You are on page 1of 110

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương mở đầu

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Mục đích yêu cầu.


- Sinh viên nhận thức được một số vấn đề cơ bản về đối tượng, phương
pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nắm được ý nghĩa của môn học, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng
một số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào việc học tập, nghiên
cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo.
1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1991.
2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992.
3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản,
1/1993
4. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991,
2011, 2016.

NỘI DUNG

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.


1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Khái niệm tư tưởng được hiểu là toàn bộ những quan điểm, quan niệm
đã phát triển thành hệ thống, được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất
định, nhằm lý giải các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người.
Các khái niệm “chủ nghĩa”, “tư tưởng”, “học thuyết” tuy nội hàm có
những điểm khác nhau, nhưng có ý nghĩa gần tương đồng nhau, nên trong
những trường hợp cụ thể, chúng có thể được dùng để thay thế cho nhau.
- Khái niệm nhà tư tưởng (quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin): Một
người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự phát của
quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược, sách
lược của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng
(Lênin).

1
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Như vậy: HCM là một nhà tư tưởng điển hình theo truyền thống lý luận
phương Đông và theo quan điểm của Lênin
+ Vấn đề Tư tưởng HCM chính thức được nêu ra tại đại hội VII ĐảNG
CộNG SảNVN, năm 1991 với nghị quyết: Đảng lấy CN MÁC - LÊNIN và
TTHCM làm nền tảng và kim chỉ nam hành động…
+ Sau đại hội VII của Đảng, việc nghiên cứu Tư tưởng HCM đã được
triển khai sâu rộng ở trong và ngoài nước
- Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về tư tưởng Hồ Chí
Minh được công bố, ta có thể khái quát thành 3 loại ý kiến sau:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện nước ta.
Loại ý kiến này nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, song như
giáo sư Trần Văn Giàu đánh giá: Nếu chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta
khó, thậm chí không thể làm cách mạng thành công.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là sức mạnh nội lực Việt Nam đã
dung hóa, Việt hóa tư tưởng văn hóa của nhân loại để thăng hoa lên thành những
sáng tạo mới mẻ. (loại ý kiến này nhấn mạnh yếu tố bản địa).
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu săc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là
sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người."
Từ những cách định nghĩa trên, ta có thể khái quát:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các luận điểm về cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên CNXH nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình thống nhất độc lập, dân chủ, giàu mạnh góp phần vào sự nghiệp cách
mạng thế giới.
Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH,
là không có gì quý hơn độc lập tự do.
Định nghĩa đã làm rõ các nội dung:
- Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là hệ
thống các luận điểm phản ánh những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng
Việt Nam.

2
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác
- Lênin, giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: Bao gồm những vấn đề liên
quan trực tiếp của cách mạng Việt Nam.
- Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí
Minh: soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
- Tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
- Tư tưởng về xây dựng một chế độ mới theo con đường XHCN.
- Tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người.
-…
2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng HCM.
a. Đối tượng nghiên cứu.
Là hệ thống các quan điểm lý luận được thể hiện trong các di sản của Hồ
Chí Minh và quá trình vận động hiện thực hoá các quan điểm lý luận đó trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Để nắm vững các vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
cần tìm hiểu thông qua:
+ Các “công trình” (tác phẩm, bài nói, bài viết) do Hồ Chí Minh để lại đã
được tập hợp trong bộ sách: Hồ Chí Minh, Toàn tập, 12 tập.
+ Tìm hiểu thông qua đường lối chính sách của Đảng ta được thể hiện
trong các văn kiện Đảng.
+ Tìm hiểu thông qua việc làm và cách làm của Hồ Chí Minh.
+ Tìm hiểu thông qua lời kể, những kỷ vật... của những người đã từng
sống, làm việc, sinh hoạt gần gũi với Hồ Chí Minh...
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của một quá trình tìm tòi, kế thừa có
chọn lọc tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Vì vậy, phải nắm vững
truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, phải tự nâng trình độ của
mình lên thì mới có thể nhận thức đúng và đầy đủ về tư tưởng của người.
- Cần lưu ý tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống “mở’’, nó đòi hỏi
chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, bổ sung và phát triển tư tưởng của
người, làm cho tư tưởng của Người đã và mãi mãi tỏa sáng.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

3
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm
trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình quán triệt và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua
các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư
tưởng, lý luận cách mạng thế giới.
3. Vị trí môn học (Sinh viên tự nghiên cứu)
Với đối tượng và nhiệm vụ đã xác định ở trên, bộ môn tư tưởng Hồ Chí
Minh có quan hệ chặt chẽ với Hồ Chí Minh học, các khoa học xã hội và
nhân văn, và đặc biệt là với các môn học lý luận chính trị.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, môn
tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, Muốn nghiên cứu, học tập tốt môn
này cần nắm vững môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một bộ phận tư tưởng nền tảng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng ta. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nắm vững kiến thức
về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.


1. Cơ sở phương pháp luận.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cần quán triệt các nguyên
tắc có tính phương pháp luận sau:
- Cơ sở phương pháp luận chung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - lênin mà chủ yếu thế giới
quan và phương pháp luậnduy vật biện chứng và duy vật lịch sử, voeis các quan
điểm:
+ Bảo đảm sự thống nhất tính Đảng và tính khoa học.
+ Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc Lý luận phải gắn với thực tiễn.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể.
+ Quan điểm toàn diện và hệ thống.
+ Quan điểm kế thừa và phát triển.
- Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm kinh điển với thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của Hồ Chí Minh.
2. Các phương pháp cụ thể.

4
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Phương pháp là cách thức đề cập đến hiện thực, cách thức nghiên cứu
các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Có thể khái quát: phương pháp là hệ
thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn xuất
phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận thức.
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài các vấn đề có tính phương
pháp luận chung cần chú ý một số phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp xuyên suốt trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là
kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgíc. Phương pháp lịch sử giúp
chúng ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy Hồ Chí Minh, ngược lại nếu
thiếu phương pháp lôgíc, chúng ta không thể tìm ra cái cốt lõi trong tư duy Hồ
Chí Minh và hướng phát triển mà tư duy Hồ Chí Minh đã đạt tới.
- Ngoài ra việc vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, phân
tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử...cũng là những
phương pháp cần thiết trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Việc học tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa:
- Là cơ sở để nhận thức sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác- lênin và đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị

Chương I
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Mục đích yêu cầu.


Sinh viên nhận thức được một số vấn đề cơ bản: Điều kiện lịch sử - xã
hội, nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nắm được ý nghĩa của môn học, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng
một số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào việc học tập, nghiên
cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo.
1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1991
2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992.
5
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học và thực tiễn, Cộng sản,
3/1992.
4. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản,
1/1993
5. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Các yếu tố con người, dân tộc, thời đại và sự nghiệp gắn bó chặt chẽ với
nhau. Con người, dân tộc, thời đại chi phối sự nghiệp của cá nhân. Sự nghiệp cá
nhân vừa là kết quả hoạt động của cá nhân, đồng thời là kết quả hoạt động của cả
dân tộc, của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện trong các điều kiện sau:
1. Cơ sở khách quan
a. Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu lịch sử xã hội Việt Nam trong thời gian hơn một thế kỷ có
rất nhiều vấn đề cần được xem xét kỹ. Trong giới hạn của phần này, chúng ta
cần nắm vững hai kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, cuối thế kỷ XIX, Việt nam bị thực dân Pháp xâm lược (1858
-1884), Việt Nam trở thành xứ thuộc địa nửa phong kiến với sự biến đổi căn
bản về giai cấp và tầng lớp xã hội.
Thứ hai, do sự bóc lột nặng nề của cả đế quốc và phong kiến, các phong
trào kháng chiến chống Pháp nổ ra ở khắp nơi, song do không nhận thức đúng
bản chất của kẻ thù, do bế tắc về đường lối nên tất cả các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta đều thất bại
Các phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tư tưởng phong kiến
(Phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế…) lần lượt thất bại chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước yêu cầu của thời đại mới.
Các phong trào đấu tranh dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và tiểu
tư sản (Phong trào của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học…) cũng lần lượt bị thất bại chứng tỏ cha ông ta vẫn chưa nhận thức đúng
bản chất của kẻ thù nên chưa thể xác định đúng con đường đi cho dân tộc.
Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng
đường lối cứu nước. Thực tiễn đặt ra vấn đề muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, cách mạng Việt Nam phải tìm ra một con đường mới.
- Quê hương và gia đình Hồ Chí Minh.
+ Quê hương (nghĩa hẹp), vùng Nghệ Tĩnh là vùng rất giàu truyền thống
yêu nước, cách mạng, truyền thống hiếu học. Điều này đã sớm hình thành tình
yêu quê hương đất nước, tinh thần ham hiểu biết, ý chí phấn đấu vươn lên ở Hồ
Chí Minh.

6
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hương ước của xã Kim liên quy định hai nhóm người được kính trọng
nhất là người cao tuổi và người có học. Trong 56 kỳ thi Hương, xã có 82 vị khoa
bảng, trong đó làng Kim Liên có 53, làng Hoàng Trù có 29 (tính từ 1635-1890).
+ Gia đình Hồ Chí Minh có đặc điểm đáng chú ý:
Gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình nhà nho yêu nước gần gũi với nhân
dân sống có trước có sau, có tình có nghĩa. Ý chí kiên cường, tư tưởng thương
dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị xã hội của cụ
Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của Nguyễn Tất
Thành.
Tuổi thơ của Bác có may mắn được đi khắp các vùng trong nước (5 tuổi
theo cha vào Huế, 15 tuổi đến Thái Bình, từ 1909-1911 đi tiếp vào phía Nam).
Người đã có dịp chứng kiến nhiều cảnh đau lòng, thấu hiểu nỗi thống khổ của
đồng bào mình... Trong đó, thời kỳ sống ở Huế (1895-1901;1906-1909) là thời
kỳ có ý nghĩa đặc biệt nhất, giúp Hồ Chí Minh hình thành cơ bản nhân cách của
mình.
+ Hồ Chí Minh có may mắn được học với những người thày giáo yêu
nước thương dân, có trình độ uyên bác (Bác học chữ Nho với các cụ Vương
Thúc Quý, Vương Thúc Oánh; học tiếng Pháp với ông Phạm Ngọc Thọ). Chính
từ những người thầy này mà trình độ hiểu biết, lòng yêu nước của Hồ Chí Minh
được nhân lên. Có thể khẳng định trước khi sang Pháp, trình độ học vấn, hiểu
biết xã hội của Hồ Chí Minh đã thuộc loại hiếm của xã hội lúc bấy giờ.
Những nhân tố trên đã tác động mạnh đến Hồ Chí Minh, để khi xuống
tàu sang Pháp là khác với cha, ông ta (dựa vào các tầng lớp trên của xã hội). Hồ
Chí Minh đã bắt đầu sự nghiệp của mình từ một người thợ (mặc dù Người xuất
thân trong một gia đình Phó bảng, bản thân là thầy giáo), điều này chứng tỏ
ngay từ đầu, con đường, phương pháp ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí
Minh đã rất khác so với những gì mà ông cha ta đã làm trước đó.
- Thời đại
Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh thế giới:
+ Chủ nghĩa MÁC - LÊNIN đã thâm nhập sâu rộng vào phong trào công
nhân và bước đầu có xu hướng thâm nhập vào các nước thuộc địa
+ CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn ĐQCN. Chính sách
xâm chiếm thuộc địa của các nước đế quốc đã khiến cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sư xâm
lược của nước khác, mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc
thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành dù chưa nhận thức được đặc
điểm của thời đại, song Anh đã thấy rõ được con đường cứu nước của các bậc
tiền bối là không phù hợp. Nguyễn Tất Thành đã vượt 3 đại dương, 4 châu lục,
đến khoảng gần 30 nước, làm nhiều nghề, trở thành đảng viên Đảng Xã hội
7
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Pháp, Người cùng những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi Bản Yêu sách
đến Hội nghị hòa bình tại Vécxây..., để rồi rút ra kết luận: Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình và chủ nghĩa tư bản,
đế quốc ở đâu cũng cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng
bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, Người khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.
Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (T1,
266)
+ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công mở đầu thời đại mới,
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
+ Quốc tế III được thành lập (3/1919). Đặc biệt, đến 7/1920, khi Báo L`
humanitê đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam.
Đêm kết thúc Đại hội Tua (30/12/1920) đánh dấu bước ngoặt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng mở ra bước chuyển biến cho bao thế hệ
người Việt Nam: từ người yêu nước trở thành người cộng sản
b. Những tiền đề tư tưởng lý luận
- Tư tưởng và văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho dân tộc ta
một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững. Cụ thể:
+ Truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành hạt nhân của truyền thống dân tộc và là
giá trị cao nhất chi phối mọi giá trị khác của dân tộc Việt Nam.
Đánh giá rất cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6, 171).
Giải thích về lý do Hồ Chí Minh tin và đi theo Quốc tế III, Người viết:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải CNCS đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ III”(T10, 128)
+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong
hoạn nạn, khó khăn.
+ Truyền thống lạc quan, yêu đời.

8
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo, ham học hỏi, luôn
mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa dân tộc là cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì
chính xuất phát từ truyền thống văn hóa của dân tộc, đặc biệt là khát vọng cứu
nước, giải phóng dân tộc, Hồ CHí Minh đã đi ra nước ngoài tìm đường cứu
nước; cũng trên cơ sở văn hóa truyền thống mà Hồ Chí Minh đã bắt gặp và tiếp
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam, Người luôn xuất phát từ điều kiện thực tiễn, từ văn hóa Việt Nam để kế
thừa và sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
- Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây
+ Tư tưởng văn hóa phương Đông
* Nho giáo:
Người quan niệm học Nho không phải để ra làm quan, mà Nho giáo là
một kinh nghiệm về đạo đức và cách ứng xử. Người sử dụng hầu như tất cả các
khái niệm, phạm trù đạo đức của Nho giáo.
Nho giáo có những mặt tích cực: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế,
hành đạo, giúp đời, mong muốn một xã hội bình trị (một xã hội không sợ thiếu
chỉ sợ không công bằng), tư tưởng trọng dân “dân vi quý xã tắc thứ chi quân vi
khinh”... đề cao văn hóa, lễ giáo, đã tạo nêna truyền thống hiếu học, tu thân
dưỡng tính... Nho giáo từng giữ vai trò là đường lối trị nước độc tôn trong các
triều đại phong kiến Việt Nam.
Nho giáo có hạn chế: phân chia xã hội thành đẳng cấp, yêu cầu sự phục
tùng tuyệt đối của kẻ dưới đối với người trên (tam cương), trọng nam khinh nữ,
coi khinh lao động chân tay.
* Phật giáo:
Bên cạnh mặt tiêu cực như thủ tiêu đấu tranh, chịu khuất phục trước kẻ
thù... Hồ Chí Minh nhận thấy Phật giáo cũng có những mặt tích cực, như tư
tưởng vị tha, từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân;
tinh thần dân chủ bình đẳng chất phác chống phân chia xã hội thành đẳng cấp
“Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”; chủ trương sống có đạo đức,
trong sạch, giản dị chăm làm điều thiện; đề cao lao động, chống lười biếng; chủ
trương sống gắn bó với dân với nước...Hồ Chí Minh rất coi trọng những giá trị
tích cực của Phật giáo, đặc biệt là những quan niệm về thiện – ác; chân, thiện,
mỹ và nhận rõ Phật giáo vào Việt Nam rất sớm, đồng hành với lịch sử dân tộc,
đã có thời kỳ trở thành quốc giáo.
* Lão giáo:
Lão giáo cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, nhân cách Hồ Chí
Minh. Những mặt tích cực của Lão giáo như con người cần phải biết sống hòa
hợp với tự nhiên, không tham lam vượt quá khả năng của mình... được Hồ Chí

9
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Minh rất coi trọng. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán quan điểm không
cần biết, không quan tâm, không dạy cho dân biết nhiều của Lão giáo.
Nếu tư tưởng Nho giáo và Phật giáo có ảnh hưởng khá lớn đế sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, thì tư tưởng Lão giáo lại có ảnh hưởng nhất định
đến sự hình thành lối sống của Người.
Với tư tưởng phương Đông cận đại, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí
Minh đánh giá: chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã tiếp cận đến con
đường cách mạng vô sản, tán thành mục tiêu của chủ nghĩa tam dân: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, nhưng chủ trương phải gắn
chúng với cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội dựa trên hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
+ Về văn hóa phương Tây:
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều
đến tư tưởng “tự do bình đẳng bác ái”, trong cách mạng tư sản Pháp và tư tưởng
tư sản nói chung. Người nói: khi tôi 13 tuổi, tôi đã nghe thấy các từ tự do, bình
đẳng, bác ái. Từ khi nghe, tôi luôn nghĩ và tìm cách ra đi xem ở nước ngoài,
người ta làm như thế nào. Tư tưởng tự do bình đẳng bác ái có sức hấp dẫn rất lớn
đối với HCM. Chính tư tưởng văn hóa tiến bộ của phương Tây đã chi phối sự lựa
chọn chí hướng cứu nước của HCM (tìm đường cứu nước phải đi phương Tây,
không đi các nước phương Đông).
Tuy nhiên khi sang Pháp, Hồ Chí Minh phát hiện những từ ngữ mỹ
miều đó cũng chỉ là những khẩu hiệu không hơn không kém.
Sau nhiều năm tìm đường cứu nước, Người cũng đã hấp thu được những
tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ
trong cuộc sống thực tiễn.
Có thể khẳng định rằng tinh hoa văn hóa nhân loại có ảnh hưởng rất lớn
đề sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc điểm ở Hồ Chí Minh là khi tiếp thu
văn hóa nhân loại, Người luôn nhận thúc được cả hai mặt ưu và nhược điểm,
luôn nâng niu, quý trọng và kế thừa ưu điểm trong các học thuyết của nhân loại.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin - Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa nhân loại, song
tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có được sự chuyển biến về chất, khi Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò quyết định sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì:
Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến
bộ của truyền thống dân tộc, tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống
tư tưởng của mình.
10
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận diện chính xác bản chất
của kẻ thù từ đó giúp Người vạch ra được đường lối cứu nước đúng đắn
Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận thức được quy luật vận
động của lịch sử và hàng loạt các vấn đề về phương pháp cách mạng.
+ Con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin có đặc điểm:
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc
chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Trong mười năm đầu bôn ba tìm đường cứu
nước, Người đã hoàn thiện cho mình một vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn thực
tiễn phong phú mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi nào có thể so sánh được.
Cái bản lĩnh đó đã giúp Hồ Chí Minh nâng cao khả năng độc lập, tự chủ,
sáng tạo khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không rơi vào sao
chép, giáo điều, mà biết tiếp thu, vận dụng có chọn lọc những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, từ nhu cầu thực tiễn của cách
mạng Việt Nam.
Phương pháp tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là nắm
cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương,
giải pháp, đối sách phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở chủ yếu nhất, chủ
nghĩa yêu nước là cội nguồn sâu xa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước có quan hệ mật thiết với nhau. Yêu nước
chân chính như Hồ Chí Minh, chắc chắn sẽ đưa Người đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, và khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thì Người là người
yêu nước chân chính nhất và chủ nghĩa yêu nước đã được nâng tầm về chất. Vì
vậy, ai phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phủ nhận tư tưởng Hồ Chí
Minh từ gốc.
Mặc dù Hồ Chí Minh không nói cụ thể về nguồn gốc hình thành tư tưởng
của mình, song ta có thể tham khảo một số nhận xét của chính Người, cũng như
của những người đã từng sống và làm việc với Hồ Chí Minh:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân, Cơ đốc
giáo có ưu điểm là lòng nhân ái, chủ nghĩa Mác - Lênin có ưu điểm là phép biện
chứng trong công việc, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
phù hợp với Việt Nam. Khổng Tử, Jesuis, Mác, Tôn Dật Tiên có ưu điểm chung
là nghĩ về nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Nếu như hôm nay còn
sống trên đời này, họ sẽ họp lại với nhau... Tôi, Hồ Chí Minh nguyện làm học trò
nhỏ của họ.

11
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Một học giả Pháp, chuyên gia nghiên cứu HCM đã viết: Ở Hồ Chí Minh,
mỗi người đều tìm thấy ở Người biểu hiện của một nhân vật cao quý nhất, bình
dị nhất và được kính yêu nhất... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh, với
sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác và
nhiệt tình cách mạng của Lênin.
2. Các nhân tố chủ quan (tài năng, nghị lực...của Hồ Chí Minh)
- Các nhân tố khách quan tác động đến mọi người sống trong cùng một
thời đại, nhưng mỗi người có thái độ, cách lý giải, biểu hiện khác nhau. Điều này
phụ thuộc hai yếu tố :
+ Sự hiểu biết, tầm văn hóa và trình độ nhận thức của mỗi người
+ Cái tâm của người đó với dân với nước.
- Các nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh được thể hiện:
+ Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo khả năng phê phán tinh tường sáng suốt
không để bị đánh lừa bởi cái vỏ hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản.
+ Khả năng hấp thụ, xử lý, chuyển hóa tri thức của nhân loại thành bản
lĩnh và năng lưc trí tuệ cá nhân và kinh nghiệm đấu tranh của bản thân phù hợp
với cốt cách người Á Đông, người Việt Nam, không thỏa hiệp vô nguyên tắc,
không làm biến chất tư tưởng gốc.
+ Sự khổ công học tập và khả năng đưa những tri thức thu nhận được vào
trong quần chúng nhân dân, trước hết là vào những lớp người tiên tiến nhất trong
dân tộc, thực hiện bước chuyển từ người đi tìm đường cứu nước trở thành người
dẫn đường. Ở Việt Nam có nhiều người đi tìm đường cứu nước, song chỉ có Hồ
Chí Minh sớm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn nhất và trở thành người dẫn
đường cho dân tộc ta.
+ Vốn sống và năng lực hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú
+ Tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sỹ cộng sản nhiệt
tình cách mạng, thương dân, tin tưởng vào nhân dân, sẵn sàng chịu đựng những
hi sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp” tư tưởng văn hóa cổ
kim đông tây. Trước hết, Hồ Chí Minh phải “gộp”, tức là tiếp thu lý luận của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, tinh hoa văn hóa Đông - Tây, nhưng nếu chỉ
“gộp” thôi thì chưa đủ, chưa có gì là của mình cả. Vấn đề là sau gộp, phải vượt
lên, nghĩa là phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lên.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HCM.
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được chia làm 5 giai đoạn:
1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước. ( trước
5/6/1911)

12
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mang tính quyết định đối
với việc hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp thu và hình thành cho mình
một vốn văn hóa Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, đồng thời chứng kiến nỗi thống khổ, tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng
bào mình, nhờ đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho mình một hướng đi, cách đi
đúng, vì vậy đã sớm thành công.
2. Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. (1911 -
30/12/1920)
- Tháng 7 năm 1911, Hồ Chí Minh đến Pháp. Người có điều kiện đi
nhiều nước làm nhiều nghề khác nhau..., những điều đó đã giúp Người nhận
thức được rằng, các khẩu hiệu tự do dân chủ do CNĐQ nêu ra chỉ là những
khẩu hiệu giả tạo, đồng thời khẳng định ở đâu cũng có hai hạng người, và
nguồn gốc của mọi khổ đau của nhân loại là ở các nước chính quốc. Các dân
tộc muốn được giải phóng, chỉ có thể dựa vào chính sức lực của mình.
Cuối năm 1917, từ nước Anh, Hồ Chí Minh trở lại Pháp. Người ủng hộ
nhiệt tình cách mạng Tháng Mười. Năm 1919, cùng một số người thuộc các dân
tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cùng một số người Việt Nam yêu nước ở Pháp soạn
thảo và gửi Bản Yêu sách đòi tự do dân chủ tới Hội nghị Vécxây, song các nước
thắng trận thế chiến thứ nhất đã hoàn toàn phớt lờ các đề nghị chính đáng của
Nguyễn Ái Quốc. 1
Đầu năm 1919, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp với lý do là
đảng duy nhất lúc đó ủng hộ thuộc địa.
- Hồ Chí Minh tiếp nhận Luận cương của Lênin (đăng trên báo “Nhân
đạo” số ra các ngày 16, 17/71920) và kể từ đây, con đường cứu nước của Hồ

1
“Bản yêu sách của nhân dân An Nam”: Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh
vực lý tưởng chuyển thành hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng lêng của các dân tộc
được thừa nhận thực sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông – Pháp xin trình
bày với quý chính phủ đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đang kính nói riêng
những yêu sách nhỏ sau đây:
1. Ân xá tất cả chính trị phạm người bản xứ. 2. Cải cách nền công lý Đông Dương bằng
cách ban cho người bản xứ cũng được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người
Âu châu, bãi bỏ hoàn toàn và triệt để các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và
áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. 3. Quyền tự do báo chí và tự do
ngôn luận. 4. Quyền tự do lập hội và hội họp. 5. Quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch nước
ngoài. 6. Quyền tự do giáo dục thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các
tỉnh cho người bản xứ. 7. Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 8. Đoàn đại
biểu thường trực của người bản xứ bầu ra tại nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết
được nguyện vọng của người bản xứ”
13
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chí Minh đã được xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
(1921 - 1930)
Một người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự
phát của quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược,
sách lược của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng
(Lênin).
Thông qua một loạt các cuộc tiếp xúc, các hoạt động xã hội phong phú
các cuộc hội thảo nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
tích lũy cho mình một số vốn tri thức cách mạng hết sức phong phú. Từng bước
hình thành ở Người tư tưởng đúng đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ
đó, lý luận chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa,
nửa phong kiến đã từng bước được hình thành.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể
hiện thông qua hàng loạt các bài viết, các tác phẩm và đặc biệt là thông qua các
văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... do Hồ Chí Minh soạn thảo
và được Hội nghị hợp nhất 3 Đảng Cộng sản ở Việt Nam thông qua ngày 3
tháng 2 năm 1930.
Từ khi trở thành đảng viên cộng sản, Người đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập chính đảng vô
sản ở Việt Nam như cho xuất bản Báo “Người cùng khổ” (1921), “Bản án chế
độ thực dân Pháp” (1925), “Tạp chí Thanh niên”(1925-1927), “Đường Kách
mệnh” (1927)... Từ ngày 3-7/2/1930, Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì Hội nghị
Thành lập Đảng, thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
4. Thời kỳ Hồ Chí Minh vượt qua thử thách, kiên định con đường đã xác định,
tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. (1930-1945).
- Những khó khăn thử thách đối với Hồ Chí Minh trong thời kỳ này:
+ Ngày 6/6/1931, Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng (số 186 phố Tam
Lung), thực dân Pháp rất mừng vì trước đó chúng đã kết án tử hình vắng mặt
Hồ Chí Minh. Đượ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và các cá nhân yêu
chuộng hoà bình, công lý, Hồ Chí Minh đã được tuyên bố vô tôi và Người đã
đến Mátxcơva an toàn.
+ Do bất đồng về quan điểm với khuynh hướng “tả” khuynh của Quốc tế
Cộng sản về đường lối cách mạng Việt Nam và cách mạng ở các nước thuộc
địa nói chung, sau khi đến Liên xô, Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản cử đi
học tại trường Quốc tế Lênin. Tốt nghiệp, Người được cử đi học tiếp lớp
nghiên cứu sinh về khoa học kinh tế và lịch sử.

14
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Ngày 6/6/1938, Hồ Chí Minh viết thư gửi Quốc tế Cộng sản xin về nước.
29/9/1938, Quốc tế Cộng sản quyết định Hồ Chí Minh thôi làm nghiên cứu sinh
và chuẩn bị cho Người về nước.
Vì sao có sự thay đổi này? vì hai nguyên nhân: qua thực tế ở Việt Nam
(Xô viết Nghệ Tĩnh) và phong trào quần chúng trên thế giới, chứng tỏ quan điểm
của Hồ Chí Minh là đúng. Hơn nữa, lúc này, phong trào cộng sản quốc tế phải
lựa chọn không phải là giữa dân chủ vô sản hay dân chủ tư sản mà là giữa chiến
tranh và hòa bình. Đường lối của Quốc tế Cộng sản thời kỳ này là đoàn kết tất cả
các lực lượng yêu chuộng hoà bình, chống chủ nghĩa phát xít.
- Trong thời kỳ này, đáng chú ý nhất đối với hoạt động của Hồ Chí Minh
chính là việc Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt,
Chương trình vắn tắt và Lời kêu gọi và trong thời gian ở Liên xô, Người đã giữ
vững được các nguyên tắc của mình, song cũng hết sức mềm dẻo, linh hoạt
trong xử trí các quan hệ quốc tế: đề xuất đúng mức, biết phục tùng, biết chờ
đợi.
5. Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xh. (1941-1969)
- Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8, đặt mục
tiêu độc lập dân tộc lên trên hết.
- Ngày 2/9/1945, thay mặt quốc dân đồng bào, Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn độc lập. Người được quốc dân đồng bào bầu làm Chủ tịch nước
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tư tưởng cách mạng và khoa
học của Người đã từng bước được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật.
- Xây dựng đường lối kháng chiến kiến quốc (1945-1954). Hàng loạt
những tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tư tưởng
quân sự, tư tưởng về Đảng cầm quyền... đã hình thành và phát triển.
- Lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh từ trần và để lại cho dân tộc ta bản Di
Chúc lịch sử cùng toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người.

*CÁC MỐC LỊCH SỬ LỚN LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN HCM

- 1909: Tham gia biểu tình với đồng bào Huế; rời Trường Quốc học Huế đi
về phương Nam.
- 1910: Giáo viên dạy tại trường Dục Thanh (Phan Thiết)
- 1911: Rời VN ra nước ngoài (5/6)
- 1912: Đến nước Mỹ (đầu 12/1912 – cuối năm 2013)

15
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- 1914 – 1917: Sống ở nước Anh; 1917 trở về Pháp


- 1919: Gia nhập Đảng Xã hội Pháp; Tham gia viết Bản Yêu sách của nhân
dân An Nam gửi Hội nghị Vécxay
- 1920: Đọc Luận cương Lênin (16, 17/7) Tham gia Đại hội XVIII Đảng Xã
hội Pháp; bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (30/12); Tham gia sáng lập Đảng CS
Pháp.
- 1921: Sáng lập Báo Người cùng khổ (le Paria); Thành Lập Hội Liên hiệp
thuộc địa
- 1923 (t.6): đến Nga, học Trường Phương đông- QTCS.
- 1924: tham dự Đại hội V QTCS; Đại hội quốc tế Nông dân; Quốc tế Công
hội Đỏ; đến Quảng Châu TQ (11/11)
- 1925: thành lập “Cộng sản đoàn”; Việt Nam thanh niên CM đ/c hội”; Viết
tác phẩm Đường kach mệnh”; tham gia thành lập Hội “Liên hiệp các dân tộc bị
áp bức ở Á Đông” (Liêu Trọng Khải (TQ):Hội trưởng, HCM: bí thư.
- 1928: đến Thái Lan;
- 1929 (cuối năm): quay lại TQ; tháng 10 bị thực dân pháp kết án tử hình
vắng mặt.
- 1930 (3/2 tức 6/1): tại Cửu Long, Hương Cảng TQ: Sáng lập ĐảNG
CộNG SảN Việt Nam.
- 1931: Bị bắt tại Hương cảng.
- 1932 (28/12): được trả tự do.
- 1933: Đến LX
- 1934: Học tại Trường Quốc tế Lênin.
- 1935: dự Đại hội VII QTCS.
- 1938 (cuối năm): rời Liên xô về TQ.
- 1941: (8/2) Về Việt Nam; Chủ trì Hội nghị BCHTW 8; thành lập Mặt trận
Việt Minh.
- 1945: Lãnh đạo cm/8 thành công; đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9) thành
lập nước VNDCCH và trở thành Chủ tịch nước.
- 1946 (19/12) ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- 1950: trực tiếp chỉ huy Chiến dịch Biên giới
- 1951: được bầu làm Chủ tịch Đảng.
- 1969 (2/9) Hồ Chí Minh từ trần.
- Hồ Chí Minh làm rất nhiều nghề khác nhau: dạy học, phụ bếp, thủy thủ,
nhà báo, nhà văn, …nghề chủ yếu nhất của Hồ Chí Minh là làm CM chuyên
nghiệp.

16
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Hồ Chí Minh biết nhiều ngoại ngữ: Trung, Pháp, Anh, Nga, Thái Lan…
phần lớn bằng con đường tự học. Ngoại ngữ đầu tiên Người được học trong nhà
trường là tiếng Trung Quốc.
- Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi: 178 (đã thống kê cho đến nay). Tên gọi
phổ biến nhất là NguyễnÁi Quốc, Hồ Chí Minh.
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1. Tư tưởng HCM soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.
- Tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu những giá trị văn hoá vĩnh cửu
của nhân loại, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một
cách linh hoạt, khoa học hiệu quả, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của
cách mạng Việt Nam và của thế giới hiện nay.
- Tư tưởng của Người đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá khứ và
hiện nay nó đã trở thành hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam.
Một cuộc cách mạng chỉ có thể thành công triệt để khi nó có một hệ thống
lý luận đúng đắn soi đường. Từ năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hệ
thống lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hóa, đất nước và con
người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn Việt Nam. Do đó,
tư tưởng của Người đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo có hiệu quả
đối với việc thực hiện những nhiệm vụ của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
Chính vì vậy, có nắm được tư tưởng Hồ Chí Minh mới hiểu được đường lối cách
mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết nhờ có chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời cũng là nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nâng cao nhận thức- tư tưởng, cải
tiến phương pháp và phong cách công tác... góp phần đưa công cuộc đổi mới đi
tới thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới.

17
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng của thời đại là hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi.
Người đã có những cống hiến xuất sắc trên hàng loạt các vấn đề lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách
mạng giải phóng dân tộc, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải
phóng…góp phần làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa M-Lênin.
- Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người
Cống hiến lớn nhất của HCM đối với thời đại là từ xác định con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định con đường cách mạng, một
hướng đi, một phương pháp thức tỉnh người dân các nước thuộc địa.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ từ rất sớm,
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, trên cơ sở đó, Người đã
hoạt động không mệt mỏi nhằm gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới, đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào phạm trù cách mạng vô sản. Rồi
chính từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: “…trong
thời đại ĐQCN, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản
và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và
đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống
nhất, với sự đồng tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của
phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân đó nhất định thắng lợi” (T9 – 315,
316)
- Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.
Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chủ tịch là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”;
“cuộc chiến đấu của Người là kim chỉ nam cho tất cả các cuộc đấu tranh”,
(Bumêđiên - Thủ tướng Angiêri), “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ
vũ đối với tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do” (Chủ tịch Ăng-go-la). Tuy
Người đã mất, nhưng “Tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi soi sáng cuộc
đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn áp bức bị đánh bại hoàn toàn”
(Tổng thống Tan-da-ni-a)…
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Phân tích các nhân tố góp phần hình thành tư tưởng HCM. Nhân tố
nào là quan trọng nhất, quyết định bản chất tư tưởng của Người? tại sao?
2. Tại sao nói tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam là cội nguồn của
tư tưởng Hồ Chí Minh?
3. Tại sao nói ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ phương Tây có ảnh hưởng
chi phối đến việc lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh?
4. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong những giai đoạn đó, giai đoạn nào tư tưởng Hồ Chí Minh có ý
nghĩa vạch đường đi cho cách mạng Việt Nam? Hãy chứng minh.
18
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương II

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC


VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (4)

Mục đích yêu cầu.


- Sinh viên nắm được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
- Những đóng góp cơ bản về lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc cũng như về cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời thấy được
yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1977.
(Các bài: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề

19
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

thuộc địa, Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản, Báo cáo của tiểu ban về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
3. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.

Nội dung

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ


CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.
Vấn đề dân tộc nói chung đã được chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập đến một
cách tương đối toàn diện. Chúng ta đã được nghiên cứu vấn đề này trong chương
trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc
được nói tới trong bài này, chủ yếu là vấn đề dân tộc thuộc địa, vấn đề giải phóng
các dân tộc thuộc địa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc được hình thành trên cơ sở:
- Tư tưởng và văn hoá truyền thống của dân tộc. (Xem chương 1)
- Lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin về vấn đề dân tộc nói chung, cuộc
Cách mạng tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địanói riêng.
Nội dung của Luận cương có thể tóm tắt ở một số điểm chính sau:
Thứ 1, con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất giải phóng
các dân tộc thuộc địa.
Thứ 2, chủ trương giải phóng toàn thể các dân tộc thuộc địa thoát khỏi
ách áp bức của CNĐQ và địa chủ phong kiến thực hiện quyền bình đẳng thực
sự giũa các dân tộc.
Thứ 3, trách nhiệm của các đảng cộng sản ở các nước chính quốc là phải
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và làm cho các phong trào này phát triển
theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ 4, trong Luận cương, Lênin cũng chỉ ra bộ mặt giả dối của chế độ
dân chủ tư sản về quyền bình đẳng nói chung, trong đó có quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, đồng thời Người cũng khẳng định để đảm bảo thắng lợi cho
cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa, các phong trào vô sản nói chung, cần có
sự thống nhất, sự liên minh của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới. Khẩu hiệu “vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới liên hợp lại” đã được Lênin chuẩn y.
+ Những luận điểm trong Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tìm ra được lời giải đáp cho cho các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã nhận ra sự gắn bó giữa dân tộc Việt Nam và
các dân tộc bị mất nước khác, đồng thời cũng giúp Người nhận thức mối quan

20
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và cách mạng vô sản ở Pháp,
cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc.
Thứ hai, con đường cứu nước duy nhất của dân tộc Việt Nam là cứu
nước theo con đường cách mạng vô sản; đồng minh của cách mạng Việt Nam là
giai cấp vô sản toàn thế giới.
Thực tế mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc ở nước Nga và chủ
trương của Lênin hủy bỏ mọi độc quyền của nước Nga đối với Trung Quốc,
Triều Tiên, Mông Cổ... sau năm 1917, đã chứng minh sự lựa chọn của Hồ Chí
Minh là đúng đắn.
- Các cuộc cách mạng và các phong trào giải phóng dân tộc và con đường
cứu nước của dân tộc ta và của một số nhân vật nổi tiếng ở châu Á.
+ Thời gian ở trong nước, Người đã tìm hiểu kỹ về các phong trào đấu
tranh cứu nước giải phóng dân tộc, đặc biệt là các phong trào do Phan Chu
Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh đòi độc
lập của các cụ. Song, theo Hồ Chí Minh, bằng những con đường đó, không thể
đi đến thành công được. Hồ Chí Minh nhận xét: Phan Bội Châu hy vọng vào sự
giúp đỡ của đế quốc Nhật để đánh Pháp là “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa
sau”; Phan Chu Trinh “xin xỏ thực dân Pháp rủ lòng thương” cũng không đòi
được độc lập dân tộc; cụ Hoàng Hoa Thám, thực tế hơn hai cụ Phan, song cụ
còn “nặng cốt cách phong kiến” vì vậy cũng không đòi độc lập được.
+ Trong thời gian tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khá
kỹ các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nga.
Về cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Bắc Mỹ, Hồ Chí Minh
nhận xét: người An Nam cần phải học tập nhân dân Bắc Mỹ đứng lên giành độc
lập. Song, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, cách mạng Bắc Mỹ thành công đã
hơn 150 năm, mà đời sống nhân dân lao động vẫn cực khổ, vẫn phải lo làm
cách mạng lần thứ hai. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, cách mạng Mỹ là cách mạng
tư sản, mà đã là cách mạng tư sản thì đó là cách mạng không triệt để, cách
mạng không đến nơi.
Về cách mạng tư sản Pháp 1789, giống như cách mạng Mỹ, là cuộc cách
mạng không đến nơi, mang danh là cộng hòa, dân chủ kỳ thực thì trong là bóc
lột công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa... cách mạng Việt Nam nên nhớ lấy
điều ấy.
Về cách mạng Tháng Mười Nga, Người viết: Trong thế giới bây giờ chỉ
cách mạng Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là người dân được
hưởng tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực sự.
+ Sau khi tìm được con đường cứu nước, Hồ Chí Minh quyết định trở về
phương Đông và Việt Nam. Người đã tiếp tục quan tâm nghiên cứu các phong
trào đấu tranh cứu nước của các dân tộc phương Đông, đặc biệt là các phong
trào đấu tranh của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Trung Quốc.

21
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Về cách mạng dân tộc dân chủ ở Thổ Nhĩ Kỳ (1920 - 1923). Người
nhân xét: cũng giống như tất cả các cuộc cách mạng tư sản, cuộc cách mạng
Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có lợi riêng cho một giai cấp, giai cấp tư sản.
Về cách mạng giải phóng dân tộc ở Ấn Độ chống thực dân Anh (phát
triển mạnh từ 1919 - 1922) do Đảng Quốc Đại của Ganđi lãnh đạo, Hồ Chí
Minh nhận thấy đường lối này không thể thực hiện độc lập hoàn toàn cho Ấn
Độ. Vì theo lập trường của giai cấp tư sản, không coi bạo lực là phương thức
đấu tranh giành chính quyền, lại mang nặng màu sắc tôn giáo. Người nhận xét:
Ganđi không phải là một nhà cách mạng, Ganđi chỉ là một nhà cải cách.
Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung
Quốc, do Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Người đặc biệt quan tâm
nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn. Người
đánh giá: chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn là “Gần
gũi” với Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
- Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:
+ Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, thành lập quốc
gia dân tộc độc lập.
+ Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định khi CNTB chuyển sang giai đoạn
ĐQCN, đã làm xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Khi bàn về vấn đề dân tộc
trong CNTB, Lênin đã nêu lên hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc:
+ Sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức
dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
+ Sự phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế
của CNTB.
Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay
gắt. CNTB và chủ nghĩa dân tộc tư sản không những không giải quyết được
vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
CMVS và CNXH mới giải quyết được mâu thuẫn giữa hai xu hướng nêu trên.
Lênin yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa xô vanh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.
a. Độc lập tự do là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
- Tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng.
Từ cách tiếp cận về quyền của con người trong Tuyên ngôn Độc lập 1776
của Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền

22
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền
và dân quyền của cách mạng Pháp, 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do bình đẳng về quyền lợi”. Trong chiến
tranh thế giới I, Tổng thống Mỹ Uynxơn đưa ra chương trình 14 điểm, điểm thứ
5 khẳng định quyền tự do của các dân tộc bị áp bức..., Hồ Chí Minh khẳng định
quyền tự do, bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Tư tưởng các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng ở Hồ Chí Minh được
thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết của Người và được thể hiện rõ nhất trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do” (T.4, tr.41). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, quyền dân tộc và
quyền con người phải thống nhất với nhau. Không chấp nhận quyền con người
đi ngược lại quyền dân tộc.

Các dân tộc muốn được tự do, bình đẳng thì không còn con đường nào
khác là phải tự đứng lên giành lấy độc lập tự do. Có thể khẳng định luận điểm
về quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới không chỉ có ý nghĩa
với cách mạng Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế; không chỉ mang tính thời
đại rộng lớn, mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
- Nội dung của độc lập dân tộc :
+ Quyền độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc, song nền độc lập phải là độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự. Hồ Chí
Minh nêu lên 2 tiêu chí của độc lập thật sự:
Thứ nhất, dân tộc đó phải có quyền quyết định trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Trong đó, trước hết và quan
trọng nhất là độc lập về chính trị. Năm 1948, Pháp lập chính phủ bù nhìn; năm
1949, Pháp đưa Bảo Đại về làm Quốc trưởng và tuyên bố Việt Nam đã có độc
lập, Hồ Chí Minh đã kịch liệt phản đối thứ độc lập giả hiệu đó.
Thứ hai, dân tộc đó phải được bình đẳng với các dân tộc khác. Quốc tế
không thể can thiệp vào công việc nội bộ của một nước nếu không có đại diện
chân chính của nước đó tham gia. Người khẳng định nhân dân Việt Nam hoan
nghênh mọi sự giúp đỡ của các nước khác, đồng thời phản đối mọi sự can thiệp
thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân.
Độc lập thực sự phải là nền độc lập mà mọi phần tử quốc dân đều được
hưởng thành quả của nó. Trong thư gửi ủy ban hành chính các cấp, Hồ Chí
Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì”.
Độc lập dân tộc thực sự, hoàn toàn là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí
Minh. Với tinh thần ấy, trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,

23
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh kêu gọi: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.. .
+ Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh giành và bảo vệ nền
độc lập, chủ quyền quốc gia; đồng thời Người cũng là hiện thân của khát vọng
hòa bình trong độc lập tự do. Trên cơ sở kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc,
Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng về những
giải pháp hòa bình tránh xung đột, tránh chiến tranh.
Với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp Việt - Pháp bằng con đường
hòa bình, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta chủ động ký Hiệp định sơ bộ 6-3, rồi
Người trực tiếp ký Tạm ước 14- 9 với Chính phủ Pháp.
Trong thư gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp ngày 7-1-1947, Hồ
Chí Minh khẳng định nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam là muốn
có hòa bình để kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người Pháp chân
chính. Người nói, chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận
độc lập và thống nhất của Việt Nam thì ngay lập tức chiến tranh sẽ chấm dứt,
hòa bình sẽ trở lại.
Cũng với tinh thần như vậy, trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn
ngày 15-2-1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha
với độc lập, tự do và hòa bình... Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược
Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt
xâm lược... Phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt
Nam ... phải để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình”.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.
- Quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản:
Học thuyết Mác là học thuyết về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
trên phạm vi toàn thế giới. Theo Mác, muốn lật đổ CNTB khi nó đã trở thành
một lực lương quốc tế thì phải làm cách mạng thế giới. Vì vậy, trong quan hệ
dân tộc và giai cấp, cả Mác và Ăngghen đều nhấn mạnh tới vấn đề giai cấp,
quan tâm nhiều hơn tới lợi ích của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, học thuyết Mác
không hề coi nhẹ vấn đề dân tộc, mà chỉ phê phán tinh thần dân tộc ích kỷ của
chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi mà đại biểu là các lãnh tụ của Quốc tế II.
V.I. Lênin, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn ưu tiên cho vấn đề giai
cấp. Ông cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản trong một nước phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản trên toàn thế giới.
Sau khi Lênin qua đời, Ban Lãnh đạo Quốc tế Cộng sản có xu hướng
tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc. Vì vậy mà không quan
tâm thích đáng đến chủ nghĩa yêu nước, tới tinh thần dân tộc chân chính của

24
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhân dân các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa
quốc gia dân tộc hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp.
+ Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa dân tộc với tư cách
là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Theo Người, những người cộng sản cần phải
nắm lấy ngọn cờ dân tộc trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột thực hiện
CNCS.
Năm 1924, trong Báo cáo về An Nam gửi Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn, một động lực vĩ đại, duy nhất
của người Việt Nam, nước Việt Nam”. Người yêu cầu Quốc tế Cộng sản ra
khẩu hiệu để thúc đẩy sự phát triển của “chủ nghĩa dân tộc bản xứ”, Người còn
cho rằng Quốc tế Cộng sản sẽ không giúp gì được người An Nam “nếu không
dựa vào chủ nghĩa dân tộc”; nếu dựa vào đó, nhất định cách mạng Việt Nam sẽ
thắng và “chủ nghĩa dân tộc sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Cũng
trong báo cáo đó, Hồ Chí Minh khẳng định CNCS đúng cả ở phương Đông lẫn
phương Tây, song Mác xây dựng triết lý của mình dựa trên lịch sử châu Âu, mà
châu Âu thì chưa phải là toàn thể nhân loại - đưa ra quan điểm trên vào năm
1924, chứng tỏ Hồ Chí Minh am hiểu rất sâu sắc về thuộc địa và trong bối cảnh
quốc tế lúc đó, Người cũng thể hiện một bản lĩnh chính trị rất vững vàng.
Chủ nghĩa dân tộc, theo quan điểm của HCM, khác với chủ nghĩa dân
tộc tư sản, đồng thời cũng trái ngược với chủ nghĩa dân tộc nước lớn hay tư
tưởng tự ti dân tộc. Với Người độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho
tất cả các dân tộc
+ Trong xử lý mối quan hệ dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải ưu tiên cho vấn đề dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết. Đây
là một trong những cống hiến về lý luận của Hồ Chí Minh đối với phong trào
cách mạng thế giới.
Người chỉ rõ:
Một là, cần phải kết hợp hài hòa hai vấn đề này với nhau trên cả bình
diện quốc tế cũng như từng quốc gia, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết,
trước hết. Cơ sở của vấn đề này, theo Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, trước những kẻ áp bức, quyền lợi của những người lao động là
thống nhất, gắn bó với nhau, đó là tự do bình đẳng, hòa bình ấm no hạnh phúc .
Thứ hai, đặt vấn đề dân tộc hay lợi ích dân tộc lên trên hết, theo Hồ Chí
Minh là không mâu thuẫn với việc kết hợp hài hòa giữa hai lợi ích này và cũng
hoàn toàn đúng tinh thần các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thứ ba, ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với CNĐQ và tay
sai, nổi trội hơn cả, do đó không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới
giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước phương Tây.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đây là mục tiêu
chiến lược của cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh xác định từ những năm

25
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

30, phản ánh rõ nhất, tập trung nhất sự kết hợp lợi ích dân tộc với lợi ích giai
cấp trong cách mạng Việt Nam nói chung, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng.
Có thể khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là luận điểm
trung tâm, xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đưa dân tộc
Việt Nam đi tới độc lập tự do và CNXH, trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, ở mọi thời kỳ, Hồ Chí Minh luôn gắn mục tiêu độc lập dân tộc với
CNXH, gắn đấu tranh giải phóng dân tộc với xây dựng và bảo vệ XHCN. Đai
hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định con đường đi cho
cách mạng Việt Nam đã được Hồ Chí Minh vạch ra từ những năm 30, tiến tới
thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh
Ba là, chỉ có giải phóng dân tộc, mới giải phóng được giai cấp, giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần của việc giải phóng giai cấp, và là tiền đề
của giải phóng giai cấp.
Với Hồ Chí Minh, quyền lợi dân tộc với quyền lợi giai cấp là thống nhất,
quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân
tộc cũng không thực hiện được. Vì vậy, đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh
công nhân, nông dân, trí thức là một chiến lược của cách mạng Việt Nam. Chủ
nghĩa dân tộc chính là một bộ phận của chủ nghĩa quốc tế vô sản .
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia dân
tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh là người yêu nước hết mực, đồng thời là người quốc tế
chân chính. Suốt cả cuộc đời, Người đấu tranh đòi độc lập dân tộc, hòa bình
cho Việt Nam và cho các dân tộc khác trên thế giới.
Trong những năm 20, đảng cộng sản ở nhiều nước chính quốc còn thờ ơ
trong việc thực hiện di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc, thuộc địa, Hồ Chí
Minh đã cố gắng khắc phục tình trạng này. Từ 1921 - 1923, Hồ Chí Minh đóng
vai trò chủ chốt trong việc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa; đồng
thời cũng giữ vai trò chủ chốt trong việc thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa
của Đảng Cộng sản Pháp; tuyên truyền giúp các dân tộc thuộc địa nhận thức sứ
mệnh tự giải phóng, đồng thời thức tỉnh giai cấp vô sản chính quốc về tình hình
thuộc địa, về quan hệ gắn bó giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở
chính quốc.
Người chủ trương, dân tộc Việt Nam mong muốn quan hệ hữu nghị, bình
đẳng, hợp tác cùng chung sống hòa bình với tất cả các dân tộc trên thế giới có
chế độ xã hội khác nhau, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ của mỗi dân tộc, các bên cùng có lợi.
Sau ngày nước Việt Nam độc lập ra đời, tháng 9 năm 1947, trả lời nhà
báo Mỹ S.Êli Mâys, Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước

26
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với
một ai”. Tháng 1-1950, Người lại khẳng định: “Căn cứ trên quyền lợi chung,
Chính phủ Việt Nam dân chủ công hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với
chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ
thế giới” (T.6, tr.8)
Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm mọi tranh chấp giữa các dân tộc,
cũng như mọi vấn đề quốc tế phải được giải quyết bằng thương lượng hòa bình;
quốc tế không thể bàn đến công việc của một nước mà không có đại diện chân
chính của nước đó và đại diện của các nước có liên quan.
Trong quan hệ với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm tới quan hệ với các dân tộc theo CNXH (Người coi đây là quan hệ anh
em); Người cũng rất chú trọng tới quan hệ với các nước láng giềng châu Á,
Người cho rằng số phận các dân tộc châu Á buộc chặt với nhau. Vì vậy “Việt
Nam và các nước châu Á phải cùng nhau quan tâm tới việc giữ gìn hòa bình, ổn
định, cùng có lợi. Nếu không có hòa bình, ổn định, không có nước nào ở châu
Á có thể phát triển được”.. .
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
a. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa.
- Hồ Chí Minh khẳng định sự phân hoá giai cấp ở các nước thuộc địa
phương Đông không giống như ở các nước phương Tây và nếu như ở phương
Tây, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản,
thì ở phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa thực dân.
Do đó, “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây” và
nếu như ở các nước TBCN phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các
nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chống chủ nghĩa thực dân và tay
sai phản động, giành độc lập dân tộc.
- Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa (mâu thuẫn dân tộc thuộc địa với các
nước đế quốc xâm lược) quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc. (Điều này được thể hiện rõ trong Chính
cương và Sách lược tóm tắt, trong Văn kiện Hội nghị TW 8)
b. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị thực dân,
giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc địa
chưa phải giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung
của toàn dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.

27
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Kiên trì mục tiêu này, Hồ Chí Minh đã cố gắng khắc phục những ảnh
hưởng của chủ nghĩa giáo điều, “tả” khuynh trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế những năm 20 và đầu những năm 30. Tại Hội nghị TW 8, quan
điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hoàn toàn được khẳng định:
“Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa
nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải
phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. (Văn kiện Đảng, T7, 2000, tr.118)
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo con
đường cách mạng vô sản
+ Nhận xét của Hồ Chí Minh về tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế
XIX đầu thế kỷ XX:
Thứ nhất, tình hình thế giới: hầu hết các nước trên các lục địa Á, Phi, Mỹ
la tinh đều trở thành thuộc địa, hoặc phụ thuộc vào CNĐQ. Chính sách xâm
chiếm thuộc địa của CNĐQ đã gây ra những hậu quả:
Tạo ra sự đối lập, bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại, sự đối
lập giữa các dân tộc bị áp bức, bóc lột với các dân tộc đi áp bức bóc lột, đồng
thời còn tạo ra mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, thông qua chính sách chia
rẽ, dùng người ở thuộc địa này đánh người ở thuộc địa kia.
Kìm hãm sự phát triển của các dân tộc thuộc địa, thậm chí làm cho nhiều
dân tộc bị diệt vong.
Thứ hai, ở Việt Nam, đến năm 1884, về cơ bản, Việt Nam hoàn toàn bị
Pháp chiếm đóng. Chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp cùng bọn địa
chủ phong kiến tay sai đã là nguyên nhân làm bùng nổ hàng loạt các phong trào
đấu tranh của nhân dân ta. Song, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn, tất
cả đều thất bại.
+ Hồ Chí Minh khảo sát rất kỹ các cuộc cách mạng và kinh nghiệm của
các phong trào đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc trên thế giới (xem phần
đầu) và khẳng định con đường đi của cách mạng Việt Nam: “chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ
có thể là sự nghiệp của CNCS và cách mạng thế giới”.
Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn
thảo khẳng định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” (T.3, tr.1).
Khi tổng kết chặng đường 20 năm cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
tiếp tục chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản“(T.9, tr.419).

28
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo
Với Hồ Chí Minh, muốn giải phóng dân tộc trước hết cần phải có Đảng
cách mạng... Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy
Để huy động sức mạnh của toàn dân, Hồ Chí Minh sắp xếp lực lượng
của toàn dân trên lập trường của giai cấp công nhân. (Cách sắp xếp lực lượng
cách mạng của Hồ Chí Minh khác hẳn cách sắp xếp lực lượng cách mạng của
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các bậc tiền bối khác, đồng thời cũng khác
với cách sắp xếp lực lượng cách mạng của Quốc tế Cộng sản ở những năm 20 -
30). Người khẳng định:
+ Trong thời đại mới, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất
lãnh đạo cách mạng Việt Nam - Chỉ có Đảng của GIAI CấPCN mới có đủ điều
kiện lãnh đạo cách mạng đi đến thành công: GIAI CấPCN là giai cấp tiên tiến
nhất, triệt để cách mạng nhất, họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ,
sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, có Đảng cộng sản vững mạnh, có những
đặc điểm riêng thuận lợi cho quá trình lãnh đạo cách mạng…

Trước các ý kiến cho rằng giai cấp công nhân Việt Nam số lượng còn
nhỏ bé, trình độ còn thấp kém, không thể lãnh đạo được, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Lãnh đạo được cách mạng hay không là do đặc tính cách mạng, chứ
không phải do số lượng nhiều hay ít”, “Đặc tính của giai cấp công nhân là kiên
quyết, triệt để, tập thể và có tính kỷ luật” và Người kết luận: về mọi mặt chính
trị, tư tưởng, tổ chức, hành động giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Để giai cấp công nhân đảm đương được sứ mệnh của mình, Hồ Chí
Minh yêu cầu cần không ngừng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần
yêu nước cho họ.
+ Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là “gốc”, là ”chủ” của cách
mạng, là “quân chủ lực của cách mạng” và sự liên minh của 2 giai cấp này là
“nền”, là “gốc”, là “cơ sở” chủ yếu của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giai cấp nông dân trong cách
mạng Việt Nam. Vì vậy, “giải phóng dân tộc thực chất là giải phóng giai cấp
nông dân”. Nếu giai cấp công nhân không “thu phục” được giai cấp nông dân
thì không thể nắm quyền lãnh đạo cách mạng và không thể đưa sự nghiệp cách
mạng đến thắng lợi được.
Hồ Chí Minh xếp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và cả tư sản dân tộc
là động lực của cách mạng. Theo Người, tính chất cách mạng nước ta là cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Giai cấp tư sản dân tộc cũng bị đế quốc, phong

29
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

kiến áp bức, bị ngăn trở phát triển; họ có tinh thân yêu nước, tinh thần dân chủ
và có thể đứng về phía cách mạng
HCM chỉ rõ: Cách mạng tức là các giai cấp tiến bộ đánh đổ giai cấp phản
tiến bộ, những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng tức là động lực cách
mạng.
- Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân tộc.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân DÂN TộC bị
áp bức.
Cơ sở lý luận của vấn đề này chính là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển lịch sử, về sự tự thân
phát triển, cách mạng mỗi nước phải do chính nhân dân nước đó tiến hành.
Hồ Chí Minh: cách mạng là sự nghiệp của quần cúng nhân dân, không
có gì lớn mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, có dân là có tất cả.
Năm 1921, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Người viết:
“Vận dụng câu nói của Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em” (T.2
tr.127-128).
Ngay từ những năm 20, Hồ Chí Minh đã nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu
cần giải quyết trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, cùng các thế lực phản
động khác. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc là của toàn dân, “nghĩa là sỹ,
nông, công, thương đều chống lại cường quyền”, giải phóng dân tộc là công
việc chung của dân chúng, của cả đồng bào ta.
Luận điểm trên được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Người đòi hỏi phải “đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta”; trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, Người yêu cầu
phải “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”. Việc vận động nhân dân,
xây dựng lực lượng trong nước là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên
cơ sở liên minh công nông.
Khái nịêm “đồng bào”, “toàn dân” được Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều.
Toàn dân, theo Hồ Chí Minh nghĩa là toàn thể “con Lạc cháu Hồng”, không phân
biệt địa vị, đảng phái, giàu, nghèo...
Với HCM, cách mạng là "Việc chung của cả dân chúng chứ không phải
việc riêng của một hai người" vì vậy phải đoàn kết toàn dân: "sĩ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong đó công nông là gốc, là
chủ của cách mạng.
Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân Việt Nam trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức
mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.

30
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở phải quán triệt quan điểm
giai cấp: công nông là gốc, là chủ của cách mạng. Và không khi nào được
nhượng dù một chút lợi ích của công nông để đi vào con đường thỏa hiệp
Người viết: "Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng
người ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi" (T.2, tr.266) và "trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút
lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp'' (T.3, tr.3)
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và thúc
đẩy sự phát triển của cách mạng chính quốc.
Đây là một trong những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với
phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
+ Quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I Lênin và Quốc tế Cộng sản
về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
C.Mác và Ph. Ăngghen do điều kiện lịch sử chưa cho phép, nên trong
thời đại của mình, các ông chưa đề cập đến cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy
nhiên, hai ông cũng cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù
của cách mạng vô sản và về lâu dài, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi trọn vẹn phải theo con đường cách mạng vô sản.
V.I Lênin phát triển các quan điểm của Mác trong điều kiện CNĐQ, đã
nhận thức rõ hơn về vai trò của thuộc địa đối với sự tồn tại của CNĐQ, về quan
hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc. Tuy nhiên, Lênin chưa
thấy được tính chủ động, sáng tạo của các dân tộc thuộc địa. Người cho rằng
cách mạng thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn, trực tiếp vào cách mạng vô sản ở
chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ thắng lợi, khi cách mạng vô sản
ở chính quốc thắng lợi.
Thực ra, cả Mác, Ăngghen và Lênin đều không coi thường vấn đề giải
phóng dân tộc, song do các ông phải tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và
thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp ở châu Âu nên chưa có điều kiện đi sâu
nghiên cứu về các phong trào dân tộc thuộc địa.
Quốc tế Cộng sản trong những năm 20 - 30, tiếp tục phát triển các quan
điểm của Lênin theo khuynh hướng “tả” khuynh, đặc biệt chú trọng đến cách
mạng chính quốc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc, là hậu bị quân của cách mạng chính quốc, đặt lợi ích của đấu tranh
giải phóng dân tộc dưới lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp.
Tuyên ngôn Thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 viết: "Công nhân và
nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan, mà cả Ba Tư hay Ácmênia
chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật
đổ được Lôiit Gioógiơ và Clêmangxô, giành chính quyền nhà nước vào tay

31
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

mình". Những Luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1/9/28) cũng
khẳng định: "Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa
khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến".
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, phụ thuộc.
Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã phân tích, phê phán
các quan điểm “tả” khuynh của Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản ở một
số nước chính quốc là không thấy được tầm quan trọng của thuộc địa đối với
sự tồn tại của CNĐQ, vì vậy cũng không thấy được vai trò to lớn của cách
mạng giải phóng dân tộc đối với phong trào cách mạng thế giới.
Nguời nhấn mạnh, trong khi thờ ơ, không hiểu thuộc địa, họ lại giáo điều
cho rằng ở thuộc địa, công nghiệp nhỏ bé, giai cấp công nhân chưa phát triển,
trình độ lý luận thấp kém, không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin ..., nên không thể
làm cách mạng thắng lợi được.
Với tư cách là người hiểu sâu sắc về thuộc địa, về chủ nghĩa thực dân và
về sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Thứ nhất, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ mật
thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là CNĐQ.
Người dùng hình tượng con đỉa hai vòi, cùng hàng loạt các bằng chứng
xác thực khác để chỉ rõ hiện tượng này. Theo Người, muốn giết được con đỉa đó
thì phải đồng thời cắt bỏ cả hai cái vòi của nó.
Thứ hai, khi được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, được
đảng cộng sản lãnh đạo thì tính chủ động, tích cực của nhân dân các nước thuộc
địa có thể phát triển chưa từng thấy họ có thể vùng lên tự giải phóng trước khi
cách mạng chính quốc nổ ra và giành thắng lợi đồng thờì thúc đẩy trở lại đối
với cách mạng chính quốc.
Thứ ba, khi phân tích vai trò của thuộc địa với CNĐQ và sức mạnh to
lớn của nhân dân các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã khẳng định “nọc độc”
chủ yếu của các nước đế quốc nằm ở thuộc địa và nhân dân các nước thuộc địa
tiềm ẩn một sức mạnh hết to lớn khi được giác ngộ.
Chính vì vậy, ngay từ năm 1924, Người đã khẳng định: "Cách mạng
thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc
mà có thể giành thắng lợi trước" (T2, tr.128) và "Trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của CNTB là CNĐQ, họ có thể giúp đỡ những người
anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn" (T1, tr.36).
Hồ Chí Minh thấy được vấn đề này từ rất sớm và kiên trì luận điểm này,
mặc dù, có lúc vì nó, mà Người đã gặp không ít khó khăn. Giải thích về nguồn
gốc sức mạnh của nhân dân các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh: “Người Đông
Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng
32
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và
sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ... Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét
và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo
hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (T.1, tr.28).
+ Luận điểm trên của Hồ Chí Minh là một sự sáng tạo to lớn. Nó là cơ sở
cho mọi hoạt động sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
đồng thời cũng là cơ sở lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc trên thế giới phát triển.
- Cáh mạng giải phóng dân tộccần được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực.
+ Hồ Chí Minh kế thừa lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác
- Lênin trong đó có lý luận về việc giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng.
Trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bạo lực được coi là “bà đỡ” cho
một xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác không phủ nhận khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình,
song coi đó là khả năng rất hiếm và rất quý.
+ Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa không thể
thành công triệt để nếu không sử dụng tới bạo lực. Bởi vì ở đây sự tàn bạo của
CNĐQ đã đạt tới mức cao nhất, chúng không từ bỏ một thủ đoạn nào, kể cả
việc dìm các phong trào đấu tranh tay không của nhân dân thuộc địa trong biển
máu.
Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh cũng khác với tư tưởng
cách mạng bạo lực của một số nước, một số phong trào cách mạng ở trong
nước như tư tưởng “nòng súng đẻ ra chính quyền”, tư tưởng khủng bố, ám sát
cá nhân, tư tưởng say mê bạo lực vũ trang... Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực
cách mạng ở Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân
sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân. Cách mạng bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để “chống lại bạo
lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” dưới hình
thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Năm 1947, nhân kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam,
Người khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn
giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có
lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành
công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm” (T.5, tr.329)
+ Mặc dù nhấn mạnh cách mạng bạo lực, song ở Hồ Chí Minh tư tưởng
bạo lực CM gắn bó và thống nhất với tư tưởng nhân đạo và hòa bình. Cơ sở của

33
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

sự thống nhất này là lòng yêu thương con người, coi con người là vốn quý nhất
và phải ra sức bảo vệ con người.
Vì vậy, Người luôn chủ động, tích cực đưa ra các giải pháp để tranh thủ
khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng. Điều này thể hiện rất đậm nét
trong các hoạt động chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn 1945 -
1946; 1954 - 1959, song các thế lực đế quốc và bọn phản động tay sai đã khước
từ mọi cử chỉ thiện chí, mọi cơ hội tránh đổ máu cho cả hai bên.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vận
dụng tư tưởng của Người, cách mạng Việt Nam đã thành công, đất nước độc
lập tự do, thống nhất, đồng thời góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới.
IV. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn:
- Làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa, đặc
biệt là trong việc xử lý vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp; trong việc nhận thức
khả năng thắng lợi của cách mạng thuộc địa.
- Làm chuyển hoá phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đặt cơ sở xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng.
- Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc.
2. Phân tích tính sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh: Các dân
tộc muốn được độc lập tự do, bình đẳng thì không có con đường nào khác là
phải tự minh đứng lên giành lấy độc lập, tự do.
3. Tại sao trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và trong cách mạng
Việt Nam nói chung độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH.
4. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của luận điểm: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc thì không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
5. Phân tích những quan điểm cơ bản của HCM về cách mạng giải phóng
dân tộc.

34
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

6. Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh luận điểm: Cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở “chính quốc” là một sáng tạo lớn của Hồ
Chí Minh.
7. Giải thích tại sao Hồ Chí Minh khẳng định: ở các nước thuộc địa,
“chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”
8. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”?
9. Cho biết ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận điểm của HCM: cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vs ở
chính quốc?
10. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về sựu thống nhất biện chứng
giữa tư tưởng bạo lực cách mạng với tư tưởng nhân đạo hòa bình.

Chương III

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
(4)

Mục đích yêu cầu.


1. Sinh viên nhận thức được những cơ sở góp phần hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
2. Tính tất yếu ra đời, đặc trưng bản chất, mục tiêu của CNXH theo quan
điểm Hồ Chí Minh.
3. Các giai đoạn, bước đi cụ thể trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt
Nam.
4. Trên cơ sở đó, có nhận thức đúng và tin tưởng vào con đường đi lên
của cách mạng Việt Nam do Đảng, và nhân dân ta lựa chọn 80 năm qua.
Tài liệu tham khảo.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1 (tr. 27, 28), tập 2 (tr. 264-280), tập 8 (tr.
226, 276, 341-342), tập 10, (tr.13-17, 133, 217, 310, 461, 556, 590), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
3. Nguyễn Duy Quý: Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
35
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.


1. Con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.
a. Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh luận chứng cho sự ra đời của CNXH dựa trên các cơ sở
sau:
- Sự ra đời của CNXH xuất phát từ quy luật vận động, phát triển khách
quan của lịch sử xã hội loài người, từ nội dung, tính chất và xu thế vận động tất
yếu của thời đại
- CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin khi luận chứng cho sự ra đời của CNXH xuất
phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Khi luận chứng cho sự ra đời tất yếu của CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã đặc biệt chú ý đến một phương diện không kém phần quan trọng:
CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Chính sự bóc lột nặng nề của chủ
nghĩa thực dân đã bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính, không thể khắc phục
được của CNTB và đó chính là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ
mệnh của mình đối với quốc gia dân tộc, chờ thời cơ để vùng dậy, thủ tiêu
xiềng xích thực dân, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng chính họ thoát
khỏi bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào, và đây chính là điều kiện quan
trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về CNXH, CNCS.
Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định hết sức mới mẻ và táo
bạo: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương
nói riêng không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện nay... Bây giờ
hãy xét những lý do lịch sử cho phép CNCS thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ
dàng hơn là ở châu Âu” (T1, tr.33-35). Trong bài Đông Dương đăng trong Tạp
chí Cộng sản (Pháp) số 14 năm 1921, Hồ Chí Minh: “Sự tàn bạo của CNTB đã
chuẩn bị đất rồi: CNXH chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công
cuộc giải phóng nữa thôi” (T1, tr.28)
- Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam còn được Hồ Chí Minh luận chứng
trên nhiều góc độ khác:
Thứ nhất, về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng
cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin để luận chứng một cách
toàn diện khả năng đi tới CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN của nước ta.
Thứ hai, cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách
mạng không phải là lý tưởng, khẩu hiệu được nêu ra mà là ở quy mô giải phóng
quần chúng bị áp bức. Chỉ có CNXH mới làm được việc đó.
36
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Độc
lập dân tộc là tiền đề để tiến lên CNXH, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người
chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” (T3, tr.1). Việc đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong
phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với CNXH, đã khiến quan
điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp ở trong nước và trên thế giới,
Đai hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định con đường mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn từ 80 năm trước và được khẳng định trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. CNXH, CNCS vẫn là mục tiêu mà cách mạng
Việt Nam đang hướng tới.
b. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về CNXH.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội xuất phát từ 3 phương diện sau:
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH trên cơ sở học thuyết Hình thái kinh tế -
xã hội và các quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ
lịch sử phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên của các
phương thức sản xuất nối tiếp nhau, từ cộng sản nguyên thủy đến CNCS.
Trên cơ sở đó, Mác xây dựng những luận điểm cơ bản về CNXH, chỉ ra
những đặc trưng bản chất của nó, đặc trưng cơ bản nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất, giải phóng con người khỏi tình trạng bị bóc lột về kinh tế, bị
áp bức về chính trị, bị nô dịch về tinh thần...Có thể khái quát học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Mác đã cung cấp cho Hồ Chí Minh hàng loạt các vấn
đề lý luận về tính tất yếu, mục tiêu bản chất… của chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức của Hồ Chí Minh về CNXH được thể hiện qua hàng loạt các
bài viết của Người đăng trên các sách, báo trong và ngoài nước, như các bài
“Thường thức chính trị” (thực chất là viết về chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử), viết năm 1950 ở Việt Bắc, “Diễn văn khai mạc lớp
lý luận khóa 1”, năm 1957 ở Học viện Nguyễn Ái Quốc...
- Hồ Chí Minh cận CNXH, trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước, từ nhu cầu
thực tiễn của Việt Nam
Xuất phát từ thực tiễn nước ta để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra một luận điểm rất quan trọng: Mỗi dân tộc đi lên CNXH có
những nét đặc thù riêng, không thể máy móc thực hiện như nhau với các quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh chỉ ra
đặc điểm “to nhất” của ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa qua giai

37
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đoạn phát triển TBCN, vì vậy mà chúng ta phải đi tìm “Một mô hình khác xuất
phát từ đặc điểm thực tiễn của nước ta” (Tập 8, tr.227).
Với quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn tránh được tư duy giáo
điều tồn tại phổ biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đồng
thời làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác về CNXH và con đường đi
lên CNXH.
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ truyền thống văn hóa phương Đông và
Việt Nam.
+ Truyền thống nhân ái, yêu mến quê hương, sống với nhau có tình có
nghĩa “đọc bao nhiêu sách Mác - Lênin, mà sống với nhau không có tình thì
cũng là không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin” Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư
tưởng tiến bộ này và phát triển lên. Người thường xuyên căn dặn “trong bầu
trời không gì cao quý bằng nhân dân”, Người chủ trương xây dựng một nhà
nước của dân, do dân và vì dân, trong đó cán bộ là “đầy tớ”, là “công bộc” của
dân, phải biết tự phê bình trước dân, thành công là của dân, khuyết điểm là của
cán bộ. Người nói tới trọng trách của Đảng đối với nhân dân, nhất là khi Đảng
trở thành Đảng cầm quyền. Người viết: "Chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và chính
phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và
chính phủ có lỗi" (T12, tr.572)
+ Truyền thống đề cao văn hóa, lễ nghĩa, coi trọng giáo dục đạo đức
Khổng Tử đặt giáo dục cao hơn chính trị, giáo dục tốt thì chính trị tốt;
Mạnh Tử: chính trị tốt thì dân giàu, dân không giàu, chính trị không tốt. Vua có
nhân thì không ai không có nhân, vua có nghĩa thì không ai không có nghĩa;
Khổng Tử đề cao trí, nhân, dũng; Mạnh Tử đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... ,
tóm lại, các ông rất coi trọng giáo dục đạo đức bằng phương pháp nêu gương.
Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhấn mạnh vấn đề nay. Người chỉ rõ: “Một
nhà nước muốn được lòng dân thì người đứng đầu phải nêu gương”.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng của CNXH Việt Nam.
- Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc
trưng của CNXH:
+ Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu
XHCN để giải phóng sức sản xuất.
+ Có một nền đại công nghiệp cơ khí, một nền khoa học công nghệ hiện
đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. Đặc trưng này đã được Lênin khái quát
thành công thức CNXH = chế độ Xôviết + Điện khí hoá toàn quốc.
+ Thực hiện sản xuất có kế hoạch và tiến tới xóa bỏ hàng hóa, tiền tệ
(sau này được Lênin điều chỉnh bằng chính sách kinh tế mới).
+ Phân phối theo lao động, thực hiện công bằng trong lao động và hưởng
thụ.

38
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Khắc phục sự khác biệt về giai cấp, tiến tới xóa bỏ sự khác biệt giữa
nông thôn với thành thị, lao động trí óc và lao động chân tay; xây dựng một xã
hội thuần nhất về giai cấp.
+ Giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nâng cao trình độ văn hóa
của nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người tận lực phát triển năng lực sẵn có.
+ Sau khi thực hiện các đặc trưng bản chất trên, chức năng chính trị của
nhà nước sẽ dần bị mất đi.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh thống nhất với các nhà kinh điển về CNXH, Người trích
dẫn nhiều đặc trưng bản chất ở các giai đoạn khi chúng ta chưa bước vào thời
kỳ quá độ. Song đến giai đoạn từ 1954-1964, Hồ Chí Minh đã phát biểu một số
vấn đề thể hiện quan điểm mới của Người về CNXH. Con đường tiến lên
CNXH ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là “không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô
có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác” (T8, 227). Hồ Chí Minh
yêu cầu không được ảo tưởng chủ quan cho rằng CNXH, CNCS sẽ nhanh
chóng được xây dựng ở Việt Nam.
+ Sáng tạo của Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã
đưa ra các định nghĩa về CNXH một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu, dễ tổ chức
thực hiện, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
Khi Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, Người nói: “CNXH
trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (T10,
tr.17); “CNXH là làm sao cho dân giàu nước mạnh” (T8, tr.226); “CNXH là tất
cả mọi người, các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung
sướng” (T10, tr.317)...
+ Có thể khái quát các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo
quan điểm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, có chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, mọi quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân
Thứ hai, dân giàu nước mạnh, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công.
Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển khoa học
kỹ thuật.
Thứ tư, xã hội phát triển ở trình độ cao về văn hóa, đạo đức.
Thứ năm, CNXH là công trình tập thể của ND, do ND tự xây dựng lấy
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đó là một CNXH của dân, do dân, vì dân,
là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại.
Ngoài ra khi nói về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là một xã hội có quan hệ hữu nghị, bình đẳng với
các quốc gia dân tộc trên thế giới, trên tinh thần hữu nghị hợp tác, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và hai bên cùng có lợi; CNXH là công trình tập thể của nhân
dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng…

39
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH là một quan niệm hoàn chỉnh,
có hệ thống từ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, con người..., song nhân tố
được Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất là quyền làm chủ của nhân dân, Người
yêu cầu phải nâng cao trình độ, lòng nhân ái, tình người trong nhân dân, luôn
tin vào năng lực sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân; sự nghiệp xây dựng
CNXH là sự nghiệp của nhân dân.
+ Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH, Cương lĩnh của Đảng (năm 1991) đã khẳng định những đặc trưng cơ
bản của CNXH ở nước ta: Nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏí áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới…
Tóm lại, thông qua các đặc trưng của CNXH bằng cách xác lập mục tiêu
của nó, Hồ Chí Minh khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của CNXH so với các
chế độ xã hội trước đó, Người cũng chỉ ra chức năng xã hội của CNXH là giải
con người một cách toàn diện, theo mọi cấp độ từ giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội đến giải phóng từng cá nhân. Mục tiêu cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh là giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi
người trên trái đất.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực phát triển CNXH Việt
Nam.
a. Những mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là phấn đấu vì độc lập
tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân.
Người chỉ rõ: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn
giản và dễ hiểu là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” (T10, tr.271)
- Mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
+ Mục tiêu về chính trị của CNXH là xây dựng Nhà nước của dân do dân
và vì dân. Người đòi hỏi phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Chính phủ
phải là đầy tớ của nhân dân, nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
“đuổi” chính phủ, đồng thời Người cũng yêu cầu nhân dân phải nâng cao trình
độ và phải dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân. Bởi vì theo Hồ Chí Minh, “quan tham là vì dân dại”.
+ Mục tiêu về kinh tế, “Phải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên

40
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tiến”. Điều quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh quan tâm đến là vấn đề năng suất
lao động, mà muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tiến hành công nghiệp
hóa XHCN, tuy nhiên theo Hồ Chí Minh, công nghiệp hóa có thể được tiến
hành bằng nhiều con đường khác nhau, chứ không nhất thiết là phải bắt đầu từ
sự phát triển công nghiệp nặng.
+ Mục tiêu về văn hóa, theo Hồ Chí Minh, CNXH phải là một xã hội cao
hơn hẳn CNTB về văn hóa và giải phóng con người, văn hóa phải “soi đường
cho quốc dân đi”, phải lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Khi
được hỏi bằng nhân tố nào phát triển CNXH, Hồ Chí Minh trả lời: bằng văn
hóa (T10, tr.392)
+ Mục tiêu về xây dựng con người: muốn có CNXH trước hết phải có
con người XHCN. Con người XHCN phải là con người có giác ngộ cách mạng,
có phẩm chất đạo đức trong sáng..., trong các phẩm chất của con người mới,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng các phẩm chất về lý tưởng, đạo đức cách mạng
và tinh thần làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện sản xuất chưa phát
triển cao, điểm hơn hẳn của CNXH so với CNTB chính là ở quan hệ giữa con
người với con người.
Những mục tiêu trước mắt, thiết thực, cụ thể về CNXH mà Hồ Chí Minh
đề ra tuy có những khác nhau về chi tiết, tùy thuộc đối tượng, thời điểm Người
nói hay viết, nhưng đều thể hiện tinh thần: chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh
cao của tiến trình tiến hoá lịch sử nhân loại, là hệ thống những giá trị mà khi
loài người đạt tới thì cá tính con người được phát triển đầy đủ, năng lực con
người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện.
b. Các động lực của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Khi nói động lực của sự phát triển, Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta phải
chú ý đến các yếu tố thúc đẩy, đồng thời cũng phải chú ý tới các yếu tố kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
- Để xây dựng và phát triển của CNXH, cần phải huy động được tất các
các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quan trọng nhất. Bởi
vì các nguồn lực khác, xét đến cùng đều phải thông qua con người. Con người
trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
“Muốn cho CNCS thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và
tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình” (T4, tr.272).
Người nói: “CNXH chỉ có thể được xây dựng với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo”, và “CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”
(T10, tr.133), “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người
XHCN...Có tư tưởng và tác phong XHCN” (T10, tr.310).
Với Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc
là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm tất cả mọi tầng lớp, mọi
giai cấp, dân tộc, tôn giáo...Xây dựng CNXH không chỉ là sự nghiệp riêng của
41
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

công nông mà là của toàn thể dân tộc. CNXH không chỉ là vấn đề giai cấp mà
còn là vấn đề dân tộc. Chỉ xây dựng thành công CNXH mới tăng cường được
sức mạnh của dân tộc, mới giữ vững độc lập dân tộc.
Kế thừa quan điểm này của Hồ Chí Minh, Đại hội IX Đảng ta chỉ rõ:
"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp
hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội'' (Văn kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86).
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải phát huy sức mạnh của con người với tư
cách cá nhân người lao động, Người đã nêu lên một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, phải chú trọng các giải pháp tác động vào nhu cầu và lợi ích,
trước hết là lợi ích vật chất thiết thân đối với người lao động.
Ngay trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến vấn
đề này. Người đã ban hành Chính sách giảm tô, giảm tức; bước sang thời kỳ
xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh yêu cầu phải chú ý đến lợi ích chính đáng của
người lao động thông qua các chính sách về giá cả, thuế, về khoán, thưởng,
phạt, coi trọng lợi ích cá nhân, tích cực tìm tòi cơ chế biện pháp kích thích trí
sáng tạo của cá nhân.
Thứ hai, các giải pháp tác động vào các động lực chính trị, tinh thần.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong khi điều kiện vật chất còn nhiều khó khăn thì
các biện pháp kích thích tinh thần có tầm quan trọng hàng đầu.
Người viết: “CNXH không phải là cái gì cao xa mà cụ thể là ý thức lao
động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước, tăng sản xuất cho hợp
tác xã, tăng thu nhập cho xã viên, tinh thần đoàn kết, tương trợ, tinh thần dám
nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần kiệm” (T9, tr.575).
Để làm tốt công tác này, cần phát huy tinh thần và ý thức làm chủ tập thể
của đông đảo quần chúng nhân dân; thực hiện công bằng xã hội; sử dụng vai
trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác như văn hóa, đạo đức, pháp luật,
phải nâng cao dân trí, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu...
- Ngoài các động lực bên trong, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, gắn chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sử dụng tốt các thành quả khoa
học kỹ thuật…để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước
ta.
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên mới chỉ là những nguồn lực tiềm
tàng của sự phát triển. Để những năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và
không ngường phát triển, Hồ Chí Minh chỉ rõ: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ
thống động lực của chủ nghĩa xã hội.

42
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Đi đôi với việc khai thông các động lực, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
nhận diện và khắc phục các lực cản, và Người đã chỉ ra những căn bệnh có
nguy cơ dẫn đến sự thoái hóa biến chất của một đảng cầm quyền, tới sự tồn
vong của chế độ là:
+ Chủ nghĩa cá nhân là “căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm”, là
“kẻ thù hung ác của CNXH”, “chúng ta phải kiên quyết tiêu diệt nó”. Chúng ta
chú trọng đảm bảo lợi ích cá nhân, song phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, chống lối sống chỉ vì mình, quê mình mà kết thành phe cánh bất chấp lợi
ích của cộng đồng, của người khác.
+ Tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu
+ Tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết làm giảm sút uy tín của Đảng, của
cách mạng (xem thêm T9, tr.228)
+ Tệ chủ quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập cái mới.
Việc phát huy động lực và khắc phục trở lực của CNXH phụ thuộc quyết
định vào sự lãnh đạo đúng đắn của ĐảNG CộNG SảN và vai trò quản lý của
nhà nước XHCN.
II. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CNXH Ở VN.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
a. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa M.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều khẳng định rằng:
Giữa CNTB và CNCS tất yếu phải có một thời kỳ quá độ nhằm chuyển biến từ
xã hội nọ sang xã hội kia. Bản chất của thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách
mạng không ngừng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm chuyển
dần xã hội cũ thành xã hội mới.
Thời kỳ quá độ mà Mác và Ăngghen đề cập đến ở đây, chủ yếu là thời
kỳ chuyển biến lên CNCS ở các nước tư bản phát triển và quá độ ở đây, chủ
yếu là quá độ chính trị. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về nước Nga, Mác đã đi đến
kết luận hé mở một con đường quá độ khác “Nước Nga có thể không cần phải
trải qua những đau khổ của chế độ đó, mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả
của chế độ xã hội ấy” (chế độ xã hội mà Mác nói tới ở đây là chế độ xã hội tiền
TBCN)
- Sau cách mạng Tháng Mười, Lênin đã làm phong phú thêm lý luận về
thời kỳ quá độ:
+ Lênin nêu lên hai loại hình quá độ từ CNTB lên CNXH, đồng thời chỉ
rõ, các nước lạc hậu có thể đi lên CNXH không cần phải trải qua giai đoạn phát
triển TBCN. Tuy nhiên cần phải tuân theo hai điều kiện: có sự giúp đỡ của một
nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng thành công và nước đó phải do
đảng cộng sản lãnh đạo.

43
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Xác định thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ tương đối dài, cần phải
thực hiện các bước đi quá độ nhỏ, sử dụng một số hình thức trung gian, Người
cũng luôn nhắc nhở những người cộng sản không được chủ quan nóng vội.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin về thời kỳ quá độ và vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta. Người khẳng
định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quá độ lên CNXH, bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ có những nội
dung chủ yếu sau:
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
+ Có sự lãnh đạo của Đảng, có khối liên minh công nông và trí thức đã
được củng cố vững chắc, vì vậy cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn
mới không bắt đầu bằng một cuộc đảo lộn chính trị.
+ Đặc điểm “to nhất” của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN.
+ Chúng ta xây dựng CNXH trong điều kiện vừa có hòa bình vừa có
chiến tranh, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
+ Về phương diện quốc tế, sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam có
những thuận lợi cơ bản, song cũng có không ít những khó khăn, đó là sự can
thiệp, phá hoại của kẻ thù. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập tự chủ,
tự lực tự cường để tranh thủ thuận lợi hạn chế những khó khăn, xây dựng thành
công CNXH trên đất nước ta.
- Bản chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
+ Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là quá trình cải biến nền sản
xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn hiện đại. Đây là một cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, so sánh lực lượng trong nước và
quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi chúng ta phải áp dụng toàn diện các hình
thức đấu tranh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
+ Quá độ lên CNXH là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu
dài, gian khổ vừa phải cải tạo xã hội cũ, vừa xây dựng xã hội mới. (Hồ Chí
Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chất tuần tự, lâu dài của thời kỳ này). Tính chất
phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ được Hồ Chí Minh lý giải trên các cơ
sở sau:
Thứ nhất, đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã
hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn khác
nhau.
44
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ hai, xây dựng CNXH là một sự nghiệp mang tính kinh tế. Đây là
một công việc hoàn toàn mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm phải vừa làm
vừa học và không thể tránh được thiếu sót, thậm chí thất bại tạm thời.
Thứ ba, kẻ thù của CNXH luôn tìm mọi cách chống phá quá trình xây
dựng CNXH.
- Mâu thuẫn của TKQĐ là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển cao của đất
nước theo con đường tiến bộ (CNXH) với thực trạng KT-XH thấp kém, lạc hậu
của đất nước cùng với các thế lực cản trở phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH
+ Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ đảng viên tránh nôn nóng, chủ quan,
đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng CNXH. Phải xác định đúng bước
đi và hình thức phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, biết kết
hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước từ thấp lên cao “Phải kiên
nhẫn bắc những nhịp cầu nhỏ và vừa, phải chọn những giải pháp trung gian và
quá độ” (T7, tr.538), “Phải trải qua nhiều bước, dài, ngắn là tùy hoàn cảnh. Mỗi
bước, chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc, đi bước nào, vững bước
ấy tiến tới dần dần” (T7, tr.540).
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ:
Thứ nhất, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm
- Những nhân tố đảm bảo thắng lợi cho CNXH ở Việt Nam gồm:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
+ Phát huy tính tích cực chủ động của các tổ chức chính trị xã hội của
quần chúng.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng XHCN.
2. Nội dung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên ở Việt Nam.
- Về chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy cần:
Thứ nhất, Đảng phải thường xuyên được chỉnh đốn, củng cố nâng cao
sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Thứ hai, tất cả các cơ quan nhà nước phải là các thể chế dân chủ, dựa
vào dân, lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự kiểm soát của dân; phải xây dựng bộ
máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
Thứ ba, củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên
minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Về kinh tế, Hồ Chí Minh đã đề cập một cách khá toàn diện:

45
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Người nhấn mạnh đến việc tăng gia sản xuất gắn liền với thực hành
tiết kiệm, không ngừng nâng cao năng xuất lao động trên cơ sở tiến hành công
nghiệp hóa XHCN.
+ Xác định cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đồng thời coi trọng củng cố thương nghiệp làm cầu nối giữa các
ngành kinh tế. Tại Hội nghị Bộ chính trị, tháng 10 năm 1954, Người nói: “Nếu
muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan, Phải tăng tiến nông nghiệp. Làm
trái với Liên Xô cũng là mácxít” (Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, T5, tr.572).
+ Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá
độ. Bốn thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh đề cập đến là kinh tế quốc doanh,
kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư doanh và kinh tế riêng lẻ khác. Theo Hồ
Chí Minh cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
CNXH; khuyến khích và giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển…
+ Chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; đồng thời bước đầu đề
cập đến vấn đề khoán trong sản xuất “Chế độ khoán là một điều kiện của
CNXH, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến
bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công
bằng dưới chế độ ta hiện nay” (T8, tr.341)
- Về văn hóa - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc xây dựng con
người mới, coi con người vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội, đồng thời Người cũng đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ
thuật, nâng cao dân trí, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài trong xây dựng CNXH.
3. Quan điểm của HCM về bước đi và các biện pháp xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ.
- Hồ Chí Minh nêu lên 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận trong
việc xác đinh bước đi và cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam:
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là hiện tượng phổ biến, mang tính quốc tế
vì vậy phải quán triệt các nguyên lý cơ bản của chu nghĩa Mác - Lênin, học tập
kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không được giáo, điều máy móc.
+ Xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần căn
cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của
nhân dân.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ.
Trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chưa nói rõ các bước đi cụ thể, song
tìm hiểu kỹ tư tưởng của Người, chúng ta có thể hình dung ba bước sau:
Thứ nhất, ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu. Người giải thích: Chúng ta vừa ra khỏi chiến tranh, “Nếu để dân đói
là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của Đảng không thực hiện được”(T7, tr.
532), “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung thì phải lấy
46
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” (T10, tr.180); “Phải ưu tiên phát
triển nông nghiệp còn bởi vì chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân
hòa” (lực lượng lao động nông nghiệp). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, ta phải dựa vào nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan
trọng” (Bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương bàn về phát triển công nghiệp.
(T10, tr.34);
Thứ hai, phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Thứ ba, phát triển công nghiệp nặng.
Đề phòng bệnh duy ý chí, Người viết: Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có
nông thôn, bây giời mới có thành thị...nếu muốn công nghiệp hóa gấp là chủ
quan...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng, làm trái với Liên Xô cũng là
mácxít.
- Về các biện pháp cơ bản tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt
Nam:
+ Muốn bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm phải học tập kinh nghiệm các
nước anh em, tuy nhiên không được rập khuôn, giáo điều, sao chép, mà phải
học một cách sáng tạo, phải chú ý đến thực tiễn nước ta (xem thêm T8, tr.494,
227).
+ Phải đi sâu vào thực tiễn để điều tra, khảo sát, từ thực tiễn mà đề xuất
các vấn đề phương pháp cho cách mạng Việt Nam.
Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể như thực hiện cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng
làm chính.
+ Người nhấn mạnh tới vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực
hiện và nhắc nhở khi soạn thảo và thực hiện kế hoạch phải thực hiện phương
châm: Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi,... có như thế kế
hoạch mới hoàn thành tốt được
+ Thực hiện phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các thành
phần kinh tế, thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển: “Làm cho người
nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm.
Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước” (T.5, 65).
+ Biện pháp cơ bản lâu dài, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải “Đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi
cho dân”.
Người chỉ rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng "đó là
CNXH nhân dân'', không phải là ''CNXH nhà nước", được ban từ trên xuống.
Trong xu thế tập trung quan liêu bao cấp ở khối các nước XHCN lúc bấy giờ,
việc Hồ Chí Minh khẳng định như trên và coi việc xây dựng CNXH không thể
bằng mệnh lệnh từ trên xuống, mà chính phủ chỉ giúp về kế hoạch, cổ động

47
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

(đường lối, chính sách, xây dựng hành lang pháp lý), quả là một sự sáng tạo to
lớn.
*
* *
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở
nước ta bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất. trên cơ sở vận dụng và phát
triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục
tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội, về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá
độ; về đặc điểm, nội dung, bước đi và biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hiện nay, cần chú ý:
- Cần khẳng định những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH và con
đường đi lên CNXH là cơ sở để chúng ta tiếp tục suy nghĩ, sáng tạo để tìm ra
hình thức, bước đi, cách làm mới, tức là chúng ta phải làm sống động tư tưởng
Hồ Chí Minh trước tình hình mới.
- Xây dựng CNXH trong cơ chế thị trường, đó là cái mới. Chúng ta cần
nghiên cứu kỹ Cương lĩnh 91, các nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VIII, IX, và lần thứ X để nhận thức sâu hơn về sự vận dụng trung
thành, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quán triệt các quan điểm sau:
+ Phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực
nội sinh, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
+ Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham những, thực hiện cần kiệm xây dựng
CNXH.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Làm rõ tính tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Trình bày quan điểm về những đặc trưng bản chất, bước đi và biện
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh. Đảng ta đã vận dụng những
quan điểm đó vào công cuộc đổi mới hiện nay như thế nào?
3. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của cnxh
Việt Nam và nêu ý nghĩa của quan niệm đó đối với nước ta hiện nay.
4. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ
nghĩa xã hội Việt Nam và nêu ý nghĩa của quan điểm đó đối với công cuộc xây
dựng cnxh ở nước ta hiện nay.

48
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

5. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm động lực con người là động lực chủ
yếu nhất của chủ nghĩa xã hội?
6. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam,
“Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần?
Chương IV
TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mục đích yêu cầu.


Giúp người học nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Thấy được những sáng tạo của Hồ Chí
Minh trên lĩnh vực này. Từ đó củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
chế độ, biết vận dụng tư tưởng của người vào công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII,
IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Trương Minh Dục, Hồ Chí Minh bàn về đảng cầm quyền qua cuốn sách
“Sửa đổi lối làm việc”, Lịch sử Đảng, số 5, 1992.

Nội dung
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khái quát quy luật hình
thành và phát triển các đảng cộng sản là kết quả của sự kết hợp 2 yếu tố: Lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân.
- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố trên, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó
là phong trào yêu nước.
Trong bài viết “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, Người khẳng định:
Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở chủ yếu sau:
+ Yêu nước là cái trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam là yếu tố có
trước và là một phong trào thực sự to lớn, thúc đẩy phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân, nhất là khi giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời.

49
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Phong trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc; quyền lợi giai cấp công nhân và quyền lợi của toàn thể dân
tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước trên lập trường giai
cấp công nhân, và chỉ có kết hợp với phong trào yêu nước của dân tộc, giai cấp
công nhân mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam trước hết phải nói tới phong trào
yêu nước của nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm khoảng
90% dân số và do điều kiện lịch sử chi phối, giai cấp công nhân Việt Nam mới
được hình thành, xuất thân trực tiếp từ nông dân. Do đó, giai cấp nông dân là
đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân và sự liên minh chặt chẽ giữa 2 giai
cấp này hợp thành đạo quân chủ lực của cách mạng.
Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đầu thế
kỷ XX, trí thức Việt Nam tuy số lượng không nhiều nhưng họ rất nhạy cảm với
thời cuộc, do vậy họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới” về
tư tưởng của các trào lưu trên thế giới dội vào Việt Nam. Họ chính là “ngòi
nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp, thúc đẩy sự
canh tân và chấn hưng đất nước. Chính bộ phận trí thức yêu nước tiên tiến là
những người đầu tiên tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin và họ đã ra sức hoạt
động thúc đẩy sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước đẫn đến sự xuất hiện những tổ chức cộng sản đầu
tiên ở Việt Nam và trên cở sở đó thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân Việt Nam đã
dần ý thức được trách nhiệm giai cấp và trách nhiệm dân tộc của mình, đã trở
thành lực lượng tự giác, thì kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, phong
trào công nhân, phong trào yêu nước càng trở nên chặt chẽ hơn.
- Vấn đề đặt ra là giai cấp công nhân Việt Nam ít về số lượng, lại chủ
yếu là công nhân nông nghiệp, vậy, giai cấp này có thể lãnh đạo được cách
mạng Việt Nam không? Hồ Chí Minh khẳng định:
+ Vai trò lãnh đạo của lực lượng cách mạng không phải do số lượng của
lực lượng đó quyết định mà là do “Đặc tính” cách mạng. “Đặc tính” cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có
kỷ luật.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản
xuất, thấm nhuần tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời
tinh thần đấu tranh của họ có ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam đã xây dựng được chính đảng theo chủ
nghĩa Mác – Lênin…Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng lôi cuốn giai cấp
nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên
tiến.

50
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa quán triệt một cách sâu sắc học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản, vừa
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với
cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng có ý nghĩa to lớn đối với các nước có
hoàn cảnh tương tự như Việt Nam.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đưa ra quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã dựa trên các
cơ sở sau:
+ Trước khi Đảng ta ra đời, ỏ Việt Nam đã có nhiều chính đảng, nhiều
phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra ở khắp nơi, song đều thất bại,
nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một chính đảng có bản chất cách mạng triệt
để, thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh đó chỉ có
được khi quần chúng nhân dân được tổ chức lại, và có một chính đảng với
đường lối đúng đắn lãnh đạo.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người khẳng định cách mạng “Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (T2,
Tr.268)
Người còn giải thích rõ hơn: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần
chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương
châm cho đúng.
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.
Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết.
Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật
mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”. (T7, Tr.
228-229)
+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay chứng tỏ rằng Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là đội ngũ tiên phong, là bộ tham mưu của
giai cấp vô sản, của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là lực lượng duy nhất có khả
năng lôi kéo, tập hợp các tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng. Cách mạng
Việt Nam luôn cần có Đảng dẫn đường.
Ngày nay, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đang tìm mọi cách để phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhiều luận điệu khác
nhau…họ coi cần phải đa nguyên, đa đảng, thì mới là dân chủ. Thực tế thì thế
nào?
51
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Các lực lượng chính trị khác ở Việt Nam, qua hoạt động thực tiễn đã
chứng tỏ họ không có khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc giải
phóng người lao động, có chăng chỉ là sự “giải phóng’’ chính bản thân họ.
Đúng là một Đảng trưởng thành trong chiến tranh giải phóng dân tộc,
đảng đó còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong xây dựng kinh tế, và tất nhiên
không thể tránh khỏi sai lầm trong quá trình lãnh đạo đất nước. Vấn đề là ở
chỗ, trong quá trình lãnh đạo đất nước, đảng đó hành động vì lợi ích của ai,
đem lại lợi ích cho ai và trước những sai lầm, yếu kém, thái độ sữa chữa sai lầm
của đảng đó như thế nào.
Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, ngoài ra Đảng không có mục đích nào khác.
Trước những sai lầm, Đảng đều phát hiện sớm và kịp thời sửa chữa với một
thái độ kiên quyết nhất. Nhờ vậy, cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay liên tục
phát triển.
3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: ĐảNG CộNG SảN là đội tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân và là nhân tố quyết định đối với quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Đảng là đảng của một giai cấp. Đây là vấn đề không cần bàn cãi. Cách
hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cực đoan, tuyệt đối hóa mệnh đề “đảng
của dân tộc’’, của “nhân dân lao động’’ để rồi từ đó đi tới xóa nhòa bản chất
giai cấp công nhân của Đảng là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời trái
với thực tế nói chung.
- Hồ Chí Minh luôn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân, đội tiền phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai
cấp công nhân. Điều này được thể hiện:
+ Trong tất cả các văn kiện, các bài nói và viết của Người về Đảng.
+ Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng hoàn toàn quán triệt các nguyên
tắc xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới của Lênin cả về cách gọi lẫn nội
dung.
+ Nội dung các vấn đề cơ bản của Đảng (thành phần, mục đích, cơ sở lý
luận, tổ chức, luật phát triển Đảng), mà Hồ Chí Minh nêu lên cũng thể hiện rõ
tính chất giai cấp công nhân của Đảng.
- Do lợi ích của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam chỉ có thể được đảm bảo khi toàn thể dân tộc đoàn
kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, nên Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Trong giai đoạn này,
quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc là một.
Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam” (T6, 175)
52
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn
là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc có ý nghĩa lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc nên nhân dân Việt
Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của chính mình. Trong thành phần
của Đảng, ngoài giai cấp công nhân, còn có những người ưu tú nhất trong giai
cấp nông dân, trí thức và các thành phần xã hội khác.
Chính vì vậy, khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bao
giờ Hồ Chí Minh cũng gắn với nhiệm vụ để đạt mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người “Đảng không phải
là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng" (T5, 249).
- Ý nghĩa: luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng có ý nghĩa
to lớn: Đây là luận điểm mới có ý nghĩa bổ xung, phát triển lý luận về ĐảNG
CộNG SảN của chủ nghĩa Mác - Lênin đồng thời có ý nghĩa chỉ đạo quá trình
xây dựng ĐảNG CộNG SảNVN, nhờ đó Đảng đã lớn mạnh không ngừng, trở
thành đội tiên phong chiến đấu của giai cấp và dân tộc dẫn dắt cách mạng đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
- Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền cách mạng. Vị
trí của Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, của dân tộc.
Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh dân tộc. Muốn vậy,
Đảng phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo...
Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. (T12,
510)
+ Với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải có trí tuệ, tầm nhìn xa, trông
rộng, có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, thể hiện vai trò tiên phong
cả về lý luận và hành động thực tiễn.
+ Với tư cách là người đầy tớ (người phục vụ), Đảng phải, biết giáo dục,
thuyết phục và tổ chức quần chúng nhân dân; tận tâm, tận lực phục vụ nhân
dân, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
- Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng cầm quyền, dân là chủ phải
thường xuyên chăm lo củng cố mối liên hệ máu thịt với nhân dân.
Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo cách mạng cốt để thiết lập quyền
làm chủ của nhân dân. Trái với nguyên tắc đó, đảng sẽ thoái hóa biến chất, cán
bộ đảng viên của Đảng sẽ trở thành những “ông quan cách mạng” đối lập với
nhân dân.

53
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng một cơ chế “Đảng cầm quyền” mà
cốt lõi của cơ chế này là thiết lập mối quan hệ đúng đắn: Đảng – Nhà nước –
nhân dân. Trong đó:
Đảng phải trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của
nhân dân.
Xác định “là người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn bộ xã hội; đối tượng lãnh đạo là toàn thể
nhân dân nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh
yêu cầu Đảng phải lãnh đạo nhân dân bằng giáo dục, thuyết phục, không quan
liêu, mệnh lệnh, gò ép nhân dân, phải tổ chức, đoàn kết nhân dân lại thành một
khối thống nhất. Chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải được đảm
bảo trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải chăm lo đến đời
sống nhân dân từ việc lớn đến việc nhỏ.
Với tư cách người lãnh đạo cũng bao hàm cả trách nhiệm “người đầy tớ”
của dân. Song làm “đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ hay theo đuôi quần chúng
mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân, nhằm đem lại các quyền và lợi ích
cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phải phụng sự
cho ra trò, nghĩa là việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có
hại cho dân, thì phải hết sức tránh” (T6, tr. 88)
Nhà nước phải thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, cán bộ công
chức nhà nước là công bộc của nhân dân.
Dân là chủ mọi quyền hành và lực lượng là ở dân.
Hồ Chí Minh: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì
Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm
đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng” (T8,375)
Dân muốn là chủ phải hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phải
chịu khó học hỏi để có kiến thức tham gia làm chủ, phải dũng cảm cùng với
Đảng và Nhà nước đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Người nói: “Quan tham là vì dân dại” và yêu cầu để quan bớt
tham, dân phải bớt dại đi.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG SẠCH VỮNG MẠNH.
1. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới – Quy luật của xây
dựng Đảng.
- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Khi viết và nói về vấn đề này, người ta thường sử dụng các cụm từ “việc
chính’’, “việc cần kíp’’, “việc phải làm ngay’’, “trước tiên’’, “trước hết’’... Lập
luận về tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Hồ
Chí Minh chỉ rõ:

54
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ nhất, những khuyết điểm, thiếu sót trong Đảng là việc bình thường.
Vì vậy, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế mà là một công việc
thường xuyên.
Người quan niệm, Đảng là một bộ phận của xã hội, nên những thiếu sót,
khuyết điểm của xã hội đều ít nhiều thể hiện trong Đảng, hơn nữa những thiếu
sót trong Đảng còn là những thiếu sót của những người đi tiên phong khai phá.
Trong các trường hợp sau đây thì chỉnh đốn Đảng mang tính cấp bách: 1.
Khi Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm hoặc gặp khó khăn, chỉnh đốn Đảng giúp
cán bộ đảng viên củng cố lập trường, quan điểm, bình tĩnh sáng suốt, không bi
quan dao động. 2. Khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng giúp Đảng
xây dựng những quan điểm tư tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngùa chủ
quan, tự mãn, lạc quan tếu và bệnh “kiêu ngạo cộng sản’’. 3. Khi cách mạng
chuyển sang giai đoạn mới, chỉnh đốn Đảng giúp Đảng nâng cao tầm lãnh đạo
cả về chính trị, chuyên môn đảm bảo cho Đảng luôn giữ được vai trò tiên
phong.
Thứ hai, xây dựng chỉnh đốn Đảng được chế định bởi sự phát triển
không ngừng của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo là một quá trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại
có những yêu cầu riêng, do đó Đảng phải tự chỉnh đốn để vươn lên đáp ứng yêu
cầu của giai cấp, của dân tộc.
Thứ ba, xây dựng chỉnh đốn Đảng là cơ hội để cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, tu dưỡng tốt hơn để có thể hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân giao phó.
- Mục đích chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh, giữ vững vai trò tiên phong của giai cấp, của dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉnh đốn Đảng là: “Để dùi mài cán bộ và đảng
viên thành những chiến sĩ xứng đáng là người đày tớ của nhân dân” (T7,
tr.200), “Để làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
tròn trách nhiệm Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”.
Vì vậy, ngoài nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ, Đảng cần phải đưa ra
khỏi đảng các phần tử thoái hóa biến chất.
- Quy trình chỉnh đốn Đảng là phải làm từ cán bộ trước rồi mới chỉnh
đốn chi bộ, chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức, phải làm từng
bước, có trọng tâm, kế hoạch phải rõ ràng, chu đáo.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc đổi mới chỉnh đốn Đảng càng
có ý nghĩa quan trọng và càng cần phải tiến hành thường xuyên bởi quyền lực
có tính hai mặt: quyền lực nếu được sử dụng đúng đắn có sức mạnh to lớn để
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; ngược lại nếu bị thoái hóa biến chất thì
sẽ có tác hại ghê ghớm thậm chí có thể làm sụp đổ cả chế độ xã hội. Để ngăn
chặn và đẩy lùi nguy cơ biến chất quyền lực thì cần phải thường xuyên chỉnh
đốn Đảng.

55
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2. Nội dung công tác xây dựng Đảng.


a. Xây dựng Đảng về tư tưởng - lý luận.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng thì phải có đảng, đảng phải có
chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất trong thời đại
hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng này ở Hồ Chí Minh được thể hiện từ rất sớm. Trong cuốn
đường cách mệnh, Người viết: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam” và Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin’’
(T2, 268)
Chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh khẳng định là học thuyết
khoa học và cách mạng bởi vì nó chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận, là
kim chỉ nam cho giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ đứng lên làm cách
mạng giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Khi khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với đối
tượng.
+ Khi vận dụng phải sáng tạo, tránh giáo điều, đồng thời cũng phải tránh
xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh chống các khuynh
hướng cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và các tư tưởng phản động khác.
+ Đảng cần chú ý tổng kết kinh nghiệm của các đảng cộng sản các nước
anh em và thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm phong phú thêm kho tàng lý
luận Mác - Lênin.
+ Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
b. Xây dựng Đảng về chính trị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị bao gồm
xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện các nghị
quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị…trong
đó xây dựng đường lối chính trị là vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển
của Đảng.
Đảng thể hiện vai trò của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh,
đường lối đúng đắn. Cương lĩnh, đường lối phải được xây dựng trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng nó vào điều kiện cụ thể của xã hội
Việt Nam; phải thường xuyên học tập kinh nghiệm các đảng cộng sản anh em.
Có đường lối chính trị đúng, chưa đủ, Đảng còn phải là đội tiên phong thực sự

56
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

dũng cảm và là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
c. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, cán bộ.
- Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ
thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ
luật cao, trong đó chi bộ đảng là tổ chức hạt nhân quyết định chất lượng lãnh
đạo của Đảng, gắn kết Đảng với quần chúng nhân dân.
Tất cả các nguyên tắc về xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới của
chủ nghĩa Mác - Lênin đều được Hồ Chí Minh quán triệt và vận dụng một cách
sáng tạo trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản và quan
trọng nhất của Đảng. nhằm làm cho “Đảng tuy đông người nhưng tiến hành chỉ
như một người”.
Với Hồ Chí Minh, tập trung có nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phục tùng vô điều kiện nghị quyết của
Đảng. Dân chủ nghĩa là mọi người được tự do trình bày ý kiến của mình, tranh
luận với các ý kiến của người khác. Hồ Chí Minh quan niệm, “Dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân’’ (T8, tr.279), vì vậy “Phải thật sự mở rộng dân chủ
để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng
viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt’’ (T10, tr.118).
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải tránh dân chủ hình thức, dân chủ quá
trớn, tập trung quan liêu, hay mọi biểu hiện xa rời nguyên tắc này. Cần chú ý
rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số đảng cộng sản
trên thế giói rơi vào khủng hoảng thời gian vừa qua cũng là do xa rời nguyên
tắc này.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cần phải có tập thể lãnh đạo vì, theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi
cũng không thấy và cũng không thể xem xét tất cả các mặt của vấn đề, nhiều
người thì nhiều kinh nghiệm, người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt khác,
góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì thấy rõ tất cả các mặt của
vấn đề. Hồ Chí Minh kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao
biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc’’ (T5, tr.504).
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau. Cần
phải có cá nhân phụ trách vì sau khi đã bàn bạc kỹ rồi thì phải giao cho một
hoặc một số ít người phụ trách, tránh tình trạng đùn đẩy và kết quả là không ai
làm. Để tránh họp hành tràn lan, Hồ Chí Minh yêu cầu đối với những việc bình
thường một người cũng có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cần phải tự
quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
+ Tự phê bình và phê bình

57
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Phải thực hiện nguyên tắc này vì “mọi người đều có thiện - ác ở trong
lòng”, “không ai tránh khỏi khuyết điểm”, nên “Thang thuốc hay nhất là thiết
thực phê bình và tự phê bình”.
Người viết: “Mỗi người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
Mục đích của phê và tự phê bình là để tăng cường tình đoàn kết trong
Đảng và giúp nhau cùng tến bộ.
“Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để
sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội
bộ”. (T5, tr.232)
Thái độ phê và tự phê bình phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết và có
văn hóa.
Nếu không thực hiện kiên quyết trong phê và tự phê bình thì “Cũng
giống như giấu giếm tật bệnh trong người, không dám uống thuốc để bệnh ngày
càng nặng thêm, nguy đến tính mạng”.
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
Người coi cán bộ là “Cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
+ Nội dung của công tác cán bộ bao gồm: tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; Đánh giá đúng cán bộ; sử dung, bố trí đúng cán bộ (dụng nhân
như dụng mộc); thực hiện đầy đủ chính sách đối với cán bộ.
Có chính quyền nhà nước, Đảng có một công cụ hết sức sắc bén để thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Tuy nhiên, các cán bộ của Đảng dễ dẫn đến
hiện tượng lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham ô, hối lộ, hách dịch, ức hiếp
quần chúng, khiến nhân dân oán ghét. Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ ra những tiêu
chuẩn và yêu cầu đội ngũ cán bộ phải rèn luyện theo các tiêu chuẩn sau:
1. Có đạo đức cách mạng. 2. Tuyệt đối trung thành với Đảng. 3. Có năng
lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, 4. Có trí tuệ,
có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi. 5. Luôn học hỏi cả về lý luận Mác -
Lênin lẫn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 6. Có tác phong công tác
tốt, chống chủ quan, quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương,
không chịu xuống địa phương
Công tác cán bộ cần: 1.Hiểu và đánh giá đúng cán bộ. 2. Phải khéo dùng
cán bộ. Người dạy: “Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ
dở, ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người
cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà
dùng được”. 3. Biết kết hợp dùng cán bộ trẻ với cán bộ già. 4. Phải chiêu hiền

58
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đãi sĩ, cầu người hiền tài, có gan cất nhắc cán bộ. 5. Phải chống bệnh địa
phương, cục bộ, phe phái, cánh hẩu, họ hàng trong chính sách cán bộ.
d. Xây dựng Đảng về đạo đức.
Xét về bản chất đạo đức mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, mà nội dung cốt
lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh có đạo đức trong
sáng, Đảng mới lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho
Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
Hồ Chí Minh yêu cầu việc giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung
quan trọng trong việc bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên phải gắn chặt với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức làm cho Đảng luôn
trong sạch.
* *
*
Tóm lại, hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, cách mạng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành
tựu đó là những tiền đề quan trọng để dân tộc Việt Nam có thể đi đến tự do,
hạnh phúc. Để thực hiện hoài bão của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời,
đồng thời cũng là hoài bão chung của dân tộc ta, thì điều kiện quan trọng nhất
là Đảng phải giữ vững quyền lãnh đạo, phải thường xuyên tự chỉnh đốn nâng
cao phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, đưa sự nghiệp đổi mới đến toàn
thắng.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản đảm bảo cho
việc xây dựng Đảng ta thực sự là một đảng mácxít - lêninnít chân chính. Việc
xây dựng Đảng cần chú ý cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức:
Về chính trị, trên cơ sở kiên định mục tiêu lâu dài, Đảng cần vạch ra
đường lối chính trị đúng đắn, có bản lĩnh vững vàng trong mọi tình huống
nhằm tập hợp được lực lượng của toàn dân, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi
của quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Về tư tưởng, luôn khẳng định tư tưởng cách mạng triệt để, cách mạng
tiến công, đề phòng và khắc phục những lệch lạc, chống chủ nghĩa cơ hội, xét
lại. Lấy thực tiễn cách mạng Việt Nam làm mục tiêu để vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin, đồng thời làm giàu trí tuệ của mình bằng việc kế thừa các
quan điểm truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Về tổ chức, xây dựng Đảng thành một tổ chức trong sạch vững mạnh,
chiến đấu kiên cường; một tổ chức với đội ngũ cán bộ, đảng viên coi trọng việc
tu dưỡng đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, nâng cao năng lực,
gắn bó máu thịt với quần chúng, dám xả thân vì sự nghiệp cách mạng.

59
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích và làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; về vai trò của Đảng trong tiến trình cách
mạng?
2. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam?
3. Cho biết quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng cộng sản
Việt Nam thể hiện tính sáng tạo ở điểm nào? Ý nghĩa của sự sáng tạo đó đối với
cách mạng Việt Nam?
4. Tại sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền,
việc chỉnh đốn Đảng cần phải được làm thường xuyên và càng có ý nghĩa quan
trọng?
5. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt?
6. Vì sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ được
coi là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản?
7. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm: giáo dục đạo đức cách mạng là nội
dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng?

Chương V
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, V Ề KẾT
HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI

Mục đích yêu cầu.


- Giúp người học nắm vững cơ sở khoa học, những nội dung cơ bản của
tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Thấy được
vai trò, vị trí và các yêu cầu cụ thể của việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế.
- Trên cơ sở đó đóng góp sức mình xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, đoàn kết quốc tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay.
Tài liệu tham khảo.

60
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991,
2001, 2006.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Văn tạo, Phát huy sức mạnh của liên minh công nhân, nông dân, trí thức
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghiên cứu lịch
sử, số 10, 2005.
5. Vũ Quang Vinh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản, Lý
luận chính trị, số 7, 2005.
6. Đặng Văn Thái, Vấn đề đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

Nội dung

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.


1. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, trước hết là tư tưởng của bản thân
Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của các thế hệ đi trước và
thực tiễn phong trào cách mạng trên thế giới.
- Hồ Chí Minh đã kế thừa các giá trị về đoàn kết của các thế hệ đi trước:
+ Các giá trị nhân văn, tính cố kết cộng đồng trong truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam.
+ Những giá trị tư tưởng ở phương Đông và phương Tây.
Tư tưởng “đại đồng” trong Nho giáo và Phật giáo.
Thuyết “Tam dân” của Tôn Dật Tiên, lòng thương dân của H. Ganđi.
Các trào lưu dân chủ, tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của phương Tây.
+ Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh là các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo
chân chính ra lịch sử; liên minh công - nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to
lớn của cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; các
khẩu hiêu. “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại", “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"...
Tóm lại, từ truyền thống đoàn kết của dân tộc, tiếp thu tư tưởng nhân
loại, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính chủ nghĩa Mác -
Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức đúng các giá trị trong truyền thống đân
tộc, các giá trị của tư tưởng phương Đông và phương Tây, cùng những hạn chế

61
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

của nó, đồng thời nâng tư tưởng đại đoàn kết lên một tầm cao mới: đại đoàn kết
vừa là mục tiêu vừa là động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là sự đúc kết kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn của phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.
+ Ở trong nước, Hồ Chí Minh quan tâm nghiên cứu nguyên nhân thất bại
của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta và một trong những kết luận mà
Người rút ra về nguyên nhân thất bại là do thiếu một chiến lược tập hợp lực
lượng đúng đắn.
Mặc dù không trực tiếp lãnh đạo phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, song từ
thất bại của phong trào, Hồ Chí Minh cũng đã rút ra nhiều bài học từ phong
trào này, trong đó có bài học về chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân.
+ Những thành công và cả thất bại của các phong trào đấu tranh của
nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, của nhân dân Ấn
Độ dưới sự lãnh đạo của H.Ganđi, N.Ganđi và hàng loạt phong trào đấu tranh
của nhân dân các nước khác đã cung cấp cho Hồ Chí Minh nhiều bài học quý
về xây dựng khối đại đoàn kết.
2. Khái niệm, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
a. Khái niệm đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
- Vị trí của vấn đề đại đoàn kết trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong 12 tập của Hồ Chí Minh toàn tập, thì có đến 839 bài Hồ Chí Minh
đề cập đến vấn đề đại đoàn kết (chiếm tỷ lệ 43,6%). Trong các bài đó, Bác đã
1809 lần nhắc đến cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”, có bài, cụm từ này được
nhắc đến 16 lần (Sửa đổi lề lối làm việc), trong Diễn văn kỷ niệm ngày Quốc
khánh 2/9/1957, Người nhắc đến 19 lần... Điều này chứng tỏ vấn đề tập hợp, tổ
chức lực lượng, đoàn kết, đại đoàn kết là một vấn đề hết sức nổi bật, trọng tâm
trong suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh.
- Khái niệm đoàn kết, nhìn chung, được sử dụng tương đối thống nhất
trong các tài liệu ở trong nước và trên thế giới. Đoàn kết được hiểu là sự thống
nhất ý chí, hành động của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm thực hiện
một mục tiêu xác định.
- Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù có ngoại
diên rất rộng bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều quan hệ trên - dưới, trong -
ngoài..., ta có thể tiếp cận phạm trù đại đoàn kết từ nhiều góc độ:
+ Về cơ cấu xã hội: đoàn kết các giới, các ngành nghề, các thành phần xã
hội, các lứa tuổi...
+ Về địa bàn: đoàn kết nông thôn - thành thị, miền ngược - miền xuôi,
trong nước - ngoài nước.. .
+ Về phạm vi: đoàn kết trong gia đình, tập thể, cộng đồng, xã hội, khu
vực - quốc tế.. .

62
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Có thể nhận định khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh: đại đoàn kết là một
hệ thống các luận điểm, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để
giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Có thể diễn đạt gọn hơn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tư tưởng
xây dựng, củng cố, tăng cường, mở rộng lực lượng cách mạng trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
- Trên cơ sở quan điểm đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đi sâu lý giải hàng loạt
các vấn đề lý luận như vì sao phải đoàn kết, làm thế nào để đoàn kết, điều kiện
thực hiện đoàn kết thành công...
+ Phải thực hiện đoàn kết vì đoàn kết là sức mạnh, là lực lượng và hơn
thế, đoàn kết còn là nhu cầu nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân dân.
+ Để xây dựng thành công khối đại đoàn kết cần phải tìm ra điểm tương
đồng, thống nhất và dùng điểm tương đồng thống nhất để chế ngự sự khác biệt.
+ Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết là phải phân biệt rõ bạn và thù,
phải làm tăng bầu bạn, bớt kẻ thù.
Với quan điểm “đoàn kết là lực lượng”, Hồ Chí Minh đã nâng vấn đề đại
đoàn kết trở thành một vấn đề chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa sống còn, quyết
định sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ: Đoàn kết càng chặt chẽ, càng
rộng khắp thì thành công càng to lớn. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
b. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính
trị, cũng không đơn thuần là một phương pháp tập hợp lực lượng, mà mục tiêu
của cách mạng còn là đoàn kết. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt
tiến trình đấu tranh cách mạng.
- Phương châm của đoàn kết dân tộc: “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành công, thành công, đại thành công”. Luận điểm này thể hiện: Đoàn kết
càng chặt chẽ và rộng khắp bao nhiêu thì thành công càng to lớn và vững chắc
bấy nhiêu; Mặt khác phải xây dựng một khối đại đoàn kết bao gồm nhiều tầng
mặt trận gắn kết chặt chẽ với nhau.
Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để
thực hiện đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh giải quyết các nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam. Nhiều lần Người nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta” (T7, tr.392), “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta” (T7, tr.397),
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (T11, tr.22), và “Đoàn kết

63
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt” (T11, tr.154)

Khẳng định vai trò của việc thực hiện khối đoàn kết dân tộc trong cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân
dân ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. Đoàn kết trong Mặt trân Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến
thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc” (T10, tr.604)
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của
dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt
trong tất cả các lĩnh vực từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động
thực tiễn của Đảng. Trong buổi ra mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có
thể gồm trong 8 chữ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” (T6,
tr. 183).
Người yêu cầu phải quán triệt nguyên tắc tin dân, dựa vào dân trong mọi
suy nghĩ và hành động của Đảng, của công chức nhà nước. Với Hồ Chí Minh,
tin dân, dựa vào dân nghĩa là:
Thứ nhất, coi dân là gốc, là nền tảng của đại đoàn kết.
Thứ hai, dân là chủ thể của đại đoàn kết .
Thứ ba, dân là nguồn gốc sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn
kết, là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, dân là chỗ dựa vững chắc của đảng cộng sản, của cả hệ thống
chính trị.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành
công phải có thực lực, thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm
1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám, và
trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân
tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng
chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền
huấn luyện là: Một là đoàn kết, Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu
tranh thống nhất nước nhà” (T11, tr.130)
Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và tinh thần hợp tác. Đảng cộng sản phải có

64
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhiệm vụ thức tỉnh, chuyển các nhu cầu tự phát thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thực được tổ chức trong khối đoàn kết tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong cuộc đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ của công cuộc giải phóng.
3. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc.
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm mọi người Việt
Nam, là “con dân của nước Việt”, là “mỗi một con Rồng cháu Tiên”, là không
phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giầu, nghèo, quý, tiện”, trong đó đông đảo nhất là
công nhân và nông dân.
Nói tới đại đoàn kết dân tộc là phải tập hợp được tất cả mọi người dân
vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp – dân
tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là
lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phụng sự Tổ quốc. Muốn vậy
phải lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng, tập hợp rộng
rãi mọi tổ chức và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản.
+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu
nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã
hội có định hướng, có tổ chức, có sự lãnh đạo dựa trên một cơ sở lý luận khoa
học
Người chỉ rõ đại đoàn kết không đơn thuần là vấn đề tình cảm “Người
trong một nước phải thương nhau cùng”. Trên cơ sở tiếp thu lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền
tảng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí
Minh nhận thức rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trên cơ sở
đó, tuyên truyền, giáo dục quần chúng, biến sức mạnh tự phát của quần chúng
thành sức mạnh tự giác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người; giúp Hồ Chí Minh hình thành, phát triển tư tưởng đại
đoàn kết theo lập trường giai cấp vô sản.
+ Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phạm vi rộng lớn, nhiều tầng
nấc, nhiều cấp độ. Trên phạm vi dân tộc, hình thức tổ chức đoàn kết là Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Có thể thấy rằng Mặt trận do Hồ Chí Minh sáng lập có tổ chức khoa học,
chặt chẽ thống nhất từ Trung ương đến cơ sở đã đoàn kết được các tổ chức,
đoàn thể, cá nhân yêu nước vào trong một tổ chức thống nhất tạo nên sức mạnh
của toàn dân tộc mà “không một sức mạnh nào có thể thắng nổi”.
Hội phản đế Đông Dương đã được thành lập thúc đẩy phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh. Sau đó căn cứ nhiệm vụ cụ thể từng thời kỳ mà Mặt trận dân chủ
Đông Dương (1936-1939), Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
65
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

(1939-1941), và ngày 19/5/1941 Việt Nam độc lập đồng minh đã lần lượt ra đời
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.
+ Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức
làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm trên chính là ở chỗ công
nhân và nông dân là hai lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất ở nước ta.
Tầng lớp trí thức Việt Nam cũng rất yêu nước, trung thành với dân tộc và Tổ
quốc cùng chịu cảnh mất nước, cùng có một nguyện vọng chung là độc lập cho
dân tộc tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
+ Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh công,
nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, thể hiện mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc và giai cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một mặt
nào.
Tuyệt đôi hóa vai trò của công nông và trí thức hạ thấp vai trò của Mặt
trận sẽ dẫn đến cực đoan “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi; ngược lại hạ thấp vai trò
của liên minh công nông và trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên tắc, vô
chính phủ.
Thực tiễn chỉ ra rằng Mặt trận càng rộng rãi bao nhiêu thì sức mạnh của
liên minh công nông và trí thức càng to lớn bấy nhiêu và ngược lại khi liên
minh công nông và trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận càng
vững chắc, càng có sức mạnh.
+ Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận bình đẳng,
mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc
Để làm tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng phải phấn đấu xứng đáng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện xứng đáng cho lợi ích của
dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, hướng dẫn cả
dân tộc đấu tranh vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao
động. Mặt khác, Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công
nông và trí thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong xã
hội.
- Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con
người
+ Xã hội luôn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp do lịch sử để lại,
nếu không có lòng khoan dung độ lượng đối với con người thì không thể khép lại
quá khứ, hướng đến tương lai. Cần phải khoan dung độ lượng thì mới xóa bỏ
được thành kiến, định kiến, chân thành đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
+ Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan dung rộng lớn
trước tính đa dạng của con người.
Hồ Chí Minh nhìn con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong
quan hệ xã hội, trong tính cách, khát vọng, phẩm chất và khả năng... Theo
Người mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người đều có ưu điểm, khuyết
66
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

điểm, mặt tốt, mặt xấu, mặt được, mặt chưa được... nhưng tấm lòng của Người
bao dung tất cả.
Người từng viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa
được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước
cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn, cũng như
cái chén cái đĩa cạn” (T5, 644).
Với độ lượng sâu như biển rộng, Hồ Chí Minh đã tập hợp quanh mình và
phát huy tác dụng của cả những vị vốn là đại thần của Nam triều cũ, dung nạp
cả cựu hoàng Bảo Đaị, kẻ đã từng kết án tử hình Người.
Đối với những cán bộ, đảng viên có lỗi, Người mong muốn và tạo điều
kiện sửa chữa lỗi lầm, Người nâng niu mặt tốt, mặt thiện trong con người, lấy
đó làm biện pháp giúp đỡ con người,
Có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, khả năng vươn lên chân,
thiện, mỹ của con người, dù nhất thời họ còn thấp bé lầm lạc
+ Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần phải có lòng tin vào nhân dân. Với
Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào nhân dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc
của nhân dân là nguyên tắc tối cao chi phối mọi suy nghĩ và hành động của
Người.
4. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
a. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp,
từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng: “Hội ái hữu”, “công hội”, “nông hội”, “Phật giáo cứu
quốc”, “Công giáo yêu nước”…Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc
thống nhất.
- Tuỳ tình hình cụ thể, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống
nhất có những nét khác nhau, tên gọi khác nhau: “Hội phản đế đồng minh
(1930), “Mặt trận dân chủ” (1936), “Mặt trận Việt Minh” (1941), “Mặt trận Liên
Việt” (1946) “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” (1960), “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam” (1955, 1976)- song thực chất chỉ là một: Đó là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ tất cả các đảng
phái, giai cấp tầng lớp, cá nhân yêu nước phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
b. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống
nhất
Để quy tụ mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, phải xử lý hàng
loạt các mối quan hệ gia đình - xã hội, cá nhân - tập thể, bộ phận - toàn cục,
dân tộc - quốc tế. Trong các mối quan hệ này, bao giờ cũng có những mối quan

67
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

hệ đồng thuận - phi đồng thuận. Muốn xử lý hài hòa các quan hệ lợi ích, cần
phải tìm kiếm, trân trọng, phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất và
dùng các yếu tố đó để chế ước, giải quyết sự khác biệt. Muốn vậy cần:
Thứ nhất, coi “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Với việc xác định lợi ích: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ là lợi ích tối cao của toàn dân tộc, là mẫu số chung của mọi người Việt
Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã khơi dậy niềm tự hào trong mỗi con người
Việt Nam từ đó tạo dựng được ngọn cờ đoàn kết dân tộc và đây chính là cái bất
biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời cũng là nguyên tắc bất di bất dịch
của cách mạng Việt Nam.
Muốn giải quyết đúng các mối quan hệ lợi ích thì theo Hồ Chí Minh cốt
lõi là phải giải quyết đúng quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Trong mối quan hệ
đó, vai trò lãnh đạo, lợi ích giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai
cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp, đại diện cho lợi ích
chung nhất của các giai cấp.
Thứ hai, “Tất cả vì con người, cho con người”
Những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động được kết tinh trong phạm
trù độc lập tự do, ấm no hạnh phúc. Những quyền lợi đó ở mỗi thời kỳ của lịch
sử đều có những biểu hiện khác nhau. Hồ Chí Minh yêu cầu phải căn cứ vào
từng điều kiện cụ thể của cách mạng để đề ra những nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu
của quảng đại quần chúng nhân dân lao động.
Với Hồ Chí Minh độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân là
chìa khóa để giải quyết tất cả các quan hệ phức tạp. Trên cơ sở hai nguyên tắc
này, với phương châm “Cầu đồng, tồn dị”, Hồ Chí Minh đã xử lý hết sức thành
công quan hệ giữa các lực lượng trong xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và quốc tế:
Đối tượng thực hiện đoàn kết quốc tế là các lực lượng của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng và bảo vệ độc lập dân
tộc, phong trào hòa bình và tiến bộ trên thế giới.
Việc xử lý quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trước hết phải nhằm mục tiêu
độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời góp phần vào
bước tiến chung của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận phải được xây dựng trên cơ sở các
nguyên tắc sau:
Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng của khối liên minh
công - nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất” (T10, tr.18). Hồ Chí Minh giải thích: “Vì họ là người sản xuất tất cả mọi
tài phú làm làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột
68
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi
tầng lớp khác”. (T8, tr.214)
Hai là, Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của
dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Ngay từ 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã khẳng
định chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định
cụ thể phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, trong đó độc lập, tự do và
hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc bất di bất dịch, là mẫu số chung để quy
tụ tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào trong Mặt trận.
Ba là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả các vấn đề của Mặt trận
đều phải được đem ra để tất cả các thành viên bàn bạc công khai để đi đến nhất
trí. Đảng là người lãnh đạo Mặt trận nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận,
do vậy tất cả mọi chủ trương chính sách của Đảng phải được trình bày trước Mặt
trận để các thành viên khác cùng bàn bạc dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích
cực và thống nhất hành động.
Để thực hiện nguyên tắc này, Đảng cần đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp và dân tộc, lợi ích chung và
lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, song phải đặt lợi ích chung lên
trên hết, trước hết.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Năm là, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống
nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Với tư cách là thành viên mặt trận, Đảng phải tôn trọng các thành viên
khác trong mặt trận, tôn trọng nguyên tắc hoạt động của mặt trận, nhất là
nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Với tư cách là người lãnh đạo mặt trận, Đảng
phải có tầm nhìn xa, trông rộng, phải “vừa đạo đức, vừa văn minh”. Để làm
tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng không chỉ phấn đấu xứng đáng là đội
tiên phong của GIAI CấP công nhân, mà còn phải là đại diện xứng đáng cho
dân tộc.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC
VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
- Một số vấn đề về thời đại:

69
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Thời đại Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị là thời kỳ diễn ra
những bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử loài người về tất cả các mặt kinh
tế chính trị, văn hóa, xã hội... Đáng chú ý là các đặc điểm sau:
Thứ nhất, CNTB chuyển sang giai đoạn CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa
CNĐQ và các dân tộc thuộc địa ngày càng gay gắt.
Thứ hai, thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga mở đầu thời đại
mới..., đồng thời tạo ra mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB. Ý nghĩa của cuộc
cách mạng này theo HCM là: “Mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và
cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên toàn thế giới” (T10, 1989, 594 ).
Thứ ba, sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau ngày càng trở nên gay gắt hơn
Thứ tư, sự bóc lột của CNTB làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong các nước TBCN ngày càng gay
gắt.
Thứ năm, sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo nên những thay đổi có tính
cách mạng trên nhiều lĩnh vực
+ Cho đến nay thời đại mới đã trải qua 4 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất (từ 1917-1945): cách mạng XHCN thắng lợi ở một
nước, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới.
Thời kỳ thứ hai (1945- đầu những năm 70): thời kỳ hình thành và phát
triển hệ thống các nước XHCN, sự thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc
và sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
Thời kỳ thứ ba (từ cuối những năm 70 - cuối những năm 80): Cộng đồng
các nước XHCN rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng; sự tấn công của các thế
lực thù địch và phản bội đã làm tan vỡ CNXH ở Đông Âu và Liên Xô (1990-
1991).
Thời kỳ hiện nay (đầu những năm 90): Thời kỳ thoái trào của CNXH thế
giới, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực.
- Sức mạnh của dân tộc
Theo HCM, sức mạnh của dân tộc ta được thể hiện ở những điểm chính
sau:
+ Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường là cốt lõi của sức sống của
dân tộc Việt Nam.
Chính tinh thần này đã khiến dân tộc ta không thể bị tiêu diệt trước chính
sách đồng hóa của phương Bắc và ách đô hộ thực dân phương Tây, mà “vẫn
sống, sống mãi mãi” (T1, 28), bọn thực dân Pháp dù “đầu độc có hệ thống”
cũng “Không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách
mạng” (T1, 28) của nhân dân Việt Nam, và người Đông Dương “Giấu một cái
gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ
đến) (T1, 28)

70
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Một sỹ quan Pháp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam lúc bấy giờ
đã thú nhận: “Chúng ta không biết rằng Việt Nam là một dân tộc kiên cường,
gắn bó với lịch sử riêng của mình, với những thể chế riêng của mình và thiết
tha với nền độc lập riêng của mình; chúng ta không biết rằng Việt Nam chưa
bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Tình trạng chúng ta rất đỗi khủng
khiếp và chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất, mà ý thức dân
tộc của họ không hề bị suy yếu” (fer linand, erreurs et danger, Paris, 1901, p.11
(Trích theo, Phan Ngọc Liên: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh cuả
dân tộc với sức mạnh thời đại, Nxb CTQG, HN, 1999).
Mắcnamara: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất là sức
mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại năng lượng
nguyên tử; thời đại phản lực; thời đại điều khiển học; thời đại chinh phục vũ
trụ; thời đại thông tin hóa... Dù đặt tên cho thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và
người Việt Nam đều không có, sức mạnh duy nhất của họ là sức mạnh của con
người”. (dugla Rannut, Làn gió mát từ thành phố Hồ Chí Minh, Tenbo, 1975,
tr.43). Chính M.c Namara đã tổng kết “11 nguyên nhân chính gây ra thảm họa
cho Mỹ ở Việt Nam”, bài học thứ ba được Ông viết: “Chúng ta đánh giá thấp
sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc đấu tranh và hy sinh cho
lý tưởng và các giá trị của nó, chúng ta vẫn tiếp tục đánh giá thấp chủ nghĩa dân
tôc ở nhiều nơi trên thế giới” (M.c Namara, Nhìn lại quá khứ. Tấm thảm kịch
và những bài học về Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 1995, 316).
+ Chủ nghĩa yêu nước được coi là sức mạnh nổi bật là hạt nhân của
truyền thống dân tọc Việt Nam.
Hồ Chí Minh viết về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6,
171).
+ Hồ Chí Minh cũng đã sớm nhận thức được sức mạnh to lớn của khối
đại đoàn kết và đã phát triển nó thành “chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” .
Tóm lại, tổng hợp các mặt sức mạnh dân tộc, Hồ Chí Minh đã làm nổi
bật sức mạnh của con người Việt Nam. Đó là sức mạnh của thể lực và trí tuệ,
sức mạnh của bề dầy lịch sử, của sự thông minh và lòng dũng cảm...sức mạnh
ấy vững bền và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
- Sức mạnh của thời đại.
+ Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của thời đại là nhân tố quyết định
cho sự phát triển hợp quy luật lịch sử của mỗi dân tộc.
+ Sức mạnh của phong trào cách mạng ở thuộc địa và phong trào cách
mạng chính quốc nhằm tấn công CNĐQ trên cả hai mặt trận

71
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Sức mạnh của hệ thống XHCN, Hồ Chí Minh khẳng định hệ thống này
cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra trên thế giới chính
là những nhân tố làm nên sức mạnh của thời đại
- Phát huy sức mạnh của thời đại, với Hồ Chí Minh là phải biết huy động
sức mạnh của các trào lưu cách mạng trên thế giới, các nhân tố tích cực của
thời đại phục vụ cho sự phát triển của dân tộc.
2. Nội dung tư tưởng HCM về kết mạnh sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại.
- Nguyên tắc chung của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại
+ Những người bị áp bức ở tất cả các nước phải nhận thức được “đâu là
những người anh em thật sự và đâu là kẻ thù của họ” (T1, 200).
+ Phải nhìn nhận xu thế phát triển của thời đại trong trạng thái vận động,
phát triển không ngừng của nó, để từ đó tiên đoán triển vọng tình hình, vạch ra
đường lối, chủ trương đấu tranh thích hợp
Trong thực tế, Hồ Chí Minh có nhiều dự đoán thiên tài: dự đoán về sự
thất bại của chủ nghĩa Phát xít và sự thắng lợi của cách mạng Việt nam năm
1945, dự báo về trận quyết chiến chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước...
Đồng chí Trường Chinh đã viết: “Thế giới quan của chủ nghĩa Mác -
Lênin và kinh nghiệm đấu tranh lâu năm đã làm cho Người có khả năng tiên
đoán trước thời cuộc, mau lẹ nhận ra những bước ngoặt của lịch sử và đề ra
những khẩu hiệu thích hợp nhằm xoay chuyển tình hình” (Trường Chinh: Hồ
Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của GIAI CấPCN và dân tộc Việt Nam, Nxb Sự
thật, HN, 1965, 56).
Nguyên tắc nhận thức về thời đại của Hồ Chí Minh là cơ sở phương
pháp luận cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cụ
thể:
Thứ nhất, để hành động đúng, có hiệu quả phải nhận thức thời đại một
cách khoa học, biện chứng, khắc phục tư tưởng chủ quan duy ý chí
Thứ hai, nhất quán trong mục tiêu, linh hoạt trong việc kết hợp các lực
lượng để đấu tranh thực hiện mục tiêu đề ra.
Thứ ba, biết sắp xếp lực lượng cho phù hợp với mục tiêu đấu tranh và tình
hình cụ thể của cách mạng.
- Đặt cách mạng Việt Nam trong tình hình nhiệm vụ chung của cách mạng
thế giới và sự tác động qua lại giữa chúng
+ Hồ Chí Minh xác định CMVN nằm trong phạm trù CMVS, tức là thực
hiện giải phóng dân tộc và đưa đất nước đi lên CNXH, góp phần cùng cách
mạng thế giới đánh đổ CNTB, vì vậy, vấn đề dân tộc phải gắn liền với vấn đề
giai cấp; cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với CMVS; vấn đề thuộc
địa là vấn đề quốc tế.
72
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Người chỉ ra nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương
Đông là do sự biệt lập, thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và cổ
vũ lẫn nhau.
+ Người yêu cầu phải làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp
xúc mật thiết với GIAI CấPVS phương Tây để dọn đường cho sự hợp tác thật
sự sau này nhằm bảo đảm thắng lợi cuối cùng
+ Khi gắn cách mạng dân tộc với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh vẫn
nhấn mạnh những đặc điểm riêng về lịch sử - xã hội, chính trị, kinh tế của mỗi
dân tộc, những đặc điểm riêng của phương Đông và phương Tây để vạch ra
chiến lược đấu tranh cho phù hợp
+ Trọng tâm của công tác giáo dục tinh thần quốc tế, trong các nước đi
áp bức, là làm cho người lao động hiểu thấu đáo vấn đề các dân tộc bị áp bức
có quyền tự tách ra và lập thành các quốc gia độc lập, còn trong các nước bị áp
bức thì trọng tâm là giáo dục vấn đề liên minh tự nguyện giữa các dân tộc.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
+ Xây dựng tình hữu nghị, hợp tác, đoàn kết dân tộc trên cơ sở tình hữu
ái vô sản xuất phát từ lợi ích của chính mỗi dân tộc, của cả phong trào cách
mạng thế giới và đây cũng là sự hợp tác mang tính nhân văn cao cả nhất.
“...Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản” (T1, 266).
+ Hồ Chí Minh luôn cố gắng giúp cho các dân tộc ý thức về khả năng
cũng như nỗi nhục nhã, khổ đau mà dân tộc mình phải gánh chịu, khơi dậy sự
“thức tỉnh của nô lệ”, đồng thời tố cáo mạnh mẽ, mọi mặt và có hệ thống tội ác
của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộcthuộc địa và giai cấp vô sản chính
quốc
+ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý xây dựng tình đoàn kết hữu nghị với nhân
dân các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Người nói: “Giúp nhân dân
nước bạn tức là mình tự giúp mình”
+ Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phải kiên trì
đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa
vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa Sôvanh, thực hiện đúng và bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Người kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa quốc tế vô sản, coi tinh
thần đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chính là sức
mạnh của các cuộc CMVS và đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trước những bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
việc mất đoàn kết giữa các đảng, nhất là các đảng cầm quyền ở các nước
XHCN trước đây, Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để củng cố khối đoàn kết
giữa các nước XHCN, không làm cho tình hình thêm xấu đi

73
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Ngày 10-2-1963, Bộ chính trị trung ương Đảng ta ra tuyên bố đề nghị


các đảng ngừng công kích lẫn nhau trên báo chí và đài phát thanh và họp hội
nghị các đảng để khắc phục sự bất hòa. Hội nghi lần thứ 9 BCHTƯ (12-1963),
nêu hai cách đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, tăng cường củng cố sự đoàn kết
quốc tế trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là:
“1. Tiến hành cuộc đấu tranh công khai về lý luận và tư tưởng, phân rõ
đúng sai, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin
2. Tổng kết kinh nghiêm thực tiễn của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế và của từng nước, đi đến kết luận có tính lập luận, thông qua công
tác đó mà phê phán những quan điểm sai lầm, đồng thời phát triển quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo” (Bài nói của đồng chí Trường
Chinh tại hội nghị phổ biến nghị quyết hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành
trung ương Đảng (khóa III), lưu tại viện lịch sử Đảng Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh). Trước khi mất, trong Di chúc, Người viết: “Là một người
suốt đời phục vụ cách mạng, tôi tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất
hòa hiện nay giữa các đảng anh em.
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác
-Lênin và chủ nghĩa Quốc tế vô sản có lý, có tình” (T10, Nxb Sự thật, HN,
1989, 836). những lời căn dặn chí tình chí nghĩa của Hồ Chí Minh thể hiện tấm
lòng, tình cảm, trách nhiệm đồng thời là những nguyên tắc của Hồ Chí Minh
trong quan hệ giữa các đảng anh em.
+ Nội dung kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong điều kiện GIAI CấPVS đã giành được chính quyền là phát triển chủ nghĩa
yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, kết hợp
lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.
- Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ
quốc tế cao cả của mình
+ Trong quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Hồ Chí
Minh khẳng định nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định. Xây dựng lực
lượng của bản thân là để có thế và lực trong việc tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên
ngoài trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Có nội lực mạnh sẽ giúp chúng ta:
Giữ vững độc lập tự chủ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, hạn chế đến mức thấp nhất sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Giữ vững được định hướng chính trị trong quá trình phát triển đất nước,
tránh được sự ngả nghiêng, dao động, nhất là khi có những sức ép từ phía các
đối tác

74
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ động, tỉnh táo, sáng suốt trong hoạt động quốc tế để phân định bạn -
thù, không bỏ qua những cơ hội phát triển, những lực lượng cần liên hiệp, cảnh
giác với những âm mưu lợi dụng danh nghĩa “giúp đỡ”, “nhân đạo”, “hữu nghị”
để tiến hành các hoạt động phá hoại.
+ Gắn kết cuộc đấu tranh cho độc lập và phát triển của dân tộc mình với
bốn mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Nhằm tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân tiến bộ, cô lập, hạn chế và làm
thất bại âm mưu mở rộng chiến tranh của các thế lực thù địch.
+ Tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Trên tinh thần
"giúp bạn cũng là tự giúp mình"...
- Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị hợp tác trên tinh thần sẵn sàng "làm
bạn với tất cả các nước dân chủ"
+ Ngay từ khi Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã
khẳng định mối quan hệ hợp tác thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế
giới.
Hồ Chí Minh: ''Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều
tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới". "Thái độ nước Việt
Nam đối với những nưỡc Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là
một thái độ bạn bè" (T5, tr.30, 136).
Năm 1949, trả lời phỏng vấn một nhà báo Mỹ về việc Việt Nam có hoan
nghênh tư bản ngoại quốc không? Hồ Chí Minh: Bất kỳ nước nào (gồm cả
nước Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích
làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư
bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với các nước láng
giềng, nhất là với các nước có chung đường biên giới với Việt Nam. Với Lào và
Campuchia – xây dựng mối quan hệ hữu nghị đặc biệt... với Trung Quốc, phải
kế thừa truyền thống hữu hảo của ông cha ta, xây dựng mối quan hệ mới "vừa
là đồng chí, vừa là anh em".
Suốt gần nửa thế kỷ không biết mệt mỏi, Người đã xây dựng mối quan
hệ "vừa là đồng chí, vừa là anh em" với Trung Quốc. Ngay sau ngày Miền Bắc
được giải phóng Người đã đi thăm, các nước xã hội chủ nghĩa, Ấn Độ, Miến
Điện, Inđônêxia, hình thành trục hữu nghị Hà Nội - Niu Đêli - Giacácta
III. XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TộC HIỆN NAY.
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Thuận lợi:
+ Thế giới đang vận động theo chiều hướng các dân tộc trên thế giới
ngày càng xích lại gần nhau hơn, nhân loại ngày càng nhận thức sâu sắc và
khao khát về một xã hội hòa bình, tiến bộ, hợp tác, cùng phát triển.
+ Khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ đã đặt cả thế giới trước
xu thế tòan cầu hóa, góp phần làm tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc,
75
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tuy cũng chứa đựng khả năng phân hóa giữa các dân tộc sẽ ngày càng trở nên
gay gắt hơn.
+ Ở trong nước, chúng ta bước vào thế kỷ mới sau 30 năm đổi mới với
những thành tựu đáng ghi nhận, vị thế của dân tộc ta trên thế giới được nâng
cao rõ rệt, niềm tin của nhân dân vào chính sách đổi mới được giữ vững và tăng
cường.
- Khó khăn, thách thức:
+ Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng ly tâmn, chia cắt cũng tồn
tại.
Đầu thế kỷ 20, thế giới có khoảng 90 nước, giữa thế kỷ là 160 nước, nay
đã xắp đạt 200 nước và trong tương lai số nước trên thế giới còn tiếp tục tăng
lên). Xu hướng này động chạm đến hai vấn đề lớn ảnh hưởng âm ỉ, kéo dài là
vấn đề sắc tộc và tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hợp lý.
+ Cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn ra dai dẳng, gay gắt, các thế lực thù
địch vẫn muốn tìm mọi cách tiêu diệt CNXH tới tận gốc.
Một trong các thủ đoạn chúng quen dùng là tìm mọi cách chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân (sử dụng vấn đề sắc tộc, tôn giáo, làm lung lạc thế hệ
trẻ, ...)
+ Nền kinh tế thị trường cùng với quá trình nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đặt ra nhiều vấn đề như sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp
dân cư, các vùng..., các hiện tượng tiêu cực trong xã hội vẫn còn là hiện tượng
tương đối phổ biến.
Chiến tranh kéo dài nên những chia cắt, phân liệt diễn ra trong từng gia
đình, những thiên kiến, mặc cảm về chính trị còn trong một bộ phận dân cư; sự
tác động của cơ chế kinh tế thị trường dẫn đến sự phân hóa, phân tầng, một bộ
phận đảng viên thoái hóa biến chất, đi vào xu hướng thực dụng, cơ hội chủ
nghĩa.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới ở nước ta.
Để xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay, cần chú ý:
- Mục tiêu chung: khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng
đất nước, không bỏ lỡ cơ hội, vận hội rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái
nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ so với các nước
trong khu vực và trên thế giới
- Các nhiệm vụ cụ thể:
+ Về chính trị: Cần tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền
thống phương Đông về “Cầu đồng tồn dị”, xóa bỏ dần những mặc cảm, những
thiên kiến khác nhau, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn
minh.
+ Về kinh tế - xã hội, phải tạo cho mọi người dân một cơ hội bình đẳng
về pháp luật trong làm ăn kinh tế. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát
76
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

triển, khuyến khích làm giầu chính đáng, đi đôi với việc giúp dân xóa đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa...
+ Về chính sách đối ngoại: Cần có sự nhận thức đúng (cả mặt tích cực và
tiêu cực) về vấn đề toàn cầu hóa từ đó xây dựng chiến lược hội nhập của đất
nước ta vào khu vực và thế giới; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm
“VN muốn là bạn với tất cả các nước” vì hòa bình, hợp tác và phát triển, đồng
thời có sách lược mềm dẻo trong các quan hệ đa dạng và phức tạp của thế giới,
đảm bảo cho chúng ta hòa nhập, nhưng không bị hòa tan.
3. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Trên tinh thần muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp
mình đã, trong tình hình mới, chúng ta cần chú trọng cả nội lực và ngoại lực.
Trong đó nguồn nội lực bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự phát triển bền
vững của mỗi nước. Để phát huy nội lực cần thực hiện tốt các việc sau:
- Xây dựng hệ thống chính sách nhằm khai thông tất cả các nguồn nội
lực, đặc biệt nguồn lực về con người
- Chú trọng việc giáo dục niềm tin vào lý tưởng XHCN.
- Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa, các truyền thống của dân tộc.
- Giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trong việc tiếp thu sức mạnh bên
ngoài, kết hợp với sức mạnh trong nước.
30 năm đổi mới đã tạo cho chúng ta nhiều thuận lợi hơn, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên trước xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới, chúng ta chỉ có thể phát triển, giữ được bản sắc riêng của
minh trên cơ sở nguồn nội lực phong phú, đồng thời căn cứ vào trình độ phát
triển của đất nước để chủ động đề ra các phương pháp, bước đi thích hợp.
- Công tác đối ngoại được xác định có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc hỗ trợ và phát huy nội lực.
+ Nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại là tăng cường sự hợp tác mọi mặt
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi,
cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng, bảo đảm ổn định, an ninh và phát triển
+ Xây dựng mối quan hệ hữu nghị lâu dài, bền vững với các nước láng
riềng và các nước trong khu vực, mở rộng quan hệ hợp tác phát triển, chú trọng
quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Trong những cơ sở đó, cơ sở nào có ý nghĩa quyết định tới sự hình
thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh?

77
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2. Phân tích các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Ý nghĩa của luận điểm “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công,
thành công, đại thành công”.
3. Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết
trong sự nghiệp cách mạng.
5. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung và hình thức của
đoàn kết quốc tế.
6. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: thực hiện đại đoàn kết toàn dân cần
phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng đối với con người?
7. Vì sao trong quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ
Chí Minh chủ trương phải nêu cao ý chí tự lực tự cường, “dựa vào sức mình là
chính”?

78
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương VI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Mục đích yêu cầu.


Giúp người học nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về dân chủ và xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thấy
được những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, củng
cố niềm tin vào chế độ và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003.
2. ĐảNG CộNG SảN Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1991, 2001, 2006.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Phạm Văn Đồng, một số vấn đề về Nhà nước, Nxb ST, Hà Nội, 1980.
5. Nguyễn Duy Quý, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện nay, Triết học,
số 10, 2002.
6. Đoàn Trọng tuyến, Quán triệt những quan điểm cơ bản về nhà nước vào
việc cải cách nền hành chính nhà nước, Quản lý Nhà nước, số 4, 1995.
7. Nguyễn Ngọc Thanh, Về xây dựng một chính phủ - điện tử ở Việt Nam,
Giáo dục lý luận, số 1, 2003.
NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Khái niệm dân chủ xuất phát từ sự kết hợp chữ Hy-lạp dêmos và kratos
nghĩa là nhân dân và chính quyền. Dân chủ (Đemoskratos) nghĩa là chính quyền
thuộc về nhân dân.
Trong lịch sử đã tồn tại hai hình thức dân chủ cơ bản là dân chủ tư sản và
dân chủ vô sản. Thực ra trong xã hội có giai cấp đối kháng, nghĩa là xã hội bị
chia thành hai lực lượng thống trị và bị thống trị, thì dân chủ chỉ là hình thức.
Khi quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội bị đe doạ, họ sẵn sàng vứt bỏ dân chủ
để thực hiện các biện pháp chuyên chính nhằm bảo vệ quyền lợi giai cấp của giai

79
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

cấp mình. Chỉ khi nền dân chủ vô sản được thực hiện triệt để, các quyền dân chủ
của người dân mới thực sự được đảm bảo.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề
ngắn gọn “dân là chủ”, (nói tới vị thế của dân) “dân làm chủ” (nói tới năng lực
và trách nhiệm của dân). cả hai mệnh đề này luôn đi đôi với nhau phản ánh vị trí,
vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Người thường nhấn mạnh: “Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do dân làm chủ” (T7, tr.452) “Chế độ ta là chế
độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” (T10, tr. 251), “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” (T6, tr.515)
2. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Dân chủ thể hiện trong lĩnh vực đảm bảo quyền của con người, quyền
công dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội trong đó dân chủ thể
hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất. Người chỉ rõ: “Ở nước ta, chính
quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân là ông chủ nắm chính
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. thế là
dân chủ” (T7, tr.218)
- Dân chủ thể hiện ở phương thức tổ chức xã hội “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”, “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, hệ thống chính trị là do “dân
cử ra”, “dân tổ chức nên”.
3. Thực hành dân chủ.
Để xây dựng một xã hội, trong đó người dân thực sự là chủ, làm chủ Hồ
Chí Minh yêu cầu:
- Đối với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội cần
+ Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm dân chủ.
Ngay từ 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh, Hồ Chí Minh đã thiết kế một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau khi
giành thắng lợi, đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ
quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh nước nhà, gắn độc lập, tự do
của Tổ quốc với vận mệnh của từng người dân. Trong Tuyên ngôn độc lập, ngày
2/9/1945, người nêu rõ các giá trị dân chủ được gắn với đất nước độc lập, tự do,
hạnh phúc. Đặc biệt, trong bản Hiến pháp 1946, Người đã đặt cơ sở pháp lý đầu
tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Với trách nhiệm chủ trì việc biên soạn Hiến pháp 1959, cơ chế thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân được Hồ Chí Minh phát triển, cụ thể hoá thêm (các
điều 4, 5) và đặc biệt điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên nhà nước đều phải trung thành với chế

80
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân” (Hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.29).
+ Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng xây dựng các tổ chức bảo đảm dân chủ:
Xây dựng Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn thể xã hội.
Người khẳng định chỉ có phát huy được dân chủ trong Đảng mới bảo đảm dân
chủ trong xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự uỷ quyền của
giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng phải là hạt nhân chính trị
của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân thể hiện chức năng quản lý của mình
qua việc bảo đảm thực thi ý chí giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với
sự phát triển đất nước. Nhà nước thể chế hoá toàn bộ bản chất dân chủ của chế
độ.
Xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả
các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước
+ Xác định các yêu cầu cơ bản đối với nhân dân trong việc thực thi quyền
và nghĩa vụ làm chủ.
- Đối với công dân cần:
+ Hồ Chí Minh chỉ rõ dân chủ không phải từ trên trời rơi xuống, nó là kết
quả hoạt động của cả hai phía chính quyền và nhân dân. Dân muốn làm chủ phải
tích cực học tập để nắm vững quyền lợi và bổn phận của mình, phải có kiến thức
mới làm chủ được; d
+ Công dân phải tích cực tham gia cùng với Đảng và Nhà nước đấu tranh
chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI
Ở VIỆT NAM.
1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở nước
ta trải quá một quá trình nhận thức từng bước trong suốt khoảng thời gian dài
hơn 30 năm. Có thể khái quát quá trình nhận thức đó như sau:
Thứ nhất, thời kỳ từ 1911 trở về trước, tư tưởng xây dựng một nhà nước
trọng dân, thân dân, khoan dân, dựa vào dân của nền văn hóa chính trị phương
Đông đã được Hồ Chí Minh lĩnh hội và coi đó như hành trang trên con đường
tìm đường cứu nước

81
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ hai, từ năm 1911, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu về các cuộc
cách mạng lớn trên thế giới, cũng như các hình thức tổ chức nhà nước của nó.
Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhà nước của giai cấp tư sản: Người đánh giá
cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp, tư tưởng đề cao
quyền lực tối cao của nhân dân trong cách mạng Mỹ.
Thứ ba, Hồ Chí Minh khẳng định rằng sau khi cách mạng thành công,
phải thiết lập một chính quyền của số đông người.
“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
một bọn ít người”.
Thứ tư, một bước tiến của Hồ Chí Minh là Người chọn kiểu Nhà nước
công nông binh. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng, Ngưòi viết: “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập
và dựng ra Chính phủ công - nông - binh” (T3, tr.1)
Thứ năm, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn
phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi đến khẳng định việc xây
dựng một Nhà nước dân chủ nhân dân ở nước ta - Nhà nước kiểu mới trong lịch
sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam.
a. Xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là chủ
trương của Người xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ...
Đây cũng là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh
điển mácxítn và cũng là điểm cơ bản nhất giúp phân biệt Nhà nước ta với các
kiểu nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử.
Theo Hồ Chí Minh: Tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên, bất
kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh vác
một phần.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân được
thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Dân là chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân .... Quyền bính của
cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó cho.
Trong bài báo Dân vận, viết năm 1949, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước
ta là nước dân chủ”, điều này có nghĩa là:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.. .
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
82
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (T 5, 698)
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (T4, tr.56). Nếu
để cho dân đói, Chính phủ có lỗi, nếu để cho dân rét, Chính phủ có lỗi, nếu để
cho dân không được học hành, Chính phủ có lỗi...
Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) người thay mặt mình vào Quốc hội và các
cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của nhà nước; giám sát
hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra và bãi miễn họ khi họ không hoàn
thành nhiệm vu; được làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm.
Người yêu cầu phải xây dựng cho được các thiết chế dân chủ để thực thi
quyền làm chủ của nhân dân, theo đó các vị đại diện của dân, do dân cử ra chỉ
là thừa ủy quyền của nhân dân, là công bộc của dân theo đúng ý nghĩa của từ
này.
Người cũng yêu cầu phải kiên quyết chống lại tệ lợi dụng, lạm dụng
quyền lực để sách nhiễu nhân dân.
Người đã nhiều lần phê phán: "Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ, rồi
ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân: (T4, tr.57)
+ Tư tưởng Nhà nước do dân của Hồ Chí Minh được thể hiện: dân cử ra
các đại diện của mình; dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu,
hoạt động; dân phê bình, xây dựng, tạo điều kiện để Nhà nước ngày càng hoàn
thiện hơn. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức phải lắng nghe ý kiến nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự
kiểm soát của nhân dân. Người nói: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ" (T5, tr.60)
+ Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc
phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi cho nhân dân là mục tiêu cơ bản của Nhà
nước ta.
Hồ Chí Minh căn dặn: cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc
(người phục vụ chung của xã hội) của dân, nên “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính
dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (T4, tr.56).
Người còn căn dặn cán bộ các cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo
cho dân, chứ không phải để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như thời thực dân,
phong kiến. Người cũng nhắc nhở chính quyền các cấp phải: “Làm cho dân có
ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”
+ Cán bộ, công chức nhà nước đồng thời còn là người lãnh đạo, người
hướng dẫn của nhân dân
Người nói: "Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng.
Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường". Trong Di chúc

83
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Người căn dặn đảng viên, cán bộ phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân".
b. Tư tưởng về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân
dân và tính dân tộc của Nhà nước.
- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó luôn mang
bản chất giai cấp. Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam.
+ Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân
chia thành giai cấp và sẽ tự tiêu vong khi giai cấp không còn nữa. Vì vậy mà
không thể có nhà nước siêu giai cấp hay nhà nước đứng trên mọi giai cấp. Nói
nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, không phải là nhà nước
“toàn dân”, nhà nước phi giai cấp, mà là nói tới tính chất dân chủ nhân dân của
nhà nước, nói đến khối đại đoàn kết toàn dân của nhà nước, nói đến quyền làm
chủ của nhân dân lao động.
+ Nhà nước ta là nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, bởi vì:
Thứ nhất, Nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng
lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật; bằng
hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước; bằng
công tác kiểm tra.
Thứ hai, trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, bao giờ Hồ Chí
Minh cũng chú ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc cơ bản thể
hiện bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta.
Người viết: "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân
dân xây dựng chủ nghĩa xã hội" (T9, tr.592). Trong mối quan hệ với dân chủ,
Hồ Chí Minh cũng không ngại nói đến chuyên chính "Chế độ nào cũng có
chuyên chính. Vấn đề là chuyên chính với ai?...Như cái hòm đựng của cải thì
phải có khóa. Nhà thì phải có cửa...dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chuyên chính là cái khóa, cải cửa để đề phòng kẻ phá hoại...Thế thì dân chủ
cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ" (T8, tr.279)
Thứ ba, mục tiêu hoạt động của Nhà nước ta là đưa đất nước quá độ lên
CNXH.
Thứ tư, cốt lõi của Nhà nước ta là khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm triệt tiêu tính
nhân dân, tính dân tộc mà thống nhất, hài hòa trong nhà nước đại đoàn kết dân
tộc. Điều này thể hiện:
+ Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự
phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng.

84
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm
nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn là chính phủ đại đoàn kết
dân tộc.
+ Ngay từ khi mới ra đời nhà nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch
sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành
quả của cách mạng.
c. Tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ.
- Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong
quản lý xã hội. Người yêu cầu phải “thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật” (T1, tr. 436).
Trong bản Bản Yêu sách gửi Hội nghị Vécxây năm 1919, Người viết:
“Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ
hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận
trung thực nhất trong nhân dân An Nam” (T1, tr.345)
- Người đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng một Nhà nước hợp pháp,
hợp hiến
Ngay sau khi nhà nước mới ra đời năm 1945, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
chú ý đến tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước. Vì vậy, Người hết
sức chú trọng đến công tác xây dựng pháp luật và yêu cầu tất cả các cơ quan,
công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành đúng luật pháp. Cụ thể:
Người yêu cầu làm nhanh, “càng sớm, càng tốt”, cuộc tổng tuyển cử bầu
ra quốc hội mới, lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa (trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã 2 lần chủ trì soạn
thảo hiến pháp (năm 1946 và năm 1959).
- Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thực thi hiến pháp, pháp luật trong
thực tế. Người cho rằng soạn thảo pháp luật đã khó, song khó hơn là đưa nó
vào cuộc sống để mọi người cùng hiểu đúng, làm đúng Và Hồ Chí Minh đã
dùng cả cuộc đời mình để làm gương cho điều này: pháp luật là công bằng với
mọi người và ngay cả với Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngoại lệ.
Với Hồ Chí Minh pháp luật là vì con người, do con người vì vậy, trong
xây dựng hệ thống pháp luật, cần phải đặc biệt chú trọng tính nhân văn, đảm
bảo việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công
việc trên cơ sở có lý, có tình.
- Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh phải là nhà nước quản lý đất
nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới
đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Thực hiện thống nhất quyền lực,
nhưng có sự phân công, phân cấp rõ ràng. Theo Người, không có sự chia xẻ,

85
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

chia cắt quyền lực: các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều thống nhất là
quyền lực của nhân dân.
Tuy nhiên, để tránh chồng chéo và phản quyền, HCM cho rằng cần phải
có sự phân công, phối hợp nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, và sự phân công đó cũng nhằm thống nhất tất cả quyền lực đều thuộc về
nhân dân.
- Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật (hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn
thiện)
+ Tuyên truyề giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân
+ Xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát hữu hiệu, đảm bảo cho pháp luật
thi hành nghiêm minh trong cán bộ và nhân dân
+ Tích cực nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa chính trị, làm cho người
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám ngĩ, dám nói,
dám làm, dám phê bình các cơ quan nhà nước
+ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ đức tài với những
phẩm chất cơ bản: trung thành với cách mạng và tổ quốc; nhiệt tình, thành thạo
công việc hành chính, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; dám phụ trách, dám quyết
đoán, dám chịu trách nhiệm, liên hệ mật thiết với nhân dân, tự phê binh và phê
bình, có ý thức xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.
d. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả
Để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh các nội dung sau:
- Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
Người yêu cầu phải chống đặc quyền, đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ
cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh là người phát hiện rất
sớm những vấn đề tiêu cực trong quá trình xây dựng nhà nước mới.
Chỉ một tháng sau khi giành được độc lập, trong Thủ gửi ủy ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (10/1945), Người chỉ ra 6 căn bệnh: trái phép,
cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Nói về những vấn đề này, Người sử
dụng những ngôn từ lột tả bản chất vấn đề, như: “không phải làm quan cách
mạng”, “không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân tin, dân yêu”,
“Đừng có vác mặt quan cách mạng mà đặc quyền đặc lợi, thu vén cá nhân”...
Hồ Chí Minh giải thích cụ thể về các căn bệnh:
Trái phép: ..có lúc vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân
oán thán.
Cậy thế: cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước để ngang tàng, muốn sao
được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu ra mình là
để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân.

86
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức, “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô cậu
ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?.
Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu, không tài năng gì cũng kéo
vào chức này chức nọ, người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra
ngoài. Quên rằng việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp
nhân dân nhân nhượng, hòa thuận với nhau.
Kiêu ngạo: tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi
khinh nhân dân, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên. (T4, tr.57-
58)
Bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến làng không sợ sai lầm, mà phải
biết nhận ra sai và hết sức sửa chữa.
Hồ Chí Minh viết: “Không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì
phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên
chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên
này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không
khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói.
Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng” (T4, tr.58)
Để chống tiêu cực, phương pháp luận của HCM là quy tất cả các quan hệ
phức tạp của xã hội thành mối quan hệ với mình, với công việc, và với người.
Với mình phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải tự mình xử lý
chính mình. với người phải biết thương yêu, quý trọng, tin tưởng vào nhân dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; với công
việc phải tận tụy.
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng.
+ Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ sung
cho nhau trong thực tế trị nước.
+ Trong lịch sử, những người được coi là thành công trong sự nghiệp trị
nước đều biết kết hợp giáo dục đạo đức với với tăng cường pháp luật
Nhà Nho chủ trương đức trị, nhưng cũng không hề loại bỏ hình luật; các
nhà pháp trị cũng không hề bỏ qua tấm gương của các ông vua thánh, chúa
minh, những vị quan đức độ và kẻ sĩ hiền tài
+ Trong xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh tới vai trò của
pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, cần đẩy mạnh việc tuyên
truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Đồng thời cũng phải tránh tuyệt đối
hóa vai trò của pháp luật. Thực tế chỉ ra rằng pháp luật chỉ phát huy tác dụng
đầy đủ khi nó được hỗ trợ bởi các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục
đạo đức.

87
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong 24 năm lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu
mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo đức,
đồng thời không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Người yêu
cầu "Phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp
gì"
- Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra 3 thứ giặc nội xâm nguy hiểm cần
phải kiên quyết chống lại nhằm tránh nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết
được
Người chỉ rõ: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không,
cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến, ...Nó làm hỏng tinh thần
trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của
ta là cần, kiệm, liêm, chính...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật
thám" (T6, tr.490)
+ Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng được Hồ Chí Minh chỉ ra là
do bệnh quan liêu. Người viết: "Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ
cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục
cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà
không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ
thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn...thành thử có
mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững...Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung
túng che trở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng
phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu'' (T6, tr.489)

KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng
vàhoàn thiện nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Việc xây dựng Nhà
nước ta hiện nay cần:
- Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo thực
sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền
hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh.
+ Nền hành chính nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém: Quan liêu, xa dân,
xa cơ sở; phân tán, thiếu trật tự kỷ cương; tham nhũng, lãng phí của công; bộ
máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu quả; đội ngũ cán bộ còn yếu về kiến thức,
năng lực, một bộ phận kém phẩm chất, hư hỏng

88
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Cải cách bộ máy hành chính là một quá trình, phải được tiến hành
đồng bộ trên nhiều mặt. Cần làm cho đội ngũ công chức nhà nước quán triệt
nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân
dân, công chức nhà nước là công bộc của nhân dân. Bên cạnh chức năng quản
lý, Nhà nước còn thực hiện chức năng dịch vụ công
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn xây dựng
chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích các quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Sinh viên cần
phải làm gì để phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay?
2. Phân tích và làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về
xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam?
3. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta.
4. Cho biết Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
có những đặc trưng nổi bật nào?
5. Vì sao trong xây dựng nhà nước mới, Hồ Chí Minh khẳng định: pháp
luật và dân chủ phải đi đôi với nhau?

CHƯƠNG VII

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

Mục đích yêu cầu.


1. Sinh viên nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh
về đạo đức, văn hoá và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
2. Trên cơ sở đó, sinh viên lĩnh hội những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí
Minh và bước đầu rèn luyện phấn đấu theo tấm gương đạo đức của Hồ Chủ
tịch, kế thừa phát huy nội dung tư tưởng văn hoá của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
89
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đạo đức học, Nxb Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1991.
5. Thành Duy (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1996

Nội dung

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ.


1. Khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Định nghĩa về văn hóa.
Trên thế giới đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, song vẫn
còn có khá nhiều những điểm chưa thống nhất giữa những ý kiến. Có thể khái
quát một số cách định nghĩa về văn hóa: đồng nhất văn hóa với học vấn; đồng
nhất văn hóa với hoạt động văn hóa nghệ thuật bình thường; đồng nhất văn hóa
với những di tích lịch sử văn hóa; đồng nhất văn hóa với những sáng tạo kiệt
tác về lĩnh vực tinh thần.
Khái niệm văn hóa (Culture) từ tiếng Latinh: Cultur: trồng trọt, Cultur
argi: trồng trọt cây cối; cultur animi: trồng trọt tâm hồn con người. Ở phương
Đông, văn hóa: “văn”: vẻ đẹp, giá trị; “hóa”: trở thành. Văn hóa: trở thành giá
trị, trở thành vẻ đẹp.
Theo Unesco, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục tập quán, lối sống của nhân dân.
Đặc trưng của văn hóa là những giá trị do con người tạo ra, mang tính
lịch sử. Nói đến văn hóa là nói đến trình độ người.
Giáo sư Vũ Khiêu khẳng định: văn hóa là sự vun trồng của con người, xã
hội làm cho con người và xã hội ngày càng tiến bộ hơn, đổi mới hơn, ngày
càng xa rời trạng thái nguyên sơ. Ngày càng tách rời, xóa bỏ những đặc tính cả
động vật, khẳng định đặc tính của con người.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (T3, tr.431).
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới.
“1- Xây dựng tâm lý: Lý cách (lý tưởng cách mạng - TG), tinh thần độc
lập tự cường.

90
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế”. ( T3, tr. 431).
Qua phác thảo trên của Hồ Chí Minh ta thấy:
+ Người đã đặt vấn đề xây dựng một nền văn hóa hết sức toàn diện, phản
ánh được các mặt cơ bản của đời sống xã hội.
+ Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc trưng của nền văn hóa phương
Đông, văn hóa Việt Nam, trong đó nổi lên vấn đề đặt lợi ích cộng đồng, lợi ích
tập thể lên trên lợi ích cá nhân
+ Hồ Chí Minh đã giải quyết quan hệ văn hóa với chính trị, kinh tế, xã
hội (đặt kinh tế ở vị trí cuối cùng trong bảng phác thảo, không giải thích gì,
phải chăng Hồ Chí Minh muốn nói tới kinh tế là cơ sở, trên cơ sở đó xây dựng
các vấn đề khác?)
Bản sắc văn hóa của dân tộc được hiểu là chứng minh thư của dân tộc.
Đánh rơi bản sắc văn hóa dân tộc tức là đánh rơi chính bản thân mình và trở
thành cái bóng của dân tộc khác. Đồng chí Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Ở Hồ
Chí Minh nhà chính trị (bao gồm cả nhà chiến lược, nhà tổ chức, nhà quân sự)
hòa quyện với nhà nhân văn, nhà đạo đức, nhà văn hóa, hình thành một diện
mạo, một nhân cách riêng của Hồ Chí Minh... Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn
bó thống nhất của những quan điểm tư tưởng chính trị (về cách mạng dân tộc
dân chủ, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về tổ chức lực lượng, về quân sự) với
tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức, tư tưởng văn hóa... Nói chung là trình độ
“người”, trình độ “người” của những quan hệ xã hội, bao gồm tất cả những gì
liên quan đến sáng tạo của con người, của dân tộc và của xã hội loài người”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí, tính chất và chức năng
của văn hoá.
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của văn hoá trong đời sống
xã hội.
- Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Người viết: “... Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ
tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện
để phát triển"
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá.
Tại sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: có thực mới
vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hoá để
nâng cao đời sống vất chất và văn hoá của nhân dân ta” (T10, tr.59)
Về quan hệ giữa văn hoá kinh tế, chính trị, xã hội được Người xác định
văn hoá phải ở trong chính trị và kinh tế, có tác động qua lại với kinh tế và

91
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

chính trị. Văn hóa cùng với kinh tế, chính trị, xã hội tạo thành bốn thành tố chủ
yếu của đời sống xã hội, được coi trọng ngang nhau, có liên quan mật thiết với
nhau:
+ Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng,
mới mở đường cho văn hoá phát triển.
Về vấn đề này, Người viết: "... Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hoá
của ta vì thế không nảy sinh được”.
+ Xây dựng kinh tế tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn
hoá.
- Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.
Văn hoá phải phục vụ chính trị, thúc đẩy, xây dựng và phát triển kinh tế.
“Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng
ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” (T6, tr.368).
Văn hoá phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một
nền văn hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hoá.
Trong kháng chiến chống Pháp, Người đưa ra quan điểm: “Văn hoá cũng là
một mặt trận”; “Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”. Văn hoá
không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến của dân tộc và cuộc kháng
chiến trở thành cuộc kháng chiến có tính văn hoá. Chính điểu này đã đem lại
sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá.
Theo Hồ Chí Minh nền văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá với các
tính chất sau đây:
+ Tính dân tộc (“Đặc tính dân tộc”, “đậm đà bản sắc dân tộc”, “Cốt cách
dân tộc”…) nhằm nhấn mạnh tới chiều sâu bản chất rất đặc trưng của văn hoá
dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn hoá các dân tộc khác.
Tính dân tộc của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa
và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phát triển những truyền
thống ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu dân tộc hoá mà phát triển đến cực điểm
thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy giờ văn hoá thế giới sẽ phải chú ý
đến văn hoá của mình và văn hoá của mình sẽ chiếm được địa vị ngang với các
nền văn hoá thế giới”. (Báo Cứu quốc, số ra ngày 9/10/1945)
+ Tính khoa học.
Được thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hoá của
thời đại. Tính khoa học của nền văn hoá mới đòi hỏi phải đấu tranh chống lại
những gì trái với khoa học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học
mácxít…
+ Tính đại chúng.
92
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tính đại chúng của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ mục đích của nền
văn hoá là phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên.
c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá.
- Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, làm cho ai cũng có lý tưởng
độc lập, tự chủ; phải sửa đổi được tham những, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, ...
+ Văn hoá có chức năng bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
+ Văn hoá phải đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm
lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân - thiện - mỹ,
yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung; ghét những thói hư tật xấu, những
sa đọa biến chất; căm thù mọi thứ giặc nội xâm.
- Văn hóa phải nâng cao dân trí.
Khi đất nước độc lập, Hồ Chí Minh nói: “Một trong những công việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí...
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức mới
để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ” (Tập 4, tr.360)
“Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá
cao và đời sống vui tươi hạnh phúc” (T8, 494).
- Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh,
luôn hướng con người Việt Nam tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng
hoàn thiện bản thân mình.
Văn hoá giúp con người bồi dưỡng những tư tưởng, tình cảm lớn, những
phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, từ đó tham gia tạo ra những
giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị
văn hoá xã hội.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hoá.
a. Văn hoá giáo dục.
+ Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có những đánh giá
sâu sắc nền giáo dục phong kiến, thực dân, từ đó chuẩn bị cho việc xây dựng
nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này.
Nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục từ chương, kinh viện, xa rời
thực tế, không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh sách thánh hiền là đỉnh cao
tri thức. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, người quân
tử, bậc trượng phu, hoàn toàn khác với kẻ bình dân, phụ nữ không được đi học.
Nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, đồi bại, xảo trá, và nguy
hiểm hơn cả sự dốt nát. Nó “chỉ dạy cho họ một lòng trung thực “giả dối”, dạy

93
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

cho thanh niên yêu tổ quốc không phải Tổ quốc mình” (T1,399). Thực chất đó
là nền giáo dục “ngu dân”, “nhồi sọ”.
+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn
hóa bằng giáo dục (dạy và học).
Dạy và học để mở mang dân trí, đào tạo những con người mới vừa có
đức vừa có tài. Học thực. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Trong
những mục tiêu đó, học làm người là khó nhất, “Cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí
thức mới”, “công nông trí thức hoá”, “trí thức công nông hoá”, đào tạo những
lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng.
+ Kết hợp phổ cập với nâng cao, biến nước ta thành một nước văn hoá
cao.
Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh vừa mang tính khoa học, vừa mang
tính nhân văn vì văn hoá và tri thức là cho tất cả mọi người, không phải là đặc
quyền riêng của một nhóm người trong xã hội. Vì vậy, Người yêu cầu tạo điều
kiện cho mọi người được học.
+ Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp
với chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với
những bước phát triển của ta.
Nội dung giáo dục là giáo dục để nâng cao trình độ văn hoá, chính trị,
khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động.
+ Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải phối hợp cả ba khâu gia đình,
nhà trường, xã hội, phải học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người; học suốt đời;
coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương vĩ đại về tự học, từ một
thanh niên bình thường, nhờ vào con đường tự học mà chỉ sau 15 năm, Người
đã trở thành một nhà văn hoá lớn.
Sự tự học của Người gắn chặt chẽ với mục tiêu, lý tưởng cách mạng.
Học để làm cách mạng. Cái gì có ích cho cách mạng là phải học. Người thấm
nhuần tư tưởng của Khổng Tử, học không biết chán, dạy không biết mỏi, và tư
tưởng của Lênin: “Học, học nữa, học mãi”. Người dạy: “Học hỏi là một việc
phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn lý luận với công tác thực tiễn. Không
ai có thể cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới,
nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân” (T.8, tr.215).
b. Văn hoá văn nghệ.
+ Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
+ Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.
+ Phải có những tác phẩm xứng đáng với thời đại mới của đất nước và
dân tộc. Phải phản ánh cho hay, chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

94
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

c. Văn hoá đờì sống.


Khái niệm đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả đạo đức
mới, lối sống mới và nếp sống mới.
- Đạo đức mới là “... thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm,
Chính” (T5, tr. 94)
- Lối sống mới.
+ Trước hết là lối có lý tưởng, có đạo đức. Lối sống văn minh tiên tiễn,
kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá của chân
loại.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi năm cách: “sửa đổi những những
việc rất cần thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi
cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” (T5, 95). Phong cách
sống, theo Hồ Chí Minh là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, vệ sinh, yêu lao
động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức - quyền –
danh - lợi; trong quan hệ với mọi người phải cởi mở, chân thành, ân cần, tế nhị;
giàu tình yêu thương, quý mến, trân trọng con người; với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.
- Nếp sống mới.
+ Kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu
đời của nhân dân.
Người dạy: "Đời sống mới không phải cái cũ cũng bỏ hết, không phải
cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hêt tính lười biếng, tham
lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp
lý. Thí dụ đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân,
tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn ở cho hợp vệ sinh, làm
việc cho có ngăn nắp" (T5, tr. 94)
+ Cải tạo, sửa đổi những tập quán lạc hậu, bổ sung cái mới, cái tiến bộ
mà trước chưa có.
Cải tạo, sửa đổi những tập quán lạc hậu, bổ sung cái mới cái tiến bộ là
một quá trình rất khó khăn phức tạp, gian khổ và lâu dài, bởi thói quen rất khó
thay đổi, mặt khác cái xấu nhưng quen, người ta có thể cho là thường, cái mới
mà lạ, người ta có thể cho là xấu…
+ Phát triển những thuần phong mỹ tục tốt đẹp.
Xây dựng văn hoá đời sống mới nhằm biến Việt Nam thành một Quốc
gia văn minh và cường thịnh là một công việc lâu dài và đòi hỏi phải có
phương pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi phải có quyết tâm của cả cộng đồng dân

95
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tộc, song trước hết phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình với tư
cách là một tế bào của xã hội.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.
1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức.
- “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”
Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức
ở Việt Nam, đó là nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” (T6, tr.320), “đạo đức
đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của
loài người”. (T5, tr.252).
Quan điểm đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng của Hồ
Chí Minh xuất phát từ đặc điểm cụ thể của cách mạng nước ta: phải tiến hành
trong điều kiện cực kỳ khó khăn, người dân không có bất cứ quyền tự do, dân
chủ nào. Điều này đòi hỏi người cách mạng phải có giác ngộ, có ý chí chiến
đấu cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng mới có thể hoàn thành sự nghiệp
cách mạng cực kỳ khó khăn đó.
Cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. Song thắng lợi lớn hay nhỏ,
bền vững hay không phụ thuộc vào đạo đức của người cách mạng. “Làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài,
gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang” (T9, 283).
Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân
dân. Ngay chương đầu của Đường Kách mệnh, Người đã nêu 23 điều về tư
cách người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ đối với mình, đối với người,
đối với công việc. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1947, Người
viết “Sửa đổi lối làm việc” và liên tiếp trong 2 năm 1957, 1958 Người viết hai
tác phẩm cùng mang một tên gọi “Đạo đức cách mạng” cùng hàng loạt bài
ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Một trong những bài viết cuối cùng
của Hồ Chí Minh, năm 1969, bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ
nghĩa cá nhân.
Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải

96
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
...Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“’hồng” vừa “chuyên”.
Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là
“gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ chốt” của người cách mạng.
Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì” (T5, tr.252), “Mọi việc thành
hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”
và “tuy năng lực và công việc mỗi người khác nhau, người làm việc to, người
làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”
(T5, tr.148).
Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới,
xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp người cách mạng tự hoàn thiện
mình và không ngừng phát triển đi lên.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành
công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, thực sự trở
thành người biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”..., không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa”.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý
tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng,
mà trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người
cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình chiến đấu cho lý
tưởng đó thành hiện thực
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho mọi người. Tư
tưởng đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt đối với cách mạng
Việt Nam.
- Một trong những cống hiến đặc sắc, nổi bật nhất của Hồ Chí Minh là
trên lĩnh vực đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất, hòa quyện
giữa chính trị, đạo đức, văn hóa, nhân văn, một nền chính trị rất đạo đức, rất
văn hóa và đạo đức, văn hóa lại rất chính trị.
Chính vì vậy, những vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một
cách toàn diện với mọi đối tượng, trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người:

97
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt, học tập, chiến đấu, lao động, lãnh đạo,
quản lý...trên mọi phạm vi: phạm vi rộng, Người đề cập đến đạo đức trên bình
diện quốc gia như đạo đức giai cấp, dân tộc, xã hội, vùng miền, địa phương; ở
phạm vi hẹp, Người bàn đến đạo đức trong từng gia đình, trong quan hệ bạn bè,
đạo đức đối với bản thân... ; cả bình diện quốc gia đến quốc tế và ở từng khía
cạnh cũng có nhiều cấp độ khác nhau...
Hồ Chí Minh đã chú ý khai thác các khía cạnh đạo đức trong tất cả các
mặt hoạt động của con người: trong quan hệ đời công, đời tư, trong học tập, lao
động, chiến đấu, rèn luyện... Những vấn đề này được Hồ Chí Minh nhìn nhận
dưới góc độ đạo đức rất phong phú, song phương pháp luận chung của Hồ Chí
Minh là quy tất cả về ba mối quan hệ cơ bản: đối với người, đối với việc và đối
với mình
Hồ Chí Minh không chỉ bàn về đạo đức mà chính Người đã thực hiện
trước nhất, nhiều nhất những tư tưởng đạo đức do mình nêu ra và đấy chính là
điều đặc sắc nhất của Hồ Chí Minh, điều mà không chỉ nhân dân Việt Nam, mà
cả nhân lọai đã thừa nhận và ngợi ca.
b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Từ lý luận và thực tiến hoạt động cách mạng, Người đã khái quát thành
những phẩm chất đạo đức chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong
thời đại mới. Đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức
cách mạng Việt Nam.
- Trung với nước, hiếu với dân:
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và giữ vai trò nền
tảng để hình thành và thực hiện tốt những phẩm chất đạo đức khác.
Trung, hiếu là những khái niệm đạo đức đã ăn sâu, bám rễ trong con
người Việt Nam như một bổn phận, trách nhiệm của người dân, của con người,
được Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo
đức cao rộng hơn “trung với nước, hiếu với dân”
+ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu
mang lại lợi ích cho nhân dân.
Trung với nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện mối quan hệ giữa
cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước
và giữ nước, với sự phát triển của đất nước. Bởi vì nước là nước của dân và dân
là chủ nhân của đất nước, do đó trung với nước tất phải hiếu với dân.
+ Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ, dân nắm
mọi quyền hạn, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, phải thân dân, lấy trí tuệ ở dân,
gắn bó, dựa vào dân, kính trọng học hỏi dân...
+ Người lãnh đạo phải nắm vững dân tính, hiểu rõ dân tâm, thường
xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí; giúp dân hiểu được quyền

98
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

và trách nhiệm của người chủ đất nước. Người lãnh đạo được dân tin yêu, quí
trọng sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
- Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương con
người có biểu hiện rất phong phú:
+ Tình yêu thương con người trước hết dành cho những người cùng khổ,
người lao động.
+ Nghiêm khắc với mình mà rộng lượng, tôn trọng, nâng người khác lên,
chứ không được hạ thấp hay vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng
đối với người lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
+ Tình yêu thương con người còn được thể hiện ở tấm lòng bao dung đối
với những người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ và quyết tâm sửa
chữa sai lầm khuyết điểm, kể cả những người đã lầm đường lạc lối.
Trong Di chúc, Người nhắc nhở Đảng phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau. Đây là tình cảm cách mạng trong sáng, thương yêu nhưng không bao
che, mà phải thực hiện phê và tự phê bình một cách chân thành, thẳng thắn giữa
những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung cao cả.
+ Dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện trong cuộc sống.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đây là những phẩm chất đạo đức phương Đông, đạo đức Việt Nam lấy
chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh, nó diễn ra từng ngày, từng
giờ, cả trong công tác và trong sinh hoạt. Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất
này thường xuyên nhất, nhiều nhất, từ Đường Kách mệnh đến bản Di chúc cuối
cùng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Hồ Chí Minh cải biến nội
dung và đưa vào những nội dung mới. Người nói: “Bọn phong kiến ngày xưa
nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân
phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm,
liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước
cho dân” (T.6, tr.321). Hồ Chí Minh giải thích về cần, kiệm, liêm, chính như
sau:
“Cần tức là siêng năng chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”.
Cần, theo Hồ CHí Minh là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “Lao động là nghĩa
vụ thiêng liêng, nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm (...) là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi...”
Kiệm theo Hồ Chí Minh là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết
kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiềm từ cái to đến cái

99
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhỏ, không hoang phí, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén
lu bù.
“Liêm là trong sạch, không tham lam... tham tiền của, tham địa vị, tham
danh tiếng, tham ăn ngon là bất liêm”.
“Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà” (T.5, tr. 632).
Đối với mình: không tự cao tự đại, chịu khó học tập cầu tiến bộ, tự kiểm
điểm.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không coi khinh người dưới,
chân thành, khiêm tốn, thật thà, không dối trá lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trước việc tư, đã phụ trách việc gì thì
quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy
hiểm. . .
Hồ Chí Minh viết: “Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, nhưng một cây
cần có gốc rễ lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải
cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn” (T5, tr.643).
“So sánh với trời, đất: trời có bốn mùa: xuân, hạ thu đông; đất có bốn phương
đông, tây, nam, bắc; người có bốn đức tính cần, kiệm, liêm, chính; “thiếu một
đức, thì không thành người”. Đọc các tác phẩm của Hồ Chí Minh ta thấy Người
nói về vấn đề này rất tâm huyết: “Những người trong các công sở đều có nhiều
hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên
hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” (T.5, tr.104); “Một dân tộc biết cần, kiệm,
biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn
minh tiến bộ” ( T.5, tr. 642)...
“Chí công vô tư “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Thực hành chí công vô tư là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo
quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc,
đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh,v.v.”, Người khẳng định:
“Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” (T.9, tr.291). Người còn nói: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (T.12, tr.557)

100
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chống chủ nghĩa cá nhân đối với Hồ Chí Minh hoàn toàn không có
nghĩa là chống lại lợi ích cá nhân, mục đích cả cuộc đời người, và cũng là mục
đích của Đảng ta là chăm lo cho lợi ích của từng cá nhân, tạo mọi điều kiện cho
mỗi người có thể phát huy hết mọi khả năng của mình.
Người giải thích: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng,
đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Nếu nhữnglợi ích cá nhân đó
không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu” (T.9, tr.291).
Bồi dưỡng phẩm chất Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sẽ làm cho
con người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục" có thể “trợn mắt
coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.
Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm còng là những phẩm chất đạo đức không thể
thiếu của người cách mạng, người cộng sản.
Hồ Chí Minh cũng giải thích thêm rằng “Không phải chúng ta ham
chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta
muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng” (T.4, tr.240).
- Tinh thần quốc tế trong sáng
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với
giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với
những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng
và phân biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và
chủ nghĩa bành trướng bá quyền…
Hồ Chí Minh đã khái quát tinh thần này bằng mệnh đề “Bốn phương vô
sản đều là anh em” đoàn kết các dân tộc bị áp bức, các lực lượng tiến bộ trên
thế giới, nhằm mục tiêu lớn là hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị.
c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
+ Nói đi đôi với làm là phương pháp tu dưỡng là phải gắn lời nói với
hành động trong thực tiễn, mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Nói nhiều làm ít,
nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác
dụng.
Theo Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là nguyên tắc rèn luyện đạo đức
quan trọng bậc nhất. Người thường phê phán thói đạo đức giả ở một số cán bộ
“vác mặt làm quan cách mạng” nói mà không làm, Người yêu cầu phải tẩy sạch
bệnh quan liêu.
+ Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, đồng thời là
cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức cũ.
Người viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm,
và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
101
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tuyên truyền” (T.1, tr.263). Quyết liệt hơn, Người nói: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân , mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm,
mình phải tiết kiệm trước đã” (T.5, tr.552).
+ Hồ Chí Minh yêu cầu đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả
mọi đối tượng, mọi lĩnh vực từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, trong nhà
trường, gia đình, xã hội.
- Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
+ Phải kết hợp giữa xây và chống là vì không phải “người người đều tốt,
việc việc đều hay”, Người yêu cầu phải kiên quyết chống ba loại kẻ thù nguy
hiểm: tư tưởng thực dân đế quốc, thói quen lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng
phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng
chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” (T9, tr.287).
+ Người yêu cầu, với từng người, trước hết phải chiến thắng lòng tà
trong mình, với việc, với người nhất thiết phải phê phán, đấu tranh loại bỏ
những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ.
+ Về quan hệ giữa chống và xây, Hồ Chí Minh chỉ rõ chống là nhằm để
xây, chống đi liền với xây, lấy xây làm chính, lấy gương người tốt, việc tốt để
hàng ngày giáo dục lẫn nhau.
- Tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng
+ Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, nó
chỉ hình thành trong quá trình rèn luyện, phấn đấu suốt đời.
Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ
dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần
chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có
được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” (T.9,
tr.448), vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng
ngày”.
Người viết tiếp: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục
mà nên” và “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng và vẻ vang
hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” (T.9, tr.293).
+ Trong lĩnh vực đạo đức, chỉ cần lơi lỏng việc, tu dưỡng, rèn luyện một
phút, giây là con người đã có thể sa ngã, biến chất, có thể hủy hoại một cuộc
đời, một sự nghiệp đã nhiều năm phấn đấu, rèn luyện gian khổ trước đó và gây
ra những hậu quả tai hại cho sự nghiệp cách mạng, bởi “cái chết về đạo đức
thường dẫn đến cái chết về chính trị” (Lênin).

102
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Hồ Chí Minh yêu cầu tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần
tự nguyện tự giác, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần
chúng. Người khẳng định làm cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm, khuyết
điểm, song vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm khuyết điểm.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân: Đạo đức là
yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị của con người.
Việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày không
chỉ tôn vinh, nâng cao giá trị của chính mình, mà còn tạo ra sức mạnh nội sinh
giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì
khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…khi
gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất phác,
khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
không hủ hoá” (T9, tr.284).
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với sinh viên, thanh niên, trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định các
phẩm chất đạo đức tối thiểu cần thiết để sinh viên có phương hướng rèn luyện.
Trong bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7/5/1958),
những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong “6 cái yêu”:
Yêu Tổ quốc: yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu
mạnh. Muốn cho Tổ quốc ta giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân
còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những
công tác nặng nhọc với nhân dân.
Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một
ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
Yêu lao động: muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa
xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động chỉ là nói suông.
Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có
khoa học và kỷ luật.” (T9, tr.173-174)
Để có được những phẩm chất trên, sinh viên phải rèn luyện cho mình các
đức tính: trung thành, tận tuỵ, thật thà, chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ
của mình. Người dạy: “Không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích
nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng
nào” (T7, tr.455).
103
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đồng thời phải kiên quyết chống lười biếng, xa xỉ, coi khinh lao động;
chống lối sống uỷ mị, kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang.
b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay.
+ Đa số sinh viên vẫn giữ được những giá trị truyền thống của dân tộc:
Yêu nước, thương người, sống tình nghĩa trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, luôn cần cù sáng tạo, trong sạch, lành mạnh, có chí lập thân, lập
nghiệp…
+ Do ảnh hưởng của kinh tế thị trường, hội nhập thế giới…, một bộ phận
sinh viên đã chạy theo lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý
dẫn tới những tiêu cực xã hội ngày càng phổ biến. Mặt khác, một bộ phận
không nhỏ sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu,
sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện
hút, thiếu trung thực…
- Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần:
+ Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Học cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
+ Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân
hậu với con người.
+ Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt
qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích của cuộc sống.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người.
Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề con người có thể được
nhìn nhận dưới những khía cạnh sau:
- Người xem xét con người như một chỉnh thể, đa chiều: con người luôn
có xu hướng vươn tới cái chân - thiện - mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”; con
người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện – ác, hay và dở, tốt và xấu
nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có cái tình” (T7, tr.60).
- Người xem xét con người trong tính lịch sử, cụ thể của nó.
Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng “Phẩm giá
con người”, Người ta”, giải phóng con người…, nhưng đặt trong một bối cảnh
cụ thể, còn phần lớn các trường hợp, Người xem xét con người trong các quan
hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp…đó là con người cụ thể,
hiện thực, cảm tính, khách quan.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh thường dùng các khái
niệm: “người bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người bản xứ bị bắt làm nô

104
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

lệ”, “người mất nước”, “người lao động bản xứ”, “người bị bóc lột”, “người bị
bóc lột thuộc mọi chủng tộc”, “người da vàng”, “người da đen”, “người vô
sản”, “người vô sản ở thuộc địa”, “người vô sản ở chính quốc”, “người cùng
khổ”. Đối lập với họ là: “Thực dân”, “thực dân độc ác”, “viên chức tàn bạo”,
“bọn ăn bám đủ các cỡ”, “kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc lợi”, “đức ngài tư
bản chủ nghĩa”, v.v...
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người lại thường dùng các khái
niệm: “đồng bào”, “nhân dân”, “quốc dân”, “dân” và qua đó đặt con người
trong mối quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, không có con người trừu tượng. Người viết: “Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào
cả nước. Rộng hơn là cả loài người” (T.5, 644).
- Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng
định: Bản chất con người mang tính xã hội. Con người vừa là sản phẩm, vừa là
chủ thể của lịch sử.
Khi nói về con người, bao giờ Hồ Chí Minh cũng thể hiện tư tưởng nhân
văn cộng sản cao đẹp:
Một là, sự cảm thông hết sức sâu sắc với những đau khổ của người nô lệ
và người cùng khổ.
Có thể thấy rõ điều này qua các bài viết của Người tố cáo tội ác mà chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gây ra cho
con người.
Hai là, quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con người và đem lại
tự do và hạnh phúc cho con người.
Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (T.4, tr.161).
Ba là, tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con người và
không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược
“trồng người”.
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người.
- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng.
+ Con người là sức mạnh đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối cùng của
cách mạng, vì vậy con người là vốn quý nhất, phải hết sức bảo vệ con người
như bảo vệ sinh mệnh của cách mạng. Trước lúc đi xa Người viết:“Đầu tiên là
công việc đối với con người...Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho
toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi

105
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu
thanh niên, nhi đồng quốc tế” (T.12, 503,512).
+ Con người là vốn quý nhất, cho nên, phải hòa bình trong độc lập tự do
là nguyện vọng thiêng liêng nhất của con người. Mục tiêu của cách mạng là
phải giành cho kỳ được độc lập, tự do và một nền hòa bình chân chính.
+ Mọi việc trong xã hội từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa đều do con người
làm ra trong đó nhân dân là chủ thể của lịch sử, người sáng tạo ra lịch sử. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, có dân là có tất cả
Theo Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “Vô
luận việc gì, đều do người dân làm ra từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”
(T5, Tr.241). Người cho rằng “Việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc
khó mấy có dân liệu cũng xong”.
Khẳng định tài năng của nhân dân, Hồ Chí Minh viết: “Họ biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn mau chóng, đầy đủ mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” (T5, tr.295). Và Người kết luận:
“Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,
không ai thắng nổi” (T6, tr.281).
- Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
+ Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh
phúc cho con người. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Hồ Chí Minh
và Đảng ta đều nhằm mục tiêu giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc
cho con người.
Hồ Chí Minh yêu cầu trong đối xử với con người:
Thứ nhất, yêu thương, quý trọng, giúp đỡ, lắng nghe ý kiến và học hỏi
nhân dân.
Thứ hai, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, đoàn
kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Hồ Chí Minh dành tình yêu thương
đặc biệt cho những người mất nước, những người cùng khổ.
Thứ ba, yêu thương nhân dân lao động trong nước phải gắn liền với yêu
thương nhân loại theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”,
Trong thư gửi cho Chính phủ và nhân dân Pháp, Người viết “Tôi thành
thật mong muốn thanh niên Pháp và thanh niên Việt Nam hiểu biết lẫn nhau và
yêu mến nhau như anh em" (T.4, 303).
Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng con người là do chính
bản thân con người thực hiện. Người tin vào sức mạnh và tính sáng tạo của con
người dù đó là người Việt Nam còn nô lệ.
+ Hồ Chí Minh còn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân vì vậy mà “Phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân’’ (T5,
tr. 65) và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội
chủ nghĩa”, “Có dân thì có tất cả”.

106
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Con người là động lực của cách mạng được Hồ Chí Minh nhìn nhận
trong phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công
nhân và nông dân. Tuy nhiên không phải mọi con người đều trở thành động lực,
mà phải là những con người được giác ngộ và có tổ chức. Họ phải có trí tuệ và
bản lĩnh, văn hoá, đạo đức trên truyền thống lịch sử và văn hoá ngàn năm của
dân tộc Việt Nam…Chính trị, văn hoá, tinh thần là động lực cơ bản trong động
lực con người.
+ Con người chỉ trở thành động lực của cách mạng khi họ được giác ngộ,
tổ chức, lãnh đạo và định hướng hành động đúng đắn. Vì vậy việc phát huy
động lực con người phải gắn liền với việc nâng cao vai trò lãnh đạo đúng đắn
của đảng cộng sản và những người cán bộ cách mạng.
+ Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì
sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức
mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu của cách
mạng.
Người cũng yêu cầu phải kiên quyết khắc phục kịp thời các trở lực trong
con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Người cũng chỉ rõ nguyên nhân
của bệnh quan liêu, mệnh lệnh là do xa dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân,
không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không thương yêu nhân dân
và kết quả là hỏng việc.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “Trồng người”.
- “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng.
+ Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển
vì vậy mà “trồng người”, “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” và “công
việc đối với con người”... Là “những việc làm rất quan trọng”, “rất cần thiết”
và là những việc phải làm “đầu tiên”.
Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục đào tạo, rèn luyện con người.
người nói tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là
những quan điểm mang tính chiến lược, cơ bản lâu dài nhưng cũng rất cấp
bách. Điều này liên quan tới nhiệm vụ “Trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Những tư tưởng đó đã phản ánh tầm quan
trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con
người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa” (T10, tr.310)
+ Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt ra nhiệm vụ, ngay từ đầu xây dựng con
người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ
nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài,

107
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước, cá nhân mỗi người.
Mỗi bước như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là
mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và xây dựng “con
người xã hội chủ nghĩa”
Con người mới xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là con
người kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phải
hình thành nên những phẩm chất mới như: Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có
đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình,
xã hội, thiên nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha,
độ lượng…
+ Xây dựng con người theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải toàn diện
có đủ đức tài trong đó đức là gốc, vì vậy, sự nghiệp trồng người phải bắt đầu từ
việc xây dựng nền tảng đạo đức.
- Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chiến lược “trồng người”
phải coi trọng sự nghiệp giáo dục – đào tạo.
+ Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng con người một cách toàn diện
trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ...Trong đó bồi dưỡng trí tuệ, nhân cách đạo
đức là điều quan trọng có ý nghĩa hàng đầu và xuyên suốt sự nghiệp cách
mạng.
Ngay sau ngày cách mạng thành công, Người căn dặn nhân dân phải cần,
kiệm, liêm, chính, đồng thời khẳng định “dốt thì dại, dại thì hèn”; “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”. Phê phán nền giáo dục thực dân, Hồ Chí Minh viết:
“Một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa... dạy
cho thanh niên yêu một tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp
bức mình, khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình” (T.1, 399), Người yêu cầu:
“Phải làm sao cho dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” (T.5, 65).
Với Hồ Chí Minh, chăm lo đời sống cho dân, phát triển giáo dục nâng
cao trình độ mọi mặt của nhân dân, tổ chức nhân dân trong những đoàn thể
rộng rãi... chính là chăm lo cho nước. Bởi vì dân là gốc nước, dân giàu thì nước
mạnh, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân...
+ Trong chiến lược “trồng người”, gia đình, nhà trường và xã hội đóng
vai trò rất quan trọng. Mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục có ý nghĩa
quyết định tới công dân, tới đội ngũ cán bộ tương lai tốt hay không tốt. Người
khẳng định nêu gương là một phương pháp tốt trong quá trình giáo dục con
người.
Người xác định trong phương pháp dạy học tiểu học: cách dạy phải nhẹ
nhàng, vui vẻ, tránh gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ người lớn... Dạy trẻ cũng
như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ

108
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tốt thì sau này các cháu thành người tốt. Người nói: “Những gương người tốt,
việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người...
Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới” (T.12, tr.558).
- “Trồng người” là công việc “trăm năm”, do đó không thể nóng vội,
không phải làm một lúc là xong, cũng không được tuỳ tiện đến đâu hay đó.
Việc nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong
suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hoá kiệt xuất không
chỉ vì Người đã sáng tạo ra một nền văn hoá mới ở Việt Nam, mà còn vì đóng
góp của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hoá nhân loại – một
nền văn hóa hòa bình giúp cho các dân tộc . hiểu biết nhau hơn,.xích lại gần
nhau hơn
Trong lĩnh vực văn hoá, Hồ Chí Minh sớm nhận thức vai trò và sức
mạnh của văn hoá, đã sớm đưa văn hoá vào chiến lược phát triển của đất nước.
Người yêu cầu phải đưa văn hoá đi sâu vào quần chúng, coi văn hoá như một
sức mạnh vật chất, một động lực, một mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong
quá trình phát triển.
Hàng loạt các quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá như: “văn hoá
phải soi đường cho quốc dân đi”, văn hoá cũng là một mặt trận, văn nghệ sĩ là
chiến sĩ trên mặt trận ấy,… không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam mà còn có ý
nghĩa quốc tế sâu sắc.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc
vào tư tưởng đạo đức học mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về các
chuẩn mục đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới phù
hợp với Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn rất quan trọng.
Về lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội
dung sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục, đào
tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở các quan điểm của Người, Đảng ta xác
định giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Về thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng
quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. UNDP đã đưa ra chỉ dẫn
đánh giá sự tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước không chỉ ở tổng sản phẩm
quốc dân, mà dựa trên cơ sở 3 tiêu chí cơ bản: Thu nhập, trình độ giáo dục, tuổi
thọ.

109
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức, xây dựng con người mới là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Nó đã trở thành
một bộ phận của nền văn hoá dân tộc ta và là ngọn đèn pha soi đường cho công
cuộc xây dựng một nền văn hoá và đạo đức mới ở Việt Nam.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh: “văn hóa không thể đứng
ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”?
2. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng, tính chất của văn
hóa mới.
3. Vì sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc cải tạo lối sống cũ, xây dựng
lối sống mới, nếp sống mới là quá trình rất khó khăn, phức tạp, lâu dài?
4. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức là gốc của người cách
mạng”?
5. Phân tích để làm rõ sự khác biệt trong quan điểm của Hồ Chí Minh và
quan điểm của Nho giáo về các phạm trù: Trung, Hiếu, Cần, Kiệm
6. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: chiến lược “Trồng người” phải được
bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng đạo đức?
7. Tại sao trong chiến lược “Trồng người”, Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng vấn đề “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”?

110

You might also like