Professional Documents
Culture Documents
Chu Giai Bon Sanh Kinh-Ho Tong PDF
Chu Giai Bon Sanh Kinh-Ho Tong PDF
Soạn giả
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG
(VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................................................ 2
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................................................... 3
MƯỜI PHÁP KHÔNG YÊN TÂM ĐÁNG SỢ ........................................................................................................ 3
TÍCH NGƯỜI KHÔNG LÀM TỘI NỮA ................................................................................................................ 6
TÍCH BRAHMACARIYA....................................................................................................................................... 8
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng tôi xin xuất bản quyển Kinh này để làm phước thí trong dịp lễ kỉ niệm của Ông,
Bà, Cha, Mẹ chúng tôi đã quá vãng.
Chúng tôi nguyện hồi hướng quả phúc này đến tất cả chúng sanh nhứt là chư Thiên trong
sa bà thế giới, sau khi các Ngài đã hoan hỷ xin mách bảo Ông, Bà, Cha, Mẹ chúng tôi đến
thọ hưởng phần phước này và được thụ sinh trong nhàn cảnh.
Quí danh chư thí chủ: Bà Huỳnh Khôi, Ô. Bà Franeois, Bà Trần Thị Dài, Bà Võ Thị
Nhung, Ông Trần Văn Hung, Bà Võ Thị Long, Cô Trần Thị Sáu, Cô Võ Thị Quế, Cô Trần
Thị Bảy, Cô Võ Thị Hạnh Nhân, Ông Bành Văn Nàm, Bành Văn Sấm, Lê Minh Quang,
Lê Minh Qui, Lê Văn Sanh, Lê Văn Chia.
---
‒ Dứt ‒
1
Ba hạnh kiểm chân chánh là: thân, khẩu, ý trong sạch
không sát sanh, trộm cắp, tà dâm; không nói dối, đâm
thọc, chửi mắng; không tham, sân, si.
6 | Chú giải bổn sanh kinh
‒ Dứt ‒
8 | Chú giải bổn sanh kinh
TÍCH BRAHMACARIYA
Kinte vatan kin pana brahmacariyan
Kissa sucinnassa ayan vipāko
Akkhāhi me brāhmana etamatthan
Kasmā nu tumhan daharā na miyyare.
Mahadhammapālajātaka
Trong thời quá khứ hoàng đế Brahmadatta thống trị đế đô Bārānasī. Trong quận
Dhammapāla Gāmā tỉnh Kāsi, có một vị Bàlamôn Dhammapāla thân sinh của đức Bồ tát
Dhammapālakumāra. Khi lớn lên đức Bồ tát đi học nghề với một giáo sư trứ danh
(Disāpamokkho) trong khi kinh đô Takkasilā. Ngài là một học sinh cao đẳng học giỏi nhất
trong 500 sĩ tử. Trong thời đó, con trưởng nam của vị giáo sư từ trần, ai cũng đều thương
tiếc khóc than. Khi làm lễ hỏa táng thi hài mọi người đều thương tâm khóc kể, trừ ra đức
Bồ tát không ưu sầu chi cả. Đức Bồ tát bèn hỏi các bạn học sinh rằng: Các anh nói rằng,
còn trẻ mà tại sao lại chết, chết trẻ như vậy không nên, phải chăng?
- Bạn Dhammapāla này! Bạn không biết sự chết chăng?
- Biết, nhưng không ai chết trẻ, già mới chết.
- Tất cả tập hợp toàn là không thường, có rồi không, không rồi có, phải chăng?
- Phải rồi, các bạn! Các tập hợp là vô thường thật, song cũng có chúng sanh không thác
thuở thiếu niên, già rồi mới chết, dầu là ở trong quyền lực của luật vô thường.
- Trong gia đình bạn, không có người nào chết chăng?
- Có bạn à, song không chết trẻ đến già mới chết.
- Điều này là phong tục trong gia đình của bạn chăng?
- Ờ là thói quen trong gia đình của tôi.
Các học sinh đồng nhau đến tỏ bày cho vị giáo sư hay, vị giáo sư bèn hỏi đức Bồ tát rồi
tính: “Ta nên đi thẩm vấn thân sinh của Dhammapālakumāra, nếu thật như thế ta sẽ tu hành
theo”. Sau khi hỏa táng thi hài của con rồi, gởi các trò lại cho đức Bồ tát, vị trứ danh giáo
sư gói xương dê, cho người đem theo đến nhà Dhammapālakumāra, được gặp thân sinh
của đức Bồ tát. Sau khi đã chào hỏi nhau, vị giáo sư tùy dịp tỏ rằng: “Dhammapālakumāra
học hành tấn hóa, nhưng mới từ trần, xin ông đừng thương tiếc, vì các tập hợp đều là vô
thường”. Ông Bàlamôn nghe qua bèn vỗ tay cười.
- Tại sao ông cười?
- Con tôi không chết, đó là kẻ khác chết. Khi vị giáo sư mở gói xương cho xem, thân
sinh đức Bồ tát vẫn quyết định rằng: “Không phải xương của con tôi đâu, đó là hài cốt
của thú hay của kẻ nào, quyết hẳn, con tôi không chết, vì gia đình của tôi đã bảy đời
rồi chẳng có một người nào chết non cả”.
Trong hồi đó người trong nhà đều vỗ tay cười rộ. Vị giáo sư thấy sự phi thường như thế
liền hoan hỷ hỏi rằng:
Kinte vattan kin pana brahmacariyan
Kissa suciṇṇassa ayan vipāko
Akkhāhi me brahmāna etamatthan
Tasmā nu tumhan daharā nā miyyare.
Nghĩa: Thế nào là sự hoạt động hằng ngày của ông, cái chi là phép trinh bạch của ông, sự
không chết trẻ đây là quả phước của các nhân lành mà ông đã thực hành chân chánh rồi,
ông Bàlamôn! Xin ông chỉ nguyên nhân đó đến tôi với, tại sao mà thân quyến ông lại không
có người chết trẻ?
Ông Bàlamôn tường thuật cho vị giáo sư rõ về nguyên nhân của sự không chết trẻ trong
gia đình ông rằng:
Dhamman carāma na musā bhanāma
Pāpāni kammāni parivajjayāma
Anariyan parivajjema sabban
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi tu hành: không nói dối, tránh làm nghiệp ác, và chừa cải những nghiệp
không cao quí; vì thế, người thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Sunoma dhamman asatan satañca
Na cāpi dhamman asatan rocayāma
Hitvā asante na jahāma sante
Tasmā hi amhan daharā na miyyare,
Nghĩa: Chúng tôi được nghe các bậc tịnh giả và vô tịnh giả rồi; không vừa lòng cái pháp
của kẻ vô tịnh giả, không nhìn nhận hạng người vô thiện tri thức; không bỏ bậc tịnh giả.
Vì vậy, thanh niên trong gia đình chúng tôi mới không chết.
Pubbe va dānā sumanā bhavāma
Dadanpi ve attamanā bhavāma
Dātvapi ve nānutappāma paccha
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi trước khi bố thí cũng chú tâm chân chánh, đang cho cũng hoan hỷ, sau
khi thí rồi cũng không phiền não. Vì thế, các trẻ tuổi của chúng tôi mới không chết.
Samaṇe mayan brahmaṇe addhike ca
Vanibbake yācanake dalidde
Annena pānena abhitappayāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi đã chăm nom, săn sóc các bậc Samôn, Bàlamôn, bộ hành, người nghèo,
kẻ xin bằng thức ăn, nước uống. Vì vậy, nhóm thiếu niên của chúng tôi mới không chết.
Mayañca bhariyan natikkamāna
Amhe ca bhariyā nātikkamanti
Aññatra tāhibrahmacariyan carāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Chúng tôi không bỏ lòng vợ, vợ chúng tôi cũng không ngoại tình, chúng tôi hành
đạo phạm hạnh, không quá yêu phụ nữ khác. Vì thế, những trai trẻ của chúng tôi mới không
chết.
Pānātipātā viramāma sabbe
Loke adinnan parivajjayāma
Amajjapānepi musā bhanāma
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
10 |
Nghĩa: Tất cả chúng tôi đều chừa cải sự sát sanh, trộm cắp trong đời, không uống chất say
cũng không nói dối. Vì vậy hạng thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Etāsu ve jāyare suttamāsu
Medhāvino honti bahuttapaññā
Bahussutā vedagunā ca honti
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Con sinh ra từ hạng vợ tốt như thế, tự nhiên sanh trí, có nhiều trí tuệ, là người bác
học, có học thức tấn hóa. Vì thế các trẻ của chúng tôi mới không chết.
Mātā pitā bhaginī bhatāro ca
Puttā ca dārā ca mayañca sabbe
Dhamman carāma paralokahetu
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Mẹ cha, chị em, anh em, con, vợ, tất cả chúng tôi mỗi người đồng thực hành pháp,
mong được lợi ích vị lai (không phải chỉ mong hạnh phúc hiện tại). Vì vậy, những người
trẻ tuổi của chúng tôi mới không chết.
Dāsā ca dāsī anujivino ca
Paricārikā kammakarā ca sabbe
Dhamman caranti paralokahetu
Tasmā hi amhan daharā na miyyare.
Nghĩa: Tôi trai, tớ gái, những kẻ lệ thuộc, tất cả người đó toàn là hạng tu hành mong tìm
điều lợi ích vị lai. Vì vậy, người thanh niên của chúng tôi mới không chết.
Trong nơi cuối cùng ông Bàlamôn giải về đức tính của người hành pháp như vầy:
Dhammo have rakkhati dhammacārin
Dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti
Esānisanso dhamme suciṇṇe
Na duggatin gacchati dhammacārī.
Nghĩa: Pháp tự nhiên hộ người hành pháp, hẳn thật, pháp mà người hành được chơn chánh
rồi, tự nhiên đem các hạnh phúc đến cho, đây là sự kết quả trong pháp đã thực tiễn đứng
đắn rồi nghĩa là người thi hành pháp tự nhiên, không sa trong cảnh khổ.
Dhammo have rakkhati dhammacārin
Chattan mahantan viya vassakāle
Dhammena gutto mama dhammapālo
Aññassa aṭṭhīni sukhi kumāro.
Nghĩa: Pháp tự nhiên hộ trì người hành pháp, hẳn thật, như cây dù to được phòng ngừa khi
có mưa, Dhammapāla con chúng tôi có cả pháp hộ trì rồi, hài cốt mà ông đem đến đây là
của sinh vật khác, phần Kumāra vẫn còn ở yên mát mẻ.
Vị trứ danh giáo sư khi đã nghe những lời như thế liền phát tâm hoan hỷ, rằng: “Tôi đến
đây gọi là đến chân chánh, rất có hạnh phúc”. Rồi bày tỏ sự thật cho ông Bàlamôn nghe và
ghi chép các pháp vào sở tập ký, tạm trú lại đó thêm 2, 3 ngày nữa mới trở về thành
Takkasilā, hết lòng dạy bảo đức Bồ tát cho được mãn ý, rồi khiến bộ hạ đưa đức Bồ tát hồi
qui với sự đầy đủ thanh danh.