôn đổ trong chừng mực, mà cũng có t
hể gợi ý là ở đây nỗi đau buồn được mô tả trọn vẹn từ A đến Z.
Dầu tác giả hay các tác giả đã biết rõ những lời giảng dạy của Giê-rê-mi, họ
mang tâm trạng của các môn đồ sau khi Chúa Giê xu bị đóng đinh. Trong
nỗi đau đớn vì mất mát họ quên đi lời hứa về sự phục hồi. Đức Chúa Trời
sẵn lòng chấp nhận cho con người dốc đổ nỗi sầu thảm trào dâng đương lúc
họ vẫn tiếp tục tin cậy Ngài, vì vậy Ngài đã để cho nỗi buồn ấy có chỗ bộc
lộ trong Kinh Thánh.
Ai trong chúng ta chưa từng trải một kinh nghiệm như vậy có thể mạnh dạn
tuyên bố rằng chúng ta cần phải vui mừng trong Chúa luôn luôn. Chúng ta
cho rằng những đám mây đau buồn có thể đậu lại trên những bậc thánh tinh
truyền nhất, khiến cho Chúa dường như xa hẳn ra. Lúc đó lời Ca Thương
mới chứng tỏ giá trị. Nó không đánh tan đám mây, nhưng bảo đảm với người
than khóc rằng Đức Chúa Trời thông cảm và chấp nhận nỗi đau buồn của họ.
Ê-Xơ-Tê
Đây là một quyển sách gây nhiều bàn cãi nhất trong Cựu Ước. Không lạ gì
nó không được nhắc tới trong Tân Ước, cũng không chắc là lễ Phurim có
thật hay không. Có lý do để tin rằng những nhà soạn bộ Qumran không chấp
nhận nó không có một mảnh nào của quyển sách tìm thấy trong các hang
động của Biển chết. Tuy nhiên, điều đó có thể hoàn toàn là do ngẫu nhiên.
Martin Luther khi nói về hai bộ Maccabees đã phát biểu rằng: 'Tôi kỵ quyển
sách này và quyển Ê-xơ-tê đến độ muốn đừng có chúng, vì mấy quyển đó
quá nặng tinh thần Do Thái và có nhiều điều bất xứng của ngoại giáo: 'Từ đó
có nhiều người phát biểu ý kiến tương tự. Điều đáng chú ý là trong cả quyển
sách không có chỗ nào nhắc đến danh Đức Chúa Trời , dầu câu “Bởi cách
khác” (EtEt 4:14) rõ ràng là chỉ về Ngài. Có nhắc đến sự kiêng ăn nhưng
không phải cầu nguyện (4:16). Mạc-đô-chê là một người đồng hóa, mang tên
ngoại giáo, Ê-xơ-tê cũng vậy. Ong rất sẵn sàng để cho cháu gái mình sống
trong hậu cung ngoại đạo, và đến giờ phút lâm nguy ông cũng sẵn sàng để
cho bà liều thân. Sự trả thù của người Do Thái là một hòn đá vấp phạm đối
với những người Cơ đốc hay suy nghĩ.
Trong Kinh Thánh chúng ta thường thấy ghi lại những sự việc xảy ra mà
không bình luận gì về cái đúng hoặc cái sai của sự việc đó. Sách Ê-xơ-tê là
một thí dụ điển hình về điều này. Chẳng có lời khen hay chê đối với một
nhân vật nào. Điều chúng ta mong mỏi học biết được là Đức Chúa Trời vẫn
giữ sự thành tín giao ước với dân Ngài, dù cho đại diện của họ lắm khi tỏ ra
bất xứng. Ngài hành động theo ân điển chứ không theo sự xứng đáng của
con người. Thật vậy, thái độ khinh mạn của Mạc-đô-chê đối với Ha man làm
nguy hại tánh mạng ông ta và cả dân tộc ông đã không phát xuất từ một
động cơ tinh thần chính đáng nào.
Đôi khi chúng ta thấy có người lý luận rằng một loạt sự việc ngẫu nhiên xảy
ra làm lật ngược ván cờ cho thấy rằng câu chuyện không thể nào có thật. Sự
thật lắm khi còn lạ hơn tiểu thuyết , và cái loạt sự kiện mà chúng ta gọi là
ngẫu nhiên đó cốt để chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời đương hành động mà
không cần sự giúp đỡ của con người.
Như vậy sách Ê-xơ-tê cũng có một vai trò trong toàn bộ mặc khải của Đức
Chúa Trời. Nó bảo đảm cho ta sự vững chắc của lời hứa, “Ta sẽ xây Hội
Thánh trên đá này, và các thế lực của sự chết chẳng thắng được nó”. Chúng
ta thường bỏ qua lịch sử Hội Thánh thời Trung cổ, là như đó là một thời kỳ
bội đạo thuần túy. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rất nhiều lần quyền năng
của Đức Chúa Trời hành động trong đó y như trong thời kỳ Mạc-đô-chê vậy.
Mặt khác, sách này cũng nhấn mạnh quyền năng Thánh Linh và sự tin cậy
đơn sơ của con người. Nhà vua đem lại phước hạnh và giải cứu cho dân.
Không phải vì vua được xức dầu mà là vì vua tìm kiếm ý chỉ Đức Chúa Trời
và làm theo. Chúng ta thấy các thầy tế lễ và người Lê vi là những người lãnh
đạo tinh thần, nhưng đó là khi nào Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng trên
họ. Nhà Sử-ký không phải là người chuộng nghi thức, nên trong sách này
nhà tiên tri giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Giu-đa hơn là trong sách Các
Vua.
Vậy Cựu Ước chấm dứt không phải với Ma la chi như ta thường nghĩ, mà
với câu chuyện một dân tộc phản loạn nhưng vẫn được Đức Chúa Trời
thương xót nắn đúc qua những cơ thể do Ngài chỉ định. Chúng ta thấy trái
đắng của tội lỗi trong cuộc lưu đày, nhưng cũng được thấy những tia sáng ló
dạng của một hừng đông mới. Ngày chưa đến vì Vị Vua của các vua chưa
hiện ra, nhưng đền thờ vẫn đứng đó như một biểu hiện cho ân huệ của Đức
Chúa Trời và sự thành tín với các lời hứa của Ngài.
Nếu Sy-ru đã làm công việc Đức Chúa Trời đã báo trước về ông, thì chắc
chắn đầy tớ Đức Giê-hô-va cũng sẽ đến đúng kỳ để hoàn tất công việc Đức
Chúa Trời tại Si-ôn.
So sánh Exo Er 2:1-70 với NeNe 7:6-73 là hai đoạn giống nhau, ta sẽ thấy
những chuyển hóa trong cả sách viết tên và con số. Điều này cho thấy những
người chép lại sách Sử-ký không cẩn thận đặc biệt như đối với các sách xưa
hơn. Bởi đó độc giả không nên tự gây khó khăn cho mình bằng cách cố dung
hòa những cái tên và con số trong này với Sa mu ên và Các Vua khi thấy
chúng không phù hợp nhau.
Phụ lục 1: HÌNH BÓNG HỌC, BIỂU TƯỢNG HỌC VÀ TƯƠNG ĐỒNG
HỌC
Hinh bóng học(allegory) có trước Cơ đốc Giáo nhiều. Nó đã được các Ra-bi
Do Thái và xử dụng, nhất là giữa vòng những người Do Thái ở Alexandria,
nhưng trước họ, người Hi Lạp cũng đã xử dụng, nhất là trong việc bình giải
tác phẩm Homer. Qua Hội Thánh Alexandria , hình bóng học đã bám rễ
vững chắc trong Cơ-đốc Giáo.
Origen ( 182-251 SC) xác định rằng Kinh Thánh có ba cấp bậc chân lý
(người ta thường thêm một bậc thứ tư nữa): (a) nghĩa đen, hay nghĩa xác
thịt; (b) nghĩa luân lý; (c) nghĩa tinh thần hay thuộc linh. Trong số đó chỉ có
nghĩa cuối cùng là thật sự giá trị đối với người thuộc linh. Dầu ông không
chối lẽ thật của hai nghĩa đầu, ông không cho chúng là thật sự có giá trị.
Cái dỡ của hình bóng học là ở chổ nó quay lưng khỏi chuyện tích hay sự dạy
dỗ của Kinh Thánh mà không để cho chúng nó trực tiếp với chúng ta. Thay
vào đó, nó chỉ nói lên những tư tưởng của nhà hình bóng học, những tư
tưởng ấy dù là cao quí đến đâu cũng không phải là của Đức Chúa Trời . Xin
đơn cử một ví dụ . Trong LuLc 10:3-37, Chúa kể câu chuyện về người Sa-
ma-ri nhơn lành, rõ ràng là dạy chúng ta về bổn phận đối với đồng loại.
Trong bàn tay của Augustine, nó trở thành câu chuyện A-đam lìa thành phố
Thiên đàng đi vào miền tử vong. Ma quỉ và Thiên sứ của ông lột hết sự bất
tử và thuyết ông phạm tội đưa ông đến bờ sự chết. Chức tế lễ về mục vụ của
Cựu ước không giúp gì ông được, những người Sa-ma-ri (nghĩa là người hộ
vệ, tức là Chúa) chế ngự tội lỗi ông, an ủi ông và khuyến khích ông làm việc
(dầu và rượu) . Con lừa là thể xác phàm nhân của Ngài . Cái quán là Hội
Thánh, người chủ quán là Sứ đồ Phao lô, hai đồng tiền là lời hứa về đời này
và đời sau. Về phương diện thần học thì tất cả những điều đó đúng, nhưng
nó chẳng dính líu gì đến điều Chúa muốn dạy dỗ cả.
GaGl 4:22-26 là một cách dùng hình bóng của Cựu Ước trong Tân ước.
Nhưng nên nhớ rằng sức mạnh của nó là ở trong chân lý của chuyện tích
Sáng Thế ký. Phao lô chỉ rút ra nguyên tắc tâm linh ở đằng sau những việc
thật sự xảy ra.
Biểu tượng học (typology) căn cứ vào niềm xác tín của Tân Ước cho rằng
một số nghi lễ và sự việc lịch sử trong Cựu ước đã được định đọat hay được
Đức Chúa Trời cai quản để chúng ta có thể chỉ về một thực tại lớn hơn sẽ
đến sau . Cách diễn giải của sách Hê bơ rơ về đền tạm, các sinh tế và chức tế
lễ là một thí dụ về loại dầu. Chuyện tích Giô na (Mat Mt 12:39, 40), người
Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng (ICo1Cr 10:1-11), việc vượt biển đỏ (12:1-2)
hay nước lụt thời Nô-ê (IPhi 1Pr 3:20-21) là những thí dụ về loại sau . Cách
dùng chuyện Mên-chi-xê-đéc trong HeDt 7:1-3 dựa vào cách Đức Thánh
Linh hướng dẫn viết ra câu chuyện trong Sáng Thế Ký
Khác với hình bóng học, biểu tượng học nhấn mạnh tính cách thật của
những sự việc nó dùng, đó là điều đáng khen, nếu được dùng cách vừa phải.
Tuy nhiên, chúng ta phải coi chừng đừng tìm kiếm biểu tượng ở những nơi
đó không có. Tốt nhất là nên giới hạn vào những phần nào mà Tân Ước
tuyên bố là đã được dùng như biểu tượng, nếu không sẽ có nguy cơ là không
còn biết đến ý nghĩa thật sự của nó nữa.
Tuy nhiên, những câu chuyện Cựu Ước được Tân Ước và những nhà bình
giải Cơ đốc dùng thông thường nhất dường như là theo nghĩa tương đồng
(analogy) chớ không theo nghĩa biểu tượng. Ý niệm căn bản của tương đồng
học là, vì Đức Chúa Trời đã tạo dựng mọi sự, nên có những tương đồng
trong sự tạo dựng ở một cấp bậc. Cũng vậy, điều ác tỏ ra bản chất bằng
nhiều cách giống nhau ở mọi trình độ nó xuất hiện. Điều này, biện chính cho
cách Chúa dùng dụ ngôn lấy từ những sự việc trong Thiên nhiên hay trong
sự cư xử bình thường của con người, hay dùng cuộc sống dưới giao ước cũ
để soi sáng cho những trình độ cao hơn của giao ước mới. Như vậy người tốt
dưới thời Cựu ước dự tả phần nào người toàn vẹn của Tân ước, rồi cộng
đồng Hội Thánh được xưng nghĩa là phản chiếu về Ngài. Chúng ta thường
dùng chuyện tích của các Thánh tổ theo nghĩa này.
Có một điều nguy hiểm nếu dùng tương đồng học cách cẩu thả . Mặc dầu tạo
vật của Đức Chúa trời phản chiếu Đấng Tạo dựng, nhưng Ngài cao hơn tạo
vật vô hạn. Chính vì vậy mà không có một nhân vật nào trong Kinh Thánh
tiêu biểu cho Đức Chúa Cha, và vì vậy mà chúng ta phải hết sức dè dặt khi
tìm kiếm biểu tượng cho Đức Chúa Con. Nếu chúng ta không hết sức cẩn
thận, những hình ảnh tương đồng sẽ đem cho ta những ý niệm sai lầm về
Đức Chúa Trời, và đó là cách người ta sẵn sàng để biện hộ cho những tội lỗi
nặng nề của Giáo hội .
(Ê-sai
Tiên tri sau (Giê-rê-mi
(Ê-xê-chi-ên
(Bộ Mười Hai
3. Bộ Ketubim(Thi Văn)
Thi Thiên
Châm Ngôn
Gióp
(Nhã Ca
(Ru-tơ
Megillot (Echah (Ca-thương)
(Qohelet(Truyền đạo)
(Ê-xơ-tê
Đa-ni-ên
Ê-xơ-ra / Nê-hê-mi
Sử-ký