Professional Documents
Culture Documents
đa dạng sinh học aaa
đa dạng sinh học aaa
Chương 2. Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm đa dạng sinh học
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học. Định nghĩa do Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên
Quốc tế - WWF) (1989) quan niệm: “Đa dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên trái
đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và
là những Hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”. Do vậy, ĐDSH bao gồm
3 cấp độ: đa dạng gen, đa dạng loài và đa dạng HST. Đa dạng loài bao gồm toàn bộ các loài sinh
vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài động, thực vật và các loài nấm. Ở mức độ vi mô
hơn, đa dạng sinh học bao gồm cả sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các
quần thể sống cách ly về địa lý cũng như sự khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một
quần thể. đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài
sinh sống, các HST nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của
các mối tương tác giữa chúng với nhau. Theo Công ước ĐDSH thì “ĐDSH là sự phong phú của
mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các HST trên cạn, ở biển và các HST dưới nước
khác, và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng
di truyền hay còn gọi là đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài), và các HST (đa dạng HST). -
Đa dạng di truyền được hiểu là tần số và sự đa dạng của các gen và bộ gen trong mỗi quần thể
và giữa các quần thể với nhau; - Đa dạng loài là tần số và sự phong phú về trạng thái của các
loài khác nhau; - Đa dạng HST là sự phong phú về trạng thái và tần số của các HST khác nhau.
Từ ba góc độ này, người ta có thể tiếp cận với ĐDSH ở cả ba mức độ: mức độ phân tử (gen),
mức độ cơ thể và mức độ HST (IUCN, 1994). ĐDSH bao gồm cả các nguồn tài nguyên di
truyền, các cơ thể hay các phần cơ thể, các quần thể, hay các hợp phần sinh học khác của HST,
hiện đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người. Nói cách khác, ĐDSH là
toàn bộ tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất, là sự đa dạng của sự
sống ở tất cả các dạng, các cấp độ và các tổ hợp giữa chúng. Đó không chỉ là tổng số của các
HST, các loài, các vật chất di truyền mà còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong
và giữa chúng với nhau.
2. Phân loại
2.1. Đa dạng gen
2.2. Đa dạng loài
2.3. Đa dạng hệ sinh thái
Chương 3. Thực trạng
Trái đất đang cạn kiệt động vật, thực vật và nước sạch ở tốc độ chóng mặt. Đó là kết
luận của 4 báo cáo khoa học mà Liên Hợp Quốc thực hiện nhằm mang lại cái nhìn đầy
đủ nhất về tình trạng đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta hiện nay.
Ngày 23/3, các nhà khoa học đã họp tại Colombia, công bố 4 báo cáo khu vực về tình
trạng của động thực vật tại châu Mỹ, châu Âu, Trung Á, châu Phi, và châu Á-Thái Bình
Dương. Kết luận được đưa ra sau 3 năm nghiên cứu là: Không nơi nào khả quan.
Hãng tin AP dẫn lời trưởng nhóm nghiên cứu Robert Watson cho biết, Diễn đàn Chính
sách- Khoa học Liên chính phủ về Hệ sinh thái và Đa dạng Sinh học không chỉ đề cập
đến các loài vật mà còn tập trung vào việc giữ cho Trái đất tồn tại cho nhân loại, vì
chúng ta phụ thuộc vào đa dạng sinh học để có nguồn thực phẩm, nước sạch và sức
khỏe công cộng. Nhóm nhà khoa học cũng dẫn ra những bằng chứng báo động mới đây
nhất như cái chết của con tê giác trắng cuối cùng ở châu Phi, số lượng voi, hổ, tê tê đều
giảm đáng kể.
Thế giới giàu có và đông đúc hơn đồng nghĩa với việc con người cần nhiều thức ăn,
nước sạch, năng lượng, đất đai hơn. Và cách mà xã hội loài người cố đạt được những
điều đó đang làm xói mòn đa dạng sinh học.
Kết quả nghiên cứu theo từng khu vực cho thấy:
Tại châu Mỹ, nếu xu hướng hiện nay tiếp diễn thì vào năm 2050 châu lục này sẽ mất đi
15% động- thực vật, tương đương gần một nửa (40%) so với những năm 1700. Hiện cứ
4 loài động thực vật được quan sát đầy đủ thì có một loài đang bị đe dọa.
Châu Á- Thái Bình Dương: Nếu hiện trạng vẫn tiếp tục, tới năm 2048, khu vực này sẽ
không còn "trữ lượng cá khai thác được", mất gần một nửa (45%) sự đa dạng sinh học
và gần như mất sạch (90%) các loại san hô quan trọng. Theo các nhà khoa học, tất cả
các hệ sinh thái lớn đều đang bị đe dọa trong khu vực.
Châu Âu và Trung Á: Dù được đánh giá tích cực nhất nhưng có tới 28% các loài động-
thực vật chỉ có ở châu Âu hiện đang bị đe dọa. Trong thập niên qua, châu lục này bị sụt
giảm 42% các loài động- thực vật. Còn kể từ năm 1970 tới nay, các khu vực đầm lầy đã
giảm một nửa.
Châu Phi: Tới năm 2100, một số loài chim và động vật có vú tại đây có thể giảm chỉ còn
một nửa. Hơn 60% dân chúng châu Phi phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên để làm
nguồn sinh kế.
Tới nay, hơn 20% các loài động- thực vật ở châu Phi đang bị đe dọa, có nguy cơ hoặc đã
tuyệt chủng.
Trước thực trạng kể trên, các khoa học gia kêu gọi các chính phủ và xã hội cần thay đổi
xu hướng, trong khi mỗi cá nhân có thể đóng góp bằng cách tiết kiệm năng lượng, nước
và giảm tiêu thụ thịt động vật.
nguyên liệu công nghiệp, lương thực thực phẩm, nhiều loại thuốc cho con người, chúng
còn có thể làm ổn định hệ sinh thái nhờ sự tác động qua lại giữa chúng.
Gần đây, thuốc trị bệnh bạch cầu có thể được trích từ một loại hoa – Rosy Periwrinkle
(dừa cạn hồng), chỉ được tìm thấy ở Madagascar, và thuốc điều trị bệnh ung thư vú từ
cây Thủy tùng ở Tây Bắc Pacific. Các sản phẩm từ động vật, cá và thực vật được dùng
làm thuốc, đồ trang sức, năng lượng, vật liệu xây dựng, lương thực và những vật dụng
cần thiết khác .v.v…
Những vườn sinh học được thành lập với rất nhiều loài hoang dã tạo vẻ đẹp phục vụ nhu
cầu vui chơi giải trí của con người.
Về mặt sinh thái, đa dạng sinh học còn có vai trò trong bảo vệ sức khỏe và tính toàn bộ
của hệ sinh thái thế giới. Cung cấp lương thực, lọc các chất độc (qua các chu trình sinh
địa hóa học), điều hòa khí hậu của trái đất, điều chỉnh cung ứng nước ngọt … Nếu mất
những loài hoang dại sẽ làm mất sự cân bằng sinh thái và ảnh hưởng tới con người, chất
lượng của cuộc sống.
Thay đổi tính đa dạng và nơi cư trú của đa dạng sinh học cũng ảnh hưởng tới sức khỏe
và bệnh tật của con người và mỗi khu vực, châu lục lại có một kiểu đa dạng sinh học
khác nhau do sự ảnh hưởng về các yếu tố môi trường, khí hậu,...
Nhiều nhà khoa học cho rằng Trái đất đang trải qua thời kỳ đại tuyệt chủng lần thứ 6 mà
thủ phạm không ai khác chính là con người. Tuyệt chủng là quy luật tất yếu của tự
nhiên. Tuy nhiên, giới khoa học ước tính tốc độ tuyệt chủng của các loài động thực vật
hiện nay cao hơn so với mức trung bình đến 100-1.000%. Khoảng 1/3 số loài được các
nhà nghiên cứu khảo sát trên thế giới đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Sự đa dạng
của hệ sinh thái cũng bị tác động ít nhiều. Chẳng hạn: các vùng đất có nhiều cây bụi
thuộc miền khí hậu Địa Trung Hải đang lâm nguy với mức độ nghiêm trọng hơn so với
các khu rừng nhiệt đới.
Việc cân đo đong đếm tính ĐDSH không phải là chuyện dễ. Thực tế, các nhà khoa học
không thể biết đích xác có bao nhiêu loài động thực vật đang hiện hữu trên Trái đất -
ước tính dao động từ 5 đến 30 triệu loài. Trong số 2 triệu loài đã nhận dạng đặt tên, giới
nghiên cứu chỉ mới theo dõi được khoảng 50.000 loài. Để nắm diễn biến ĐDSH, các
nhà bảo tồn đã phát triển Chỉ số Hành tinh Sống (Living Planet Index - LPI) để theo dõi
số cá thể của 1.686 loài chỉ thị trên khắp hành tinh, cũng giống như chỉ số chứng khoán.
Và trong 35 năm qua, LPI đã tụt 28%, và điều này cho thấy “sức khỏe” ĐDSH không
thật sự tốt.
Mối đe dọa lớn nhất hiện nay chính là môi trường sống của các loài ngày càng bị mất
dần. Sản xuất nông nghiệp, chăn thả gia súc, phát triển đô thị đã và đang làm manh mún
và hủy hoại môi trường sống của động thực vật trên cạn.
Tình hình ở dưới nước cũng chẳng sáng sủa hơn. Tình trạng đánh bắt, khai thác quá mức
để phục vụ nhu cầu thực phẩm, thuốc men... cũng tiếp tay nhấn chìm tính ĐDSH. Đánh
bắt cá đã hủy diệt 80% trữ lượng thủy sản tự nhiên trong khi nạn phá rừng và săn bắt
động vật hoang dã ở các vùng nhiệt đới đang đẩy nhiều loài sống trong rừng đến bờ vực
tuyệt chủng.
Theo báo cáo của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), thị trường buôn lậu các
loài động thực vật hoang dã không ngừng bành trướng với khoản lợi nhuận khổng lồ thu
vào chỉ thua mỗi “hàng trắng”.
Những hiểm họa do ô nhiễm rất đa dạng từ “không thể nhìn thấy” – thuốc bảo vệ thực
vật và chất thải công nghiệp “đầu độc” các con sông và tích tụ trong hệ sinh vật – cho
đến “không thể ăn được”: mỗi năm hàng nghìn con chim và rùa biển chết do ăn phải bọc
ni-lông. Phân hóa học và nước thải sinh hoạt thâm nhập nguồn nước và tạo điều kiện
cho tảo sinh sôi và các vùng biển chết (do không có ôxy) hình thành. Khí CO2 gây hiện
tượng ấm nóng toàn cầu cũng là một chất gây ô nhiễm, gây acid hóa các đại dương và
có nguy cơ xóa sổ các rặng san hô giàu tính ĐDSH.
Trong những thập niên tới, tình trạng biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đe dọa tính ĐDSH.
Khi thiết lập mạng lưới các khu bảo tồn tự nhiên trên toàn cầu hiện nay, các nhà bảo vệ
môi trường cũng lưu tâm đến diễn biến khí hậu.
Liên Hiệp Quốc đang kêu gọi các nước tham gia một nỗ lực toàn cầu nhằm tính toán giá
trị ĐDSH – từ thụ phấn cho cây trồng cho đến doanh thu từ phát triển du lịch – để đưa
vào quá trình đề ra chính sách của các quốc gia. Tính ĐDSH không phải lúc nào cũng
mang lại lợi ích hữu hình cho nhân loại dù nó đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
nguồn nước, bầu không khí và thực phẩm sạch và những “dịch vụ” khác nữa. Một số
cho rằng những lợi ích của tính ĐDSH đang được thổi phồng, và rằng chỉ nên bảo vệ
tính ĐDSH vì lợi ích của chính nó. Tuy nhiên, các nhà kinh tế cho rằng việc am hiểu
tính ĐDSH cũng mang lại một lợi ích, đó là “giá trị hiện hữu”.
Giữ vai trò chủ xị là Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (WWF) đóng ở Thụy Sĩ – hiện đang điều
phối 1.300 dự án tại 40 quốc gia trên thế giới. Một tổ chức quan trọng khác là tổ chức Bảo Tồn
Quốc tế, đi tiên phong trong việc sử dụng khái niệm “những điểm nóng ĐDSH” – những khu
vực có nhiều loài quí hiếm đang bị đe dọa – để xác định những loài nào cần bảo vệ trước.
Hiện nay thế giới có nhiều hiệp ước bảo vệ tính ĐDSH như Công ước về cấm mua bán các loài
có nguy cơ tuyệt chủng và Công ước về bảo tồn tính ĐDSH. Năm nay cũng là năm khép lại nỗ
lực thực hiện sáng kiến của Hiệp hội Quốc tế bảo tồn tự nhiên (tiền thân của WWF) về hạn chế
tình trạng suy thoái ĐDSH đến năm 2010. Liên Hiệp Quốc tuyên bố 2010 là Năm quốc tế về
ĐDSH, và ngày 22-5 được chọn là Ngày quốc tế về bảo tồn ĐDSH. Bất chấp các nỗ lực của
cộng đồng thế giới, có một điều gần như chắc chắn rằng tình trạng suy giảm tính ĐDSH sẽ
không thể cải thiện trong một sớm một chiều, chứ nói gì là vào cuối năm nay.
Việt Nam nằm ở phần đông bán đảo Ðông Dương, trong vùng nhiệt đới bắc bán cầu với
tổng diện tích tự nhiên trên đất liền là 329.241 km2, trong đó 75% diện tích là đồi núi. Vùng
biển có bờ biển dài khoảng 3.260 km với hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven bờ và hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2. Sự đa dạng về địa
hình, kiểu đất, cảnh quan và khí hậu là cơ sở rất thuận lợi tạo nên tính đa dạng sinh học vô
cùng phong phú và đặc sắc của Việt Nam, thể hiện ở đa dạng các hệ sinh thái, đa dạng loài
và đa dạng nguồn gen. Đa dạng sinh học của Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng trong
phát triển bền vững đất nước, đặc biệt đối với sự phát triển của các ngành kinh tế nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, y tế, công nghiệp và du lịch, đưa lại lợi ích và sinh kế cho
hàng triệu người dân. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội, đa dạng sinh học
ở Việt Nam đang tiếp tục bị suy giảm nhanh ở cả ba cấp độ hệ sinh thái, loài và nguồn gen
Đa dạng các hệ sinh thái thể hiện ở hệ sinh thái trên cạn với các đặc trưng như rừng, đồng
cỏ, savan, đất khô hạn, đô thị, nông nghiệp, núi đá vôi; hệ sinh thái đất ngập nước nội địa
thể hiện ở các vùng đặc trưng như hồ, hồ chứa, ao, đầm, ruộng lúa nước, các thủy vực nước
chảy như suối, sông, kênh rạch; hệ sinh thái biển và ven bờ với 20 kiểu hệ sinh thái biển
điển hình thuộc 9 vùng phân bố tự nhiên. Đa dạng loài bao gồm: thực vật với 13.766 loài,
động vật trên cạn với 10.300 loài, vi sinh vật với 7.500 loài, sinh vật nước ngọt với 1.438
loài vi tảo; 800 loài động vật không xương sống; 1.028 loài cá nước ngọt, sinh vật biển với
11.000 loài. Đa dạng nguồn gen cây trồng, vật nuôi với 14.000 nguồn gen được bảo tồn và
lưu giữ. Để bảo tồn được nguồn tài nguyên đa dạng sinh học hết sức phong phú này, trong 5
năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng như: độ che phủ rừng liên tục
tăng; mở rộng, phát triển hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên; thực hiện các hình thức bảo
tồn chuyển chỗ bước đầu được phát triển; phát triển nhân nuôi các loài nguy cấp, quý, hiếm,
có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua công tác
bảo tồn đa dạng sinh học đã và đang có những thách thức nhất định, đó là việc các hệ sinh
thái tự nhiên bị tác động và số lượng loài nguy cấp, quý, hiếm bị đe dọa đang tăng lên.
Ở Việt Nam, chưa có hệ thống chính thức phân loại các hệ sinh thái. Tuy nhiên, theo các
nhà khoa học, có thể chia các hệ sinh thái của Việt Nam thành 3 nhóm chính bao gồm: hệ
sinh thái trên cạn, hệ sinh thái đất ngập nước nội địa và hệ sinh thái biển và ven bờ. Các hệ
sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài
như tác động của thiên nhiên, đặc biệt là tác động của con người.
b. Hệ sinh thái đất ngập nước nội địa Hệ sinh thái đất ngập nước nội địa rất đa dạng, bao
gồm các thủy vực nước đứng như hồ tự nhiên, hồ chứa, ao, đầm, ruộng lúa nước, các
thủy vực nước chảy như suối, sông, kênh rạch. Trong đó, có một số kiểu có tính đa dạng
sinh học cao như suối vùng núi, đồi, đầm lầy than bùn với rất nhiều các loài động vật mới
cho khoa học đã được phát hiện ở đây. Các hệ sinh thái sông, hồ ngầm trong hang động
Castơ chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Theo thống kê, Việt Nam có 20 kiểu hệ sinh thái biển điển hình thuộc 9 vùng phân bố tự
nhiên với đặc trưng đa dạng sinh học biển khác nhau. Trong đó, ba vùng biển, bao gồm:
Móng Cái-Đồ Sơn, Hải Vân-Đại Lãnh và Đại Lãnh-Vũng Tàu có tính đa dạng sinh học cao
hơn các vùng còn lại. Các hệ sinh thái ven bờ như rừng ngập mặn, đầm phá, vụng biển, vũng
biển, rạn san hô, thảm cỏ biển và vùng biển quanh các đảo ven bờ, đảo xa bờ là những nơi
có tính đa dạng sinh học cao đồng thời rất nhạy cảm với biến đổi môi trường. Trong đó, rạn
san hô và thảm cỏ biển được xem là các hệ sinh thái đặc trưng quan trọng nhất do chúng có
tính đa dạng sinh học và có giá trị bảo tồn cao nhất. Hai hệ sinh thái này có quan hệ mật
thiết và tương hỗ lẫn nhau, tạo ra những chuỗi dinh dưỡng đan xen quan trọng ở vùng biển
và ven bờ của Việt Nam. Nếu hệ sinh thái này bị hủy hoại sẽ tác động tiêu cực đến các hệ
sinh thái khác. Nếu mất cả hai loại hệ sinh thái này, các vùng biển ven bờ của Việt Nam có
nguy cơ sẽ trở thành “thuỷ mạc”. Từ những điểm trên có thể thấy, trên khắp vùng lãnh thổ
của Việt Nam từ trên cạn đến nước nội địa ra tới vùng biển, các kiểu hệ sinh thái tự nhiên rất
đa dạng. Mỗi kiểu hệ sinh thái lại có quần xã sinh vật đặc trưng riêng. Tất cả tạo nên sự
phong phú, đa dạng khu hệ sinh vật của Việt Nam.
Nghiên cứu chứng minh hệ sinh thái đa dạng thể hiện tính ưu việt hơn trong việc cung cấp
những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như thực phẩm và nước sạch. Chưa kể, hệ sinh thái đa
dạng cũng phục hồi nhanh hơn sau những biến cố thiên nhiên như bão tố.
Tính ĐDSH cũng có nghĩa là những sự chọn lựa. Lâu nay động thực vật luôn đóng vai trò khơi
gợi cảm hứng, giúp các nhà khoa học nảy ra nhiều ý tưởng làm tiền đề cho sự ra đời của vô số
sáng chế phục vụ đời sống con người, từ dược phẩm cho đến công nghệ. Nói cách khác, thế giới
tự nhiên là kho chứa khổng lồ những thông tin, ý tưởng có tiềm năng làm lợi cho nhân loại. Điều
này cũng bao hàm cả lương thực – thực phẩm. Hiện tại, trên Trái đất có khoảng 20 ngàn loại
lương thực - thực phẩm phục vụ nhân loại. Trước thực trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch
bệnh ngày càng khó kiểm soát, giải pháp tối ưu để bảo đảm an ninh lương thực cho nhân loại là
đa dạng hóa các giống cây trồng đang canh tác.
Các hệ sinh thái của trái đất là cơ sở sinh tồn của sự sống cho cả trái đất và cả con người. Các hệ
sinh thái đảm bảo cho sự chu chuyển oxy và các nguyên tố dinh dưỡng khác trên toàn hành tinh.
Chúng duy trì tính ổn định và sự màu mỡ của đất nói riêng hay của hành tinh nói chung. Các hệ
sinh thái bị suy thoái thì tính ổn định và sự mềm dẽo; linh động của sinh quyển cũng bị thương
tổn.
- Các hệ sinh thái tự nhiên có giá trị thực tiễn rất cao: Rừng hạn chế sự xói mòn của mặt đất và
bờ biển, điều tiết dòng chảy, loại trừ các cặn bã làm cho dòng chảy trở nên trong và sạch; các bãi
cỏ biển, các rạn san hô...ở thềm lục địa làm giảm cường độ phá hoại của sóng, dòng biển, là nơi
nuôi dưỡng, cung cấp thức ăn và duy trì cuộc sống cho hàng vạn loài sinh vật biển.
- Duy trì và cung cấp nguồn gen và là kho dự trữ các nguồn gen quý - hiếm cho cây trồng và vật
nuôi cho tương lai.
- Nhiều loài động thực vật được sử dụng làm thức ăn cho con người, cho gia súc, làm thuốc,
lấy gỗ làm nhà; phục vụ cho phát triển kinh tế, làm chất đốt lấy năng lượng, làm cây cảnh...Hiện
tại, đã thống kê được 30.000 loài cây có những phần ăn được, nhưng chỉ mới khoảng 7.000 loài
được trồng hoặc thu hái làm thức ăn, trong đó có 20 loài đã cung cấp đến 90% lượng tinh bột
trên toàn thế giới. - Sinh vật trong quá trình tiến hoá đã tồn tại và phát triển một cách bền vững
và hài hoà với nhau, tạo nên một thiên nhiên đa dạng, phong phú và hấp dẫn, làm nền tảng cho
mọi cảm hứng về thẩm mỹ, nghệ thuật và văn hóa của con người
Tham khảo một số loại hoa xuất khẩu sang Nhật Bản tháng 07/2008
Giá trị gián tiếp là những khía cạnh khác nhau của đa dạng sinh học như:các quá trình
xảy ra trong môi trường và các chức năng của hệ sinh thái là những nguồn lợi không thể đo
đếm và nhiều khi là vô giá. Giá trị gián tiếp bao gồm các lợi ích thu được cơ bản từ các dịch
vụ chức năng mà môi trường và các hệ sinh thái cung cấp cho ta, và các tác dụng duy trì hoạt
động của con người. Những giá trị này không dễ dàng được nhận
thấy vì con người không trực tiếp sử dụng hoặc tiêu thụ nhưng lại rất quan trọng.
Thí dụ:rừng có tác dụng thu hút và giữ khí CO2 để quang hợp,làm sạch không khí,góp phần
hạn chế lũ lụt,ngăn ngừa xói mòn đất ở đầu nguồn và bồi lắng ở các hạ lưu dòng chảy…
Giá trị này đôi khi có thể tính toán được:ví dụ như việc côn trùng thụ phấn cho cây trồng.Gía
trị đó cho phép tính bằng số tiền thu hoạch tăng lên bao nhiêu hoặc người nông dân phải trả
bao nhiêu tiền để thuê các tổ ong phục vụ cho sự thụ phấn đó.
- các loài thực vật chứa diệp lục có giá trị như những sinh vật sản xuất sơ cấp thông qua quá
trình quang hợp.
Ngoài ra chúng cũng là nguồn sống của các thực vật khác trong chuỗi thức ăn:
Phù di thực vật trong các đại dương là nguồn thức ăn cơ sở cho chuỗi thức ăn trong biển và giúp
cho sự điều chỉnh chu trình khí quyển toàn cầu:
Vd: tảo lam là nguồn sản sinh ra khí O2 trên TĐ. Tảo được dùng làm thức ăn, có mặt trong các
nhà máy lọc nước, thậm chí ở ngay trong hai lá phổi của chúng ta.
Sự đa dạng các vi sinh vật,vi khuẩn cố định nitơ cho thực vật sử dụng, làm tăng
năng suất cây trồng và có giá trị ước tính khoảng 50 tỷ USD hàng năm.
Các chất hữu cơ chết ,mùn được tái sử dụng bởi các vi sinh vật,nấm và các vi
khuẩn phân hủy tạo thành thức ăn cho thực vật.
Vi sinh vật còn tham gia vào quá trình hình thành chất mùn.
Vi sinh vật sống trong đất và trong nước tham gia tích cực vào quá trình phân giải các
xác hữu cơ biến chúng thành CO2 và các hợp chất vô cơ khác dùng làm thức ăn cho cây trồng.
Các vi sinh vật cố định nitơ thực hiện việc biến khí nitơ (N2) trong không khí thành hợp chất
nitơ (NH3, NH4+) cung cấp cho cây cối. Vi sinh vật có khả năng phân giải các hợp chất khó
tan chứa P, K, S và tạo ra các vòng tuần hoàn trong tự nhiên.
Ở các vùng cửa sông, bãi ven biển là nơi những thực vật thủy sinh và tảo phát triển mạnh,
chúng là mắt xích đầu tiên của hàng loạt chuỗi thức ăn tạo thành các hải sản như trai, sò, tôm
,cua…
1. Giá trị về môi trường
BẢO VỆ NGUỒN NƯỚC
- Những tán lá, thân cây, lá khô làm giảm tốc độ hạt nước rơi xuống đất, hạn chế sự tác
động trực tiếp lên bề mặt đất tức là ngăn cản dòng chảy.
- Rễ cây và hệ động vật đất(điển hình là giun đất) làm đất tơi xốp, tăng độ thông khí, tăng
độ thâm của nước,góp phần làm giảm dòng chảy và lưu trữ nước từ ngày này sang ngày khác