Professional Documents
Culture Documents
Quang Pho Dao Dong Hong Ngoai PDF
Quang Pho Dao Dong Hong Ngoai PDF
0.8 2.5 m
12500 4000 cm 1
E 36 143kcal / mol
Hồng ngoại :
2.5 16 m
4000 600 cm 1
E 143 1.8kcal / mol
Viễn hồng ngoại :
15 200 m
600 50 cm 1
E 1.8 1kcal / mol
Một cuvét đơn giản cho cghất khí (hình 1 ) , nó có thể tháo rời ra và cái cửa sổ
của nó có thể làm từ LiF , NaCl , NaBR ,KBr hay KRS5 .
Người ta bơm khí vào cuvét , theo yêu cầu người ta có thể làm loãng chất khí bằng một
chất khí trung hoà . Trước hết người ta hút sạch khí trong cuvét , sau đó bơm chất khí vào
với áp suất nào đó .
Phương pháp nghiên cứu là : tìm các vết khí trong hỗn hợp và để nghiên cứu các đám hấp
thu có hệ số tắt bé , hoặc cần phải nghiên cứu quang phổ của hơi các chất có áp suất nhỏ
người ta phải cấu trúc cuvét sao cho chùm tia đi qua cuvét (tất nhiên truyền qua khí)
nhiều lần .
Nếu lượng chất khí nghiên cứu ít , ví dụ như khí rút ra từ các phân đoạn sắc ký , thì cần
cuvét khí cực nhỏ .
Bên cạnh những cuvét thông dụng người ta còn chế tạo những cuvét dũng ở áp suất cao .
Khi phân tích các chất khí , không chỉ có ấp suất riêng phần mà cả áp suất toàn phần
đóng vai trò to lớn . Do đó trong khi phân tích định lượng ta cần phải tiến hành ở áp suất
toàn phần bằng nhau .
Chất lỏng tinh khiết tuỳ theo mục đích ghi phổ mà người ta có thể dùng các loại
cuvét thích hợp .
Có các loại cuvét sau đây :cuvét có thể tháo rời và cuvét không thể tháo rời được gọi là
cuvét cố định (hình 2).
Cuvét có thể tháo rời :loại đơn giản nhất gồm 2 cửa sổ từ vật liệu quang học
quang học thích hợp và là một cái giá để ép các các cửa sổ lại với nhau . Cuvét đặt vào
máy quang phổ nhờ giá đỡ . Các cửa sổ rất dễ vỡ nên khi xiết ốc cần chú ý , luôn xiết
chặt ốc chéo góc nhau cùng một lúc -nhẹ tay .
Người ta nhỏ vài giọt chất lỏng giữa 2 cửa sổ và ép lại ,ta được màng mao quản mỏng
(còn gọi là màng mỏng hay phim). Nếu muốn nghiên cứu phổ của các lớp dung dịch dày
hơn , người ta đặt giữa 2 cửa sổ màng ngăn cách bằng giấy kim loại (nhôm) có độ dày từ
0,01-0,1mm(hoặc lớn hơn) , màng ngăn cách có lỗ hổng ở giãư để chứa chất lỏng , bằng
cách thay màng ngăn cách có độ dày khác nhau mà người ta nhận được các cuvét có độ
dày mẫu phân tích khác nhau .
Cuvét không thể tháo rời : loại cuvét có thể tháo rời thường không đủ kín , và
do đó không thích hợp cho các chất dễ bay hơi . Cho nên khi phân tích các chát dễ bay
hơi ngưòi ta dùng cuvét không tháo rời được (hình 3).
Cuvét như vậy có thể lắp từ một cuvét có thể tháo rời . Các cửa sổ được chế tạo như đã
mô tả.
Người ta đặt màng ngăn cách và màng đóng kín của cửa sổ có các lổ hở ở phía trên , phía
trên có một tấm giữ phẳng và được làm sạch , nó có thể được tráng lên một lớp axit
axetic .
Sau đó nhúng vào một chén thuỷ ngân , khi tiếp xúc với Hg các màng được phủ lên một
lớp amalgan (hỗn hợp : hợp kim của kim loại với thuỷ ngân).
Sau khi lấy ra khỏi chén thì nó rất sạch sẽ .Khi lắp ghép cuvét thì người ta cũng đặt một
màng chì không bị almalgan hoá ở bên dưới của sổ .
Do ép lại với nhau nên độ dày của cuvét luôn nhỏ hơn độ dày ban đầu của màng ngăn
mot6 ít . Chất lỏng được rút vào cuvét qua lỗ hở trong phần ngăn cách bằng kim loại , ta
dùng một ống tiêm để bơm chất lỏng . Sau khi ghi phổ , chất lỏng được lấy ra và cuvét
được rửa nhiều lần bằng các dung môi thích hợp . Cuvét thường được sấy khô bằng bằng
cách hút chân không .
Khi muốn giảm nhu cầu về mẫu đo , người ta chế tạo các microcuvet , ở đó thể tích giữa
các cửa sổ và màng ngăn cách giảm xuống cực tiểu .
Dung dịch.
Các mẫu phân tích đặc biệt là các chất rắn được hào tan để ghi phổ . Đôi khi
mẫu phân tích không được hoà tan trong các dung môi thông dụng , lúc này ta phải trải
qua một bước trung gian-chuyển thành chất khác và sau đó sẽ được hoà tan .
Trong phương pháp này thì người phân tích phải lựa chọn nồng độ thích hợp . Vì các
dung môi hoà tan thường dễ bay hơi . nên ta phải tránh những thay đổi nồng độ chất phân
tích do quá trình bay hơi . Do đó người ta dùng những cuvét hoàn toàn kín , không tháo
rời được , sau khi rót chất nghiên cứu vào , cuvét phải đóng kín miệng lại .
Ở các dung dịch , độ dung dịch có thể thay đổi được bằng cách thay đổi độ dày của cuvét
hoặc thay đổi nồng độ của chất nghiên cứu . Cuvét thường dùng có độ dày 0,1-1mm.
Đối với phép phân tích định lượng ta cần chọn nồng độ ,cũng như độ dày cuvét thích hợp
, sao cho độ hấp thụ của các đám đặc trưng có thể thay đổi giữa 20% và 80% . Thường ta
dùng những bộ cuvét có độ dày 0,02 ; 0,05 ; 0,1 ; 0,2 ; 0,5 ;1,0 ; 2,0 mm.
Ở các máy quang phổ 2 chùm tai , người ta còn dùng thêm một cuvét so sánh .
C. Chất rắn.
Viên ép kaliumbromid:
Các mẫu dạng rắn ở nhiệt độ bình thường , có thể được chuẩn bị theo nhiều
phương pháp khác nhau . Bên cạnh việc hoà tan mẫu nghiên cứu , hoặc làm nóng chảy 9
phương pháp này ít dùng ) đặc biệt thường dùng phương pháp mẫu ép hay viên ép
kaliumbromid . Ngoài ra người ta còn chế tạo các màng hoặc người ta có thể ép mẫu vào
giữa hai tấm phẳng .
Viên ép từ KBr được ứng dụng rất nhiều . Ở đó người ta lợi dụng tính dẻo của
halogenide kim loại kiềm ở áp suất cao . Kaliumbromid là một halogenide thông dụng
nhất . Về nguyên tắc viên ép từ bột của nó là không trong suốt và gây nên tổn hao tia lớn
trong vùng hồng ngoại qua vùng tán sắc . Nhưng nếu trước khi ép người ta loại trừ không
khí bằng cách hút chân không thì có thể được một viên ép trong suốt , tất nhiên theo thời
gian (để lâu trong không khí thì nó mất dần tính trong suốt .
Độ tinh khiết của kaliumbromid được sử dụng là rất quan trọng chỉ cần lẫn tạp chất thì
gây ra sự tán xạ tia sáng khi đi qua viên ép , và ảnh hưởng đến việc phân tích phổ của
mẫu .
KBr tinh khiết cho phổ hấp thụ ở 3420cm -1 ở viên ép dày 1mm và một đám hấp thụ yếu ở
1630cm -1 . KBr không tinh khiết cho nhiều đám hấp thụ ứng với các tạp chất khác nhau .
Với phương pháp này , người ta thường trộn đều 1mg chất nghiên cứu với 300mg
kaliumbromid .
Một phương pháp thích hợp khác để ngiên cứu mẫu vật thể rắn là nghiền nhỏ
vài miligam mẫu (vật rắn ) và trộn với vài giọt parafin y học (nuol) sau đó ép chất vừa
thu được giữa 2 cửa sổ của cuvét . Nuol sẽ giảm sự tán xạ ánh sáng do những hạt rắn gây
ra , còn phổ của bản thân nó nhận được tương đối dễ dàng và đơn giản bằng cách bù trừ
đi phổ vừa thu được .
Để khắc phục những khó khăn do độ dày của lớp dung dịch (khi hoà tan) và do sự tán xạ
ánh sáng ,người ta làm chảy chất đo giữa 2 cửa sổ cuvét , sau khi để nguội chất nóng
chảy ta sẽ thu được lớp tinh thể mỏng . Phân tử trong lớp này thường được định hướng so
với chiều tia sáng .
4. ỨNG DỤNG
Định tính :
-Nhận danh các hợp chất nhờ so với phổ chuẩn
-Dự đoán các nhóm chức có trong có trong mẫu
-Khảo sát các phức , các cơ chế phản ứng .
Định lượng :
-Xác định hàm lượng của các chất chứa trong mẫu nhờ các mũi hấp thu đặc
trưng . Sử dụng định luật Beer A=abc
Trong đó : c:hàm lượng của chất hấp thụ .
b: chiều dày của chất hấp thụ .
a: hệ số hấp thụ .