You are on page 1of 10

2|

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY


THERAVĀDA
-----

CHÚ GIẢI BỔN SANH KINH


(ATTHAKATHĀJĀTAKA)

Soạn giả
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG
(VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)

MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................................................ 2
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................................................... 3
MƯỜI PHÁP KHÔNG YÊN TÂM ĐÁNG SỢ ........................................................................................................ 3
TÍCH NGƯỜI KHÔNG LÀM TỘI NỮA ................................................................................................................ 6
TÍCH BRAHMACARIYA....................................................................................................................................... 8
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng tôi xin xuất bản quyển Kinh này để làm phước thí trong dịp lễ kỉ niệm của Ông,
Bà, Cha, Mẹ chúng tôi đã quá vãng.
Chúng tôi nguyện hồi hướng quả phúc này đến tất cả chúng sanh nhứt là chư Thiên trong
sa bà thế giới, sau khi các Ngài đã hoan hỷ xin mách bảo Ông, Bà, Cha, Mẹ chúng tôi đến
thọ hưởng phần phước này và được thụ sinh trong nhàn cảnh.
Quí danh chư thí chủ: Bà Huỳnh Khôi, Ô. Bà Franeois, Bà Trần Thị Dài, Bà Võ Thị
Nhung, Ông Trần Văn Hung, Bà Võ Thị Long, Cô Trần Thị Sáu, Cô Võ Thị Quế, Cô Trần
Thị Bảy, Cô Võ Thị Hạnh Nhân, Ông Bành Văn Nàm, Bành Văn Sấm, Lê Minh Quang,
Lê Minh Qui, Lê Văn Sanh, Lê Văn Chia.
---

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3 lần).

MƯỜI PHÁP KHÔNG YÊN TÂM ĐÁNG SỢ

Dasa khalumāni thānāni


Yāni pubbe akaritvā
Sa pacchā anutappati
Iccāha rājā janasandho
Janasan dhajātaka
Thời quá khứ, thuở đức hoàng đế Brahmadhatta thống trị thủ đo Bārānasī, có Đức Bồ
tát giáng sinh làm vị Hoàng tử, danh hiệu là Janasandharājakumāra. Đến khi trưởng thành
đi học nghề nghiệp ở thành Takkasilā, khi thành tài rồi, Ngài trở về được Đức Hoàng phụ
tôn lên làm Phó vương. Sau khi vua cha thăng hà, Đức Bồ tát lên ngôi Cửu ngũ. Có tâm bố
thí, Ngài cho người tạo 6 phước xá: 4 trước 4 cửa thành, 1 giữa thủ đô cùng 1 trước hoàng
môn. Mỗi ngày làm phước thí đến 60 ngàn bạc. Nhờ vậy, nhân gian hằng được an cư, lạc
nghiệp. Cửa khám đường cũng không đóng chặt. Dân chúng đồng trì giới và thính pháp,
mong hưởng điều hành phúc lâu dài.
Một hôm, vào ngày rằm, Đức Bồ tát thọ bát quan trai giới (uposathasīla). Ngài có ý định
thuyết pháp, bèn cho bố cáo tựu hội quần chúng tại hoàng điện, Ngài phán rằng: Này! Hỡi
các nhân dân! Trẫm sẽ thuyết một ít pháp đáng sợ, một ít pháp không đáng lo, các ngươi
hãy chú tâm và thành kính nghe.
Đức Thế Tôn thuyết pháp này đến Đức vua Kosala theo Đức Hoàng đế Janasandha đã
giảng giải như kệ ngôn sau đây:
Dasa khalumānī ṭhānani
Yāni pubbe akaritvā
Na pacchā anutappati
Iccāha rājā janasandho.
Có 10 nguyên nhân khiến tâm lo sợ, người nào không tránh trước, kẻ đó sẽ có sự lo sợ
về sau.
Nguyên nhân thứ 1 Pubbe asamudānitan
Aladdhā cittan tapati Na pubbe dhammesissan
4 | Chú giải bổn sanh kinh

Iti pacchānutappati. Pāṇātipatī pure āsin


Nghĩa: Con người lúc trẻ, không Luddho cāpi anāriyo
chuyên cần làm việc cho sanh tài sản, đến Bhūtānan nāvajānissan
khi già yếu nghèo cực, sẽ buồn rầu vì thấy Iti pacchānutappati.
kẻ khác được sống an nhàn, phần mình lại Nghĩa: Kẻ nào lúc trước là người tham
nuôi mạng khó khăn và nghĩ rằng: bởi lam, độc ác, sát hại sanh vật, hành động
ngày trước ta không tìm của để dành, nên hèn hạ, không nhẫn nại từ bi đối với chúng
chi đánh lúc già phải chịu điều khổ não sanh; đến sau nằm trên giường trong giờ
như vậy. hấp hối, tưởng đến điều tội lỗi đã làm, sẽ
Vì thế, nếu các ngươi muốn sống có sự lo sợ trong địa ngục. Sự làm hại sinh
không vất vả lúc tuổi già, thì lúc buổi thừa vật ấy cũng là điều lo sợ về sau.
sinh lực phải làm các công nghệ, nhứt là Nguyên nhân thứ 5
nghề nông, ngõ hầu tích của để dành nuôi Bahusū vata santīsu
mạng khi già yếu. Anāpadāsu itthisu
Sự không cố gắng làm việc lúc tuổi trẻ Paradāran asevissan
để cho của cải phát sanh là nguyên nhân Iti pacchānutappati.
sanh điều phiền não về sau. Nghĩa: Người nào lúc trước luyến ái vợ
Nguyên nhân thứ 2 kẻ khác, đến sau nhớ tưởng đến nghiệp dữ
Sakyarūpan pure santan đã làm rằng: có nhiều phụ nữ không nguy
Mayā sippan na sikkhitan hiểm, không có người gìn giữ (có thể
Kicchā vutti asippassa thương yêu được), mà ta lại tà dâm vợ
Iti pacchānutappati. người, như vậy thật là không nên. Khi đã
Nghĩa: Một nghề nghiệp nào thích hợp nghĩ đến nghiệp tà dâm đã làm rồi, cũng
mà mình không học tập để phòng thân, là điều lo sợ về sau.
thuở còn tráng kiện; sau mình phải ưu sầu Nguyên nhân thứ 6
rằng: Bởi không tập luyện nghề nghiệp, Bahumhi vata santamhi
nên chi ta mới nuôi mạng khó khăn như Annapāne upatthite
vầy. Vì thế, nếu các ngươi muốn được Na pubbe adadin dānan
điều yên vui lúc tuổi già, thì khi còn trai Iti pacchānūtappati.
tráng hãy siêng năng học nghề để dành, Nghĩa: Những hạng người khi còn
nếu không phải chịu sự phiền não về sau. thanh niên có tâm bủn xỉn, đến khi sau bị
Nguyên nhân thứ 3 sự lão, bệnh trong giờ hấp hối, suy xét
Kūtavedi pure āsin rằng: thuở trước có nhiều vật ăn thức
Pisuno piṭṭihimansiko uống, ta không đem ra bố thí. Tưởng nghĩ
Caṇḍo ca pharuso cāsin đến sự hẹp hòi của mình như thế, cũng là
Itī pacchānutappati. điều lo sợ về sau.
Nghĩa: Người nào trước kia đã lừa đảo, Nguyên nhân thứ 7
vu cáo, gièm siểm, chửi mắng, đâm thọc, Mātaran pitāran cāpi
đến khi hấp hối sẽ nhớ đến sự xấu xa đã Jiṇṇake gatayobbane
làm và phát tâm hối hận. Vì thế, nếu Pahusanto na posissan
không muốn sa địa ngục, các ngươi chẳng Itia pacchānūtappati.
nên làm những tội ác. Người gian xảo, Nghĩa: Người nào không được phụng
quỷ quyệt như thế, sẽ có sự lo sợ về sau, dưỡng mẹ già cha yếu, đến sau sẽ lo sợ
không sai. rằng: ta có đầy đủ của cải, cơm, nước mà
Nguyên nhân thứ 4 không cung cấp song thân. Nghĩ như thế
rồi cũng là điều lo sợ trong ngày sau.
|5

Nguyên nhân thứ 8 Nguyên nhân thứ 10


Ācariyamanusatthāran Sādhu hoti tapo ciṇṇo
Sabbakāmarasārahan Santo ca payirupāsito
Pitaran atimaññissan Aciṇṇo me tapo pubbe
Itia pacchānūtappati. Itia pacchānūtappati.
Nghĩa: Kẻ nào không chịu lời dạy bảo Nghĩa: Kẻ nào trong khi trước không
của cha là bậc thầy, đã khuyến dụ trước, thực hành pháp thiêu hủy, tức là 3 hạnh
đã dưỡng nuôi mình lúc còn niên thiếu và kiểm chân chánh1 không được vào gần
chỉ giáo mình cho trở nên tốt đẹp, mà bậc Tịnh giã, đến khi sau, bị sự già, sự
mình không vâng chịu, rồi khinh rẻ. Sự bịnh phá hại, bèn suy nghĩ rằng: ta không
hành vi xấu xa như thế, cũng là điều lo sợ tích trữ các hạnh kiểm chân chánh quí cao,
về sau. cũng không thân cận các hạng thiện trí
Nguyên nhân thứ 9 thức để thực tiễn các pháp chân chánh, khi
Samane brāhmane cāpi tử thần đến nên ta có sự lo sợ như vậy.
Sīlavante bahussute Tổng cộng là 10 pháp đáng lo, đáng sợ.
Na pubbe payirupāyissan Yo ca etāni thānāni
Itia pacchānūtappati. Yoniso paṭipajjati
Nghĩa: Người nào trong khi trước Karan purisakiccāni
không đi tìm các bậc Samôn và Bàlamôn Na ca pacchānutappati.
có giới, là những hạng bác học, thấy các Nghĩa: Những người nào trước đã được
ngài có sự thiếu thốn mà không cúng thực hành để tránh 10 nguyên nhân ấy,
dường, nhứt là tứ vật dụng, đến khi sau hạng người đó được gọi là bậc đã làm
gặp điều khổ cực, sẽ phải phiền não rằng: trách nhiệm của người nam nhi, sẽ được ở
vì không được thân cận các bậc Samôn và yên vì sự không cẩu thả, khỏi lo sợ về sau
Bàlamôn để cúng dường nên ta mới có sự và sẽ hằng được hoan hỷ.
khổ não, không nơi nương nhờ như vầy,
cớ đó cũng là điều lo sợ về sau.

‒ Dứt ‒

1
Ba hạnh kiểm chân chánh là: thân, khẩu, ý trong sạch
không sát sanh, trộm cắp, tà dâm; không nói dối, đâm
thọc, chửi mắng; không tham, sân, si.
6 | Chú giải bổn sanh kinh

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3 lần).

TÍCH NGƯỜI KHÔNG LÀM TỘI NỮA

Mitto mitassa pāniyan Corā aganhu kākane


Adinnan paribhunjīsan Tesāhan pucchito jānan
Tena pacchā vijigucchin Aññathā nan viyākarin
Tan pāpan pakatan mayā. Tena pacchā vijigucchin
Trong thời quá khứ có hoàng đế Tan pāpan pakatan mayā
Brahmadatta ở thủ đô Bārānasī, thưở đó Mā puna akaran pāpan
có 5 đức Độc Giác (Paccekabuddha) trải Tasmā pabbajito ahan.
đi khất thực trong kinh thành đó, đến Nghĩa: Tâu đại vương! Kẻ cướp bắt cha
hoàng môn đức vua xem thấy, bèn phát Ātmābhāba giam trong rừng, Ātmābhāba
tâm trong sạch, sốt sắng, lúc bấy giờ khiến bị người thẩm vấn, biết chắc nhưng nói lời
người đến thỉnh vào thọ thực trong hoàng khác, vì vậy sau rồi Ātmābhāba ghê cái tội
điện. Trong giờ khoản đãi, hoàng đế ngự đã làm đó, nên nghĩ rằng ta đừng làm
một bên, phán hỏi rằng: “Bạch quí Ngài, thêm tội nữa, do đó Ātmābhāba mới xuất
sự xuất gia trong lúc ấu niên như quí Ngài gia.
thật là hiếm có. Không rõ quí Ngài thấy Đức Độc Giác thứ tư tâu rằng:
tội của nhục dục thế nào, hoặc có điều gì Panātipatāmakarun
làm cho quí Ngài phải xuất gia.” Satomayāge upatthite
Đức Độc Giác thứ nhứt tâu: Tesāhan samanuññāsin
Mitto mittassa pāniyan Tena pacchā vijigucchin
Adinnan paribhūjisan Tan pāpan pakatan mayā
Tena pacchā vijīgucchin Mā puna akaran pāpan
Tan pāpan pakatan mayā Tasmā pabbajito ahan.
Mā puna akaran pāpan Nghĩa: Khi hy sinh (súc vật dùng để cúng
Tasmā pabbajito ahan. tế) bắt đầu làm, loài người đã sát sanh,
Nghĩa: Đã uống nước của bạn, mà người Ātmābhāba đã chuẩn hành đến họ, vì vậy
chưa cho; vì thế Ātmābhāba ghê tởm các về sau Ātmābhāba không thích cái tội đã
tội đã làm rằng: ta chẳng nên phạm tội đó làm đó, nghĩ rằng: ta đừng gây tội nữa, vì
nữa đâu. Cớ ấy Ātmābhāba mới xuất gia. thế Ātmābhāba mới xuất gia.
Đức Độc Giác thứ hai tâu: Đức Độc Giác thứ năm tâu rằng:
Paradāranca disvanā Surāmerayadhukā
Chando me upapajjatha Ye janā pathamāsu no
Tena pacchā vijigucchin Bahunnan te anatthāya
Tan pāpan pakatan mayā Majjappānamakambayun
Mā puna akaran pāpan Tesāhan samanuññāsin
Tasmā pabbajito ahan. Tena pacchā vijigucchin
Nghĩa: Sự thỏa chí phát sanh đến Tan pāpan pakatan mayā
Ātmābhāba vì được thất vợ người, sau rồi Mā puna akaran pāpan
Ātmābhāba gớm điều tội lỗi đã làm đó, Tasmā pabbajito ahan.
nghĩ rằng: ta chẳng nên làm tội ấy nữa Nghĩa: Những người trong nhà
đâu, vì thế Ātmābhāba mới xuất gia. Ātmābhāba, từ trước họ thấy rằng các chất
Đức Độc Giác thứ ba tâu: say, toàn là nước thơm tho khoái lạc, nên
Pitaran me mahārāja uống đến say túy lúy rồi phải bị hại.
|7

Ātmābhāba đã nhận cho họ, về sau Natthi kāmā paran dukkhan


Ātmābhāba gớm cái tội đã làm, nghĩ rằng Ye kāme patisevanti
ta chẳng nên gây tội đó nữa, vì thế Nirayante upapajjare.
Ātmābhāba mới xuất gia. Nghĩa: Các nhục dục ít có sự khoái lạc, có
Đức vua nghe nói phát tâm hoan hỷ và nhiều điều vất vả; sự khổ ngoài nhục dục
sốt sắng cúng dường nhiều y, bát và thuốc không có, kẻ nào thọ dụng nhục dục kẻ đó
men. Chư Độc Giác liền từ giã đức vua trở sẽ sa địa ngục.
về núi Nandamūlaka. Asi yathā sunisito
Bắt đầu từ đó đức vua phát tâm chán Nettin sova subāyiko
nản không vui lòng trong đế vị, ngày nọ Sattivā urasi khittā
vào ngự trong cung cấm, ngài tham thiền Kāmā dukkhatarā tato.
quán tưởng, đắc định rồi khiển trách nhục Nghĩa: Ví như dao không trắc ẩn, tức là
dục rằng: cây kiếm hoặc lao mà họ mài cho bén, trét
Dhiratthusu bahukāme bằng chất độc rồi chạm hoặc đâm vào
Duggandhe bahukantake ngực, các nhục dục cũng đem rất nhiều sự
Yo cāhan peṭisevanto khổ hơn đó nữa.
Nālabhin tādisan sukhan Āngrānanva jalitan
Nghĩa: Đáng sợ thay khi ta còn thọ dụng Kāsun sādhikaporisan
các nhục dục có mùi xấu xa, có nhiều Phālanva divasantattan
nghịch pháp như thứ gai nhọn, vô dụng Kāmā dukkhatara tato.
rồi, cũng không được hưởng điều hạnh Nghĩa: Các thống khổ phát sanh đó, như
phúc chi như thế. hầm than đỏ cháy hỏa hào, rất sâu hơn
Trong hồi đó đức hoàng hậu vừa ngự khuôn khổ người nam, hoặc miếng sắt mà
vào, được nghe như vậy bèn tâu rằng: người đốt cho nóng trọn ngày, các nhục
Mahassādā sukhā kāmā dục hằng đem sự khổ đến càng nhiều hơn
Natthi kāmā paran sukhan đó nữa.
Ye kāme patisevanti Visan yathā halāhalan
Saggante upapajjare. Telan pakkutthitan yathā
Nghĩa: Các nhục dục có lắm điều lạc thú Tambalohan vilīnanva
và hạnh phúc, ngoài nhục dục không có Kāmā dukkhatara tato.
thú vui, người thọ dụng nhục dục sẽ lên Nghĩa: Ví như (sự khổ phát sanh do) nọc
cõi trời. độc dữ dội hoặc như dầu sôi hay nước
Đức vua vội đáp: Hãy tiêu diệt đi, đồng sôi, các nhục dục đem đến nhiều khổ
người phụ nữ xấu xa, ngươi nói cái chi? não hơn các vật đó nữa.
Các thú vui trong nhục dục có trong nơi Khi đức vua đã phán như thế rồi, ngài
nào được, vì sự sung sướng ấy sẽ biến bèn cho hội chúng quần thần truyền ngôi
thành khổ não, rồi ngài đọc kệ ngôn chê cho hoàng tử rồi xuất gia; sau khi ngũ uẩn
trách nhục dục tiếp theo như vầy: tan rã, ngài thọ sanh trong cõi Phạm
Appassādā dukkhā kāmā Thiên.

‒ Dứt ‒
8 | Chú giải bổn sanh kinh

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3 lần).

TÍCH BRAHMACARIYA
Kinte vatan kin pana brahmacariyan
Kissa sucinnassa ayan vipāko
Akkhāhi me brāhmana etamatthan
Kasmā nu tumhan daharā na miyyare.
Mahadhammapālajātaka
Trong thời quá khứ hoàng đế Brahmadatta thống trị đế đô Bārānasī. Trong quận
Dhammapāla Gāmā tỉnh Kāsi, có một vị Bàlamôn Dhammapāla thân sinh của đức Bồ tát
Dhammapālakumāra. Khi lớn lên đức Bồ tát đi học nghề với một giáo sư trứ danh
(Disāpamokkho) trong khi kinh đô Takkasilā. Ngài là một học sinh cao đẳng học giỏi nhất
trong 500 sĩ tử. Trong thời đó, con trưởng nam của vị giáo sư từ trần, ai cũng đều thương
tiếc khóc than. Khi làm lễ hỏa táng thi hài mọi người đều thương tâm khóc kể, trừ ra đức
Bồ tát không ưu sầu chi cả. Đức Bồ tát bèn hỏi các bạn học sinh rằng: Các anh nói rằng,
còn trẻ mà tại sao lại chết, chết trẻ như vậy không nên, phải chăng?
- Bạn Dhammapāla này! Bạn không biết sự chết chăng?
- Biết, nhưng không ai chết trẻ, già mới chết.
- Tất cả tập hợp toàn là không thường, có rồi không, không rồi có, phải chăng?
- Phải rồi, các bạn! Các tập hợp là vô thường thật, song cũng có chúng sanh không thác
thuở thiếu niên, già rồi mới chết, dầu là ở trong quyền lực của luật vô thường.
- Trong gia đình bạn, không có người nào chết chăng?
- Có bạn à, song không chết trẻ đến già mới chết.
- Điều này là phong tục trong gia đình của bạn chăng?
- Ờ là thói quen trong gia đình của tôi.
Các học sinh đồng nhau đến tỏ bày cho vị giáo sư hay, vị giáo sư bèn hỏi đức Bồ tát rồi
tính: “Ta nên đi thẩm vấn thân sinh của Dhammapālakumāra, nếu thật như thế ta sẽ tu hành
theo”. Sau khi hỏa táng thi hài của con rồi, gởi các trò lại cho đức Bồ tát, vị trứ danh giáo
sư gói xương dê, cho người đem theo đến nhà Dhammapālakumāra, được gặp thân sinh
của đức Bồ tát. Sau khi đã chào hỏi nhau, vị giáo sư tùy dịp tỏ rằng: “Dhammapālakumāra
học hành tấn hóa, nhưng mới từ trần, xin ông đừng thương tiếc, vì các tập hợp đều là vô
thường”. Ông Bàlamôn nghe qua bèn vỗ tay cười.
- Tại sao ông cười?
- Con tôi không chết, đó là kẻ khác chết. Khi vị giáo sư mở gói xương cho xem, thân
sinh đức Bồ tát vẫn quyết định rằng: “Không phải xương của con tôi đâu, đó là hài cốt
của thú hay của kẻ nào, quyết hẳn, con tôi không chết, vì gia đình của tôi đã bảy đời
rồi chẳng có một người nào chết non cả”.
Trong hồi đó người trong nhà đều vỗ tay cười rộ. Vị giáo sư thấy sự phi thường như thế
liền hoan hỷ hỏi rằng:
Kinte vattan kin pana brahmacariyan
Kissa suciṇṇassa ayan vipāko
Akkhāhi me brahmāna etamatthan
Tasmā nu tumhan daharā nā miyyare.
Nghĩa: Thế nào là sự hoạt động hằng ngày của ông, cái chi là phép trinh bạch của ông, sự
không chết trẻ đây là quả phước của các nhân lành mà ông đã thực hành chân chánh rồi,
ông Bàlamôn! Xin ông chỉ nguyên nhân đó đến tôi với, tại sao mà thân quyến ông lại không
có người chết trẻ?
Ông Bàlamôn tường thuật cho vị giáo sư rõ về nguyên nhân của sự không chết trẻ trong
gia đình ông rằng:
Dhamman carāma na musā bhanāma
Pāpāni kammāni parivajjayāma
Anariyan parivajjema sabban
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi tu hành: không nói dối, tránh làm nghiệp ác, và chừa cải những nghiệp
không cao quí; vì thế, người thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Sunoma dhamman asatan satañca
Na cāpi dhamman asatan rocayāma
Hitvā asante na jahāma sante
Tasmā hi amhan daharā na miyyare,
Nghĩa: Chúng tôi được nghe các bậc tịnh giả và vô tịnh giả rồi; không vừa lòng cái pháp
của kẻ vô tịnh giả, không nhìn nhận hạng người vô thiện tri thức; không bỏ bậc tịnh giả.
Vì vậy, thanh niên trong gia đình chúng tôi mới không chết.
Pubbe va dānā sumanā bhavāma
Dadanpi ve attamanā bhavāma
Dātvapi ve nānutappāma paccha
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi trước khi bố thí cũng chú tâm chân chánh, đang cho cũng hoan hỷ, sau
khi thí rồi cũng không phiền não. Vì thế, các trẻ tuổi của chúng tôi mới không chết.
Samaṇe mayan brahmaṇe addhike ca
Vanibbake yācanake dalidde
Annena pānena abhitappayāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi đã chăm nom, săn sóc các bậc Samôn, Bàlamôn, bộ hành, người nghèo,
kẻ xin bằng thức ăn, nước uống. Vì vậy, nhóm thiếu niên của chúng tôi mới không chết.
Mayañca bhariyan natikkamāna
Amhe ca bhariyā nātikkamanti
Aññatra tāhibrahmacariyan carāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi không bỏ lòng vợ, vợ chúng tôi cũng không ngoại tình, chúng tôi hành
đạo phạm hạnh, không quá yêu phụ nữ khác. Vì thế, những trai trẻ của chúng tôi mới không
chết.
Pānātipātā viramāma sabbe
Loke adinnan parivajjayāma
Amajjapānepi musā bhanāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
10 |

Nghĩa: Tất cả chúng tôi đều chừa cải sự sát sanh, trộm cắp trong đời, không uống chất say
cũng không nói dối. Vì vậy hạng thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Etāsu ve jāyare suttamāsu
Medhāvino honti bahuttapaññā
Bahussutā vedagunā ca honti
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Con sinh ra từ hạng vợ tốt như thế, tự nhiên sanh trí, có nhiều trí tuệ, là người bác
học, có học thức tấn hóa. Vì thế các trẻ của chúng tôi mới không chết.
Mātā pitā bhaginī bhatāro ca
Puttā ca dārā ca mayañca sabbe
Dhamman carāma paralokahetu
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Mẹ cha, chị em, anh em, con, vợ, tất cả chúng tôi mỗi người đồng thực hành pháp,
mong được lợi ích vị lai (không phải chỉ mong hạnh phúc hiện tại). Vì vậy, những người
trẻ tuổi của chúng tôi mới không chết.
Dāsā ca dāsī anujivino ca
Paricārikā kammakarā ca sabbe
Dhamman caranti paralokahetu
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Tôi trai, tớ gái, những kẻ lệ thuộc, tất cả người đó toàn là hạng tu hành mong tìm
điều lợi ích vị lai. Vì vậy, người thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Trong nơi cuối cùng ông Bàlamôn giải về đức tính của người hành pháp như vầy:
Dhammo have rakkhati dhammacārin
Dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti
Esānisanso dhamme suciṇṇe
Na duggatin gacchati dhammacārī.
Nghĩa: Pháp tự nhiên hộ người hành pháp, hẳn thật, pháp mà người hành được chơn chánh
rồi, tự nhiên đem các hạnh phúc đến cho, đây là sự kết quả trong pháp đã thực tiễn đứng
đắn rồi nghĩa là người thi hành pháp tự nhiên, không sa trong cảnh khổ.
Dhammo have rakkhati dhammacārin
Chattan mahantan viya vassakāle
Dhammena gutto mama dhammapālo
Aññassa aṭṭhīni sukhi kumāro.
Nghĩa: Pháp tự nhiên hộ trì người hành pháp, hẳn thật, như cây dù to được phòng ngừa khi
có mưa, Dhammapāla con chúng tôi có cả pháp hộ trì rồi, hài cốt mà ông đem đến đây là
của sinh vật khác, phần Kumāra vẫn còn ở yên mát mẻ.
Vị trứ danh giáo sư khi đã nghe những lời như thế liền phát tâm hoan hỷ, rằng: “Tôi đến
đây gọi là đến chân chánh, rất có hạnh phúc”. Rồi bày tỏ sự thật cho ông Bàlamôn nghe và
ghi chép các pháp vào sở tập ký, tạm trú lại đó thêm 2, 3 ngày nữa mới trở về thành
Takkasilā, hết lòng dạy bảo đức Bồ tát cho được mãn ý, rồi khiến bộ hạ đưa đức Bồ tát hồi
qui với sự đầy đủ thanh danh.

‒ Dứt tác phẩm Chú giải Bổn sanh kinh (Pl.2501-Dl.1957) ‒

You might also like