Professional Documents
Culture Documents
Moi Tuong Quan Giua Kha Nang Chiu Tai Va Phan Luc Nen
Moi Tuong Quan Giua Kha Nang Chiu Tai Va Phan Luc Nen
Tóm tắt: Các kỹ sư sử dụng ngày một nhiều các phần mềm để thiết kế móng bè như móng mềm
để tiết kiệm bê tông. Thay vì dùng “Khả năng chịu tải của đất” (Soil bearing capacity), các phần
mềm thường yêu cầu khai báo tính chất được gọi là “Mô đun phản lực nền” (Modulus of
subgrade reaction). Tại sao tính chất này của đất là cần thiết? Có mối liên hệ nào giữa hai hệ số
này? Có thể tính toán một hệ số này từ hệ số kia? Bài báo này sẽ giải thích ý nghĩa của các hệ số
này và mối liên hệ giữa chúng.
Mở đầu
Có lẽ giá trị sử dụng rộng rãi nhất trong một báo cáo địa chất là khả năng chịu lực của đất. Các ví
dụ cơ bản trong các sách và giáo trình luôn sử dụng khả năng chịu tải của đất để tính toán kích
thước móng vì đơn giản và dễ sử dụng. Hơn nữa, một cách đơn giản có thể coi móng là móng
cứng. Giả thiết này áp dụng tốt đối với móng nhỏ hoặc móng một cột, với móng nhiều cột hoặc
móng kích thước rộng, hầu hết các kỹ sư chọn phân tích theo dạng móng mềm hơn. Tính toán
bằng tay để phân tích móng mềm là một trong những vấn đề khó, hầu hết thường phải sử dụng
các phần mềm để trợ giúp như STAAD, SAFE, GT STRUDL,…. Tuy nhiên, các phần mềm này
luôn yêu cầu khai báo hệ số gọi là “Mô đun phản lực đất nền” (Modulus of subgrade reaction).
Rất nhiều kỹ sư không quen thuộc với khái niệm này và thương cố so sánh, đối chiếu nó với khả
năng chịu tải của đất. Khi mà ngày càng có nhiều kỹ sư sử dụng phần mềm để thiết kế nền móng,
thì việc hiểu hệ số này của đất càng quan trọng và cần thiết. Liệu có mối liên hệ nào giữa “Khả
năng chịu tải của đất” và “Mô đun phản lực nền” không?
Công thức xác định “Mô đun phản lực nền” (Modulus of subgrade reaction) (coefficient of
subgrade reaction) là:
Page 1 of 10
p (1)
Ks
S
Trong đó:
Page 2 of 10
Hình 2-Các điểm đƣợc lựa chọn để so sánh áp lực, chuyển vị và hệ số
Bảng 1-Áp lực đất, chuyển vị các điểm và tỷ lệ giữa chúng
Không có gì đáng ngạc nhiên bởi do trong khai báo, “Mô đun phản lực nền” (Modulus of
subgrade reaction) (Ks) là không đổi cho toàn bộ móng và phần mềm đã sử dụng Ks để mô tả
tính chất của đất. Cũng cần chú ý rằng mặc định phần mềm sử dụng giá trị Ks (10858 kN/m)
giống với giá trị hệ số không đổi được tính ở bảng 1.
Áp lực cơ bản đã được tính từ phản lực gối tựa (support reaction). Do vậy, người ta có thể cho
rằng tỷ lệ giữa phản lực gối tựa và chuyển vị tương ứng cũng là hằng số. Chúng ta sẽ lấy một vài
ví dụ được cho trong bảng 2. Rõ ràng là các hệ số không cố định cho tất cả, nhưng đúng cho hầu
hết các trường hợp. Điều này gợi cho chúng ta tới ý tưởng tiếp theo đó là Tại sao giá trị Ks lại
được sử dụng bên trong các phần mềm và áp lực cơ bản đã được tính toán.
Page 3 of 10
Bảng 2-Phản lực gối và chuyển vị
Page 4 of 10
Kyi Ks Tai (2)
Trong đó:
Page 5 of 10
Bảng 3- Phản lực, áp lực cơ bản, chuyển vị, hằng số Ks
Bảng 4 - Áp lực lớn nhất tƣơng ứng với độ lún cho phép = 25mm
Để đánh giá độ lún phá hủy, người ta giả thiết độ lún cho phép (thông thường từ 25mm hay 1
inch). Khi đất lún hơn độ lún cho phép, đất được coi là phá hủy. Do đó, để tính sức chịu tải , độ
lún cho phép được sử dụng để đánh giá khi thiết kế móng. Giá trị độ lún cho phép là một thông
số trong các báo cáo địa chất.
Page 6 of 10
Tại sao sử dụng Mô đun phản lực đất nền (Modulus of subgrade reaction)
Từ đầu tới giờ, thiết kế móng bè mềm, mô đun phản lực đất nền (modulus of subgrade reaction)
được sử dụng để thay thế cho khả năng chịu tải của đất (bearing capacity of soil). Nhưng tại sao
lại như vậy? Câu trả lời nằm trong giả định về cách làm việc của đất nền.
Móng có thể là cứng hoặc mềm. Khả năng chịu tải (bearing capacity of soil) được sử dụng để
thiết kế móng cứng nhưng phản lực đất nền (modulus of subgrade reaction) lại được sử dụng để
thiết kế móng mềm.
Móng cứng được giả thiết là “phản lực đất nền p có dạng phân bố tuyến tính vì móng cứng vẫn
giữ nguyên hình dạng sau khi lún”(3). Chúng ta xét một trường hợp đơn giản là dầm chịu tải trọng
P tại trung điểm như trên Hình 5-a. Khi phân tích, chúng ta tính được R1=P/2 và R2=P/2. Nếu
như dầm chịu tải trọng không đặt tại trung điểm thì phản lực được tính toán như Hình 5-b.
Hình 6-a cho thấy tải trọng tác dụng ở vị trí tâm móng. Từ phân tích dầm cứng rộng P=RxL.
Cũng tương tự đối với tải trọng lệch tâm tác dụng lên móng, phản lực sẽ biển đổi theo dạng
đường thẳng từ điểm đầu tới điểm cuốn như thể hiện ở Hình 6-c. Từ phương trình (3) và (4) có
thể tìm được phản lực. Tuy nhiên không có phương trình nào bao gồm hệ số nền (Ks). Do đó,
“phân bố của phản lực nền ở móng cứng không phụ thuộc vào độ nén của nền”(4) nơi nó được đặt
Page 7 of 10
lên. Theo nhiều học giả đã tổng kết, một móng cứng có thể được thiết kế một cách an toàn khi sử
dụng khả năng chịu tải trong hầu hết các trường hợp và phương pháp này cho kết quả an toàn
hơn.
1 (3)
P L( R1 R2 )
2
1 1 (4)
P a B 2 R1 B 2 R2
6 3
Page 8 of 10
Mối tƣơng quan giữa Khả năng chịu lực và Hệ số đất nền
Phổ biến nhất, và cũng có thể là an toàn nhất, câu trả lời là không có mỗi tương quan nào giữa
hai đại lượng ở trên. Nhưng khi chỉ có một trong 2 hệ số kể trên thì làm sao có được hệ số cần
thiết để thiết kế nền móng?
Chúng ta hãy xen lại định nghĩa của hệ số Ks một lần nữa, đó là áp lực trên một đơn vị độ lún.
Do vậy, nói một cách khác, đó là khả năng chịu tải của đất đối với một chuyển vị cho trước. Từ
các thảo luận trước đó, rõ ràng Ks bằng với khả năng chịu tải trọng đối với một độ lún cho phép.
Do đó, có thể tạm thời kết luận được rằng Hệ số nền (Modulus of subgrade reaction) là Khả
năng chịu tải (the bearing capacity) trên một đơn vị độ lún.
Kết luận này rất giống với phương trình được đưa ra bởi Bowles(5):
SF Hệ số an toàn
qa Khả năng chịu tả cho phép (the allowable bearing capacity)
Ở phương trình trên, khả năng chịu tải cho phép là khả năng chịu tải giới hạn chia cho hệ số an
toàn. Tác giả đã giả thiết độ lún là 1 inch hay 25mm. Phương trình cuối cùng có được sau khi
chia khả năng chịu tải tới hạn cho độ lún giả thiết.
Dạng khác của công thức xác định Ks có thể được viết lại như sau:
Iqa
Ks (ứng suất/chuyển vị)
Trong đó:
I Hệ số an toàn
qa Khả năng chịu tải cho phép
Độ lún cho phép của đất
Từ phương trình trên, có thể thấy rõ ràng rằng cần xác định một hệ số an toàn phù hợp và giá trị
Ks có thể so sánh tốt hơn với Khả năng chịu tải tới hạn hơn là Khả năng chịu tải cho phép. Hệ
số an toàn phụ thuộc vào các dự án khác nhau và các kỹ sư địa kỹ thuật. Hệ số quan trọng khác
là Độ lún cho phép trong tính toán khả năng chịu tải. Ngoài ra, các phương trình nói tới ở trên có
những giới hạn nhất định. Nó có thể được áp dụng cho những móng mà độ lún là yếu tố ảnh
hưởng chính, còn với những móng là lực cắt phá hoại xuất hiện trước khi móng đạt tới độ lún
cho phép thì không thể áp dụng được. Do đó, các kỹ sư cần phải thận trọng trước khi áp dụng
những phương trình trên.
Page 9 of 10
Tổng kết
Từ mối tương quan giữa Khả năng chịu tải (bearing capacity) và Phản lực nền (subgrade
reaction) ở trên, chúng ta có thể ước lượng một cách tốt nhất các giá trị này. Mối tương quan này
có thể được sử dụng để xác định đại lượng này từ đại lương kia, tuy nhiên giá trị Ks nên được
kiểm tra lại bằng thí nhiệm. Ngoài ra, từ các diễn giải ở trên, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa vật lý
của Phản lực nền và Khả năng chịu tải.
Tham khảo
(1)(2)(3)(4) Soil Mechanics in Engineering Practice (Third Edition) – Terzaghi, Peck, Mesri
Page 10 of 10