You are on page 1of 51

ÔN TẬP CUỐI KÌ TRIẾT 1

Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
của định nghĩa này?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men
coi là không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít => CN duy
vật ngây thơ, chất phác, đồng nhất vật cụ thể với vật chất.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII, do cơ học phát triển mạnh và
chiếm ưu thế nên các quan niệm về thế giới (về vật chất) cũng mang tính cơ học mà đại biểu Newton
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng
nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học
duy vật cổ đại và cận đại. Rơn-ghen phát hiện ra tia X, Tôm-xơn phát hiện ra phóng xạ, Xlay-đen
với thuyết tế bào, Đác-uyn với thuyết tiến hóa => Nguồn gốc của con người bắt nguồn từ tự nhiên,
có cơ sở khoa học.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm
về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác phẩm
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1 là) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a) Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất -
đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy
nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ.
b) Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các
giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các
sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết
được rằng nước sôi nóng 100 độ C.
2 là) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là
tồn tại không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó
nó vẫn tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian
phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự
nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
3 là) Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có
thể được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…

4 là) Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác
quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ
có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không
biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế
giới khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.

5 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại
khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập
với ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất.
Như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức
phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí
chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
VD: Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn ông ra trận và
hi sinh nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì kinh tế không thể phát triển. Vì thếm,
nếu đường lối chủ trương chính sách lúc đó mà không phù hợp với thực tế thì kinh tế (vật chất) cũng
không thể đi lên.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học. Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc khách
quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và
cận đại). Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật
chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định
được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội: đó là tồn tại xã hội quy định
ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v…; tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn, nước đó có tầm
ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn. (Mỹ can thiệp vào các vấn đề trên
Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc và có tầm ảnh hưởng)
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong
mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện
tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động chủ
quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho
rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan,
các điều kiện vật chất cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở công ty thôi
là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị trường, thời cơ, nhu cầu, khu vực…
Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh. Ngược lại, nếu công
ty cho ra những sản phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy cơ phá sản là rất cao.

Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa của nó đối
với sự phát triển của khoa học?

1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức
tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian
mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể
của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và sự
tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.

VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế,
sự giảm sút trong học tập, giảm cân,…

2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ biện
chứng giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di chuyển trên

đường phố khi tham gia giao thông.


b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt, điện,...

VD: thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.

c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và phân

giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2  2H2O)

d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v… VD: sự

hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.

e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của đời

sống xã hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai

cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.

Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với
trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại
biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ
sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự
tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao
giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.

3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ minh họa.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; chủ
nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ
nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng
tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không
xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ
không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.

- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra
những quá trình biến đổi nhất định.

- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động
chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.

VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ là đứng
im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng
khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định (1976 - 1986)
tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi: nông nghiệp giảm nhẹ,
công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này bù khuyết vào sự giảm đi của
mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.

4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:


Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại,
phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình
thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động
hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học: Hóa học,
Vật lí học, Sinh học,…
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý thức
và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết
học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người,
hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu
cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động ý thức của
con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động
thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có
bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động
đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức về thế
giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần phát triển nhờ
việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại những kiến thức, kinh
nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con người làm chủ được thiên
nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong quá
trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật
chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao,
tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao trong các kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước đóng đá)
và phản ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động, không định hướng và không
lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích (cây cối vươn ra ánh sáng) c) Phản ánh của
động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống (ngủ
đông, di cư).
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm tạo ra
của cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích
lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ những
kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy
luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng mỡ gà
có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau,
tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì
đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ ngôn ngữ, con
người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản
phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 4. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như
nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
nhu cầu v.v… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói
lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ-
cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn
tại được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn
lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy
luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên
sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người
đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với
dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô
hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức
không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc đáp ứng
những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội; do
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng
động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các
thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện
tượng có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã hội phát triển.
Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự phát triển của xã hội (Thời kì bao
cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn
lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách
thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng. Con người
lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ cách
làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
Câu 5. Kết cấu của ý thức:
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là
sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của
ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện
để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó
tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên,
tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể
chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức
cảm tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là
một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc
cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong
mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không
thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản
và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các
quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ,
tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt
Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình
thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của
ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối
với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm
và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà
chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là
một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh
giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến nhưng
ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu
tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự
phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ ý muốn chủ quan,
lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện thực cuộc
sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt hại về người và của vô
cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà phải làm lành các vết thương chiến
tranh cả về vật chất lần tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người: giáo
dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng nhiệt tình
cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; vận dụng đúng đắn các quan hệ
lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học không vụ lợi; chống thụ động, ỷ lại, bảo
thủ, trì trệ. VD: Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất phát từ ý thức người dân nên việc
tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của nhân tố
chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình thay cho sự yếu
kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời hiện thực khách quan; phải đổi mới
tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Câu 6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần là
cái có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần của con người xét cho cùng
đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vao trong bộ não người và bị quy định bởi hoạt động thực
tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị, pháp quyền,
đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế - xã hội tương ứng của nó
trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể.
Có thực mới vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của nhân tố
tinh thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý thức xã
hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước hay sự phát triển của khoa học cũng
dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở thành hiện
thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh tế - xã hội của
một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời thay
thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng, điện thoại di động ra đời thay
thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào
trong hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng nhấn mạnh rằng: chỉ có
lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời sống xã
hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam tòng tứ đức,
công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam và nữ đã có sự bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con
người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh của ý thức về hiện thực
khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính năng động và sáng tạo.
Vì vậy, ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích, phương pháp
hoạt động nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, luôn
có những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin chiến
thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính là một trong những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại xã hội,
khẳng định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo C.Mác: một khi lý luận xâm
nhập vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực tiếp. Về vấn đề này,
V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng.
VD: Tất cả các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều có cơ sở và
lí luận cách mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm hiểu về
Cách mạng Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò
quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư tưởng của con người
với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể phát huy được năng lực tối ưu của
các nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định để đạt được
kết quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng thường đặt ra những câu
hỏi là tại sao trong những điều kiện khách quan nhất định nào đó mà ranh giới giữa cái chết và cái
sống… có những con người có thể vượt lên chính mình bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với
nghị lực và bản lĩnh để làm một việc gì đó mà mọi người cho là không tưởng, nhưng lại thành công.
Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân
tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng khoán 10
của Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức
phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất. VD: Tư tưởng
trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách quan trong sự
xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Nguyên tắc này
đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà phải xuất phát từ
đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng đắn và xây dựng mô hình lý
luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem xét là hệ quả tất yếu của quan
điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất - ý thức, giữa khách quan - chủ quan.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người. Nguyên
tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể hiện ngay từ khi con
người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức,
phương pháp thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực
tiễn, xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và
đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố
vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và
sáng tạo.
- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân
sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó, không lấy ý
muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải tôn
trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính
khách quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảng chủ
trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là nguồn lực của
dân vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con người, về phát triển
giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủa và văn minh”.
Câu 8. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến

Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự
vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật
và hiện tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và
kiến thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện
tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần
với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ,
tác động đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan. VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD: gói hút ẩm trong các gói bánh có MLH
với môi trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái
quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của
nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ
có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình
thức, vai trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo viên trong MLH công
việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...
Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:

1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính
cùng các mối liên hệ của chúng.

2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.

3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự
vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.

Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các
mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất
của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không
cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó trong mọi
MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của cả một quá trình.
Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không đàng hoàng, có nhiều chỉ
trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái nhìn khác. A biết yêu thương
gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...

Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ
thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở
lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân
lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi; kinh tế
nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ:
vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa
thể ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 10. Nguyên lý về sự phát triển

a. Khái niệm phát triển

Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với
nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát
triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn
lọc, cải tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ thấp
đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa biết của
con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật,
hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên trong của sự vật,
hiện tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ ->
Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người không thể quay
về được dù có muốn hay không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn giữ lại,
có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét văn hóa
mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa truyền thống (ca trù, quan
họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào
các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì đi xuống.
Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công.
Câu 11. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt động nhận
thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát
triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm,
tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để
hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi thời kì để
thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và ủng
hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại quan điểm
bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm thời, tạo nên con
đường phát triển quanh co, phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách mạng
không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết kế
thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm được bản chất của sự vật,
hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển,
trong sự tự vận động trong sự biến đổi của nó.
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương pháp
luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan
hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng
lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách nói, cách phát âm khác nhau hay
cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau. Miền Bắc – bố, miền Trung – tía, miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một
sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất kỳ sự vật,
hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. VD: Chỉ có Hà Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và giữa
chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là không có
cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt
như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có cái
riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác.
VD: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã hội như
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Cái
riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có
những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại
trong cái riêng cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người nông dân trên thế
giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng
của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu
sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển hoá
giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai hướng: cái đơn
nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái đơn nhất làm
cho sự vật dần dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở thành
cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở thành cái phổ
biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một số
ngành kinh tế - sau trở thành chung.
3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ
không thể ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá.
Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo
điều. VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được cho là tốt nhưng đối với những người thể lực yếu
hay khuyết tật, ... thì nên có những lộ trình tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu khuynh xét
lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể biến
thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong hoạt động thực tiễn
cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu cái đơn nhất có lợi cho
con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con
người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự vật hiện tượng
một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình;
cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm cái
chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung, phủ nhận cái
riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải xuất phát
từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã được rút ra từ cái riêng, khi
đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm của cái riêng để làm cho nó phù hợp.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong phú hơn cái
chung, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái chung sâu sắc làm
cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược
lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung đâu là cái đơn nhất phải
đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi
cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của một nước
nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một giai đoạn khác nhau, ở
những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần thi đua
đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra những quy định chung để phát huy
tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế.

Câu 13. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương pháp
luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết
quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản
chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc là nguyên cơ,
còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có
tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một số phản ứng
hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn
kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian
có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có trước
để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn cây lúa là kết
quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì phải
xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc thực hiện luật lệ
giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn,
thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam thống nhất đất nước nó
là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ” và được sự ủng hộ của các nước, các dân tộc xã hội chủ nghĩa và các nước,
các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên nhân dẫn đến nhiều
kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân như vậy nhưng lại dẫn đến nhiều kết quả
khác nhau đối với từng học sinh: học sinh đạt kết quả học tập giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh sáng để cho mọi
người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ ba: làm tăng nhiệt độ môi trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành nguyên
nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ...
3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ
nhân quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho
nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất
nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên nhân
có vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc thực phẩm, nhiễm giun,
đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần khai
thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết quả
cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.
Câu 14. Trình bày khái niệm lượng chất
a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ xẩy ra khi sự
vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn - đến độ. Quy luật
lượng đổi chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự
vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có
những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan) dùng để chỉ
tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính,
những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể
hiện sự vật, hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con vật ở tính có ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính chất cơ cấu
nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất của viên phấn là được làm bằng
thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay đổi, thuộc
tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá thì chất của
nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn;
trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới nước. Giai đoạn
thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm VIIIB, chu kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố biểu hiện ở
số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ quy mô và nhịp điệu vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên chiếm một vị trí nhất
định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy định
bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng
cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát triển của xã hội là yếu tố bên trong, số dân cư trong một xã
là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư duy lại
có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy
trừu tượng. VD: Ta có thể đếm được 1 gói kẹo có 20 cái nhưng không thể đếm được lượng kiến
thức ta tích lũy được.

Câu 15. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan hệ mà
xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong mối quan hệ này, lại có thể là chất ở
trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về trình độ học tập
của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số HSG 2 lớp thì 30 HSG lớp B là lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt này tác
động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất
với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về
chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho
chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. VD: 0 < t < 100oC nước vẫn ở thể lỏng.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi,
chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy - được gọi là điểm nút.
VD: 0 và 100oC là điểm nút
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do
những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất khi đã tích lũy đủ về lượng. Sự
vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất,
tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành bước nhảy
toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố của sự vật, hiện tượng
thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước bước sang thời kì mới.
Bước nhảy cục bộ - là loại bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận
của sự vật, hiện tượng đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay
đổi, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, người ta
chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở
tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng xạ (radium biến đổi), núi lửa phun trào. Bước nhảy
dần dần - là quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại
bỏ dần các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp
1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến chất đổi mà
còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có
sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể hiện ở chỗ sự tác động của chất mới về quy mô, trình
độ, nhịp điệu v.v… đối với lượng mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước nhảy) có tấm bằng
tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn tại của SVHT). Sau đó, sinh viên có nhu
cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới thay đổi sự vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất với lượng.
Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua
bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục trong
đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi lại
biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế làm cho sự vật, hiện
tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Câu 16. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng.
Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. VD: XHPK – XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, khi đã
tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước thay đổi mang tính
cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh
thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng. VD: tình bạn –
tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào cấu trúc và phương thức
liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng đó. VD: muốn
duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100oC
Câu 17: Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn nhau của
các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập - những mặt, thuộc tính, khuynh hướng
vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong cùng một thời gian, một
mối liên hệ; thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá,
trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa dạng, phong phú.
thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào ý
thức con người.
Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ yếu, đối
kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau,
không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa; Hấp thụ và bài tiết trong con người,
xã hội vô sản và tư bản: người bán, người mua.
Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, gọi là đồng nhất.
Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có nam có nữ đều là con người mới
thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con người: trong cái ác có cái thiện, làm sao để lương
tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự triển khai của
các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát khỏi địa
chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của sự vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác
động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập
trong, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai-
loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự
vật, hiện tượng phát triển.
Câu 18. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau
tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập:
1) các cặp mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại; không
có mặt này thì không có mặt kia. VD: Phải có giai cấp tư sản thì mới có giai cấp vô sản.
2) các cặp mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái
mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. VD: Trong mội xã hội đối kháng giai cấp luôn có
thống trị và bị trị. Hai giai cấp này là hai mặt đối lập và luôn đấu tranh với nhau để giành quyền lợi
3) giữa các cặp mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất với nhau (do trong các mặt đối lập
còn tồn tại những yếu tố giống nhau) thể hiện sự chung nhau đối với một số yếu tố, thuộc tính v.v.
VD: nóng và lạnh là 2 mặt đối lập nhưng đều chỉ trạng thái nhiệt độ của nước.
Đấu tranh lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh hướng bài
trừ, phủ định nhau giữa các cặp mặt đối lập dẫn đến sự triển khai mâu thuẫn và sau đó đến sự
chuyển hóa (do sự đồng nhất trên, trong những điều kiện nào đó, tạo nên) giữa các cặp mặt đối lập.
VD: Nước đang lạnh, dưới điều kiện nhiệt độ - đun sôi, chuyển hóa thành nóng – đối lập.
Tính chất của sự thống nhất và đấu tranh
1) sự thống nhất có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, vì sự thống tồn tại
trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2) sự đấu tranh có tính tuyệt đối, phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến
sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động.
VD: Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nước ta là quá trình vừa tuân theo sự tiến
hóa dần dần về lượng, vừa tranh thủ những bước phát triển có tính cách mạng, nhảy vọt về chất;
vừa kế thừa tất cả những mặt cần thiết, hợp lí của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất,
lại vừa phải đấu tranh để loại bỏ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản; vừa tích lũy nội dung
vừa cải tạo hình thức cho phù hợp.
Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn:
1) khi cái mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các cặp mặt đối lập
2) trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và của chính các cặp mặt đối
lập, sự khác nhau giữa chúng trở thành xung đột, chuyển hóa thành mâu thuẫn
3) khi điều kiện chín muồi, các cặp mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau (theo các hướng hoặc
bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt đều bị triệt tiêu). Mâu
thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời; sự khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lại
được tái lập và giải quyết mâu thuẫn dẫn đến sự chuyển hóa.
Câu 19. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập (Lấy VD trong quá trình học tập)
1) Nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực
tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần
tìm ra thể thống nhất của các cặp đối lập trong sự vật, hiện tượng.
2) Phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các cặp mặt mâu thuẫn và điều kiện
chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
3) Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều
hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội
hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.
Câu 20: Phân tích khái niệm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sự vật, hiện
tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. VD: Phá bỏ luống rau cũ để gieo luống rau mới.
Sự phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. VD: tre già măng mọc.
Tính khách quan: Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là
quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời
cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Ví dụ: Chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ
bản, khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản; mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực
lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Tính kế thừa: cái mới hình thành và phát triển tự thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ
những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. Ví dụ: Trong sinh vật, các giống
loài đều phát triển theo quy luật di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của
các thế hệ bố mẹ, học thuyết “gen” đã chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực nhận thức, triết học
Mác ra đời giữa thế kỷ XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ, mà trực tiếp là các giá
trị của nền triết học cổ điển Đức
Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân
sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong
bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là sự vật cũ
chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền
đề, cái phủ định là cái mới xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị phủ định, tiếp tục biến
đổi và tạo ra phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra
đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban
đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
VD: Hạt thóc - Cây mạ - Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)

Câu 21) Nội dung quy luật Phủ định của phủ định (Lấy VD hạt thóc)
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô
tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ thấp đến cao, có tính chất
chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc": mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai
lần phủ định cơ bản với hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp
lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ
phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua
hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống nhất" với cái
bị khẳng định, không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn, một trò
chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi".
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển.
V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã
qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ định"); sự phát
triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...".
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát
triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc cũng như
lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ổc phản ánh
quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình
phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu" của
quá trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật
phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả
của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật,
hiện tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này,
Ph.Ăngghen đã viết: " .. phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến vả chính vì
vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch
sử và của tư duy".
Câu 22) Ý nghĩa phương pháp luận quy luật phủ định của phủ định
- Là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức
tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật.
Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự
phát triến, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân
sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào
xu hướng tất yếu là phát trển tiến lên của cái tiến bộ.
Vận dụng quy luật này của VN trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH
– Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật dường như
quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử XH loài người tất yếu sẽ phủ đinh các
chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng con người khỏi áp bức bất công…
– Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy ốc, quá trình phát triển có bước quanh
co phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam thời nên khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ nhưng
Đảng và Nhà nước ta không do dự mà lựa chọn lại con đường đi lên CNXH. ..
– Hiện nay CNXH hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ, nhưng những
khó khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại tiến bộ sẽ xây dựng thành
công CNXH…
Câu 23: Bản chất và trình độ của nhận thức?
1. Khái niệm
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
VD: Tàu ngầm được sáng chế dựa trên hình dáng cá heo, máy bay dựa trên chim.
2. Các nguyên tắc xuất phát là cơ sở lý luận của quan niệm về nhận thức:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
- Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc của
con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể
nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu
sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản
ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư cách khách
thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt
động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri
thức đó.
VD: Trong lá cây có chứa chất diệp lục – điều hiển nhiên đúng trong tự nhiên, con người
phát hiện, nghiên cứu và tìm hiểu kĩ càng, sâu sắc và dựa trên chính thực tế lá cây để kiểm nghiệm.
3. Các trình độ của nhận thức: nhận thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận; nhận thức

thông thường và nhận thức khoa học.

Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó cũng là
quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức
thông thường đến trình độ nhận thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật,
hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả là những tri thức
kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai
loại tri thức này có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau. VD: các kinh nghiệm dân gian
về thời tiết: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm …
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc
khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng. VD: những kiến thức lí luận như Bác Hồ
dạy nông dân xóa mù chữ, dạy các chiến sĩ làm cách mạng,…
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có
mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; cung cấp
cho nhận thức lý luận tư liệu phong phú, cụ thể; là cơ sở hiện thực để kiểm tra, hoàn thiện lý luận
đã có và khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở sự mô tả,
phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ quan sát và thực nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem
lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những
mối liên hệ mang tính qui luật của các sự vật, hiện tượng. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự
tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh
nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó mà nâng cao những tri thức kinh
nghiệm từ chỗ cụ thể, đơn nhất thành cái khái quát, phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ
trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những
đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường
mang tính phong phú, gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động
của con người trong xã hội. VD: Nhìn một người khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, ta biết được họ có
chế độ ăn uống khoa học, tập luyện hợp lí, đời sống lành mạnh,…
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu, diễn ra dưới dạng
trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa
có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.
VD: các sáng kiến, phát minh: bóng đèn điện, máy tính, trí tuệ nhân tạo AI,…, các định luật khoa
học: 3 đluật Newton, Pytago,…
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá
trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất
liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm móng của những
tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề
ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa
học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng,
khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại
có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận
thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học.
Câu 24. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là gì? là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công
cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Thực
tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và tính mục đích.
VD: xây nhà, xây dựng các công trình công cộng: thủy điện, nhà máy, công viên, …
Các hình thức của thực tiễn.
1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn. Lao động
là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động đã đưa con người từ trạng
thái thú vật lên trạng thái con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng
và xã hội loài người nói chung. VD: Từ thời nguyên thủy, con người lao động, biến đá thành công
cụ lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, không ăn tươi
nuốt sống như động vật ăn thịt.
2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã hội, cải
biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt là thực
tiễn cách mạng xã hội. VD: Làm cách mạng, tiến hành xây dựng nông thôn mới,…
3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm bao gồm thực
nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội, được tiến hành trong điều kiện nhân
tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó nhận thức thế giới,
chứng minh tính chân thực của nhận thức. VD: Quá trình xây dựng đất nước sử dụng chất xám như
làm kinh tế, học tập, nghiên cứu các loại thuốc phòng chống các loại bệnh,…
4) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp luật, đạo đức,…
được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội do đời sống xã hội ngày
càng phát triển, ngày càng thêm đa dạng. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất quy định các hình
thức còn lại của thực tiễn và đến lượt mình, các hình thức đó tác động ngược trở lại hoạt động sản
xuất vật chất. VD: công nghệ thông tin 4.0, máy móc phát triển, sử dụng trí tuệ nhân tạo -> con
người có công cụ lao động hiện đại, sản xuất và lao động dễ dàng, thuận tiện hơn -> kinh tế, xã hội
phát triển -> các nghề thủ công dần bị mất đi vì có máy móc tự động hóa làm thay -> hoạt động sản
xuất lúc này là sáng tạo ra các máy móc đó.
Câu 25. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết
được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào
đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc
lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người
những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
VD: Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta sẽ biết rằng kính có
thuộc tính dễ vỡ.
2) Thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực thực
tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Hoạt động thực
tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác; tạo ra các
công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Thực tiễn luôn vận
động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri thức
được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
VD: Công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải luôn luôn trau dồi,
tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ.
Việc học tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức mới nâng cao hơn, mỗi
khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của học sinh được tăng lên.
3) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường xuyên
chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị
(chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
VD: Qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng minh chân lí: Không
có gì quý hơn độc lập tự do. Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới, phát hiện ra
Thái Bình Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất hình dẹt.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và
phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn
của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn:
yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn
nhận thức. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi
vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. (liên hệ với chính sách của Đảng để phục vụ cuộc
sống nhân dân)
Câu 26: Trình bày giai đoạn nhận thức cảm tính trong quá trình nhận thức
Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của nhận thức chân lý. “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét
đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực
tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
VD: Nhìn cái cây ta thấy ngay màu xanh; đi qua dòng sông ta thấy mênh mông thoáng đãng …
Những thành phần của nhận thức cảm tính
1) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các
giác quan của con người.
2) Tri giác là sự tổng hợp (phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào
một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
3) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác
quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của
não người.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề
ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa đưa lại
nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của giai đoạn này
trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.
VD: Nhìn thấy quả cam, ta thấy vỏ xanh, có nhiều múi nhỏ, ăn thấy vị chua. Tổng hợp tất
cả các cảm giác trên được tri giác về quả cam. Từ đó hình thành nhận thức biểu tượng về quả cam.
Nhưng đó chỉ là bề ngoài của quả cam. Chỉ như thế ta chưa nắm được những đặc tính khác của quả
cam: có tính axit, lượng đường cao, hay ở vỏ quả cam có tính hăng,…
Câu 27. Trình bày quan niệm về giai đoạn nhận thức lý tính trong quá trình nhận thức
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ lý luận do thế
hệ trước truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận
thức. VD: Kinh nghiệm dân gian: Trông mặt mà bắt hình dong/Con lợn có béo thì lòng mới ngon,…
Những thành phần của nhận thức lý tính
1) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh đặc tính cơ bản của SVHT.
VD: Định nghĩa về gió: là luồng không khí chuyển động từ đai áp cao xuống đai áp thấp.
2) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên
hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức con người tạo nên vai trò của
phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan.
VD: Nhiều mây đen – trời mưa, phán đoán giá vàng,…
3) Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới
theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy luận là quá
trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới).
VD: Newton phán đoán trong môi trường lí tưởng không có ma sát thì các vật đang chuyển
động sẽ tiếp tục chuyển động, đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng yên, từ đó rút ra định luật 1 Newton.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng hoá
và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng do các thế hệ
trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc tính và
mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức:
1) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức.
Tuy có những sự khác nhau về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình
đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trực quan sinh động là cơ sở tất yếu của tư duy trừu tượng, trên
thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại và
ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
VD: Khi bác Hồ mới về nước, Bác nắm được tình hình đất nước qua quan sát và nghe các cán bộ
báo cáo. Đây là tiền đề để Bác đưa ra chiến lược và chính sách phù hợp vừa cải thiện cuộc sống
nhân dân vừa kháng chiến (NTCT). Từ thực tế như vậy, Bác nghiên cứu, tiên đoán những khả năng
có thể xảy ra tiếp theo để quyết định đường lối đúng đắn nhất (NTLT)
2) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế
giới khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động (điểm khởi đầu) và tư duy trừu tượng
(tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực tiễn là
nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả đó của nhận thức) được thực hiện trên cơ sở thực
tiễn, do thực tiễn quy định.
VD: Khi mới gặp một người, cảm nhận ban đầu cho ta thấy người đó dễ gần, vui tính,… (NTCT),
qua tiếp xúc lâu dài, ta thấy được nhiều đặc điểm ở người đó hơn: gia trưởng, bảo thủ,… (NTLT)
3) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức cảm tính gắn liền với
thực tiễn và sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của chủ thể, nhận thức lý tính bao
quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm
nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ ảo tưởng, viển vông. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn”.
VD: Qua quan sát tình hình thi đua trong một lớp học (NTCT), ta thấy được những điểm mạnh và
điểm yếu của tập thể lớp, từ đó, tổng kết và đánh giá được tinh thần cạnh tranh học tập của lớp đó
(NTLT) đề ra và áp dụng những phương pháp kích thích thi đua học tập phù hợp.
4) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy
trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của
chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức
mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con
người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan.
VD: Quan sát con gà – Nắm được đặc điểm bên ngoài – Nghiên cứu về đặc điểm sinh lí, đặc tính
sinh trưởng và phát triển,… - Kiến thức nâng cao, có phương pháp nuôi gà hiệu quả.
5) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì
lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức được
nâng lên trình độ mới, chính xác hơn, loại bỏ dần những nhận thức sai đã phạm phải. Kết quả của
quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, khách quan và cụ thể.
VD: 10000 thí nghiệm của Edison.
B. GỢI Ý Vận dụng vấn đề này vào quá trình học tập của bản thân
- Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động
nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt đc chân lý, coi chân lý là 1 quá trình, đồng
thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào hoạt dộng thực tiễn để phát triển thực tiễn.
- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào hoạt
động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người.
Câu 28: Khái niệm và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất-kỹ thuật của hình thái kinh tế-xã hội; là mối quan
hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, thể hiện năng lực thực tế chinh
phục giới tự nhiên bằng sức mạnh của con người trong quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hoá giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình
thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái cao, tiến bộ hơn.
VD: Công nghệ 4.0, Người công nhân đứng cạnh cái máy kéo đã chết thì chưa là LLSX, kinh
nghiệm lao động của con người,…
Các yếu tố của lực lượng sản xuất:
1) Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động - bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản
xuất, chịu sự tác động của con người (nông nghiệp, công nghiệp nặng,…); công cụ lao động -
những vật thể hay phức hợp vật thể nối con người với đối tượng lao động, truyền tác động từ con
người đến đối tượng lao động (cuốc, xẻng, máy tính, máy xúc,…); phương tiện lao động gồm
đường xá, cầu cống, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển và thông tin liên lạc.
2) Người lao động là những người có thể lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao động và biết sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Người lao động phát triển về thể lực, trí lực, nhạy
bén và tính sáng tạo trong lao động. Trí tuệ cao, trình độ chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp
trong sáng là những yếu tố quan trọng của người lao động. VD: bác sĩ, kĩ sư, nông dân,…
3) Khoa học được coi là một trong những yếu tố thành phần của lực lượng sản xuất. Hiện
nay, khái niệm khoa học còn được mở rộng sang lĩnh vực công nghệ. Khoa học-công nghệ đang
trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trở thành "lực lượng sản xuất độc lập" là đặc điểm thời đại
của sản xuất vật chất hiện nay.VD: Trí tuệ nhân tạo AI, Người nông dân Mỹ áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất cho ra đời quả bí đỏ nặng 437kg
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm,
kỹ năng lao động thể hiện qua khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Câu 29. Khái niệm và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội); là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan hệ xã hội khác; phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt chế độ xã hội. Trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng
sản xuất quy định.
VD: trong 1 nhà máy khi công nhân góp cổ phần thì họ vừa có quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Các yếu tố của quan hệ sản xuất.
1) Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - là quan hệ sở hữu giữa “những nhóm người”;
quy định địa vị của từng nhóm người trong sản xuất xã hội. VD: Địa chủ - Nông dân
2) Quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động có khả năng quy định quy mô, tốc
độ, hiệu quả và xu hướng của sản xuất vật chất cụ thể. VD: Chủ tịch, tổng giám đốc, trưởng phòng,
phó phòng, thư kí, nhân viên,…
3) Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất vật
chất. Tính chất và hình thức phân phối, mức độ thu nhập của các giai cấp và của các tầng lớp xã
hội đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức, quản lý và phân công
lao động. VD: người mua – người bán
Trong quá trình sản xuất vật chất, ba thành phần cơ bản trên đây của quan hệ sản xuất có
quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên sự ổn định tương đối so với sự vận động thường xuyên của lực
lượng sản xuất. Mỗi yếu tố của quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa tác động lên sản xuất xã hội
khác nhau; trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quy định đối với hai quan hệ còn
lại và quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động và quan hệ trong phân phối sản phẩm
lao động có thể góp phần củng cố, phát triển quan hệ sản xuất và cũng có thể làm biến dạng quan
hệ sở hữu tư liệu đó.
Câu 30. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
1) Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
– Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức
sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản
xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
VD: Thời phong kiến, làm nông là chủ yếu nên hình thành QHSX địa chủ - nông dân.
– Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức
nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành
quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ
mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện. VD: săn bắn hái lượm – trồng trọt chăn nuôi – thuê
người làm – làm nông trên diện rộng…
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau
đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài người
trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất
khác nhau. VD: Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến - TBCN
2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa
bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. VD: trong cơ quan xí nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều
và tốt, năng suất lao động tăng, người lao động hăng hái sản xuất.
– Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. VD: sản phẩm máy moc thủ công – hai người lái máy cày bằng người cuốc ruộng suy ra
không còn đúng, dẫn đến cản trở; ở Việt Nam xây dựng hợp tác xã cấp cao quá nhanh (cấp xã) cải
tạo công thương nghiệp ồ ạt, mang tính chiến dịch trong khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém.
– Quan hệ sản xuất có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản
xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quần chúng; kích
thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất,
việc hợp tác và phân công lao động, v.v.. VD: Mối quan hệ giữa sếp và nhân viên tốt, sếp có
nhiều chính sách khen thưởng xứng đáng thì nhân viên tích cực làm việc hiệu quả, doanh thu cao.
– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được
mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến liên. VD: vô sản – tư bản.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy
luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất ở nước ta: chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ
một nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất đậm chất nông nghiệp với quan hệ làm chung,
chia đều nên đã gặp phải những khó khăn lớn trong những năm trước năm 1986; sau năm 1986 lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất cũng đa dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước
ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu chuyển dần lên thành một nước công hoá.
VẬN DỤNG
Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi
có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không
đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản
xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất vốn có. Vì vậy, thực hiện nhất quán
và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm khơi dậy
tiềm năng của sản xuất, năng lực sáng tạo, chủ động, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao
động trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích “Phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất là phát triển lực lượng sản xuất
bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “về thực chất, công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”. Vấn đề then chốt của quá trình này là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ
thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Song, đó không
chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh
tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức
tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá trình hiện đại hóa.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học
và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh”.
Câu 32. Khái niệm cơ sở hạ tầng và các yếu tố cầu thành cơ sở hạ tầng
Định nghĩa. Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên
cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
VD: cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là một kết
cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản,...) trong đó
thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng.
1) QHSX của phương thức sản xuất trước đó (QHSX tàn dư).VD: Phong kiến
2) QHSX của phương thức sản xuất đang tồn tại chủ đạo (QHSX thống trị). VD: XHCN
3) QHSX của phương thức sản xuất tương lai (QHSX mầm mống tương lai). VD: CSCN
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng- hệ thống các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất
nhất định- một mặt, trong quan hệ đối với lực lượng sản xuất, giữ vai trò là hình thức kinh tế cho
sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất đang tồn tại; mặt khác- trong quan hệ đối với
các quan hệ chính trị-xã hội, giữ vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế- cơ sở cho sự thiết lập
kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Câu 33. Khái niệm kiến trúc thượng tầng và các yếu tố cấu thành
Định nghĩa: là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
VD: Tư tưởng HCM, CN Mác – Lê-nin, Mặt trận Tổ quốc VN, Hội Phụ nữ,…
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng
1) quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị. VD: Bản chất của nhà
nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân,
do dân và vì dân.
2) tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
3) quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
4) quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian.
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy định tính chất
kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có
giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp
luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị được đời
sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và
các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội.

Câu 34. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
– Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như
thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị,
pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v.. và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy
cũng như vậy. VD: QHSX phong kiến sinh ra Nhà nước phong kiến.
– Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó xảy ra
trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra
thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp. VD: chuyển từ QHSX PK sang QHSX TBCN
đồng thời chuyển từ nhà nước PK sang nhà nước TBCN.
– Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc tượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội. VD: thời nào cũng thế, PK – TBCN – XHCN.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
– Bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
– Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn
nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
– Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi
nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng
càng có hiệu quả và ngược lại.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể hiện
với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc
thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí.
VD: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
– Cơ sở hạ tầng trong thời ký quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền
với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau,
cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hệ thống chính trị xã
hội mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam. Các
tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà
vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc hạ tầng ở nước ta hiện nay
Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu
quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa
thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa
liên kết, bổ sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng
tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan
trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng:
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp,
công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng.
Đảng ghi rõ “phải tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ.
Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và
đào tạo, y tế ”, “Từ nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta, giải phóng con người
khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời sống tinh thần
của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
kiến trúc thượng tầng.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ: “xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất
cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư
nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu
thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận của
kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

Câu 35. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cấu thành
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm:
Hoàn cảnh địa lý. VD: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,… tạo nên đặc điểm
riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
Điều kiện dân số. VD: cách thức và mô hình tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư.

Phương thức sản xuất ra của cải vật chất. VD: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là
nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết định đối
với tồn tại xã hội. VD: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất
yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương thức đó, người Việt
buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững.

Câu 36 Khái niệm ý thức xã hội và các cấp độ của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng, quan điểm,
lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v.. phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là phản ánh
tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những hệ tư tưởng xã hội không nảy
sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
- Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những tình
cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của
toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày
của họ và phản ánh đời sống đó. VD: Thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen, tính tò mò,…
- Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành
các học thuyết về xã hội, được hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã
hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. VD: hệ tư tưởng
phong kiến, Khổng Tử, hệ tư tưởng tư sản, …
Trong xã hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện cả
trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có tình cảm, tâm
trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện sâu sắc hơn. Các giai cấp đối
khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
VD: các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối lập
nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại
đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.
Câu 37. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của vật
chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại của họ, mà ngược
lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định "ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối liên hệ tích cực giữa
con người với thực tiễn.
a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội
1) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy định nội
dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản ánh cái lôgíc khách quan
của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã hội.
VD: Những người dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn hóa sông nước
và kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông nước.
2) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi khi tồn tại
xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội cũng dần biến
đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, nếu có những quan điểm, tư tưởng, học
thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống
vật chất của các thời kỳ lịch sử khác nhau quy định.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người
còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột.
Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo,
bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột,
chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
3) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng
phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới
thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
VD: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn mạnh thì
cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý, không phù hợp
với lý tính con người phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ
nghĩa tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán
những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay
thế chế độ tư bản.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
1) ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi
của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số hình
thái ý thức xã hội v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ
lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi. VD: Một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng bùa chú, người
Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
2) ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức, trong những
điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực
tiễn của con người vào mục đích nhất định. Đó cũng là vai trò to lớn của những tư tưởng tiên tiến,
khoa học; tuy nhiên, sự vượt trước này cũng có khả năng là ảo tưởng.
VD: Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời
đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ
qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị
thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó đã trang bị
cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải
phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột,
xây dựng một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn
là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3) ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên cơ sở
kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính tất yếu khách quan; có tính
chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Do vậy, nếu
không chú ý đến sự phát triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa trong ý thức
xã hội mới, thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. VD: chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh
hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền
kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của tư
tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của nền kinh
tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở
trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh,
nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước
Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý
thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các hình thái ý thức xã hội khác.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời
trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học,
nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng
vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
- Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện quan trọng
của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là sự tác động nhiều chiều
với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện
thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả
năng hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái.
VD: nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh
phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động ngược trở
lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
3.Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ vẫn
còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện nay vẫn
còn đan xen nhau. Trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển
của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng
động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh vực xã hội, phát huy tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống cách mạng
và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, hiện nay nhiều vấn đề xã
hội còn phức tạp. Những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức
lối sống khá phổ biến, nhất là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được ngăn
chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng
lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu
cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới
XHCN. Vì thế, nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và nêu cao tinh thần trách nhiệm của gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa, đẩy mạnh phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; ngăn chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình trạng
mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội”. Mặt khác, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa
những thành quả văn minh, những di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu
văn hóa, khoa học hiện đại đồng thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu
giai cấp trong việc kế thừa di sản để lại.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn liền
với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do
làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh
tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó
không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không
tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ
trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào
tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng
bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực
hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực
hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong
nhân dân theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh
hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để
người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta
còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp
ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã xác
định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ
văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 38. Tính đọc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội (đã có ở câu 37)
Câu 39. Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói “sự phát triển của những hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”?
1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được
tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
VD: Công xã nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – CNTB – XHCN.
2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
1) Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân
theo các quy luật khách quan: các quy luật của cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, và hệ thống các
quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... mà trước hết và cơ bản
nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy
luật kiến trúc thưọng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
2) Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng nhấn mạnh một phương pháp luận
quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì
người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên". VD: CXNT – CHNL – PK – TBCN – XHCN.
3) Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người
có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là
sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử
nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế
- xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận
động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố
khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người
cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực
lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người,
điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người
trong lịch sử, v.v. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng
đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính
phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng của
tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có thể bao hàm những buớc phát triển "bỏ qua"
một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy đều
phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng
vừa tuân theo tính tất yếu của các quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố
khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó lịch sử phát triển của
xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất
của nó.
Câu 40. Bản chất con người?
1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai
phương diện tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người:
1) con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
2) con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô
cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực
tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người; ngược
lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi
trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn
tại khác của giới tự nhiên. VD: Vùng ven sông có điều kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn
thức ăn, nguồn nước đầy đủ nên con người tập trung sinh sống tại đây, khai thác các nguồn tài
nguyên và nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá trình đó, con người sản xuất, khi
khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô nhiễm, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc
tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các
cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy,
bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là
bản tính đặc thù của con người.
Bản tính xã hội của con người:
1) xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là nhân tố
lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát
triển thành người. VD: Người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên thủy và hoang
dã như các loài động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động,
sử dụng lửa,… để chinh phục thiên nhiên.
2) xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các
nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi
tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần
túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. VD: xã hội phong kiến buộc con người
sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những tư tưởng khắt khe, nhưng khi con người được
giải phóng, bước sang chế độ XHCN thì con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định lẫn
nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của
con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của
con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến
diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và
thực tiễn.
2. Bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên là "thân
thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển
và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với
thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động
vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ
vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được
nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách
toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra
của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi
con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ
thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con
người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". VD: Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao
động, sản xuất, biết trồng trọt, canh tác, chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa
động vật phục vụ cuộc sống cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất
vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản
xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. VD: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn chu; nghề cảnh sát, bộ
đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,…
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống
các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi
chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các
quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành
tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội của con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng: "Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình,
con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ
chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình. VD: Người sói, người vượn, người gà… Một người đàn ông ở quốc đảo Fipji, bị cha mẹ
nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh
hưởng hầu hết những tập tính của gà như mổ thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với
mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội.
Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức
đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng
hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết
duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học
thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng
cần phải được giáo dục". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử
xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động
lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua
hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và
nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã
hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến
đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại
của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch
sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con
người. VD: người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến quằn lưng lao động phục vụ cho
giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến nửa thực
dân thối nát; còn người nông dân trong XHCN đã chủ động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã
hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích,
tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan
hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật
nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

You might also like